Review

Đường Xa Nắng Mới

Thể loạiSách du ký
Tác giảNguyễn Tường Bách
NXBPhương Đông
Số trang432
Năm2015
Giá bánXem giá bán

Nội dung

Đường xa nắng mới là tập bút ký mới nhất của Tiến sĩ Nguyễn Tường Bách, tập hợp những bài viết ký sự du hành của tác giả đến nhiều xứ sở lạ kỳ trên thế giới.

Bắt đầu từ câu chuyện về ngôi làng nhỏ yên bình của mình ở nước Đức; bằng lối kể chuyện đầy mê hoặc, tác giả đã dẫn dắt người đọc du hành qua nhiều vùng đất lạ mà điểm dừng chân cuối cùng là mãi tận Kailash (Ngân Sơn) – ngọn núi thiêng được sùng bái nhất trên quả địa cầu.

Hiếm khi đến những thành phố hoa lệ, hành trình của tác giả thường là những nơi “thâm sơn cùng cốc”, ví như bám theo lộ trình ngày xưa của đại sư Huyền Trang qua các sa mạc ở phía Tây Trung Quốc; tới nhiều điểm trên “con đường tơ lụa” nối liền Á – Âu; đi xuyên dãy Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ hay lang thang trên những miền đất lạnh lẽo ở Bắc Âu. Đắm mình vào trang sách, độc giả như được cùng ông cảm nhận sức nóng của “Hỏa Diệm Sơn”; lắng nghe tiếng sóng vỗ trên Hồng Hải; hồi hộp chờ ngắm núi lửa thức giấc tại Sicilia hay đón mặt trời lúc nửa đêm tại Mũi Bắc(North Cape) – Na Uy.

Không dừng lại ở những câu chuyện “đường xa xứ lạ”, sức cuốn hút mãnh liệt từ những trang viết của Nguyễn Tường Bách còn là nhiều phát hiện bất ngờ và thú vị về mỗi xứ sở, kết tủa từ trải nghiệm và tri thức. Ngôi đền Phật giáo lớn nhất thế giới mang đậm nét của Kim Cương Thừa lại nằm ở Indonesia-quốc gia có cộng đồng hồi giáo đông nhất thế giới. Cuộc chiến thành Troy lại không diễn ra trên đất Hy Lạp mà là Thổ Nhĩ Kỳ. Amsterdam là thành phố của những người không ưa khuôn phép, nơi mà người ta “sẵn sàng phá vỡ mọi lề thói, dám hợp thức hóa những điều cấm kỵ”. Nhờ vậy mà “lầu xanh, lầu hồng và cả khu vực tiêu thụ bạch phiến được ghi chính thức trên bản đồ thành phố”. Thăm Bồ Đào Nha, tác giả “chứng minh” một cách thuyết phục rằng giáo sĩ Dòng Tên người Bồ Francisco de Pina chính là người đã sáng tạo ra chữ quốc ngữ chứ không phải Alexandre de Rhodes, một nhà truyền giáo người Pháp – học trò của ông.

Đường xa nắng mới xứng đáng có vị trí trang trọng trên kệ sách của những người đam mê du lịch thám hiểm, tâm linh. Ngay cả những ai ít xê dịch nếu suy ngẫm vẫn có thể chiêm nghiệm ra những điều tâm đắc. Đơn giản, với người viết, Đường xa nắng mới là một tập bút – ký – tư – tưởng.

[taq_review]

Review

Huong Thom

Trước khi mua mình không hề biết đây là cuốn sách nặng về Phật giáo, thấy có lần nghe đâu đó rằng đây là cuốn sách hay nên mình bốc về luôn mà ko suy nghĩ nhiều. Và vì mình thuộc dạng mù tôn giáo nên khi đọc một cuốn sách của một người am hiểu và có đức tin Phật giáo thì thấy rất lạ. Nó mở ra một thế giới hoàn toàn khác. Những người từ phương xa bỗng gặp nhau thì với mình dù có thú vị nhưng cũng ko có gì đặc biệt cả, nhưng với tác giả thì hẳn phải duyên nợ ghê lắm. Mình không có thói quen cầu xin khi đến những nơi thờ phụng và thực tế chỉ nghĩ cầu nguyện dù có những tác dụng nhất định nhưng để mà đạt được những điều mình cầu xin là không có. Nhưng tác giả có niềm tin tôn giáo rất sâu sắc, tin vào một thế giới tâm linh đằng sau thế giới vật chất. Mình biết niềm tin này là có cơ sở và thực lòng hy vọng điều đó là có thật.

Vì là cuốn sách nặng về Phật giáo nên với mình khá khó đọc. Phải tra google suốt về nghĩa của thuật ngữ, khái niệm. Phần viết về những trải nghiệm về thiền thì coi như chịu, ko tài nào hiểu được. Tuy nhiên, đây chỉ là một phần. Những phần khác mình hiểu thì thấy rất sâu sắc và thú vị.

Nói chung mình nghĩ đây là một cuốn sách rất đáng đọc. Với những người am hiểu về Phật giáo thì là để đồng cảm, chia sẻ và học hỏi, còn với dạng lơ mơ như mình thì để nhìn thế giới theo một cách khác và để hiểu biết hơn.

Ha Giang

Tuy biết trước là một cuốn sách nặng về Phật giáo nhưng mình vẫn quyết định mua và thấy hoàn toàn hài lòng về nội dung. Phần đầu tác giả đề cập đến những nơi đã đi qua, những điều nhìn thấy trong mối tương quan với chuyến hành lương về núi thiêng Kailash trong phần 2, cũng là phần chính của cuốn sách. Những trải nghiệm rời rạc, thoạt nhìn không hề liên quan trong phần 1 lại chính là nền móng cho phần 2, trong một mối tương quan rất chặt chẽ mà phải đọc đến hết cuốn sách mình mới nghiệm ra được.

Cuốn sách thực sự khó đọc đối với một người không hề am hiểu tí gì về Phật giáo. Nhưng vừa đọc vừa Wikipedia thì thực sự là mình vỡ ra được nhiều điều mà trước giờ mình không biết hoặc hiểu sai.

Viet Phuong

Sau khi được cuốn Lưới trời ai dệt trình bày, giải thích và so sánh những suy tư của khoa học và phật giáo về những vấn đề đi vào bản chất của thế giới, vũ trụ một cách quá tuyệt vời thì mình quyết định mua quyển sách mới nhất này của tác giả để đọc. Sau khi đọc xong hơn 400 trang sách thì mình thấy mình như thở phào vì vừa trải qua cả 1 chuyến phiêu lưu hành trình vất vả cùng tác giả từ đất nước Nepal (bối cảnh của phim Doctor Strange) tới Tây Tạng (bối cảnh của phim Họa Bì 2) với hy vọng lên được núi Ngân Sơn nhưng không thành.

Theo mình, phần 1 dễ đọc và thú vị hơn vì những trải nghiệm du lịch qua con mắt của tác giả là một người rất uyên bác, chín chắn, khách quan và đậm chất suy tư, đã liên hệ những biến cố lịch sử thế giới với lịch sử đất nước cùng những so sánh khơi gợi rất nhiều suy nghĩ về tương lai của đất nước và con người Việt. Tất cả những suy tưởng, câu chuyện lịch sử ấy được kể từ góc nhìn của lịch sử Phật giáo và tôn giáo nên gần gũi và dễ nắm bắt hơn là các bài học lịch sử. Với những ai đam mê văn chương và ôm mộng viết nên những kịch bản hay tác phẩm để đời có tầm ảnh hưởng cho hậu thế và nhân loại rất nên đọc phần 1 này vì nó khơi gợi rất nhiều ý tưởng hay. Tuy nhiên, việc thi thoảng xen kẽ các trích giảng phật giáo có thể khiến cho người đọc ban đầu cảm thấy lạ lẫm và bối rối.

Phần 2 về cơ bản là kể lại chuyến hành trình vất vả lên Ngân Sơn để được khai sáng. Phần này cho chúng ta có được trải nghiệm và kinh nghiệm đi Tây Tạng cùng phần nào kiến thức và khơi gợi về Phật giáo. Cá nhân mình đọc phần này có phần không vài lòng ở 2 điểm. 1. Những trải nghiệm tâm linh và giác ngộ chưa thật sự thỏa mãn. Ngoài những miêu tả về trải nghiệm của tác giả thì những trải nghiệm và giác ngộ của những người đi cùng thì theo lời tác giả là tác giả bị yêu cầu phải giữ bí mật. 2. Khi đọc, đôi khi mình vẫn không tránh khỏi cảm giác rằng tác giả đang để cho cái đức tin phật giáo của mình dẫn dắt và hợp lý hóa mọi sự kiện trên cuộc hành trình dù có khi tự thân các sự kiện ấy chỉ đơn giản là chính nó chứ không có một sự sắp đặt siêu hình nào ở phía sau. Hay là do bản thân người đọc còn kém cỏi?

Tổng kết lại, đây vẫn là một cuốn sách hay đáng đọc lại nhiều lần nếu bạn cũng như mình, là một người quan tâm đến Phật giáo, đang tìm lại sự kết nối quá khứ của bản thân và ý nghĩa cho cuộc sống và sự tồn tại của bản thân. Mình đã gửi tặng quyển sách này vào thư viện khoa học tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh với hy vọng là giúp nhiều người biết đến quyển sách này hơn.

Trích đoạn

HỎA DIỆM SƠN

Khác với đa số các vùng dân cư khác ở Trung Quốc, tỉnh Tân Cương là một vùng đất rộng người thưa. Nằm phía Đông Bắc Trung Quốc, Tân Cương có diện tích khoảng 1,6 triệu ki-lô-mét vuông, rộng gần gấp năm lần nước Việt Nam. Trong một vùng đất mênh mông như thế chỉ có 18 triệu dân, trong đó người Hán không đến quá nửa. Phần còn lại là người của các dân tộc Uyghur, Kazak mà giọng nói và nước da của họ làm khách liên tưởng đến người Nga hay Thổ Nhĩ Kỳ. Mà quả thật, Tân Cương thực ra nằm trong vùng địa lý và văn hóa các nước Trung Á. Địa thế hiểm trở và khí hậu khắc nghiệt của vùng này hầu như chỉ thích hợp cho dân sống trên lưng ngựa như người Mông Cổ. Urumqi, thủ phủ của tỉnh Tân Cương, đô thành ở cực Tây của Trung Quốc, chiếm một kỷ lục buồn: Không đâu trên thế giới có nơi nằm xa bờ biển như thành phố này. Qua đó ta có thể biết khí hậu của Tân Cương là khí hậu đặc trưng của lục địa, mùa đông nhiệt độ có thể xuống đến -20°C.

Thế nhưng nơi nóng nhất của Trung Quốc không hề nằm tại miền Nam như Vân Nam hay Quảng Tây mà lại ngay tại Tân Cương. Rời Urumqi đi xe lửa về phía Đông chưa đầy 200km, khách sẽ đến một địa danh tên gọi là Turpan mà có người dịch âm là “Thổ-lổ-phàn”. Đến gần Turpan khách sẽ bắt đầu cảm thấy một hơi nóng khủng khiếp. Xa xa sẽ hiện ra một ngọn núi màu đỏ hồng được mệnh danh là Hỏa Diệm Sơn mà hướng dẫn viên nói tiếng Anh gọi là “Flaming Mountain”. Khi xe chạy đến gần, khách mới biết đây không phải chỉ là một ngọn núi mà cả một dãy núi với chiều dài khoảng 100km, chiều rộng 9km và điểm cao nhất đo được 831m so với mặt nước biển. Đứng bên chân Hỏa Diệm Sơn, khách biết mình đang đến chỗ được xem là điểm nóng nhất Trung Quốc. Thật vậy, Tân Cương vào ngày hôm đó nóng chừng 27°C thì tại Hỏa Diệm Sơn, nhiệt kế chỉ 42°C.

Tại sao trời sinh hòn núi màu đỏ quái dị với sức nóng lạ thường này? Điều này chỉ có Tôn Hành Giả mới trả lời được. Bên sườn núi sắc hồng của Hỏa Diệm Sơn, khách nghe lại hồi thứ 59-60 của Tây Du Ký. Không phải chỉ khách thôi mà bản thân Tôn Hành Giả cũng phải nghe lại mới nhớ. Thực ra Lão Tôn cũng đã quên tội lỗi tày trời của mình. Lúc tra hỏi vị Thổ Địa vùng này, Tôn Hành Giả mới được nhắc nhở “Nguyên thuở xưa không có hòn núi nầy, từ khi Ðại Thánh bị Lão Quân bỏ vào lò bát quái mà đốt, Ðại Thánh nhảy ra đá lò đổ than và rớt ít tấm gạch xuống đất, mới hóa ra núi nầy”. Té ra hòn núi này là gạch xây lò từ Thiên đình rơi xuống. Vị Thổ Địa này cũng khổ sở than thở: “Còn tôi là đạo sĩ giữ lò bát quái, bị Lão Quân bắt tội không trông coi cho kỹ nên đày xuống làm Thổ Ðịa Hỏa Diệm Sơn”. “Tấm gạch” nhỏ bé của Thái Thượng Lão Quân rớt xuống trần liền biến thành một dãy núi lửa dài “tám trăm dặm, lửa bốc cao ngàn trượng”, theo Ngô Thừa Ân, tác giả của Tây Du Ký. Dãy núi lửa này cản đường đi thỉnh kinh của thầy trò Tam Tạng. Muốn qua khỏi núi, Tôn Hành Giả phải mượn cho được chiếc quạt Ba Tiêu của Thiết Phiến công chúa vì chỉ cái quạt thần này mới quạt tắt được núi lửa. Nàng công chúa này không phải là chỗ hoàn toàn xa lạ. Nàng là vợ chính của Ngưu Ma Vương mà ông tướng hình con trâu này chính là người anh kết nghĩa của Lão Tôn “năm trăm năm trước”.

Tôn Hành Giả tìm gặp Thiết Phiến công chúa, gọi nàng là “tẩu tẩu” cho thân mật để dễ bề xin mượn chiếc quạt. Nào ngờ Thiết Phiến nhất định cự tuyệt. Sau khi bị Tôn Hành Giả dùng kế trấn áp, nàng đành cho mượn chiếc quạt, nhưng đó chỉ là chiếc quạt giả. Với chiếc quạt giả, Tôn Hành Giả càng quạt, lửa càng bốc cao. Muốn lấy quạt thật, Tôn Hành Giả phải tìm đến động của Ngưu Ma Vương. Tây Du Ký nói rõ là lúc Tôn Hành Giả đến, Ngưu Ma Vương đang “nằm đọc sách trong phòng”. Hai bên không chịu nhường nhịn, đánh nhau bất phân thắng bại. Cuối cùng nhờ lực lượng cứu viện của Bồ tát mà Ngưu Ma Vương mới chịu thua và bảo vợ cho mượn quạt Ba Tiêu. Trong cuộc chiến, Ngưu Ma Vương bị cắt đầu cả chục lần nhưng vẫn mọc lại đầu mới. Cuối cùng, lúc bị Na Tra xỏ mũi, Ngưu Ma Vương mà tướng tinh là con trâu trắng mới thuần phục.

Khách ngẩn ngơ nhìn quanh và trở về với nhân thế. Hỏa Diệm Sơn là một ngọn núi chứa đầy sa thạch đỏ nên mang sắc hồng nhạt. Nhưng sa thạch không phải là nguyên nhân của sức nóng. Cái nóng khác thường tại rặng núi kỳ dị này là do nó nằm ngay tại Turpan mà Turpan là một vùng trũng, một lòng chảo khổng lồ. Nằm ở miền Nam rặng núi Thiên Sơn quanh năm phủ tuyết, Turpan có một diện tích khoảng 70.000km2, trong đó khoảng 4.000km2 với ngọn Hỏa Diệm Sơn nằm thấp hơn mực nước biển. Điểm thấp nhất của Turpan nằm khoảng 154m dưới mặt biển, nơi đó có một cái hồ tên gọi là Aydingkol. Đó là hồ đứng hạng nhì trên thế giới về mực nước thấp, chỉ thua Dead Sea (Biển Chết) tại Jordan với mức nước 391m thấp so với biển. Lòng chảo Turpan hút hơi nóng như một chiếc thấu kính khổng lồ nên nhiệt độ có lúc lên đến 50°C, là nơi nóng nhất Trung Quốc. Cát đá sa mạc tại vùng Turpan có khi nóng trên 80°C, có thể làm chín trứng gà. Nhưng tại sao đây lại là lòng chảo, hay chính vì gạch của Lão Quân rơi xuống làm lõm đất? Khách nhớ tới Trang Tử, không biết mình là ai, không biết Hỏa Diệm Sơn là mộng hay thực.

Khách giật mình nhớ lại mình đang sống trong thế kỷ XXI. Cách đây 13 thế kỷ, Sầm Than (715–770), một nhà thơ đời Đường sống tại miền biên giới xa xôi, viết như sau về ngọn Hỏa Diệm Sơn mà ông đặt tựa đề bài thơ là Kinh hỏa sơn:

Xích diễm thiêu lỗ vân,

Viêm khí chưng tái không.

Bất tri âm dương thán,

Hà độc nhiên kỳ trung?

Lửa đỏ thiêu tầng mây,

Khí nóng hun biên tây.

Than âm dương nào biết,

Sao chỉ đốt nơi này?[1]

Sầm Than tự hỏi “Than âm dương nào biết?” và người trả lời chính là Ngô Thừa Ân (1506–1582), kẻ sống sau nhà thơ khoảng chừng tám trăm năm. Hẳn Ngô Thừa Ân đã lấy cảm hứng từ ý tưởng “than âm dương” của Sầm Than để sáng tạo ra lò bát quái của Lão Quân và để cho kẻ đạp đổ lò, làm văng than củi lẫn gạch xây lò không thể là ai khác ngoài Tôn Hành Giả.

Tây Du Ký là kiệt tác cổ điển của văn học Trung Hoa, được người đời yêu mến từ hàng trăm năm nay. Ngày nay tại Trung Quốc, hình ảnh Tam Tạng đi Tây Trúc thỉnh kinh vẫn phổ biến, nhất là trong các tỉnh phía Tây, nơi Huyền Trang đã hơn một lần dừng chân. Tại Lan Châu, bên bờ sông Hoàng Hà, tại một nơi mà có lẽ ngày xưa Huyền Trang đã băng qua một bến đò để đi về hành lang Hà Tây, du khách sẽ tìm thấy một đoàn người ngựa bằng đất, diễn tả những khuôn mặt hết sức khác nhau của Tam Tạng và các vị đệ tử. Lòng nhân hậu, óc mưu trí, tính lười biếng, chí xả thân và bản năng sinh tồn, vốn là những cơ sở trong cấu trúc của tâm lý con người, được thể hiện thành những nhân vật riêng biệt.

Tại chân Hỏa Diệm Sơn, khách lại nhìn ngắm những tượng hình hết sức sinh động của Tôn Hành Giả, Ngưu Ma Vương, Thiết Phiến công chúa… để nhớ rằng phép nhân cách hóa là một trong những nét cơ bản nhất của tôn giáo và triết học Trung Quốc, thậm chí của cả loài người. Cũng như thần thoại Hy Lạp, toàn bộ quan niệm Ngọc Hoàng, Vương Mẫu, Thiên đình, Địa phủ của thần thoại Trung Hoa được xây dựng trên cách tổ chức của xã hội con người. Sự vận động nội tại của vũ trụ được biểu tượng hóa bằng một hệ thống có vua có quan, có thưởng có phạt. Trong khuynh hướng nhân cách hóa đó, tác giả tài tình nhất của văn học Trung Quốc hẳn là Ngô Thừa Ân với những nhân vật của ông. Phần lớn độc giả đều biết Tôn Hành Giả là biểu tượng phần ý thức của con người, nhân vật này chính là hiện thân của óc khôn ngoan mưu trí, của sự chuyển biến đầy nhạy cảm của tư duy. Vì thế Ngô Thừa Ân chọn dạng khỉ cho Tôn Hành Giả là vô cùng khéo léo, đúng như tính chất “vượn chuyền cành” của ý thức. Nhưng ít ai biết một mặt khác của ý thức, nó còn có dạng chậm chạp của trâu, là “anh kết nghĩa” của khỉ, với dạng xuất hiện là Ngưu Ma Vương “nằm đọc sách”. Sách vở có thể mang lại tri kiến nhưng cũng là nguồn gốc của sự bảo thủ. Một khi ý thức trở thành cố chấp thì sức trì trệ của con trâu lầm lì đó có thể “phá nương rẫy của người” như các bức tranh Thập mục ngưu đồ đã cho thấy.

Chỉ khi nào Tôn Hành Giả trở thành kẻ Ngộ được tính Không như danh tính Đường Tam Tạng đặt cho, khi Ngưu Ma Vương không mọc những cái đầu của cố chấp nữa, được Na Tra dùng chính niệm hướng dẫn, lúc đó thì lửa phiền não mới tắt. Sau khi lửa tắt, Tôn Ngộ Không quạt cây quạt Ba Tiêu 49 cái thì “mưa rơi xuống núi dầm dề”.

Ngày khách đến, Hỏa Diệm Sơn không đến nỗi “lửa cao ngàn trượng” nhưng cũng vẫn là một trong những nơi nóng nhất trên mặt đất, xung quanh đầy cát đá sa mạc. Tâm và cảnh chỉ là một. Khách biết rằng mình chỉ là một con người bình thường, biết còn lâu mới có được trạng thái “thanh lương” của mưa núi dầm dề, biết lòng mình còn pha sắc đỏ của hồng sơn sa thạch.

Giang Vi

Tôi là một người yêu sách cuồng nhiệt và đã hơn 20 năm. Tôi dành cả ngày để đọc, viết blog về sách và viết bình luận. Tôi tin rằng sách là công cụ mạnh mẽ nhất trong cuộc sống để mở mang đầu óc cho những ý tưởng và quan điểm mới. Các thể loại yêu thích của tôi bao gồm tiểu thuyết lịch sử, giả tưởng, khoa học viễn tưởng và phi hư cấu. Tôi cũng thích tìm hiểu về các nền văn hóa khác nhau thông qua văn học.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts:

Back to top button