Tiểu thuyết - ngôn tình

Phép Màu Tình Yêu

1. THÔNG TIN SÁCH/EBOOK

Tác giả : Julie Garwood

Download sách Phép Màu Tình Yêu ebook PDF/PRC/MOBI/EPUB. Tải miễn phí, đọc online trên điện thoại, máy tính, máy tính bảng.

Danh mục : Tiểu thuyết – Ngôn tình

Đọc thử Xem giá bán

2. DOWNLOAD

Download ebook                      

File ebook hiện chưa có hoặc gặp vấn đề bản quyền, Downloadsach sẽ cập nhật link tải ngay khi tìm kiếm được trên Internet.

Bạn có thể Đọc thử hoặc Xem giá bán.

Bạn không tải được sách ?  Xem hướng dẫn nhé : Hướng dẫn tải sách


3. GIỚI THIỆU / REVIEW SÁCH

 

Lời giới thiệu


Julie Garwood sinh năm 1946 tại thành phố Kansas, Missouri và là con thứ sáu trong một gia đình gốc Ireland. Năm sáu tuổi, do những biến chứng sau cuộc phẫu thuật cắt a-mi- đan, bà luôn cảm thấy tự ti khi tới trường vì không thể theo kịp bàn bè cùng trang lứa. “Tôi đọc rất, rất chậm và chẳng thích môn học này chút nào”, Julie từng tâm sự. Nhưng khi Julie gặp Mary Elizabeth – người bạn và cũng là người thầy tại một lớp học đọc vào mùa hè năm bà mười một tuổi – mọi thứ đã thay đổi. Chính Mary là người giúp bà mở cánh cửa vào thế giới văn chương và trở nên say mê với nó.

Julie kết hôn với Gerry Garwood khi còn rất trẻ và họ có với nhau ba người con. Bà bắt đầu sự nghiệp viết lách khi người con út bắt đầu đi học. Sau khi xuất bản hai cuốn sách dành cho lứa tuổi thanh thiếu niên, bà chuyển sang trường phái lãng mạn lịch sử giả tưởng và hiện đại pha trộn sự hồi hộp, gay cấn.

Cuốn tiểu thuyết lãng mạn đầu tiên của bà có tên Gentle Warrior, và sau đó bà đã cho ra đời hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết khác, trong đó nổi bật là các series Crown’s Spies, Lairds’ Brides và Highlands’ Lairds. Bà thường xuyên lọt vào danh sách các tác giả ăn khách nhất do New York Times, Wall Street Journal, và Publishers Weekly bình chọn. Hiện nay, những tác phẩm của bà đã phát hành được ba mươi lăm triệu bản trên khắp thế giới.

Với thành công kể trên, Julie Garwood rõ ràng đã giành được chỗ đứng vững chắc giữa rừng các nhà văn viễn tưởng Mỹ được yêu thích. Bà được mệnh danh là một tiểu thuyết gia bậc thầy nhờ khả năng sáng tạo nên các nhân vật đầy hấp dẫn, những xúc cảm mạnh mẽ đan xen với cốt truyện đầy bất ngờ và ly kỳ. Các độc giả của Julie cho hay ngòi bút hài hước song cũng không kém phần tinh tế trong các tiểu thuyết của bà không chỉ mang lại tiếng cười mà đôi khi còn lấy đi của họ cả những giọt nước mắt.

Julie từng chia sẻ rằng điều lớn nhất làm nên thành công hôm nay của bà chính là may mắn được thừa hưởng truyền thống từ gia đình mình: “Người Ireland là những người kể chuyện vĩ đại. Tôi đã sớm học được rằng cần phải biết phát huy trí tưởng tượng một cách mạnh mẽ và hiệu quả”.

Julie hiện sống cùng gia đình ở Leawood, Kansas. Bà dành nhiều nỗ lực và thời gian tham gia giảng dạy ở các lớp học xóa mù chữ, và đặc biệt thích chia sẻ về tình yêu dành cho việc đọc sách với những học sinh của mình.

Mời độc giả đón đọc các tác phẩm của Julie Garwood đã được Bách Việt xuất bản: Thiên thần hộ mệnh, Lâu đài hạnh phúc, Cô nàng sư tử, Món quà tình yêu, Tình yêu và danh dự, Điều bí mật, Jamie – cô dâu của anh!, Phép màu tình yêu.

ĐỌC THỬ

PHẦN MỞ ĐẦU

Tu viện Barnslay, nước Anh, năm 1200

Thưa Đức Giám mục Hallwick, xin người giải thích cho chúng con hiểu về thứ bậc trên thiên đường và ở trần thế được không? Trong con mắt của Chúa trời, ai được coi trọng nhất?”, một nam sinh hỏi.

“Chẳng phải là các tông đồ đứng vị trí đầu tiên trong sự trọng đãi của Chúa ư?”, nam sinh thứ hai thắc mắc.

“Không”, vị giám mục thông thái trả lời. “Tổng lãnh thiên thần Gabriel, người bảo vệ phụ nữ và trẻ nhỏ, vị anh hùng đấu tranh cho những con người vô tội, đứng trên tất cả những người khác.”

“Vậy kế tiếp là ai?”, người nam sinh đầu tiên lại hỏi.

“Dĩ nhiên là tất cả những thiên thần khác”, vị giám mục trả lời. “Tiếp đến là mười hai tông đồ, đứng đầu là Thánh Peter, theo sau là các nhà tiên tri và những người ban phép lạ, rồi đến những vị thầy truyền giảng lời Chúa khắp thế gian này. Đứng cuối cùng trên thiên đường là tất cả các vị Thánh khác.”

“Nhưng ai là người quan trọng nhất nơi hạ thế, thưa Giám mục Hallwick? Ai được Chúa ban phúc lành nhiều nhất ở đây?”

“Đàn ông”, tiếng trả lời lập tức vang lên. “Và cao nhất lẫn quan trọng nhất trong số đó là Đức Giáo hoàng của chúng ta.”

Hai nam sinh gật đầu chấp nhận lời tuyên bố đó. Thomas, người lớn hơn, chồm về phía trước khi đang đứng trên phiến đá bên ngoài thánh đường. Trán anh nhăn lại với vẻ tập trung. “Kế tiếp trong tình thương của Chúa là Đức Hồng y rồi tới các mục sư”, anh cắt ngang.

“Đúng vậy”, vị giám mục đồng ý, hài lòng với suy luận của nam sinh do ông dạy dỗ.

“Ai đứng kế tiếp trong sự trọng đãi ấy?”, nam sinh thứ hai lại lên tiếng.

“Sao không phải là những người thống trị các vương quốc trên mặt đất này”, vị giám mục giải thích. Ông ngồi xuống chiếc ghế gỗ dành cho mình, trải rộng những chiếc áo choàng đen rồi tiếp tục, “Những người lãnh đạo đó làm ngân khố của nhà thờ ngày một phong phú, dĩ nhiên họ sẽ được Chúa yêu thương hơn những kẻ chỉ khư khư tích trữ của cải vì lợi ích cá nhân”.

Ba nam sinh trẻ khác đi tới để lắng nghe bài giảng của vị giám mục. Họ ngồi thành nửa vòng tròn ngay dưới chân ông.

“Những người đàn ông đã lập gia đình, đứng tiếp theo là các cậu trai trẻ chưa kết hôn?”, Thomas hỏi tiếp.

“Đúng vậy, họ có cùng vị trí như thương nhân hay chánh án, và chỉ ở ngay trên những người nông nô bị trói buộc vào đất đai.”

“Tiếp theo là ai, thưa giám mục?”, nam sinh thứ hai cất giọng.

“Động vật, bắt đầu là loài trung thành nhất, những con chó của loài người. Và cuối cùng là lũ bò đần độn. Đấy, ta tin các con đã biết các thứ bậc đầy đủ để có thể trả lời cho tông đồ của mình một khi lập lời thề và được phép trở thành người của Chúa.”

Thomas lắc đầu. “Người đã quên phụ nữ rồi, thưa Giám mục Hallwick. Họ đứng ở đâu trong tình thương của Chúa trời?”

Vị Giám mục day day trán trong khi cân nhắc câu trả lời. “Ta không quên những người phụ nữ”, rốt cuộc ông cũng lên tiếng. “Họ đứng cuối cùng trong tình thương của Chúa.”

“Dưới những con bò đần độn ư?”, nam sinh thứ hai lại hỏi.

“Đúng, dưới cả bò.”

Ba nam sinh ngồi dưới nền đất lập tức gật đầu tán thành.

“Thưa Giám mục?”, Thomas hỏi.

“Chuyện gì, con trai?”

“Những gì người vừa giảng giải cho chúng con là thứ bậc của Chúa hay của nhà thờ?”

Vị giám mục thất kinh trước câu hỏi gần như báng bổ ông. “Chẳng phải đều giống nhau sao?”

Rất nhiều đàn ông ở thế kỷ trước đã luôn tin rằng các quan điểm của Chúa luôn luôn được nhà thờ truyền đạt một cách chính xác.

Nhưng phụ nữ biết rõ hơn thế. Và đây là câu chuyện về một người trong số họ.

CHƯƠNG 1

Anh quốc, năm 1206

Tin tức này sắp hủy hoại nàng.

Kelmet, viên quản sự tận tụy và trung thành phụ trách mọi công việc từ khi Nam tước Raulf Williamson rời khỏi nước Anh để thực hiện nhiệm vụ tối mật cho Đức vua, vừa nhận trách nhiệm thông báo cho bà chủ của mình một tin khủng khiếp. Viên quản gia không cố trì hoãn nhiệm vụ đáng sợ này, vì nếu cần thắc mắc với bất kỳ ai về người chồng yêu quý của Phu nhân Johanna, anh cho rằng có lẽ nàng sẽ có đôi lời muốn hỏi hai người đưa tin trước khi họ trở về Luân Đôn.

Được rồi, anh cần phải báo cho vị phu nhân dịu dàng biết càng sớm càng tốt. Kelmet đủ hiểu nhiệm vụ của anh là gì, và dù tin rằng bản thân đang nóng lòng được thực hiện điều ấy thì chân anh vẫn nặng nề như thể bị ngập đến tận đầu gối trong bùn trên suốt quãng đường đến khu nhà nguyện mới xây, nơi Phu nhân Johanna đang tham gia buổi cầu nguyện chiều.

Kelmet phát hiện ra Cha Peter MacKechnie, một linh mục đến từ lãnh địa Maclaurin trên Cao nguyên, đang thả bộ xuống dốc từ sân trong. Viên quản gia thở dài nhẹ nhõm trước khi với gọi vị linh mục.

“Con cần sự giúp đỡ của Cha, Cha MacKechnie”, Kelmet gầm lên để át tiếng gió rít.

Vị linh mục gật đầu rồi cau mày. Ông vẫn chưa tha thứ cho anh ta vì hành động thất lễ hai ngày trước.

“Con muốn ta lắng nghe lời xưng tội của con ư?”, vị linh mục hét lại, chất giọng nặng tiếng địa phương hàm chứa chút giễu cợt.

“Không, thưa Cha.”

MacKechnie lúc lắc đầu. “Con vừa tự làm vấy bẩn linh hồn mình đấy, Kelmet.”

Kelmet không đáp trả và kiên nhẫn đợi đến lúc người đàn ông Scot có mái tóc đen nhánh đến gần. Anh có thể thấy tia nhìn lấp lánh thú vị trong đôi mắt vị linh mục và biết ông đang đùa với mình.

“Có một chuyện khác quan trọng hơn việc xưng tội của con”, Kelmet bắt đầu. “Con vừa nhận được tin từ…”

MacKechnie không để Kelmet nói hết câu. “Hôm nay là thứ Sáu tuần Thánh1”, ông cắt ngang. “Chẳng gì quan trọng hơn ngày lễ này. Con sẽ không có được sự đồng cảm của ta cho đến buổi sáng ngày Lễ Phục sinh, trừ phi con xưng tội ngay hôm nay và cầu xin Chúa tha thứ. Con có thể bắt đầu bằng tội thô lỗ, Kelmet. Phải, đó sẽ là sự khởi đầu thích hợp.”

1 Nguyên văn là “Good Friday”: Là một ngày lễ linh thiêng của đạo Ki-tô giáo, diễn ra vào thứ Sáu trước Lễ Phục sinh, kỷ niệm sự kiện Chúa Giê-su bị đóng đinh vào thập giá.

Kelmet cố kiềm chế. “Con thật xin lỗi, thưa Cha, con thấy rằng Cha vẫn chưa tha thứ cho con.”

“Đúng vậy.”

Kelmet cau mày. “Như con đã giải thích hôm qua và hôm kia, con không cho Cha vào vì Nam tước Raulf đã ra chỉ thị đặc biệt là không để bất kỳ ai nhập thành khi ngài ấy đi vắng. Thậm chí cả anh trai của Phu nhân Johanna, ngài Nicholas, nếu ngài ấy đến đây. Cha, làm ơn hiểu cho con. Con là người quản lý thứ ba ở đây trong vòng chưa tới một năm, và con chỉ muốn giữ vị trí của mình lâu hơn những người khác thôi.”

MacKechnie khịt mũi. Ông không hoàn toàn mắc câu. “Nếu Phu nhân Johanna không ra mặt, giờ này ta vẫn phải cắm trại bên ngoài tường thành chứ gì?”

Kelmet gật đầu. “Vâng ạ”, anh thừa nhận. “Trừ phi Cha bỏ ngày Lễ vọng2 và trở về nhà.”

2 Ngày Lễ vọng: Là ngày trước của lễ chính, thường có Lễ vọng Phục sinh, Lễ vọng Giáng sinh.

“Ta sẽ không đi bất cứ đâu cho đến khi được nói chuyện với Nam tước Raulf về những việc mà chư hầu của ông ta đã gây ra trên lãnh địa Maclaurin. Những vụ tàn sát người vô tội vẫn đang tiếp diễn, Kelmet ạ, và ta cầu mong nam tước không hề hay biết gì về hành vi của tên Marshall xấu xa, thèm khát quyền lực kia. Nghe nói Nam tước Raulf là người ngay thẳng. Ta hy vọng điều đó là thật, bởi ông ta sẽ phải nhanh chóng chấm dứt tình trạng tàn bạo này. Tại sao ư, một số binh lính Maclaurin đã quay sang phục vụ cho gã con hoang MacBain rồi. Một khi họ trao cho hắn lời thề trung thành và hành động nhân danh hắn thì mọi việc sẽ hỏng bét. MacBain sẽ gây chiến chống lại Marshall và mọi người Anh khác đang săn bắn trên lãnh địa Maclaurin. Tên chiến binh Cao nguyên này nổi tiếng hung tợn và ưa báo thù, và ta cá bằng cả linh hồn rằng Nam tước Raulf sẽ gặp nguy hiểm khi MacBain chiếm đoạt lãnh địa Maclaurin, nơi những kẻ vô đạo dưới quyền nam tước của con đang quản lý.”

Dù không liên quan đến hoàn cảnh của những người Scot, Kelmet vẫn cảm thấy mình như người trong cuộc. Mặc khác, vị linh mục đang vô tình giúp anh trì hoãn việc thực hiện nhiệm vụ. Thêm vài phút nữa chắc cũng sẽ không ảnh hưởng gì, Kelmet nghĩ thầm.

“Cha cho rằng gã chiến binh MacBain đó sẽ đến Anh?”

“Ta không cho rằng”, vị linh mục phản đối. “Ta đang nói thực tế. Nam tước của con sẽ không mảy may nghi ngờ cho đến khi bị lưỡi gươm của MacBain kề vào cổ đâu. Tất nhiên, lúc đó thì đã quá trễ rồi.”

Người quản gia lắc đầu. “Binh lính của Nam tước Raulf sẽ giết hắn ta ngay trước khi hắn đặt chân lên cây cầu kéo.”

“Bọn họ không bao giờ có cơ hội đó đâu”, MacKechnie tuyên bố chắc nịch.

“Cha làm như gã chiến binh này bất khả chiến bại ấy.”

“Có lẽ thế. Sự thật là ta chưa từng gặp ai như hắn cả. Ta không muốn con phải rùng mình vì những câu chuyện mà ta nghe được về MacBain. Con sẽ chẳng muốn cơn thịnh nộ của hắn trút xuống đây đâu.”

“Giờ thì những điều đó không còn quan trọng nữa, Cha à”, Kelmet mệt mỏi thì thầm.

“Ôi, đó là cả một vấn đề lớn, con trai ạ”, vị linh mục cắt ngang. “Ta sẽ tiếp tục đợi nam tước của con chừng nào có thể. Sự việc nghiêm trọng đấy.”

Cha MacKechnie ngừng lại để kiềm chế bản thân. Ông biết vấn đề thị tộc Maclaurin không liên quan tới người quản sự, nhưng một khi đề cập về nó thì nỗi tức giận đã chất chứa trong lòng từ lâu chợt tràn ra trong vô thức, ông không thể gạt cơn phẫn nộ ra khỏi giọng mình. Ông buộc bản thân phải nói bằng giọng điệu bình tĩnh hơn khi thay đổi đề tài.

“Con vẫn là tội đồ đấy, Kelmet, với linh hồn già cỗi, nhưng suy cho cùng con chỉ cố hoàn thành nhiệm vụ của mình. Chúa sẽ nhớ điều này khi con đứng trước Người vào Ngày Phán xét. Nếu không muốn xưng tội bây giờ thì con cần Cha giúp gì?”

“Con cần Cha giúp Phu nhân Johanna, Cha à. Tin tức đến từ vua John.”

“Và?”, MacKechnie hối thúc khi người quản sự ngưng giải thích.

“Nam tước Raulf chết rồi.”

“Ôi, Chúa lòng lành trên cao, không thể như thế được.”

“Đó là sự thật, thưa Cha.”

MacKechnie thở gấp rồi vội làm dấu Thánh. Ông cúi đầu, vừa đan tay vào nhau vừa thì thầm cầu nguyện cho linh hồn Nam tước.

Cơn gió len qua vạt áo thầy tu đen tuyền khiến nó quấn vào chân MacKechnie nhưng ông không hề hay biết, ông đang dành trọn tâm trí cho lời khấn nguyện. Kelmet nhìn lên bầu trời. Những đám mây u ám, lan rộng, trôi lững lờ trước cơn gió rít dai dẳng. Âm thanh của trận bão được báo trước thật kỳ quái và đáng lo ngại.

Vị linh mục kết thúc lời cầu nguyện, làm một dấu Thánh khác rồi quay lại với người quản sự. “Tại sao con không nói với ta ngay hả? Sao con cứ để ta luyên thuyên suốt chứ? Con nên ngắt lời ta. Lạy Chúa, giờ chuyện gì sẽ xảy ra với những người Maclaurin đây?”

Kelmet lắc đầu. “Những gì liên quan đến lãnh địa của nam tước ở Cao nguyên, giờ chỉ có Chúa mới trả lời được thôi, Cha à.”

“Đáng ra con phải nói cho ta biết ngay chứ”, MacKechnie lặp lại, vẫn bị chao đảo bởi hung tin.

“Thêm một vài phút cũng không khác biệt gì”, Kelmet trả lời. “Và có lẽ con đang lảng tránh bằng cách giữ Cha lại trò chuyện. Nhiệm vụ của con là thông báo cho Phu nhân Johanna, Cha biết đấy, và con rất cảm kích nếu được Cha giúp đỡ. Cô ấy quá trẻ, quá trong sáng. Trái tim cô ấy sẽ tan nát mất.”

MacKechnie gật đầu. “Ta mới biết nữ chủ nhân của con trong hai ngày ngắn ngủi thôi, nhưng ta thấy cô ấy có bản tính hiền lành và trái tim trong sáng. Ta không chắc mình có thể giúp gì nhiều. Nữ chủ nhân của con dường như rất sợ ta.”

“Cô ấy sợ đa số các linh mục, thưa Cha. Cô ấy có lý do riêng.”

“Tại sao?”

“Người nghe lời xưng tội của cô ấy là Giám mục Hallwick.”

Cha MacKechnie cau mày. “Con không cần nói thêm”, ông thì thào với vẻ kinh tởm. “Sự xấu xa của Hallwick nổi như cồn, ngay cả ở Cao nguyên. Chẳng có gì lạ khi nữ chủ nhân của con lại lo sợ. Thật ngạc nhiên là cô ấy đã đến giúp và khăng khăng cho ta vào, Kelmet. Giờ ta mới nhận ra cô ấy phải có lòng can đảm lắm mới làm được điều đó. Cô gái đáng thương!”, ông thở dài. “Cô ấy không đáng phải gánh lấy nỗi đau mất người chồng yêu dấu ở độ tuổi này. Cô ấy kết hôn với nam tước bao lâu rồi?”

“Hơn ba năm rồi ạ. Phu nhân Johanna chỉ lớn hơn một thiếu nữ chút xíu khi cô ấy về với nam tước. Cha à, làm ơn đi cùng con đến nhà nguyện.”

“Chắc chắn rồi.”

Hai người đàn ông bước sóng đôi. Kelmet ngập ngừng lên tiếng, “Con chẳng biết mình có thể dùng từ ngữ thích hợp không nữa. Con không chắc… phải nói thế nào…”.

“Nói trực tiếp”, vị linh mục khuyên. “Cô ấy sẽ hiểu thôi. Đừng bắt cô ấy phải suy đoán. Hẳn là sẽ có ích nếu chúng ta đưa thêm một phụ nữ đi cùng để an ủi nữ chủ nhân của con. Phu nhân Johanna chắc chắn cần sẻ chia không chỉ với riêng chúng ta.”

“Con không biết ai để nhờ vả cả”, Kelmet thừa nhận. “Ngay trước ngày rời đi, Nam tước Raulf đã lại thay toàn bộ gia nhân. Phu nhân chỉ mới biết tên một vài người trong số rất nhiều người hầu. Cô ấy ở một mình vào những ngày này”, anh nói thêm. “Phu nhân rất tốt bụng, Cha ạ, nhưng luôn giữ khoảng cách với các gia nhân và đã học cách giữ thế giới cho riêng mình. Thật sự chúng ta không thể đưa người bạn tâm tình nào đến gặp cô ấy trong lúc này được.”

“Nam tước Raulf đi bao lâu rồi?”

“Tính đến giờ là gần sáu tháng.”

“Vậy trong suốt thời gian đó, Phu nhân Johanna không bầu bạn với ai sao?”

“Không. Cô ấy chẳng tâm sự với ai, kể cả người hầu gái của mình. Nam tước nói chỉ đi một hoặc hai tuần và chúng con đã mong đợi ngài ấy quay về từng ngày.”

“Nam tước chết thế nào?”

“Ngài ấy trượt chân và rơi khỏi vách đá.” Kelmet lắc lắc đầu. “Con tin chắc là còn có nhiều lý do hơn đằng sau lời giải thích đã được nghe, vì Nam tước Raulf không phải người vụng về. Có lẽ Đức vua sẽ nói với Phu nhân Johanna cặn kẽ hơn.”

“Vậy là tai nạn hy hữu”, vị linh mục khẳng định. “Chúa luôn có quyết định của Người.”

“Đó cũng có thể là do bàn tay của quỷ”, Kelmet lầm bầm.

MacKechnie không nhận xét về khả năng đó. “Phu nhân Johanna chắc chắn sẽ tái hôn”, ông gật gù. “Cô ấy được thừa kế một tài sản khá lớn, phải không?”

“Cô ấy được hưởng một phần ba lãnh địa của chồng mình. Con nghe nói nó là vùng đất rộng mênh mông.”

“Có thể một trong những lãnh địa đó là Maclaurin mà vua John của con đã ăn cắp từ tay Đức vua Scotland và trao cho Nam tước Raulf?”

“Có lẽ thế”, Kelmet đồng ý.

MacKechnie lên tiếng. “Với mái tóc vàng và đôi mắt xanh thăm thẳm, chủ nhân của con sẽ khiến mọi nam tước còn độc thân tại Anh háo hức được kết hôn cùng. Đó là một phụ nữ đẹp tuyệt trần, và thật tội lỗi khi phải thừa nhận rằng ta hoàn toàn bị mê hoặc vào lần đầu tiên nhìn thấy cô ấy. Vẻ ngoài đó dư sức bỏ bùa các quý ngài, ngay cả khi cô ấy không có chút của hồi môn nào.”

Họ đặt chân trên bậc tam cấp hẹp dẫn lên cửa nhà nguyện khi vị linh mục kết thúc lời nhận xét.

“Cô ấy xinh đẹp”, người quản sự đồng ý. “Con từng thấy nhiều người đàn ông hồn bay phách lạc khi bắt gặp vẻ đẹp ấy. Các nam tước chắc chắn muốn có được cô ấy, chỉ là không phải trong hôn nhân.”

“Vì sao?”

“Cô ấy bị vô sinh”, Kelmet tiết lộ.

Mắt vị linh mục mở to. “Lạy Chúa”, ông thì thầm, cúi đầu làm dấu Thánh và trở lại công cuộc cầu nguyện mà lần này là cho gánh nặng của vị phu nhân đáng kính.

Phu nhân Johanna cũng đang cầu nguyện. Nàng đứng sau bệ thờ và cầu xin sự dẫn dắt của Chúa để kiên quyết thực hiện hành động đúng đắn. Nàng giữ cuộn giấy da trong tay, và khi kết thúc lời khẩn nguyện, nàng quấn cuộn giấy vào tấm vải lanh đang trải rộng trên bề mặt đá cẩm thạch.

Một lần nữa, nàng cân nhắc việc tiêu hủy chứng cớ chống lại Đức vua. Nhưng rồi nàng lắc đầu. Một ngày nào đó, sẽ có người tìm ra cuộn giấy, và nếu người đó biết được sự thật về vị vua xấu xa từng cai trị nước Anh thì có lẽ công lý sẽ được thực thi.

Johanna đặt cuộn giấy vào giữa hai miếng đá cẩm thạch bên dưới bệ thờ để nó có thể khuất khỏi tầm nhìn và không bị hủy hoại. Sau đó nàng nhanh chóng nói một lời cầu nguyện khác, rồi quỳ gối và đứng dậy bước dọc lối đi giữa các dãy ghế. Nàng mở cửa bước ra ngoài.

Cuộc đối thoại giữa Cha MacKechnie và Kelmet ngay lập tức ngừng lại.

Hình ảnh Phu nhân Johanna vẫn tác động lên vị linh mục, ông thú nhận sự thực mà không cảm thấy day dứt về tội lỗi. MacKechnie không cho rằng bản thân phạm tội dục vọng vì ông nhận thấy ánh sáng mờ ảo tỏa ra từ mái tóc nàng và khuôn mặt đáng yêu của nàng dài hơn cần thiết một chút. Trong tâm trí ông, Johanna đơn giản là một sinh linh của Chúa trời, một kiệt tác lộng lẫy, minh chứng cho khả năng nhào nặn sự hoàn hảo của Đấng tối thượng.

Johanna là người Saxon chính cống với gò má cao và hồng hào. Nàng hơi thấp hơn những người khác vì chỉ có chiều cao trung bình, nhưng lúc này trông có vẻ nhỉnh hơn vị linh mục khi nàng giữ mình đứng thẳng như một nữ hoàng.

Phải, diện mạo của nàng làm MacKechnie hài lòng, và ông tin chắc Đức Chúa trời cũng hài lòng tương tự, vì nàng thực sự sở hữu trái tim ấm áp và dịu dàng.

MacKechnie là một linh mục giàu lòng trắc ẩn. Ông đau lòng trước tai họa kinh hoàng mà vị phu nhân đáng mến phải gánh chịu. Một người phụ nữ vô sinh sẽ không có ích ở vương quốc này. Mục đích tồn tại duy nhất của nàng đã bị tước đoạt. Chắc chắn gánh nặng nàng đang mang cùng việc hiểu rõ vị trí thấp kém của mình chính là lý do mà ông chưa một lần nhìn thấy nụ cười trên môi nữ nam tước.

Và giờ đây, họ sắp sửa mang đến cho nàng một tai họa kinh hoàng khác.

“Chúng tôi có thể nói chuyện với người không, thưa phu nhân?”, Kelmet lên tiếng.

Giọng của người quản sự có lẽ đã cảnh báo trước điều gì đó không tốt lành. Đôi mắt nàng ánh lên vẻ phòng thủ cùng bàn tay cuộn lại thành nắm đấm. Nàng gật đầu và từ từ quay vào trong.

Hai người đàn ông theo sau nàng. Phu nhân Johanna đứng đối diện với họ khi đến giữa lối đi hai hàng ghế tựa bằng gỗ trong nhà nguyện. Bệ thờ nằm ngay sau lưng nàng. Bốn ngọn nến cung cấp ánh sáng duy nhất trong nhà nguyện. Lửa chập chờn bên trong những quả cầu thủy tinh đặt cách nhau khoảng một cánh tay dọc theo chiều dài bệ thờ đá cẩm thạch.

Phu nhân Johanna thẳng vai, đan tay vào nhau và giữ mắt nhìn thẳng vào viên quản sự. Nàng dường như đang chuẩn bị tinh thần cho tin tức xấu. Giọng nàng thì thầm nhẹ nhàng, mất hết cảm xúc. “Chồng ta đã trở về nhà ư?”

“Không, thưa phu nhân”, Kelmet trả lời. Liếc mắt nhìn vị linh mục, nhận lấy cái gật đầu động viên của ông, anh buột miệng, “Có hai người đưa tin từ Luân Đôn vừa đến. Một tin khủng khiếp, thưa phu nhân. Chồng người đã qua đời”.

Một phút im lặng trôi qua sau lời công bố đó. Kelmet bắt đầu siết chặt tay rồi lại thả lỏng trong khi chờ đợi hung tin dần được tiếp nhận. Nữ chủ nhân của anh không để lộ bất cứ phản ứng nào khiến anh bắt đầu nghĩ rằng nàng vẫn chưa hiểu những gì anh vừa thông báo.

“Đúng vậy, phu nhân. Nam tước Raulf đã ra đi mãi mãi”, anh lặp lại trong tiếng thì thầm khàn đặc.

Vẫn không một lời hồi đáp. Vị linh mục và người quản sự nhìn nhau lo lắng, rồi cùng nhìn Phu nhân Johanna.

Sóng nước đột ngột dâng trào trong mắt nàng. Cha MacKechnie gần như thở phào nhẹ nhõm. Nàng đã trở về với thực tại.

Và rồi ông chờ đợi phản ứng tiếp theo của nàng, trong phần lớn những tháng năm với vai trò an ủi các gia đình có tang sự, ông biết hầu hết mọi người đều phủ nhận sự thực đó.

Phản ứng của Johanna thật nhanh và mạnh mẽ. “Không!”, nàng thét. Nàng lắc đầu thật mạnh đến mức mái tóc dài phủ khắp vai nàng. “Ta không ở đây lắng nghe lời nói dối này. Ta không nghe.”

“Kelmet nói thật”, Cha MacKechnie nhấn mạnh bằng tông giọng thấp và dịu dàng.

Nàng lắc đầu với ông. “Đây là một trò lừa đảo. Nam tước không thể chết. Kelmet, cậu phải tìm ra sự thật. Ai đã nói với cậu lời dối trá như vậy?”

Vị linh mục bước thật nhanh tới trước, định vòng tay ôm lấy người phụ nữ khốn khổ. Vẻ đau đớn trong giọng nàng khiến ông muốn khóc.

Johanna không chấp nhận sự an ủi. Nàng lùi lại, siết chặt hai tay, “Đây là một trò lừa độc ác, phải không?”.

“Không đâu, phu nhân”, Kelmet lặp lại. “Tin tức đến từ Đức vua John. Có nhân chứng nữa. Nam tước đã chết.”

“Chúa cứu rỗi linh hồn nam tước”, vị linh mục ngâm.

Phu nhân Johanna òa khóc. Cả hai người đàn ông vội vã tiến tới trước. Nàng phản ứng bằng cách lùi về sau lần nữa. Họ đứng lại, không chắc phải làm gì ngoài việc đứng nhìn người phụ nữ đau khổ quay đi. Nàng khuỵu xuống, hai tay vòng quanh bụng và gập người lại như thể vừa nhận một cú đánh mạnh vào người.

Tiếng nức nở vỡ òa. Hai người đàn ông để nàng trút nỗi đau thương một hồi lâu trước khi nàng có thể lấy lại được chút ít kiểm soát và tiếng nức nở cũng nguôi dần, vị linh mục đặt tay lên vai nàng rồi thì thầm an ủi.

Nàng không gạt tay ông ra. MacKechnie nhận thấy vẻ nghiêm trang đường hoàng từ từ trở lại trên gương mặt nữ nam tước. Nàng hít một hơi thật sâu nhằm trấn tĩnh, lau mặt bằng chiếc khăn lanh ông đưa, rồi cho phép ông giúp nàng đứng dậy.

Nàng cúi đầu khi nói với họ, “Tôi muốn ở một mình lúc này. Tôi phải… cầu nguyện”.

Không chờ sự đồng thuận của họ, nàng quay lưng đi đến hàng ghế đầu tiên trong nhà nguyện, quỳ xuống và làm dấu Thánh, dấu hiệu bắt đầu cho lời cầu nguyện của nàng.

Vị linh mục ra ngoài trước. Kelmet theo sau ông. Anh vừa kéo cánh cửa đóng lại thì vị nữ chủ nhân gọi.

“Thề đi, Kelmet. Thề trên mộ của cha cậu rằng chồng ta thực sự đã chết.”

“Tôi thề, thưa phu nhân.”

Người quản sự đợi thêm chút nữa xem chủ nhân có muốn nói thêm lời nào không rồi mới kéo cánh cửa hoàn toàn khép kín.

Johanna chằm chằm nhìn bệ thờ hồi lâu. Tâm trí nàng hỗn loạn với nhiều ý nghĩ và cảm xúc đan xen.

Nàng choáng váng đến mức không thể suy nghĩ sáng suốt.

“Ta phải cầu nguyện”, nàng thì thầm. “Chồng ta đã chết. Ta phải cầu nguyện.”

Nàng nhắm mắt lại, đan hai tay vào nhau rồi bắt đầu lời cầu nguyện của mình. Đó là một bài kinh cầu đơn giản và trực tiếp xuất phát từ trái tim nàng.

“Tạ ơn Chúa, xin đội ơn Người, đội ơn Đấng tối cao!”

CHƯƠNG 2

Cao nguyên Scotland, năm 1207

Nam tước rõ ràng muốn chết. Lãnh chúa sẽ đáp ứng ý nguyện của anh ta.

Người MacBain truyền tai nhau tin đồn rắc rối suốt bốn ngày trước khi Nam tước Nicholas Sanders đặt chân lên ngọn đồi dốc cuối cùng thuộc lãnh địa Maclaurin đang bị mùa đông bao phủ. Người đàn ông Anh quốc này chẳng xa lạ gì và thực ra đã từng sát cánh cùng người MacBain trong suốt cuộc chiến dữ dội chống lại bọn vô đạo người Anh trú ngụ trên đất Maclaurin. Ngay khi cuộc chiến kết thúc, MacBain liền trở thành lãnh chúa trên lãnh địa riêng của hắn và cả thị tộc Maclaurin. Là người lãnh đạo mới của họ, hắn quyết định cho phép Nicholas ở lại đến khi vết thương của anh hồi phục. Để rồi sau đó, MacBain lại nghĩ rằng hắn đã quá dễ dãi và tử tế một cách chết tiệt, dù đành rằng đó là điều chính đáng.

Phải thừa nhận, Nam tước Nicholas thựs sự đã cứu mạng MacBain trong trận chiến. Lãnh chúa là người cao ngạo. Thật khó để hắn nói lời cảm ơn, đúng ra là không thể, và vì vậy, với nỗ lực đánh giá cao ơn cứu hắn khỏi mũi gươm đâm lén từ phía sau của một tên lính Anh, MacBain đã không để Nicholas chảy máu đến chết. Nhưng vì bọn họ chẳng ai có kinh nghiệm trong việc làm lành vết thương nên MacBain đã tự mình lau rửa và băng bó cho Nam tước. Sự hào hiệp của hắn không dừng lại ở đó, mặc dù lý trí mách bảo hắn đã trả đủ món nợ này. Khi Nicholas đủ khỏe để ra đi, MacBain cho gã con chiến mã đen tuyền lộng lẫy cùng một chiếc áo choàng1 của riêng hắn để Nicholas mặc và xem như đó là giấy thông hành an toàn trên đường trở về Anh. Không một thị tộc nào dám động đến người của MacBain, áo choàng thực sự là thứ bảo vệ tốt hơn cả thư tay.

1 Plaid: Áo choàng làm bằng len với sọc caro đặc trưng của người Scotland ở vùng cao nguyên. Đây là trang phục truyền thống của người Scotland (vẫn còn đến tận ngày nay).Vào thời kỳ đó, mỗi một thị tộc ở cao nguyên Scotland sẽ có áo choàng với sọc caro màu sắc khác nhau để phân biệt người của các thị tộc với nhau.

Phải, hắn đã từng hiếu khách, và giờ gã nam tước lại tận dụng lòng tốt của hắn quá thể.

Chết tiệt, hắn thật sự sẽ phải giết gã đàn ông đó.

Chỉ có một suy nghĩ sáng suốt giữ cho tâm trạng hắn không bùng nổ. Lần này hắn sẽ thu hồi con ngựa của Nicholas.

“Cho sói ăn một lần, MacBain à, thì nó chắc chắn sẽ lại đến đây sục sạo để kiếm nhiều thức ăn hơn nữa.”

Người đội trưởng, một chiến binh cơ bắp với mái tóc vàng óng tên Calum thốt ra lời bình luận. Tia sáng lấp lánh trong đôi mắt cho thấy anh ta rất thích thú với việc nam tước lại đến.

“Anh sẽ giết gã ta chứ?”

MacBain nghĩ về câu hỏi một hồi lâu rồi trả lời, “Có lẽ”. Giọng hắn vô cảm, chẳng có chút để tâm nào.

Calum cười ầm lên. “Nam tước Nicholas quả là dũng cảm khi quay lại đây.”

“Không phải dũng cảm”, MacBain chỉnh lại. “Mà là ngu ngốc.”

“Gã đang mặc chiếc áo choàng của anh mà lên con dốc cuối để làm anh hài lòng đấy, MacBain.”

Keith, người chiến binh lớn tuổi nhất của thị tộc Maclaurin, hét toáng lên thông báo khi vênh vang đi qua lối vào.

“Anh có muốn tôi đưa gã vào trong không?”, Calum hỏi.

“Vào trong á?”, Keith khịt mũi. “Chúng ta đang ở ngoài đấy chứ, Calum. Mái nhà cháy mất rồi và chỉ ba trong bốn bức tường còn đứng vững. Tôi có thể nói chúng ta đang ở ngoài.”

“Bọn người Anh đã làm điều này”, Calum nhắc nhở vị lãnh chúa. “Nicholas…”

“Anh ta đến đây để giải thoát mảnh đất Maclaurin khỏi tay bọn vô đạo”, MacBain nhắc nhở cấp dưới của mình. “Nicholas không liên quan đến sự tan hoang này.”

“Dù sao đi nữa gã vẫn là người Anh.”

“Tôi không quên đâu.” Hắn rời khỏi thành lò sưởi đang tựa vào, lầm bầm rủa sả khi một thanh gỗ gãy rơi xuống sàn, rồi bước ra ngoài. Calum và Keith bước song song hai bên phía sau hắn.

MacBain cao hơn hẳn lính của mình. Hắn có vóc dáng khổng lồ, vẻ ngoài lẫn tính khí hung tợn cùng mái tóc nâu đen và đôi mắt xám tro. Thế đứng dang rộng chân như sẵn sàng chiến đấu, hai cánh tay bắt chéo trước lồng ngực vạm vỡ và nét cau có luôn túc trực trên gương mặt.

Nam tước Nicholas nhìn thấy vị lãnh chúa ngay khi cưỡi ngựa lên đến đỉnh đồi. Trông MacBain có vẻ điên tiết. Nicholas tự nhắc mình đó là tình trạng bình thường. Tuy vậy, nét giận dữ ấy đủ u ám để nam tước phải có thêm một ý nghĩ nữa. “Ta ắt hẳn bị khùng rồi”, anh làu bàu với chính mình, hít một hơi thật sâu rồi huýt sáo thay cho lời chào. Kèm thêm một nụ cười toe toét, anh giơ cao nắm tay lên không trung như một lời chào.

MacBain chả ấn tượng gì với cách nam tước thể hiện. Hắn đợi Nicholas đến giữa khoảnh sân cằn cỗi trước khi giơ tay ngầm ra hiệu đứng lại.

“Tôi nghĩ mình đã cảnh báo rất rõ, nam tước. Tôi đã nói cậu đừng trở lại đây.”

“Ừ, cậu nói tôi đừng trở lại”, Nicholas đồng ý. “Tôi nhớ mà.”

“Vậy chắc cậu cũng nhớ tôi đã nói mình sẽ giết cậu nếu cậu dám đặt chân lên đất của tôi lần nữa?”

Nicholas gật đầu. “Tôi có trí nhớ rất tốt, MacBain. Tôi cũng nhớ lời đe dọa đó.”

“Vậy mà cậu không thèm đếm xỉa đến?”

“Cậu có thể kết luận như vậy”, Nicholas trả lời với cái nhún vai lơ đãng.

Nụ cười trên khuôn mặt nam tước làm MacBain bực bội. Nicholas nghĩ đây là một trò đùa sao? Không lẽ cậu ta ngớ ngẩn mất rồi?

MacBain thốt ra một tiếng thở dài. “Cởi áo choàng của tôi ra, Nicholas.”

“Tại sao?”

“Tôi không muốn thấy nó bị dính máu của cậu.”

Giọng hắn run lên vì phẫn nộ. Nicholas cầu Chúa đó chỉ là sự hăm dọa ầm ĩ. Anh tin tưởng mình ngang bằng về vóc dáng lẫn sức mạnh với vị lãnh chúa khó chịu kia, và chắc chắn chiều cao của mình cũng không hề kém cạnh. Nhưng anh không muốn chiến đấu với người đàn ông đó. Nếu anh giết hắn, kế hoạch của anh sẽ thất bại; và nếu hắn giết anh, hắn sẽ không biết được cái kế hoạch chết giẫm này đến khi quá muộn. Hơn nữa, MacBain rất nhanh nhẹn trên chiến trường, hắn cũng không chiến đấu công bằng, Nicholas cho rằng đó là một nét đặc trưng mà anh thấy rất ấn tượng.

“Phải, nó là áo choàng của cậu”, anh hét vào mặt tên man rợ đó. “Nhưng đất đai, MacBain à, cậu nhớ cho, chúng thuộc về em gái tôi.”

Cơn giận dữ của MacBain tăng cao. Hắn không thích nghe sự thật hiển nhiên đó. Tiến thêm một bước, hắn tuốt gươm ra.

“Quỷ tha ma bắt”, Nicholas lẩm bẩm khi đưa chân qua lưng ngựa và nhảy xuống đất. “Không có gì là đơn giản với cậu sao, MacBain?”

Không mong câu trả lời và cũng chẳng có lấy câu hồi đáp nào, anh cởi chiếc áo choàng đang mặc như tấm biểu ngữ khoác trên một bên vai rồi hất nó lên yên ngựa, sau đó với lấy thanh gươm của mình. Một trong những chiến binh Maclaurin vội vã lao tới dắt ngựa đi. Nicholas liếc mắt nhìn một chút và cố lờ đi đám đông đang tụ tập thành vòng quanh sân. Tâm trí anh hoàn toàn tập trung vào đối thủ.

“Chính tên em rể của cậu đã hủy diệt vùng đất này lẫn một nửa thị tộc Maclaurin”, MacBain gầm lên. “Và tôi đã chịu đựng sự hiện diện của cậu đủ lâu rồi.”

Hai kẻ khổng lồ gườm nhau. Nicholas lắc đầu. “Nhìn thẳng vào sự thật đi, MacBain. Chồng của em gái tôi, Nam tước Raulf, là kẻ trao cho tên vô đạo Marshall cùng người của gã quản lý lãnh địa này; nhưng khi Raulf chết và em gái tôi thoát khỏi sự khống chế của gã, con bé đã cử tôi đến đây để giải thoát vùng đất này khỏi tay bọn chư hầu nổi loạn. Con bé sở hữu mảnh đất, MacBain. Đức vua William Sư Tử của cậu quên không thương lượng với Richard để lấy lại nó khi người đàn ông tốt bụng đó làm vua nước Anh trong cơn tuyệt vọng cần những đồng tiền phục vụ cho các cuộc viễn chinh, nhưng vua John không bao giờ quên những gì được truyền lại cho mình. Ông ta giao đất đai cho người phục vụ trung thành Raulf, và giờ khi gã chết, Johanna thừa kế nó. Dù thích hay không thì đó cũng là đất của con bé rồi.”

Chuyện quá khứ khiến cả hai người chiến binh đều điên tiết. Họ lao vào nhau như những con bò đực hung hãn; tiếng va chạm của các thanh gươm tạo thành tia sáng xanh chớp lóe và âm thanh chói tai như thép được tôi luyện. Tiếng động vang xuống tận chân đồi, nhấn chìm tiếng càu nhàu của đám đông vây quanh.

Hai người không nói lấy một lời trong ít nhất hai mươi phút. Cuộc đấu làm tiêu tốn hết sạch sức mạnh và sự tập trung của họ. MacBain với vai trò là người tấn công trong trận đấu, Nicholas phòng thủ thật xuất sắc khi ngăn chặn thành công từng cú đòn chí tử.

Cả chiến binh MacBain lẫn binh lính Maclaurin đều vô cùng hài lòng với cuộc đấu đang diễn ra. Một vài tiếng làu bàu thừa nhận gã người Anh di chuyển nhanh, trong suy nghĩ của họ, Nicholas đã chứng tỏ được kỹ năng tuyệt vời của mình vì vẫn còn sống sót để chống cự đến lúc này.

MacBain đột ngột cúi người và ngáng chân làm Nicholas vấp ngã. Vị nam tước té ngửa, lăn tròn rồi bật dậy nhanh như mèo trước khi MacBain có thể lợi dụng cơ hội đó.

“Cậu chả mến khách gì cả”, Nicholas hổn hển.

MacBain mỉm cười. Hắn có thể chấm dứt trận đấu khi Nicholas ngã xuống, nhưng cuối cùng hắn cũng thừa nhận với bản thân rằng lòng nhân từ của mình lại một lần nữa chen chân vào.

“Tính hiếu kỳ của tôi đang giữ mạng sống cho cậu đấy, Nicholas”, MacBain tuyên bố, hơi thở nông và ngắt quãng. Trán hắn đầy mồ hôi khi hắn vung gươm thành một vòng rộng rồi chém xuống.

Nicholas giơ gươm lên, đỡ được cú đánh mạnh. “Chúng ta sắp trở thành họ hàng của nhau, MacBain à, dù thích hay không.”

Mất vài giây, lãnh chúa mới thông suốt lời tuyên bố đó. MacBain không ngừng tấn công khi hắn hỏi lại, “Làm thế quái nào được hả, nam tước?”.

“Tôi sắp trở thành anh rể cậu.”

MacBain không cố che giấu vẻ kinh ngạc trước tuyên bố đầy chắc chắn và kinh khủng của Nicholas. Hắn lùi lại một bước và từ từ hạ thấp gươm.

“Có phải cậu hoàn toàn ngớ ngẩn rồi không, Nicholas?”

Nam tước bật cười. Anh quẳng vũ khí của mình qua một bên. “Trông cậu như vừa nuốt phải thanh gươm của mình ấy, MacBain.”

Sau khi quan sát, anh lao đầu tông vào ngực gã lãnh chúa. Cảm giác như nện vào bức tường đá. Cái mánh này làm đầu anh đau như búa bổ, nhưng nó hiệu quả. MacBain buột ra một tiếng gầm nhỏ. Hai chiến binh ngã lăn ra đất. MacBain bỏ luôn thanh gươm của mình, còn Nicholas nằm bẹp trên người hắn. Anh kiệt sức không thể cử động nổi và cũng đau đến mức không muốn di chuyển. MacBain đẩy anh sang một bên và định với lấy thanh gươm lần nữa, nhưng lại đột ngột thay đổi ý định. Hắn từ từ quay sang nhìn Nicholas.

“Kết hôn với một phụ nữ Anh?”

Giọng hắn nghe có vẻ kinh hoàng. Hơi thở hồng hộc cũng ngừng hẳn. Hình ảnh đó khiến Nicholas hài lòng đáng kể, anh lấy làm kiêu hãnh về việc đã lột được lớp mặt nạ lạnh lùng của Lãnh chúa MacBain.

MacBain đứng dậy rồi đưa tay kéo Nicholas dậy, nhưng sau đó lại đẩy mạnh ra vì nghĩ mình không cần phải tử tế như thế. Hắn khoanh tay trước ngực và yêu cầu Nicholas nói cho rõ ràng.

“Và ai là người mà cậu cho rằng tôi sẽ kết hôn hả?”

“Em gái tôi.”

“Cậu điên rồi.”

Nicholas lắc đầu. “Nếu cậu không kết hôn với con bé, vua John sẽ trao nó cho Nam tước Williams. Tên đó là một thằng khốn kiếp”, anh nói tiếp bằng giọng vui thích. “Lúc đó chỉ có Chúa mới giúp được cậu, MacBain. Nếu Williams kết hôn với con bé, người mà gã ta cử đến sẽ giúp Marshall khôi phục sức mạnh như trước.”

Vị lãnh chúa trẻ không để lộ chút phản ứng nào. Nicholas xoa xoa đầu để làm dịu cơn đau trước khi bồi thêm, “Có lẽ cậu sẽ giết bất cứ ai mà gã cử tới”.

“Chết tiệt thật, tôi sẽ làm thế”, MacBain cáu kỉnh.

“Nhưng Williams sẽ trả đũa bằng cách ngày càng cử nhiều… và nhiều hơn thế nữa. Cậu có đủ khả năng để duy trì cuộc chiến triền miên với nước Anh không? Sẽ có thêm bao nhiêu người Maclaurin chết trước khi nó kết thúc? Nhìn quanh cậu xem, MacBain. Marshall và tay sai của gã đã phá hủy gần hết nơi này rồi. Người Maclaurin quay sang nhờ cậu giúp và tôn cậu làm lãnh chúa. Họ đang phụ thuộc vào cậu. Nếu cậu kết hôn với Johanna, vùng đất này sẽ là của cậu một cách hợp pháp. Vua John sẽ để cậu yên.”

“Vua của cậu chấp thuận hiệp ước hôn nhân này?”

“Phải”, Nicholas khẳng định chắc nịch.

“Tại sao?”

Nicholas nhún vai. “Tôi không chắc. Nhưng tôi biết ông ta muốn Johanna rời khỏi Anh. Ông ta đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Dường như ông ta rất háo hức với cuộc hôn nhân này và đồng ý cho cậu lãnh địa Maclaurin vào ngày cưới. Tôi sẽ nhận gia sản của con bé ở Anh.”

“Tại sao?”

Nicholas thở dài. “Tôi tin em gái mình biết tại sao Đức vua muốn nó đi thật xa, ông ta gọi đây là nơi tận cùng thế giới, nhưng Johanna không nói cho tôi biết lý do của ông ta là gì.”

“Vậy là cậu cũng được hưởng lợi từ cuộc hôn nhân này.”

“Tôi không muốn gia sản ở Anh”, anh nói. “Thế sẽ chỉ có nghĩa là nộp thêm thuế hằng năm, và tôi đã sớm có đủ tài sản tự tay mình tạo dựng rồi.”

“Vậy thì tại sao cậu lại muốn em gái cậu…”

Nicholas không để hắn nói dứt câu. “Đức vua rất tham lam”, anh ngắt lời. “Nếu biết tôi muốn bảo vệ em gái mình khỏi Nam tước Williams, ông ta có thể sẽ từ chối đề nghị gả em gái tôi cho cậu. Ông ta khăng khăng đòi một khoản tiền phạt lớn, tất nhiên, tôi đã chi trả nó.”

“Cậu mâu thuẫn quá đấy, nam tước. Nếu muốn Johanna rời xa Anh, tại sao ông ta còn cân nhắc gả cô ấy cho Nam tước Williams?”

“Bởi vì Williams cực kỳ trung thành với Đức vua. Hắn là con chó cảnh của ông ta. Ông ta muốn kiểm soát em gái tôi.” Nicholas lắc đầu, hạ thấp giọng gần như thầm thì, “Em gái tôi nắm một số thông tin mật và John không muốn những tội lỗi trong quá khứ chống lại ông ta. Ôi, con bé không bao giờ có thể đưa bằng chứng ra tòa để chống lại bất kỳ ai, thậm chí cả vua của nó, vì nó chỉ là phụ nữ, và do đó, sẽ không ai lắng nghe cả. Tuy nhiên, có một vài nam tước đã sẵn sàng nổi dậy chống lại Đức vua. Johanna có thể thổi bùng quyết tâm của họ nếu con bé nói ra những gì nó biết. Đó vẫn còn là một ẩn số, MacBain, nhưng càng nghĩ tôi càng tin rằng John thật sự sợ những gì Johanna nắm giữ.”

“Nếu những gì cậu suy đoán là đúng, tôi ngạc nhiên khi ông ta không thủ tiêu cô ấy. Vua của cậu có thể làm những chuyện bẩn thỉu như thế mà.”

Nicholas biết mình không bao giờ có được sự hợp tác của MacBain trừ phi anh hoàn toàn trung thực với hắn. Anh gật đầu. “Ông ta có thể thủ tiêu con bé. Tôi đã ở cùng Johanna khi con bé nhận được lệnh triệu tập đến Luân Đôn. Dựa vào phản ứng lúc đó, tôi tin con bé nghĩ mình sẽ bị hành hình.”

“Nhưng cô ấy vẫn sống.”

“Đức vua giữ con bé ở gần để kiểm soát nó. Con bé có chỗ ở biệt lập và không được gặp khách khứa. Nó đang sống trong nỗi lo sợ từng ngày. Tôi muốn Johanna rời khỏi nước Anh. Kết hôn với cậu là giải pháp duy nhất.”

Lãnh chúa hài lòng với sự chân thực của nam tước. Hắn ra hiệu cho anh đi cùng đến nơi đổ nát mà hắn gọi là nhà. Nicholas đi bên cạnh hắn.

Giọng MacBain trầm xuống khi hắn lên tiếng, “Vậy cậu là người nghĩ ra cái kế hoạch thông minh này”.

“Phải”, Nicholas đáp lời. “Và thật ra, Đức vua từng chỉ định gả con bé cho Williams cách đây sáu tháng, nhưng con bé đã cự tuyệt.”

“Như thế nào?”

Nicholas cười toe toét. “Đầu tiên, con bé yêu cầu hủy bỏ hôn sự trước đây.”

MacBain hoàn toàn bất ngờ. “Tại sao cô ấy lại đòi hủy bỏ? Chồng cô ấy đã chết rồi.”

“Đó là một chiến thuật trì hoãn thông minh”, Nicholas giải thích. “Có nhân chứng trông thấy chồng con bé chết, nhưng không tìm thấy xác. Em gái tôi nói với Đức vua nó sẽ không kết hôn với bất cứ ai chừng nào vẫn có chút hy vọng rằng Raulf còn sống. Gã không chết ở Anh, cậu biết đấy. Gã đang ở nước ngoài làm đặc phái viên của Đức vua khi tai nạn xảy ra. Dĩ nhiên ông ta không thể từ chối, nhưng vì gần đây đang gặp nhiều khó khăn với nhà thờ, nên ông ta quyết định thông qua những hướng thích hợp. Giấy hủy bỏ hôn sự đã được cấp.”

“Ai là nhân chứng cho cái chết của chồng cô ấy?”

“Sao cậu lại hỏi thế?”

“Chỉ tò mò thôi”, MacBain trả lời. “Cậu có biết không?”

“Biết. Williams là nhân chứng.”

Gabriel ghi nhớ thật kỹ thông tin này. “Tại sao cậu lại thích chọn tôi hơn là Nam tước người Anh?”

“Williams là đồ quái vật, và tôi không thể chịu đựng được ý nghĩ em gái mình ở trong tay gã. Cậu là kẻ ít tệ hại hơn trong hai gã ác quỷ. Tôi biết cậu sẽ đối xử tốt với con bé… nếu con bé đi theo cậu.”

“Gì thế này? Đó không phải là quyết định của cô ấy.”

“Tôi e là vậy”, Nicholas nói. “Johanna phải gặp cậu trước rồi mới quyết định. Đó là điều tốt nhất tôi có thể làm. Thật ra, con bé sẽ không kết hôn với bất kỳ ai nếu nó có thể tiếp tục trả tiền cho Đức vua để yêu cầu không kết hôn. Dù sao thì đó là điều mà Johanna tin. Nhưng tôi biết rõ, bằng cách này hay cách khác, Đức vua sẽ gả nó đi.”

“Vua của cậu là kẻ tham lam”, MacBain kết luận. “Hoặc đây là hình phạt được đưa ra để em gái cậu hợp tác?”

“Thuế à?”, Nicholas hỏi.

MacBain gật đầu.

“Không đâu. Đức vua có thể buộc các quả phụ của người phục vụ ông ta tái hôn. Nếu họ quyết tâm ở giá hoặc tự chọn chồng, thì được thôi, họ phải trả tiền phạt đáng kể cho ông ta mỗi năm.”

“Cậu nói mình đã trả tiền phạt. Cậu đang giả sử Johanna sẽ chấp nhận tôi?”

Nicholas gật đầu. “Em gái tôi không biết tôi đã nộp tiền phạt, và tôi rất cảm kích nếu cậu không đề cập tới chuyện này khi gặp con bé.”

MacBain chắp tay sau lưng và đi vào trong. Nicholas đi theo.

“Tôi phải cân nhắc đề nghị này của cậu”, lãnh chúa tuyên bố. “Cái ý tưởng kết hôn với một phụ nữ Anh thật khó mà chịu đựng được, và khi cậu thêm vào việc cô ấy là em gái cậu thì nó hầu như không thể tưởng tượng nổi.”

Nicholas biết mình đang bị xúc phạm, song anh không quan tâm. MacBain đã bộc lộ tính cách của hắn trong suốt cuộc chiến chống lại Marshall và đám đồng lõa của gã.

Vị lãnh chúa trẻ có thể hơi cộc cằn, nhưng cũng là người dũng cảm và đáng ngưỡng mộ.

“Còn chuyện này cậu nên xem xét trước khi quyết định”, Nicholas lên tiếng.

“Chuyện gì?”

“Johanna bị vô sinh.”

MacBain gật đầu cho Nicholas biết hắn đã nghe thấy lời anh nói nhưng không bình luận gì trong vài phút.

Rồi hắn nhún vai. “Tôi đã có một đứa con trai rồi.”

“Ý cậu là Alex hả?”

“Phải.”

“Tôi nghe nói ít nhất ba người có thể là cha nó.”

“Đúng vậy. Mẹ nó phục vụ cho quân đội. Cô ta không thể chắc chắn ai là cha Alex. Cô ta tin có thể là tôi. Cô ta chết khi sinh thằng bé và tôi đã khẳng định thằng bé là con mình.”

“Những người khác cũng khẳng định vậy à?”

“Không.”

“Johanna chẳng thể sinh con cho cậu. Thế thì việc Alex là con hoang trong tương lai có ảnh hưởng gì không?”

“Không thành vấn đề”, MacBain tuyên bố, giọng thô ráp và cứng rắn. “Tôi cũng là con hoang.”

Nicholas phá ra cười. “Ý cậu là, lúc gọi cậu là đồ con hoang trong giờ phút dầu sôi lửa bỏng của trận chiến chống lại Marshall, tôi không có ý lăng mạ nhưng nó lại là sự thật sao?”

MacBain gật đầu. “Tôi đã giết nhiều kẻ dám gọi tôi bằng cái tên ấy, Nicholas. Hãy xem như cậu gặp may đi.”

“Cậu sẽ là kẻ may mắn nếu Johanna quyết định kết hôn với cậu.”

MacBain lắc đầu. “Tôi muốn những gì xứng đáng thuộc về mình. Nếu việc có được đất đai nghĩa là cưới một người đàn bà đanh đá, tôi sẽ làm chuyện đó.”

“Sao cậu lại nghĩ con bé đanh đá chứ?” Nicholas không hiểu kết luận của MacBain.

“Cậu đã cung cấp cho tôi đủ manh mối về tính cách của cô ấy”, MacBain trả lời. “Cô ấy rõ ràng là kẻ bướng bỉnh vì không chịu tâm sự với anh trai mình khi được hỏi về những thông tin chống lại Đức vua. Johanna cần một người đàn ông kiểm soát cô ấy, đó là những lời cậu nói với tôi, Nicholas, thế nên đừng có ngạc nhiên, và cuối cùng, cô ấy bị vô sinh. Nghe có vẻ đáng thương, phải không?”

“Ừ, con bé rất đáng thương.”

MacBain chế giễu. “Tôi không tận hưởng tương lai của mình với vai trò là chồng cô ấy, nhưng cậu nói đúng, tôi sẽ đối xử tốt với cô ấy. Tôi nghĩ chúng tôi sẽ tìm ra cách tránh can dự vào cuộc sống của nhau.”

Lãnh chúa rót rượu vào hai chiếc ly bạc có chân và đưa một ly cho Nicholas. Mỗi người nâng ly lên chào rồi uống một ngụm. Nicholas hiểu đó là nghi thức ở Cao nguyên. Anh lập tức ợ một tiếng. MacBain gật đầu hài lòng.

“Tôi cho rằng điều này có nghĩa là cậu sẽ quay lại đây bất cứ lúc nào tâm trạng xấu?”

Nicholas cười lớn. Giọng MacBain nghe đầy tuyệt vọng với khả năng đó.

“Tôi sẽ cần đem theo vài cái áo choàng”, rồi anh mở miệng. “Cậu không muốn có bất kỳ chuyện gì xảy đến với cô dâu của mình, đúng không?”

“Tôi sẽ đưa cậu nhiều hơn, Nicholas. Tôi muốn có ít nhất ba mươi người hộ tống. Mỗi người cần mặc màu áo của tôi để bảo vệ. Họ sẽ phải rút lui khi cậu đến Rush Creek. Chỉ có cậu và em gái được phép đặt chân lên đất của chúng tôi. Cậu hiểu không?”

“Tôi chỉ đùa chuyện mấy cái áo choàng thôi, lãnh chúa. Tôi có thể chăm sóc em gái mình.”

“Cậu sẽ làm theo yêu cầu của tôi”, MacBain ra lệnh.

Nicholas nhượng bộ. Rồi vị lãnh chúa thay đổi đề tài. “Johanna kết hôn bao lâu rồi?”

“Hơn ba năm một chút. Johanna muốn tiếp tục ở góa. Nhưng cảm nhận của em gái tôi chẳng phải là mối bận tâm của Đức vua. Ông ta giam lỏng con bé ở Luân Đôn. Tôi chỉ được phép đến thăm một lúc ngắn ngủi, và ông ta có mặt suốt buổi trò chuyện. Như lúc đầu tôi nói, em gái tôi là vấn đề dang dở mà ông ta muốn giải quyết, MacBain.”

MacBain nhíu mày. Nicholas đột nhiên mỉm cười. “Làm thế nào mà cậu lại là người chịu trách nhiệm cho lời cầu nguyện của vua John nhỉ?”

Vị lãnh chúa chẳng thích thú gì. “Tôi có được đất. Đó là tất cả.”

Sự chú ý của Nicholas hướng đến con chó săn sói khổng lồ của MacBain đang nhảy cẫng qua lối vào. Con quái vật có vẻ hung tợn trong bộ lông lốm đốm và đôi mắt sẫm màu. Nicholas nghĩ nó nặng gần bằng anh. Con chó phát hiện ra Nicholas khi nó lượn qua góc nhà và bước xuống bậc tam cấp. Nó bật ra tiếng gầm gừ đe dọa làm Nicholas sởn tóc gáy.

MacBain cáu kỉnh ra lệnh cho nó bằng tiếng Gaelic. Con thú cưng quái dị của hắn lập tức chạy đến bên.

“Một lời khuyên đây, MacBain. Giấu con vật xấu xí này đi khi tôi đưa Johanna đến đây. Con bé sẽ liếc nhìn cả hai một cái, vòng sang phải và quay lại Anh.”

MacBain bật cười. “Nghe kỹ này, Nicholas. Tôi sẽ không bị từ chối đâu. Cô ấy sẽ lấy tôi.”


Giang Vi

Tôi là một người yêu sách cuồng nhiệt và đã hơn 20 năm. Tôi dành cả ngày để đọc, viết blog về sách và viết bình luận. Tôi tin rằng sách là công cụ mạnh mẽ nhất trong cuộc sống để mở mang đầu óc cho những ý tưởng và quan điểm mới. Các thể loại yêu thích của tôi bao gồm tiểu thuyết lịch sử, giả tưởng, khoa học viễn tưởng và phi hư cấu. Tôi cũng thích tìm hiểu về các nền văn hóa khác nhau thông qua văn học.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts:

Back to top button