Tiểu thuyết - ngôn tình

Hậu Cung Chân Hoàn Truyện Tập 4

1. THÔNG TIN SÁCH/EBOOK 

Tác giả : Lưu Liễm Tử

Download sách Hậu Cung Chân Hoàn Truyện Tập 4 ebook PDF/PRC/MOBI/EPUB. Tải miễn phí, đọc online trên điện thoại, máy tính, máy tính bảng.

Danh mục : TIỂU THUYẾT

Đọc thử Xem giá bán

2. DOWNLOAD

Định dạng ebook                  

File ebook hiện chưa có hoặc gặp vấn đề bản quyền, Downloadsach sẽ cập nhật link tải ngay khi tìm kiếm được trên Internet.

Bạn có thể Đọc thử hoặc Xem giá bán.

Bạn không tải được sách ? Xem hướng dẫn nhé : Hướng dẫn tải sách


3. GIỚI THIỆU / REVIEW SÁCH

Lời giới thiệu


Giới thiệu cuốn sách Hậu Cung Chân Hoàn Truyện của tác giả Lưu Liễm Tử:

Nội dung Hậu cung Chân Hoàn truyện xoay quanh nhân vật chính là Chân Hoàn. Khi 17 tuổi nàng đã lọt vào mắt xanh của Ung Chính và trở thành phi tần chốn hậu cung. Lúc này, hai vị cung phi đứng đầu là Hoa Phi (Niên Phi) em gái của Niên Canh Nghiêu quyền cao chức trọng và Hoàng hậu với thế lực từ gia tộc Hoàng thái hậu đang đấu tranh gay gắt trong cuộc chiến giành quyền lực. Chân Hoàn đã khéo léo hành xử, nhẫn nhục chịu đựng nhưng vẫn bị cuốn vào cuộc tranh đoạt tàn khốc và thậm chí lâm vào tình cảnh ngàn cân treo sợi tóc. Để bảo vệ tính mạng của mình, Chân Hoàn đành phải thay đổi bản thân, ra mặt tranh đấu. Với sự thông minh tài trí của mình cô đã chiến thắng cả hai thế lực trên và khẳng định vị trí của mình ở hậu cung. Sau khi Càn Long lên ngôi, cô đã trở thành vị Thái hậu khuynh đảo triều chính một thời. Tuy nhiên, để có được vị trí và quyền lực tối thượng cô đã phải đánh đổi rất nhiều thứ: bản thân, bạn bè, người thân và cả tình yêu của mình.

Đề tài về sự tranh đấu chốn hậu cung Trung Hoa không còn là mới nhưng Hậu Cung Chân Hoàn Truyện với giá trị nội dung lẫn giá trị nghệ thuật sâu sắc vẫn chinh phục được độc giả, được đánh giá là “tác phẩm đỉnh cao của tiểu thuyết mang đề tài hậu cung”. Với kiến sức sâu rộng về văn chương, thơ ca, lịch sử cùng tài năng miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật linh hoạt, Lưu Liễm Tử đã vẽ nên bức tranh hậu cung sống động đầy màu sắc đẹp mĩ lệ nhưng cũng rất đỗi thê lương.

Những ai đã say mê thể loại tiểu thuyết tình cảm lãng mạn thì chắc hẳn không thể bỏ qua Hậu Cung Chân Hoàn Truyện của tác giả Lưu Liễm Tử. Hãy đọc để có cái nhìn sâu sắc hơn về tác phẩm.

ĐỌC THỬ

Chương 1CAM LỘ MẠC SẦU

Khi chúng tôi tới chùa Cam Lộ thì trời đã về chiều, ngôi chùa tọa lạc nơi ngoại ô kinh thành này là đệ nhất Phật tự của Đại Chu, được xây dựng trên một đỉnh núi rộng và thoáng đãng, bên trong là điện đường hùng vĩ, uy nghi, mái cong cao vút, nhìn rất có khí thế.

Vừa xuống xe ngựa, một làn gió núi lập tức thổi tới khiến toàn thân tôi lạnh toát. Hoán Bích và Cận Tịch vội vàng thu dọn hành lý rồi cùng nhảy xuống xe, mỗi người đứng một bên đỡ lấy tôi. Cận Tịch thấp giọng nói: “Gió núi trong độ tháng Mười này đã lạnh lắm rồi, nương tử vừa mới sinh nở, đừng để bị cảm lạnh.”

Sau khi rời cung, nàng ta không gọi tôi là “nương nương” nữa, sợ tôi thương tâm phiền não, vả lại thân phận của tôi bây giờ quả thực không rõ ràng, do đó đành tạm gọi là “nương tử”. Trong lúc trò chuyện, nàng ta đã khoác lên người tôi một chiếc áo choàng dài.

Vầng tà dương sắp lặn treo trên vách núi dựng đứng phía đối diện đỏ rực tựa màu máu, khiến nửa bầu trời nhìn như bị lửa thiêu, làm cho người ta cảm thấy bức bối, khó chịu vô cùng. Ánh hoàng hôn mờ mịt hệt như một làn sương mù dần lan tỏa, những ngọn núi xung quanh đều trở nên nặng nề, từ trong ngôi chùa cổ bị che khuất bởi những gốc tùng lớn có tiếng chuông thong thả vang xa, kèm với đó là mây khói lượn lờ, khiến trái tim vốn phập phù của người ta dần trở nên an định.

Tôi bình tĩnh nói: “Trống chiều chuông sớm, đó chính là cuộc sống của chúng ta sau này.”

Chúng tôi còn đang nhìn ngó, hai tiểu ni cô trẻ tuổi bước ra, sau khi quan sát chúng tôi một lát bèn hỏi: “Mấy vị có phải vừa từ hoàng cung đến không? Sư phụ trụ trì dặn bọn ta tới đây đưa mấy vị vào chùa.”

Tôi hơi khom người hành lễ, sau đó liền cùng Hoán Bích và Cận Tịch đi theo sau bọn họ. Đi qua điện chính và điện bên của chùa Cam Lộ, lại đi thêm một hồi lâu nữa, chúng tôi mới nhìn thấy mấy gian nhà trệt thấp bé. Bọn họ dẫn chúng tôi vào, nói: “Đây là nơi ở của mấy vị sau này, mấy vị có thể cất đồ vào bên trong.”

Mấy gian nhà này tuy nhỏ nhưng có vẻ rất sạch sẽ, ngăn nắp, bên trong kê một chiếc giường lớn, một chiếc bàn, mấy chiếc ghế, nơi góc tường còn có một vại nước, hết sức đơn sơ.

Hai tiểu ni cô lại nói: “Mời các vị theo bọn ta tới đại điện, sư phụ trụ trì và mọi người đều đã đợi ở đó rồi!”

Hoán Bích khom người, cười, nói: “Đã làm phiền rồi!”

Trong đại điện thắp đèn sáng trưng, nghi ngút khói hương, mùi dầu thơm tỏa ra rất nồng. Tôi vừa sinh nở được vài ngày, ngửi thấy thứ mùi này thì hơi khó chịu, bất giác khẽ ho hai tiếng. Trong điện tuy có nhiều người nhưng lại rất tĩnh lặng. Nghe thấy hai tiếng ho kia của tôi, tất cả đồng loạt ngoảnh đầu nhìn qua. Người đứng đầu là một ni cô dáng vẻ hiền hòa, thân thiện, bà ta chậm rãi cất tiếng: “Ngươi tới rồi!”

Tôi cảm thấy hơi xấu hổ, vội rảo bước đi lên phía trước. Bà ta chỉ vào một chiếc bồ đoàn ở phía dưới, tôi hiểu ý, liền quỳ xuống đó, Hoán Bích và Cận Tịch cũng vội vàng quỳ xuống theo.

Chỉ nghe bà ta ôn tồn nói: “Trong cung đã ban ý chỉ, vị quý nhân này sẽ để tóc tu hành. Có điều, đã vào cửa Phật rồi, nhất định phải tuân thủ giới luật.” Thế rồi bà ta liền giảng giải về thanh quy giới luật, sau đó mới nói: “Bần ni pháp hiệu Tĩnh Ngạn, là trụ trì của chùa này. Ngươi đã vào chùa rồi, tất nhiên phải xa cách hồng trần, cũng không còn là quý nhân trong cung nữa, không thể dùng lối xưng hô cũ được, bần ni sẽ đặt một pháp hiệu cho ngươi.” Dừng một chút, bà ta nói tiếp: “Các đệ tử của bần ni pháp hiệu đều dùng chữ “Mạc” làm đầu.” Bà ta khẽ buông tiếng thở dài. “Trông ngươi giữa nơi ấn đường thấp thoáng nét sầu, vậy hãy đặt hiệu là “Mạc Sầu” đi.”

Mạc Sầu, nghe chẳng giống pháp hiệu của một tỷ khâu ni1 gì cả, nhưng tôi không tiện dị nghị, chỉ đành vâng lời, trong lòng bất giác dâng trào cảm giác buồn bã.

Còn nhớ hồi nhỏ tôi cùng ca ca ngồi học trong thư phòng, mùa hè trời nóng nực khiến người ta mơ màng buồn ngủ, đã thế phu tử còn toàn giảng về Tứ thư, Ngũ kinh buồn chán chết người, nói cái gì mà “Kinh thi ba trăm bài, đọc rồi không suy nghĩ bừa bãi… Quan quan thư cưu, tại hà chi châu, ấy là nói về cái đức của người làm phi tần, tiểu thư là thiên kim khuê các, không thể không ghi nhớ kĩ …”

Tôi miệng cứ “ưm ưm a a” ngoan ngoãn đáp lời, nhưng nhìn bộ râu dài không ngừng đung đưa của phu tử, cặp mắt tôi chừng như khép lại đến nơi.

Dưới giàn nho mùa hè, vầng dương rực rỡ như ánh lên một màu trắng toát, chúng len qua kẽ lá chiếu xuống vô số đốm nhỏ, tạo thành những bóng trắng hoặc tròn hoặc không tròn trên mặt đất, tựa như những bông tuyết còn chưa tan.

Mùa hạ thật dài, tưởng chừng không thể nào hết được. Lũ ve sầu không ngừng kêu vang, tiếng sau dài hơn tiếng trước, như thể muốn so kè với ánh nắng ban ngày xem thứ nào khiến người ta chán ghét hơn. Ngủ trưa dậy, đầu óc tôi đã tỉnh táo nhưng lại không muốn mở mắt. Ngoài cửa sổ có tiếng cười khúc khích của con gái, tôi đoán hẳn là Lưu Chu và Hoán Bích đang chơi chọi cỏ, nếu không thì cũng là Phân Nhi đang làm nũng nhờ mấy gã người hầu bắt dế giúp cho.

Ca ca không biết đã vào từ bao giờ, mỉm cười, cầm một cuốn sách gõ nhẹ vào đầu tôi. “Còn giả vờ ngủ nữa, nhìn xem ta mang thứ hay ho gì đến cho muội này.” Thứ hay ho cái gì chứ, chẳng qua chỉ là một tập thơ từ của thời Nam Bắc triều. Ca ca cười, nói: “Phu tử giảng bài khô khốc như vậy, đừng nói là một đứa con gái như muội, đến ta cũng thấy buồn ngủ. Tập thơ từ cung đình này ta khó khăn lắm mới tìm được, muội giữ lấy mà xem… Có điều, nhớ đừng để mẹ biết, kẻo lại bị mắng cho một trận.”

Thế là tôi bèn giấu nó đi như giấu báu vật, vì đề phòng bị mẹ phát hiện, trước lúc ngủ mới lén mở ra xem một, hai bài, đọc nửa hiểu nửa không nhưng lòng vẫn say mê, nơi khóe miệng như thoang thoảng hương thơm, ngày đêm lẩm bẩm. Sáng sớm ngủ dậy, Lưu Chu trêu tôi: “Tiểu thư đọc sách đến si mê rồi, đêm qua ngủ mơ còn nói cái gì mà “đất Lạc Dương cô gái Mạc Sầu”. Mạc Sầu? Tiểu thư biết một vị tiểu thư có tên như vậy ở Lạc Dương sao?”

Lưu Chu, Lưu Chu, từng lời nói, tiếng cười ngày đó dường như vẫn văng vẳng bên tai, cứ nghĩ tới là lòng tôi lại đau nhói.

Phải rồi, “đất Lạc Dương cô gái Mạc Sầu” là lời trong bài Mạc Sầu ca2 , ngày xưa tôi từng thích nhất bài thơ này.

Khó khăn lắm mới chờ được My Trang tới chơi, tôi vội kéo tỷ ấy lại, chậm rãi đọc từng câu cho tỷ ấy nghe, bộ dạng như vừa có được một món bảo bối. “Nước Hoàng Hà về đông chảy mãi, đất Lạc Dương cô gái Mạc Sầu, mười ba biết dệt lụa màu, năm lên mười bốn hái dâu ngoài đồng, mười lăm tuổi lấy chồng Lư thị, mười sáu sinh con quý A Hầu. Lư gia lan quế đẹp sao! Uất kim, tô hợp ngạt ngào mùi hương. Mười hai hàng trâm vàng cài tóc, hài tơ thêu ngũ sắc chân mang. San hô rực rỡ bóng gương, nô tỳ đứng cạnh nhắc rương đựng giày. Giàu sang kể có ai bì được, đời người còn nguyện ước gì sao? Hờn kia ôm tự thuở nào, nhà bên đông chẳng gả vào Vương gia3 .”

My Trang đã đọc hai cuốn Nữ tắc và Nữ huấn đến thuộc làu nhưng lại không chú tâm lắm tới mặt thơ từ. Vào những lúc thế này, tỷ ấy thường ngồi dưới cửa sổ, tập trung vào việc thêu những bức hình đẹp đẽ, lúc thì là “Ngũ phúc phủng thọ”, lúc lại là “Ngọc đường như ý”, những cuộn chỉ màu rực rỡ xung quanh như càng tôn lên dáng vẻ đoan trang, điềm đạm của tỷ ấy. Năm đó, tỷ ấy mới mười hai tuổi nhưng đã có được khí độ trầm tĩnh mà một tiểu thư khuê tú nên có rồi. Tôi thì được cha nuông chiều quá, thành ra tính cách có phần bướng bỉnh.

Tỷ ấy lẳng lặng nghe xong, khẽ mỉm cười với tôi, nụ cười ấy hệt như một bông sen trắng thuần khiết đột nhiên nở rộ giữa đầm nước xanh biếc, vầng hào quang mà bông sen ấy tỏa ra không khác gì ánh ngọc, vượt hẳn lên sóng nước rì rào, rực rỡ không gì so được.

Tỷ ấy buông kim chỉ xuống, cẩn thận rửa tay, nói: “Ta nghe không hiểu lắm, chỉ cảm thấy số của Mạc Sầu đúng là tốt thật. Bản thân đa tài đa nghệ, chồng là quý tử nhà giàu, mười sáu tuổi đã sinh được con trai, tất nhiên có được địa vị vững chắc ở nhà chồng, ra vào đều có kẻ hầu người hạ, phú quý phi phàm.” Thoáng dừng lại, tỷ ấy mỉm cười, nói tiếp: “Có được tao ngộ như vậy, ấy chính là kết quả tốt nhất đối với một nữ tử trên thế gian này rồi. Hoàn Nhi, nếu sau này muội và ta được như Mạc Sầu, thực cũng không mong gì hơn nữa.”

Phải rồi, tất cả những sự trông mong trong khuê các của chúng tôi lúc đó chẳng qua là có được một tình lang như ý, được sống một cuộc đời bình an, sung túc mà thôi.

Thế nhưng My Trang chợt cau đôi mày thanh tú. “Có điều, ta thực không hiểu nổi, cuộc sống của Mạc Sầu tốt đến thế, cô ấy còn điều gì không thỏa mãn nữa? “Hờn kia ôm tự thuở nào, nhà bên đông chẳng gả vào Vương gia”, cô ấy thực không nên than thở như vậy!”

Mạc Sầu, Mạc Sầu, tôi cười, nói: “Mạc Sầu được gả vào nơi phú quý nhưng cả bài thơ lại chẳng hề nói phu quân của cô ấy anh tuấn, bất phàm thế nào, yêu cô ấy, kính cô ấy ra sao. Nếu gặp phải một phu quân tồi tệ, chẳng hề yêu thương mình, dù có được sống trong nhung lụa thì cũng chỉ là một nữ tử cô đơn giữa chốn hào môn mà thôi. Khi ấy dù sinh được con trai, có được địa vị chính thất thì cũng có gì đáng để vui mừng chứ?”

My Trang khẽ buông tiếng thở dài. “Nói vậy cũng phải, kẻ phú quý cũng có sự khó xử của kẻ phú quý, tóm lại, mỗi người trên đời này đều có nỗi khổ riêng.”

Tôi học theo lời hát kịch, cất tiếng ngâm nga: “Than nhân gian chuyện chẳng bao giờ toàn vẹn, nay mới tin, dù vợ chồng ân ái, lòng tất vẫn còn nỗi bất bình.”

My Trang “úi chà” một tiếng, đứng dậy làm bộ định đánh tôi. “Con gái con lứa, vừa đọc một bài thơ linh tinh rồi, bây giờ lại hát thứ lời kịch chẳng đâu vào đâu này, chẳng có chút dáng vẻ của một thiên kim khuê các, còn ra thể thống gì nữa?”

Tôi vội xoay người, nấp sau bức bình phong, cười nói: “My tỷ tỷ tha cho muội lần này đi, muội chẳng qua chỉ nhất thời ham chơi mà thôi!” Tôi cười đến rát cả cổ họng, không ngớt phân bua: “Muội không có ý dùng lời này để chế nhạo tỷ tỷ đâu.”

My Trang chỉnh lại quần áo, ngạo nghễ nói: “Đương nhiên rồi, phu quân của Thẩm My Trang ta nhất định phải là người xuất chúng, bọn ta nhất định sẽ sống bên nhau đến lúc đầu bạc răng long.” Dứt lời, ngay đến khóe mắt của tỷ ấy cũng bất giác đỏ lựng.

My Trang của ngày đó thực kiêu ngạo biết mấy, tự tin biết mấy, hừng hực khí thế biết mấy, trong mắt là những tia sáng rạng ngời, tựa như một gốc linh chi siêu phàm thoát tục, thực khác hẳn với vị Thẩm Tiệp dư lánh đời trong Tồn Cúc đường bây giờ.

Tôi thầm ngơ ngẩn, bỗng nhớ tới ngày mình rời cung, My Trang đứng phía trong bức tường đỏ rực, dõi mắt nhìn theo tôi tới tận cuối con đường. Sự âu lo và dặn dò khi đó lại hiện lên trong lòng tôi nhưng chỉ còn là một bóng dáng thê lương đứng lẻ loi, cô độc bên dưới chiếc ô của Ôn Thực Sơ.

Trong những tháng ngày chìm nổi ở chốn hậu cung, bị những cuộc phân tranh không ngừng bám lấy, My Trang nào có từng thật lòng vui vẻ bao giờ.

Rồi tôi lại nhớ đến quãng thời gian khi mình vừa đắc sủng, nữ tỳ đỡ nhẹ thân ngà, buổi đầu mưa móc mặn mà vua ban4 .

Trong những tháng ngày trẻ trung, sôi nổi ấy, tôi được đấng quân vương sủng ái hết lòng, hoàn toàn chẳng biết cảm giác buồn thương là gì.

Không biết là buổi sớm hôm nào, độ đó, xe Phượng Loan Xuân Ân liền mạch bảy ngày đưa tôi đến Nghi Nguyên điện, tôi vì ham ngủ, thức giấc muộn hơn so với thường ngày một chút, khi mở mắt thì thấy Huyền Lăng đang ngồi trên giường mỉm cười, chăm chú nhìn tôi. Tôi không khỏi ngạc nhiên, hỏi y tại sao lại tan triều sớm thế.

Y nhẹ nhàng nằm xuống, ung dung đáp: “Ái khanh ngủ ngon, thực là một bức tranh mỹ nữ say giấc nồng đẹp tuyệt vời, trẫm sao nỡ rời đi để rồi phải nhìn những khuôn mặt lúc nào cũng cứng nhắc của đám thần tử kia.”

Tôi vừa kinh hãi vừa e thẹn, vội vàng nói: “Như vậy sao được? Thần thiếp đâu quan trọng bằng việc quốc gia đại sự chứ, Hoàng thượng mau mau lên triều đi thôi!”

Huyền Lăng ngáp dài một cái, đưa ngón tay trỏ tới nhẹ nhàng vuốt ve bờ má tôi, khẽ nở nụ cười. “Hiếm hoi lắm mới có một ngày như vậy, coi như là để các đại thần được dịp nghỉ ngơi, mà trẫm cũng được an nhàn một chút!” Tôi đang định khuyên tiếp, ngón tay trỏ của y đã đặt lên môi tôi. “Nàng cứ ngủ đi. Còn về buổi triều sớm… dù sao cũng đã quá thời gian, trẫm có đi cũng chẳng kịp, chi bằng không đi nữa thì hơn.”

Tôi đành không nói gì thêm, nằm lặng lẽ trong vòng tay vững chãi của y. Khi đó, xuân về hoa nở, ô cửa sổ sơn đỏ chạm hoa trong Đông thất đang mở hé, từng làn gió dịu dàng thổi tới mang theo hương hoa phảng phất, chầm chậm lan tỏa khắp phòng, tựa như đôi tay ngọc ngà của một người con gái đang nhẹ nhàng vén bức màn lên, khung cảnh hư hư ảo ảo. Sau cơn gió, hoa anh đào ngoài điện rơi lả tả như mưa, từng phiến từng phiến đỏ tươi múa may trong gió, in lên bức màn mỏng manh trong suốt treo giữa điện, vô cùng mê ly.

Vừa ngẩng lên, tôi đã bắt gặp ánh mắt chứa chan tình cảm của Huyền Lăng, mà ánh mắt ấy chỉ nhìn tôi, khiến cả thân thể lẫn trái tim tôi đều như tan chảy.

Thế nhưng ngay lúc đó, Phương Nhược lại cung kính gõ cửa, nói là có tấu chương khẩn cấp.

Huyền Lăng có chút buồn bực, không thể không đi, đành nói với tôi: “Chỉ trách Lý Trường hồ đồ, thường ngày không chú tâm nhắc nhở đám nô tài, khiến bọn chúng không hiểu được một câu nói.”

Tôi nhất thời không hiểu, lòng tò mò nổi lên, bèn hỏi: “Là câu gì?”

Huyền Lăng nở một nụ cười giảo hoạt. “Kẻ hầu chẳng báo tên khách sớm, mới được giai nhân tên Mạc Sầu5.”

Tôi cả thẹn, khẽ phỉ phui một tiếng, cúi đầu nói: “Hoàng thượng chẳng đàng hoàng gì cả, chỉ biết trêu người ta thôi!”

Những tháng ngày đẹp đẽ ấy rốt cuộc chỉ là một giấc mộng hư ảo mà thôi.

Giờ đây, chỉ còn lại một câu than thở: Bốn mươi năm trọn là thiên tử, chẳng sánh chàng Lư có Mạc Sầu6 .

Mạc Sầu dù cả đời không có được tình yêu nhưng ít nhất cũng còn được bình an đến già, có thể ngày ngày ở bên người nhà, con cái. Còn tôi, tình yêu đặt nhầm nơi, nhà tan cửa nát, cha mẹ anh em đều chẳng được yên, ngay đến đứa con gái duy nhất cũng phải rời xa, thực chẳng bằng được một phần vạn của Mạc Sầu!

Đến bây giờ, ngồi buồn trước gương, mang theo nỗi buồn đi ngủ, lại mang theo nỗi buồn thức giấc, quả thực nên khuyên bản thân một câu “đừng buồn7 ” rồi.

Đúng lúc tôi đang ngơ ngẩn, Tĩnh Ngạn đưa mắt nhìn Hoán Bích và Cận Tịch sau lưng tôi, nói: “Người trong cửa Phật vốn không nên được người khác hầu hạ, có điều trong cung đã truyền lời xuống, rằng để ngươi học theo tiền lệ trước đây của Thư Quý phi…” Bà ta vội vàng sửa lời: “Tội quá… Là tiền lệ của Xung Tĩnh tiên sư, cứ để hai người bọn họ đi theo ngươi mà cùng tu hành vậy.”

Hoán Bích và Cận Tịch thoáng lộ nét mừng, lập tức đồng ý. Tôi ngẩng lên, nơi chính điện không thờ Như Lai hay Quan Âm, mà là một bức tượng Địa Tạng Bồ Tát rất lớn. Phía trước tượng Phật có đặt một lò hương đá, bên trên khắc ba chữ “Thiên cổ đấu”. Bên phải chiếc giường đá, dưới lò hương có khắc hàng chữ “Phúc sinh cam lộ địa, Thọ tề ngọc giản thiên”, phía bên trái thì khắc “Lập vào ngày lành mùa đông năm Long Khánh thứ mười”.

Tượng Phật mang màu vàng rực rỡ, dưới ánh đèn nến sáng trưng lại càng toát lên khí phái trang nghiêm. Nơi đáy lòng tôi bỗng xao động, nhớ tới Lung Nguyệt vừa ra đời, nhất thời buồn khổ không thôi, khẽ nói: “Độ hết chúng sinh, mới chứng quả vị Bồ Đề; địa ngục chưa sạch bóng tội nhân, thề không thành Phật. Ta không vào địa ngục ai vào địa ngục? Bồ Tát quả nhiên Phật pháp sâu dày.”

Tĩnh Ngạn đưa mắt nhìn tôi, cầm lấy chiếc bảo bình ở ngay cạnh, đưa tay nhúng nước sương trong bình rồi điểm vào trán tôi, nói: “Thích Ca Mâu Ni có lời rằng: “Ta vì đại chúng nói lời cam lộ tịnh pháp”, cam lộ có thể hóa giải sự buồn khổ nơi thế gian, ngươi đã rời khỏi chốn hồng trần rồi, mọi sự phiền não đều nên vứt bỏ.”

Giọng bà ta đầy vẻ xót thương, thần sắc thì rất mực hiền hòa, tựa như có thể nhìn thấu nỗi bất lực của tôi. Tôi khẽ gật đầu, coi như tỏ ý cảm ơn. Bà ta chỉ vào vị ni cô cao lớn vạm vỡ bên cạnh, nói tiếp: “Đây là sư muội ta, pháp hiệu Tịnh Bạch, chưởng quản mọi việc vụn vặt ở chùa này, sau này nếu ngươi có thiếu thứ gì thì có thể tìm đến.”

Sau mấy lời dặn dò, tất cả liền giải tán.

Giữa đêm gió lớn, lớp giấy dán cửa sổ bị gió thổi kêu “bùng bục” không ngừng, tựa như tiếng nghẹn ngào khóc lóc. Tôi ngồi trên ghế, Cận Tịch chong đèn, sắp xếp quần áo.

Tôi khẽ nói: “Có gì đâu mà sắp xếp, chẳng qua là ít đồ lót để thay đổi hằng ngày thôi, từ nay chỉ còn bộ đồ màu xám này theo ta đến già.”

Cận Tịch không nói, Hoán Bích thì khẽ cười một tiếng, nói: “Pháp hiệu của tiểu thư quả là đặc biệt. Mạc Sầu, không giống như một pháp hiệu bình thường, mà cứ như tên của một vị tiểu thư khuê các vậy.”

Tôi nói: “Trụ trì chẳng qua muốn nhắc nhở ta rằng đã vào cửa Phật rồi thì đừng nên nghĩ tới những sự ưu sầu phiền não nơi thế tục nữa.” Tôi lẩm bẩm nói: “Chẳng sánh chàng Lư có Mạc Sầu? Phải là “kiếp này chưa chắc, chắc chi sau” mới đúng.”

Hoán Bích không nghe rõ, tò mò hỏi: “Tiểu thư nói gì vậy?”

Tôi mỉm cười hờ hững. “Không có gì. Kể từ nay việc quan trọng nhất trong cuộc đời ta là ngày đêm cầu khấn, hy vọng cha anh ở nơi Xuyên Bắc, Lĩnh Nam và Lung Nguyệt ở trong cung có thể được bình an cả đời. Đây là tâm nguyện duy nhất của ta lúc này.”

Hoán Bích cắn môi, khẽ nói: “Đây cũng là tâm nguyện duy nhất của nô tỳ.”

Tôi lẳng lặng lắng nghe tiếng gió, gió ở trong núi và gió ở trong cung thực không giống nhau chút nào. Gió nơi cung đình dù có dịu dàng, ấm áp đến mấy, bên trong rốt cuộc vẫn thấp thoáng sự ớn lạnh do âm khí quá nhiều. Còn gió ở trong núi luôn vù vù tràn qua mạnh mẽ. Tôi ngồi đã lâu, thân thể đột nhiên lạnh run từng đợt, nơi bụng truyền tới những cơn đau quặn thắt, tựa như có một con rắn nhỏ đang quậy phá trong đó vậy. Hoán Bích thấy sắc mặt tôi không tốt, vội bước tới, hỏi: “Tiểu thư sao vậy? Sắc mặt người khó coi quá!”

Cận Tịch nghe thấy động tĩnh, lập tức bỏ dở việc trong tay, bước tới nói: “Nương tử vừa mới sinh nở, trong người còn máu đọng chưa ra hết, hôm nay lại phải ngồi xe ngựa vất vả một phen, e là không ổn lắm!” Nàng ta lộ rõ vẻ nôn nóng. “Nước trên lò còn chưa sôi, cần phải đi tìm một ít đường đỏ về hòa với nước nóng uống nữa, như vậy mới hiệu nghiệm.”

Tôi thầm cảm thấy bất an nhưng không thể không tỏ ra kiên cường. “Trong thời gian ngắn thì tìm đâu ra đường đỏ chứ, cứ để ta nhịn một chút là được.”

Cận Tịch vội nói: “Những bệnh vặt trong thời gian ở cữ không thể xem thường, chỉ sơ sẩy một chút thôi cũng có thể lưu lại mầm bệnh cả đời đấy!” Nói rồi, nàng ta liền đứng dậy. “Nô tỳ tới chỗ ni cô ở phòng kế bên hỏi xin một ít vậy!”

Cận Tịch khoác áo đứng dậy ra ngoài, Hoán Bích vội đỡ tôi nằm xuống, đắp cho tôi mấy lớp chăn bông. Tôi thầm lo lắng, cuộc sống trong chùa tất nhiên không thể so với trong cung, thân thể tôi còn chưa bình phục hẳn, thành ra làm liên lụy đến Cận Tịch và Hoán Bích phải vất vả chăm sóc, nghĩ như vậy, cơn đau trong bụng lại càng dữ dội.

Chẳng biết đã qua bao lâu, cửa mở ra kêu “két” một tiếng, Cận Tịch đã về, nàng ta cất giọng bất lực: “Giữa đêm khuya, chắc mọi người đều đã ngủ rồi, không ai chịu mở cửa, đừng nói gì tới việc cho ít đường đỏ.” Sau đó, nàng ta lại hạ thấp giọng: “Ta vừa đi tìm Tịnh Bạch sư phụ, bị bà ta quát cho mấy câu, có điều tạm thời vẫn chưa dám làm kinh động tới sư phụ trụ trì.”

Hoán Bích nghĩ là tôi đã ngủ, thấp giọng thở dài, nói: “Vừa rồi sư phụ trụ trì còn nói là học theo tiền lệ của Thư Quý phi, ai ngờ vừa mới xoay người đi là ngay đến canh nóng, nước nóng cũng chẳng có.”

Tôi loáng thoáng nghe thấy vậy, lại càng cảm thấy khó chịu.

Đột nhiên Cận Tịch nghĩ đến điều gì, bèn xoa tay, mừng rỡ nói: “Bên dưới gốc gây lớn phía đằng xa kia có một gian nhà đơn độc, chẳng biết là của vị sư phụ nào, để ta tới đó một chuyến thử xem.”

Hoán Bích vội cất tiếng ngăn lại: “Hồi chiều tối nghe hai tiểu ni cô dẫn đường nói, người sống ở đó là một vị ni cô tính tình cổ quái, bình thường không có ai dám dây tới. Nên đi tìm người khác thì hơn.”

Cận Tịch nói: “Vừa rồi người khác không chịu mở cửa, bây giờ chỉ e lại càng không chịu. Ta cứ đi xem thử đã rồi tính sau.” Sau đó, nàng ta lại dặn dò: “Đợi nước sôi nhớ đun thêm siêu nữa, để tiện cho nương tử lau rửa người.”

Một lát sau, Cận Tịch vẫn chưa trở về, thân thể tôi càng giá lạnh hơn. Chợt nghe cánh cửa bị đẩy mạnh, phát ra một tiếng “rầm” rất lớn. Một bóng người màu trắng đột ngột bước vào cùng làn gió lạnh, Hoán Bích kinh hãi kêu lên: “Là ai đó?”

Người đó không trả lời, chạy thẳng đến trước giường của tôi, đưa tay sờ lên trán rồi lại bắt mạch cho tôi, tư thế thô lỗ nhưng nhanh nhẹn, một lát sau liền nhìn tôi, lạnh lùng nói: “Ngươi vừa mới sinh nở, phải vậy không?”

Tôi gắng gượng ngẩng đầu, thấy người đó mặt mũi khá dữ dằn nhưng cũng có mấy phần nhan sắc, chỉ là nhan sắc đó sớm đã bị băng sương bao phủ, trông vô cùng lạnh lùng. Tôi thấy bà ta ăn mặc theo lối ni cô, đoán chừng cũng là đồng môn trong chùa, bèn ra hiệu bảo Hoán Bích đừng sợ, cố gắng cất tiếng: “Đúng vậy, đến hôm nay đã là ngày thứ ba rồi!”

Bà ta khẽ “hừ” một tiếng, khuôn mặt lộ rõ vẻ xem thường, nói: “Sinh con cho đám nam nhân thối tha kia làm gì chứ! Đáng đời!” Nói rồi liền lấy một bọc đồ cất trước ngực ra, vứt xuống đầu giường. “Chỗ này đủ cho ngươi uống rồi!”

Hoán Bích vội mở ra xem, lập tức mừng rỡ bật thốt: “Là đường đỏ! Dễ chừng phải có tới ba, bốn cân đấy!”

Người đó không phản ứng, lại lấy ra thêm mấy lát gừng tươi, hờ hững nói: “Ngậm vào miệng đi, thứ này có thể phát nhiệt.”

Nói xong, bà ta liền giống như đang giận ai, rảo bước thoăn thoắt rời đi như một làn gió.

Sau đó, Cận Tịch chạy vào, thở hồng hộc nói: “Người đó đi nhanh quá, nô tỳ không thể theo kịp.”

Tôi hỏi: “Bà ta chính là người có tính tình cổ quái kia sao?”

Cận Tịch đáp “vâng” rồi lại nói: “Nô tỳ chẳng còn cách nào, chỉ đành tìm đến van nài một phen, ai ngờ bà ta vừa nghe nô tỳ nói xin đường đỏ để cứu người, lập tức mở cửa ngay.”

Hoán Bích đỡ tôi dậy, cho tôi uống một chén nước đường đỏ rất đặc, nói: “Giữa chốn Phật môn mà không ngờ đám ni cô ở ngay kế bên lại không chịu tới giúp đỡ một chút, thực khiến người ta nguội lòng. Nô tỳ cứ ngỡ người xuất gia lấy từ bi làm đầu, chẳng ngờ lại giống hệt đám người trong cung.”

Tôi lắc đầu cười gượng. “Chúng ta bị phế bỏ tước vị và trục xuất khỏi cung đình, là người mà Hoàng thượng đã ruồng bỏ, sao dám so với Thư Quý phi được. Bà ấy tự nguyện xin rời cung, để tóc tu hành với thân phận Quý thái phi, tất nhiên khác hẳn chúng ta rồi!” Hoán Bích thoáng lộ vẻ buồn bã, tôi sợ nàng ta khó chịu thay tôi, liền chuyển chủ đề: “Vị ni cô vừa rồi mặt mũi tuy lạnh lùng nhưng quả là một người tốt bụng hiếm có.”

Thế rồi bèn ngậm một lát gừng tươi, thầm nghĩ tới Lung Nguyệt của tôi, sau đó mơ màng chìm vào giấc ngủ…

Chương 2VẲNG NGHE CHIM HÓT NGƯỜI TỈNH MỘNG

Xung quanh chùa Cam Lộ toàn là rừng rậm, mây khói phủ đầy, cực kỳ yên tĩnh, vắng vẻ. Tôi ngủ ngon được chừng nửa ngày, nỗi đau đớn trong thân thể đã dần dịu bớt.

Trụ trì thấy thân thể tôi không được khỏe lắm thì tỏ ra có chút xót thương, dặn dò tôi nghỉ ngơi cho tốt, không phải để tâm tới chuyện gì khác. Tôi cứ ngủ li bì cả ngày, không để ý tới mọi chuyện trong chùa, cũng chẳng biết Cận Tịch và Hoán Bích rốt cuộc đang làm những gì.

Chỉ biết rằng hai người bọn họ đều không thường xuyên ở bên cạnh tôi, nơi khóe mắt cũng dần xuất hiện những tia mỏi mệt.

Tôi thực sự cảm thấy không đành lòng.

Ngày đó trong Đường Lê cung, các cung nhân hầu hạ tôi, ai nấy đều van nài được xuất cung với tôi.

Lưu Chu chết sớm, Hoán Bích tất nhiên phải đi theo tôi. Bởi Hoán Bích vốn là a hoàn tùy giá theo tôi vào cung, nếu ở một mình trong cung, sau này nhất định sẽ bị ức hiếp rất nhiều.

Tiểu Liên Tử và Tiểu Doãn Tử đều là người có khiếm khuyết, rời cung rồi thì coi như mất nơi nương náu, huống chi ở trong chùa Cam Lộ cùng một đám ni cô cũng không tiện chút nào.

Lung Nguyệt đã được giao phó cho Kính Phi, tất nhiên một vài người bên phía tôi cũng phải đi theo qua đó, hầu hạ Lung Nguyệt giống như hầu hạ chủ nhân trước đây của mình. Chắc hẳn Kính Phi có ý an ủi tôi, đã dẫn Phẩm Nhi, Bội Nhi và Tiểu Liên Tử đi.

Như vậy tôi cũng yên tâm, Tiểu Liên Tử dù sao cũng có chút công phu, tính tình lại trung hậu, có y ở bên cạnh Lung Nguyệt, kẻ khác có muốn bày mưu hãm hại nó nhất định cũng sẽ không dễ dàng đắc thủ.

My Trang cũng đã gọi Tiểu Doãn Tử tới cung của tỷ ấy hầu hạ. Trước đây, Tiểu Doãn Tử là thái giám được việc nhất bên cạnh tôi, sau khi tôi rời cung, nhất định sẽ phải chịu không ít sự hạch sách, đày đọa, My Trang lại thích sự thông minh, nhanh nhẹn của y, mong là từ nay, y có thể trở thành cánh tay phải, giúp tỷ ấy mọi việc.

My Trang và Lung Nguyệt chính là hai người mà tôi không yên tâm nhất trong cung.

May mà My Trang có Thái hậu che chở, kẻ khác chắc cũng chẳng dám làm gì. Mà tôi cũng đã ngầm nhờ cậy Ôn Thực Sơ và Tiểu Doãn Tử, bọn họ nhất định sẽ dốc sức bảo vệ cho My Trang được an toàn.

Còn Lung Nguyệt thì vì Kính Phi không có con nên nhất định nó sẽ được coi như con đẻ. Nàng ta vốn giao hảo với tôi, địa vị lại cao, quan hệ với mọi người trong cung cũng tốt, là lựa chọn tốt nhất để nuôi dưỡng Lung Nguyệt.

Duy có Cận Tịch, nàng ta nhất quyết muốn theo tôi rời cung, đây là điều mà tôi không lường trước được.

Trong số các cung nữ, nàng ta cũng khá có thân phận, là Ôn nhân chính ngũ phẩm, trước đây lại từng hầu hạ thái phi, quả thực không cần phải theo tôi đi chịu khổ.

Tôi vốn nghĩ tệ nhất thì cũng để nàng ta đi theo Kính Phi chăm sóc Lung Nguyệt, nhưng nàng ta lại trần tình với tôi: “Công chúa có Kính Phi nương nương chăm sóc là đã muôn phần ổn thỏa, nô tỳ quả thực không muốn ở chỗ Kính Phi nương nương mà làm vướng tay vướng chân. Nương nương sắp đi tu hành, nhất định không thể thiếu người hầu hạ, một mình Hoán Bích cô nương làm sao đủ được, dù gì cũng không thể để cô ấy chịu khổ một mình. Nô tỳ từ nhỏ đã mang lòng hướng Phật, đây thực là cơ hội tốt nhất, chỉ mong nương nương đừng chê nô tỳ vụng về, nể tình nô tỳ mấy năm nay đã dốc lòng dốc sức chăm sóc nương nương mà dẫn nô tỳ đi cùng.”

Nàng ta đã nói như vậy, tôi cũng không tiện thoái thác, đành dẫn nàng ta đi cùng. May mà Cận Tịch thông minh, tháo vát, có thể giúp đỡ tôi rất nhiều, hơn nữa còn thường xuyên lựa lời khuyên nhủ, giúp tôi bớt cô độc.

Hôm ấy, Cận Tịch đang ngồi trong phòng cúi đầu khâu áo, tôi thì cẩn thận xâu từng viên gỗ lim làm thành tràng hạt.

Ánh dương dìu dịu chiếu vào phòng qua ô cửa sổ, tựa một lớp vải mỏng manh, hết sức nhẹ nhàng, êm ái. Trên bàn đặt một bức tượng Quan Âm làm bằng gốm trắng, vẻ mặt hiền từ, khiến người ta vừa nhìn đã thấy ấm áp, thực rất có dáng vẻ đại từ đại bi phổ độ chúng sinh. Trong bát hương đặt trước tượng Quan Âm có ba nén hương đang cháy, khói hương vấn vít tỏa ra, như sương như khói.

Cận Tịch cười, nói: “Hôm nay tinh thần nương tử không tệ, chi bằng chúng ta cùng ra ngoài đi dạo một lát. Phong cảnh xung quanh chùa Cam Lộ xưa nay vốn nổi danh, cũng nên đi xem thử.”

Cận Tịch ân cần như vậy chẳng qua là muốn giúp tôi xua bớt nỗi u buồn, tôi sao có thể không biết, bèn đồng ý, hai người cùng cất bước ra ngoài đi dạo.

Ngoài kinh đô núi non trùng điệp, liền thành một dải, như tạo thành bức bình phong xanh biếc. Nơi cao thì đâm vào tới tận mây, nơi thấp thì tựa như cánh tay ngọc ngà của mỹ nhân uốn lượn. Mà trong số các đỉnh núi, phong cảnh ở đỉnh Phiêu Miểu, đỉnh Tha Nga, đỉnh Cam Lộ, đỉnh Lăng Vân là nổi tiếng nhất, đỉnh Phiêu Miểu và đỉnh Tha Nga đối diện nhau từ xa, đỉnh Cam Lộ, đỉnh Tha Nga và đỉnh Lăng Vân thì dính liền, giữa những đỉnh núi mây mù bao phủ, phong cảnh đẹp đẽ vô cùng.

Giữa nơi núi non biêng biếc, mây khói như bao phủ khắp nơi, mang tới cho người ta cảm giác không chân thực, dường như cả con người đều hòa mình với thiên nhiên. Tôi đứng ngắm cảnh từ xa, nỗi buồn cùng sự mỏi mệt khi rời cung lại trào dâng trong lòng, lan tỏa khắp thân thể. Trái tim trở nên trống rỗng, tôi hờ hững nói: “Cận Tịch, nếu nửa đời sau, chúng ta có thể bình yên sống trong chùa Cam Lộ thế này, ta cũng không còn mong cầu gì hơn.”

Cận Tịch dịu giọng nói: “Chúng ta đã xa rời chốn thị phi rồi, chắc hẳn chuyện thị phi sẽ không tìm tới chúng ta nữa. Nương tử cứ yên tâm!”

Gió núi rất mạnh, cuốn góc chiếc áo ni cô màu xám của tôi lên, nhìn như một cánh bướm già nua đang đập cánh một cách mỏi mệt. “Nếu có thể cả đời bầu bạn bên ngọn đèn dầu và tượng Phật, ta cũng coi như được thanh tịnh rồi!”

Cận Tịch khẽ thở dài một tiếng. “Hoàn cảnh bây giờ coi như không tệ. Với tình hình khi đó, nếu nương tử không tự nguyện xin xuất gia, hoặc là sẽ bị ban cho cái chết, hoặc là sẽ bị đày vào lãnh cung, cũng có thể Hoàng thượng trong cơn giận dữ sẽ cho phong tỏa Đường Lê cung, giam cầm nương tử trong đó suốt đời suốt kiếp. Mà nếu có kẻ ném đá xuống giếng, kết cục của nương tử nhất định sẽ thảm hơn bây giờ nhiều.”

Tôi cắn chặt môi, sự chán ghét và oán hận nơi đáy lòng cơ hồ không thể nào kiềm chế được. “Tử Áo Thành nhơ nhuốc và đen tối đến vậy, ta mong rằng mình cả đời không bao giờ quay trở lại đó. Chỉ đáng thương cho Lung Nguyệt của ta, kiếp này e là chẳng có duyên gặp lại ta thêm lần nào nữa.”

Cận Tịch giữ lấy hai bờ vai đang khẽ run rẩy của tôi, đôi tay hết sức mạnh mẽ và kiên định. “Nương tử có thể sống sót mà rời khỏi nơi đó, đây là điều không phải ai cũng làm được. Xin nương tử hãy tin rằng, có lúc cả đời không thể gặp mặt cũng coi như là một sự bảo vệ. Công chúa như thế, mà với người nhà của nương tử cũng như thế.” Cận Tịch thở dài, nói tiếp: “Chỉ mong nương tử suy nghĩ thông suốt, rồi sau này đêm đêm có thể ngủ ngon.”

Sao tôi có thể không hiểu lời của Cận Tịch nhưng từ sau khi vào chùa Cam Lộ đến giờ, tôi nào đã từng có được một giấc ngủ ngon. Rất nhiều đêm tôi gần như trơ mắt nhìn bầu trời từ lúc sâm sẩm tối đến khi lộ ra màu bụng cá buổi ban mai. Những tia sáng chiếu lên lớp giấy dán cửa sổ biến đổi từng chút một, lúc sáng lúc tối, nhưng chỉ cần là một chút biến hóa nhỏ nhoi, tôi cũng có thể nhận ra rõ ràng.

Biết bao lần tôi từng cắn chặt bờ môi giữa màn đêm đen tưởng chừng không có điểm tận cùng, đôi bàn tay nắm chặt, hoàn toàn không phát hiện ra môi mình đã bị cắn rách, lòng bàn tay cũng bị móng tay cắm sâu đến rỉ máu, cố quên đi những sự không cam tâm và nhục nhã của bản thân. Nhưng tôi thực sự chẳng làm gì hơn được, chỉ biết trơ mắt nhìn chúng ngang ngược cắn xé trái tim vốn đã tơi tả của mình, cho đến khi nó hoàn toàn tan nát.

Biết rõ là không thể phản kháng, tôi chỉ còn cách chịu đựng.

Tôi đêm đêm không thể ngủ ngon, Cận Tịch tất nhiên biết rõ. Tôi còn thường xuyên nghe thấy Hoán Bích vùi đầu trong chăn khóc thầm, khóc cho cha mẹ và huynh trưởng ở trời Nam đất Bắc xa xôi, khóc cho tẩu tẩu và Trí Ninh vừa gặp cơn tai họa.

Đêm dài đằng đẵng, leo lét đèn thu. Vốn đang độ hoa thu thảm đạm cỏ thu úa vàng, đêm thu dài miên man vô tận, dường như vĩnh viễn chẳng bao giờ đợi được tới khi trời sáng. Mà dù trời có sáng, sự tăm tối trong lòng liệu có được chiếu sáng một khoảnh khắc nào chăng?

Tôi không nói gì, chỉ lặng im.

Khi chúng tôi trở về phòng, Hoán Bích đang bày cơm và thức ăn lên bàn. Nhìn thấy tôi, cô nàng không kìm được than phiền: “Trụ trì đã đặc biệt dặn dò nhà bếp, nói là tiểu thư còn đang trong thời gian ở cữ, phải đặc biệt chiếu cố, làm cho một số loại thức ăn mặn và nhiều mỡ, ai ngờ những thứ được đưa tới vẫn chẳng có lấy một giọt mỡ nào, đừng nói là thức ăn mặn. Nô tỳ và Cận Tịch thì không sao, nhưng tiểu thư còn đang ở cữ, như thế này làm sao được?”

Đợi Hoán Bích nói xong một tràng liến thoắng, tôi thản nhiên cầm đũa, bình tĩnh nói: “Dù sao cũng là nơi Phật môn thanh tịnh, sao có thể động đến đồ ăn mặn được, ta cũng không muốn mình bị chú ý quá, chỉ cần có thể ăn no là được rồi!”

“Nhớ lại những ngày bị cấm túc trong Đường Lê cung, ngay đến thức ăn cũng mốc meo cả, chúng ta không phải vẫn ăn được hết đó sao?” Cận Tịch hơi cau mày, lộ vẻ rụt rè. “Nương tử và Hoán Bích cô nương có từng để ý không, trụ trì mang tiếng là trụ trì nhưng tính tình hiền hòa, nhu nhược, không thể sai bảo người khác. Do đó, bà ấy tuy có lòng chiếu cố nương tử nhưng cũng là lực bất tòng tâm.”

Hoán Bích tiếp lời: “Làm sao lại không nhận ra chứ! Lúc mới đến, bà ấy nói hai người chúng ta chỉ cần hầu hạ tiểu thư là được, nhưng chỉ sau vài ngày, công việc mà đám người Tịnh Bạch sư phụ giao cho chúng ta nhiều thế nào chứ?”

Cận Tịch nói: “Tiền nhang đèn của chùa Cam Lộ tuy không ít nhưng thường ngày các ni cô trong chùa vẫn phải tự tay giặt giũ quần áo, làm một số việc nặng nhọc. Chúng ta vừa mới tới, rất nhiều việc liền được giao cả cho chúng ta, nhưng giờ đang sống nhờ nhà người khác, chúng ta đương nhiên không thể tranh cãi. May mà mấy việc này nô tỳ và Hoán Bích cô nương làm cũng đã quen, không có vấn đề gì to tát.”

“Chỉ e…” Hoán Bích nôn nóng nói: “Sau này bọn họ được đằng chân lân đằng đầu, ngay đến tiểu thư cũng phải chịu khổ.”

Tôi lặng lẽ cúi đầu, nhai cọng rau trong miệng, hờ hững nói: “Ta đã vào chùa Cam Lộ rồi, dù sau này có phải làm một số việc nặng thì cũng là lẽ thường tình thôi!” Tôi nắm lấy bàn tay hai người bọn họ, khẩn thiết nói: “Chỉ khổ cho các ngươi, vì ta mà phải chịu không ít nỗi vất vả.”

Hoán Bích rơm rớm nước mắt, cúi đầu, nghẹn ngào nói: “Bây giờ người thân bên cạnh muội chỉ còn lại một mình trưởng tỷ thôi, chỉ cần có thể ở bên trưởng tỷ, muội chẳng còn điều gì oán trách.”

Cận Tịch cũng nói: “Nô tỳ vốn nguyện lòng theo nương tử rời cung, sau này dù có gặp phải bất cứ chuyện gì cũng cam tâm tình nguyện.”

Tôi thầm cảm động, thổn thức nói: “Từ nay về sau, chỉ còn có ba người chúng ta nương tựa vào nhau thôi!”

Hoán Bích cúi đầu khóc rấm rứt, nói: “Bọn muội thì không sao, nhưng trưởng tỷ đã gầy đến thế này rồi, muội nhìn mà sợ lắm!”

Hoán Bích vừa dứt lời, tôi đột nhiên nhìn thấy dung nhan của mình hiện giờ. Do đã lâu không soi gương nên lúc này, khi nhìn thấy tấm dung nhan tiều tụy của bản thân trong chiếc gương đồng ảm đạm, ngay đến tôi cũng có chút thẫn thờ và không dám tin, đây chính là tôi sao, là tôi của bây giờ đây sao? Đôi mắt xám xịt như người chết, hai gò má nhô cao. Sự ai oán và đau thương trong mắt đã trầm hẳn xuống, như những hạt cát sau cơn sóng cuộn, ẩn mình vào nơi sâu thẳm bên trong chiếc gương đồng, chẳng hề xao động. Nhìn tôi lúc này như một ao nước mùa thu, dù có bị thứ gì khuấy đảo, dù có xuất hiện muôn vàn gợn sóng thì sau đó cũng sẽ bình lặng trở lại rất nhanh, bình lặng trong sự buồn thương đến nỗi chẳng còn nước mắt để rơi, chẳng thể khống chế được bản thân mình. Người trong gương thực xa lạ biết bao, dù biết rõ đó chính là mình nhưng tôi vẫn khó mà tin nổi đó chính là tôi của ngày hôm nay.

Dung nhan tôi tuy tiều tụy nhưng dù sao cũng chưa thay đổi nhiều, duy có đôi mắt kia thực sự giống như của một bà già mắc bệnh nhiều năm, lại giống như một bông hoa đã từng nở rộ rồi sau đó lặng lẽ úa tàn, cuối cùng thì chết khô nơi đầu cành giữa làn gió lạnh.

Đã có lúc vẻ đẹp của tôi chủ yếu đến từ đôi mắt, chúng linh động đẹp đẽ, múa lượn nhẹ nhàng, thoáng làn sóng gợn. Dù buồn hay vui, những tâm sự mà người con gái không tiện dùng lời lẽ biểu đạt, tôi chỉ cần khẽ đưa ánh mắt, sẽ có người tự khắc hiểu lòng tôi.

Mà trong những cuộc sát phạt trong cung, dù là địch hay bạn, phương thức trao đổi quan trọng nhất vẫn là ánh mắt. Và dần dần, đôi mắt tôi ẩn chứa đầy tâm cơ, có lúc muốn khóc mà bên trong lại ngậm nét cười, đôi khi muốn cười mà mắt lại ngân ngấn ánh lệ, sự trong trẻo, ngây thơ của một thiếu nữ khuê các sớm đã chẳng còn.

Thậm chí ngay cả khi được đấng quân vương sủng hạnh, thương yêu, những nét phong tình nơi đầu mày cuối mắt cũng đã sinh ra như thế, hoàn toàn triệt bỏ sự vô tri và ngây thơ của người thiếu nữ. Cứ như vậy, sau nháy mắt tôi đã trở thành phụ nữ, sau nháy mắt đã có được cái gọi là sự quyến rũ và phong tình, tất cả mọi thứ đều chỉ tập trung trong đôi mắt ấy thôi.

Thì ra tôi già đi nhanh như thế, thì ra trái tim của tôi đã chết rồi. Vốn ngỡ rằng việc này chỉ có mình tôi biết, không ngờ, đôi mắt kia chẳng thể giấu giếm được điều gì, sớm đã lộ vẻ già nua, đờ đẫn.

Thực thê lương mà cũng rất rõ ràng.

Đêm ấy gió mưa kéo tới, những hạt mưa lạnh băng đập “bộp bộp” vào lớp giấy dán cửa sổ, toàn bộ chùa Cam Lộ chìm trong những âm thanh như tiếng vó ngựa dập dồn. Dòng nước mưa từ trên mái ngói chảy xuống, phát ra âm thanh như tiếng chuông gọi hồn, khiến người ta đau đầu.

Trong cơn ngơ ngẩn, tôi lại mơ một giấc mơ. Người tôi như bị chia ra làm hai nửa, một nửa tỉnh táo, có một chút ý thức đơn giản và mông lung, nửa còn lại thì đang ngủ, ngủ rất say, như thể vĩnh viễn không bao giờ tỉnh lại.

Trong cơn mơ màng, khung cảnh xung quanh dường như vẫn là nơi cung cấm, hai bên vĩnh hạng là bức tường đỏ dài miên man, tựa như hai con rồng đỏ rực không ngừng uốn lượn, chẳng có điểm tận cùng. Lớp đá xanh trên vĩnh hạng thực trơn biết mấy, lúc này, Cận Tịch còn đang nắm tay tôi, hai người kề vai sóng bước, như thể chuẩn bị tới Thượng Lâm uyển ngắm cảnh, cũng có thể đang định làm gì khác, lúc này đầu óc tôi rất mơ hồ, chỉ biết bước đi theo tiềm thức. Phía trước chợt thấy Tiễn Thu bước tới, khom người hành lễ với tôi, cười tủm tỉm, nói: “Hoàng hậu nương nương cho mời Hoàn Quý tần tới ngắm hoa, An tiểu chủ cũng đang ở đó, đã chờ nương nương từ lâu lắm rồi!”

Khuôn mặt Tiễn Thu hình như được trát quá nhiều phấn, nhìn trắng bệch như tuyết, trắng đến nỗi chẳng giống nàng ta lắm, nhìn còn có mấy phần bộ dạng của Hoa Phi. Tôi cười, nói: “Hoàng hậu nương nương đã có lời mời, thần thiếp xin đi ngay đây!” Sau đó, liền cùng Cận Tịch chậm rãi bước đi theo nàng ta.

Có điều, mới đi được hai bước, phía sau chợt vang lên giọng nói của Lưu Chu. Chỉ thấy nàng ta vội vã chạy tới, dáng vẻ rất nôn nóng, khuôn mặt đỏ bừng, như thể sắp rỉ máu. Nàng ta lớn tiếng kêu lên: “Tiểu thư! Đừng đi! Đừng đi! Không thể đi được đâu!”

Tôi nói với giọng nghi hoặc: “Lưu Chu, muội đi đâu vậy, lâu lắm rồi ta không gặp muội. Sao trông muội hoang mang thế, định đi làm việc gì sao?”

Tôi chỉ mới sững sờ một chút, Hoàng hậu và An Lăng Dung đã đi tới trước mặt, đều đang cười rất tươi. Hoàng hậu mặc một chiếc áo gấm đỏ rực, ôn tồn nói: “Hoàn Quý tần, bản cung đã cho mời, sao ngươi còn không mau tới? Trước đây, ngươi đâu có như vậy.”

Lời của Hoàng hậu tuy đầy vẻ ôn tồn nhưng ý tứ trách móc bên trong lại rất rõ. Tôi hoang mang định quỳ xuống, thế nhưng đầu gối lại đờ ra, không sao quỳ nổi. Tôi lo lắng đến nỗi mồ hôi rỉ ra đầy đầu, bất giác nghiêng đầu nhìn qua bên cạnh, chợt thấy cặp mắt Tiễn Thu chẳng biết tự lúc nào đã trở nên đen ngòm, sâu không thấy đáy, dung mạo sớm đã biến thành của Hoa Phi. Nàng ta nhếch mép, nở một nụ cười lạnh lùng, khẽ cất tiếng: “Sao thế? Hoàn Quý tần, ngươi cũng không muốn quỳ lạy mụ già Hoàng hậu này sao?”

Tôi thấy cảnh này thì vừa hoang mang vừa sợ hãi. Lăng Dung chợt cười tươi như hoa, vẫy tay gọi: “Tỷ tỷ mau tới đây, Hoàng hậu đối xử với chúng ta tốt nhất mà. Tỷ tỷ mau tới đi, Dung Nhi cũng đang ở đây này.” Cô ả cười rất dịu dàng, nghe như tiếng nhạc nhưng chẳng hiểu sao tôi lại có cảm giác, nụ cười ấy sắc như dao, đang không ngừng cứa vào thân thể tôi, khiến tôi đau đớn vô cùng.

Bỗng nhiên, Kỳ Tần lẳng lặng bước ra từ sau lưng Hoàng hậu và An Lăng Dung, cất giọng lạnh lùng: “Hoàng hậu nương nương, Hoàn Quý tần không nghe lời như vậy, phải xử phạt thế nào mới được đây?”

Nụ cười của Hoàng hậu vẫn cao quý mà nền nã, mỗi điệu đưa tay nhấc chân đều toát ra khí độ ung dung của bậc mẫu nghi thiên hạ. Nàng ta mỉm cười, nói: “Hoàn Quý tần rất được lòng Hoàng thượng, bản cung sao nỡ phạt nàng ta chứ? Không chỉ không phạt, còn phải thưởng mới được.” Nàng ta khẽ gọi Lăng Dung lại. “Đi lấy Thư ngân giao tới đây thưởng cho Hoàn Quý tần.”, kế đó liền nói với tôi: “Thư ngân giao có tác dụng dưỡng da rất tốt, Hoàn Quý tần nhớ dùng đều. Hoàng thượng nhìn thấy tấm dung nhan hoa nhường nguyệt thẹn của Hoàn Quý tần, nhất định sẽ càng thêm yêu quý, mà Quý tần cũng có thể sớm sinh hoàng tử cho Hoàng thượng.” Giữa nụ cười hoàn mỹ của Hoàng hậu đột nhiên xuất hiện một vết nứt, giọng nói toát ra vẻ u oán: “Nói không chừng, Hoàn Quý tần dùng Thư ngân giao này xong sẽ càng ngày càng giống với Thuần Nguyên Hoàng hậu, tỷ tỷ của bản cung đấy, như thế mới thực đáng mừng.”

Lăng Dung bước đi hết sức nhẹ nhàng, lả lướt, cẩn thận đưa Thư ngân giao tới trước mặt tôi, má phấn ngậm nét cười. “Tỷ tỷ nhớ dùng đều nhé, lời của Hoàng hậu nương nương nhất định không sai đâu.”

Tôi sợ hãi kêu ré lên một tiếng, cố sức đẩy Thư ngân giao mà Lăng Dung đưa tới trước mặt ra xa. Lăng Dung chẳng hề để bụng, chỉ mỉm cười rất tươi, ngón tay khẽ quệt vào Thư ngân giao, sắc mặt đột nhiên biến đổi, trở nên vô cùng dữ dằn, ra sức bôi Thư ngân giao vào mặt tôi.

Cảm giác lạnh toát và thứ mùi thơm mát của Thư ngân giao khiến tôi sợ hãi thét lên, cố sức ngoảnh đầu qua bên cạnh nhưng không hiểu sao bàn tay của Lăng Dung lại có thể chuẩn xác đến thế, tôi có tránh thế nào cũng không được.

Hoa Phi thản nhiên khoanh tay đứng nhìn, cất giọng u oán mà trống rỗng: “Bây giờ ngươi rõ rồi nhé, đứa con của ngươi bị mất không phải do ta, cũng không phải là do Hoan nghi hương của ta.” Ả ta đột nhiên nổi điên, như khóc như cười, ngón tay chỉ thẳng vào mặt tôi, gằn giọng quát lớn: “Ta không hề hại đứa con của ngươi, người hại đứa con của ta cũng là Hoàng hậu! Chúng ta đều không biết gì hết, đều không biết gì hết!” Ả ta đập đầu xuống đất, cặp mắt chừng như có thể phun ra lửa, cất tiếng khóc rống lên, điên điên khùng khùng: “Ngươi có Thư ngân giao, ta có Hoan nghi hương, chúng ta sao sinh con được chứ! Chúng ta đều là loại người đáng thương không có con!” Ả ta đập đầu xuống đất đến rách cả trán, dòng máu tươi cuồn cuộn chảy ra, dường như trên gò má, trên quần áo của ả ta xuất hiện vô số bông hoa đào diễm lệ, phong cảnh rực rỡ của tháng Ba mùa xuân lúc này chừng như đều đã tập trung trên người ả, vậy nhưng lại chẳng có chút vẻ đẹp nào, chỉ đầy nỗi thê lương và sợ hãi.

Hoàng hậu đột nhiên nói với giọng nghẹn ngào, tựa như một người quả phụ trên đò vắng, ai oán tột cùng: “Các ngươi đáng thương? Lẽ nào bản cung không đáng thương? Con của các ngươi chẳng qua chỉ là những thai nhi chưa thành hình mà thôi, còn bản cung thì sao, bản cung đã phải tận mắt nhìn con trai đứt hơi trong lòng mình… Con của các ngươi thì có gì đáng thương chứ!” Những nét xám xịt trên khuôn mặt Hoàng hậu đột nhiên tan biến, rồi nàng ta nở nụ cười tươi. “Hoàn Quý tần, bản cung còn có thứ này tặng cho ngươi nữa đây.” Nàng ta nháy mắt ra hiệu với Kỳ Tần, sắc mặt Kỳ Tần biến đổi hẳn, chậm rãi mở bọc vải gấm màu đỏ đang ôm trước ngực ra, thì ra bên trong là một chiếc áo gấm có thêu hoa văn hình chim công, nhìn rất tao nhã và đẹp đẽ.

Lăng Dung che miệng cười khẽ, âm thanh vang lên nghe như tiếng hót du dương của chim hoàng oanh, nhưng lọt vào tai tôi thì sắc bén vô cùng: “Tỷ tỷ xưa nay luôn thanh tao, cao quý, mặc chiếc áo này là thích hợp nhất. Lúc mới vào cung, Thuần Nguyên Hoàng hậu đã mặc chính chiếc áo này đấy, tỷ tỷ nhớ phải giữ gìn cẩn thận!” Nói xong, nàng ta liền nháy mắt ra hiệu, Kỳ Tần không cho tôi phân bua, liền trùm chiếc áo đó vào người tôi. Chiếc áo tựa như một tấm lưới rất lớn từ trên trời rơi xuống, trói lấy tôi thật chặt, khiến tôi không thể thoát được, cũng chẳng thể giãy giụa, chỉ biết trơ mắt nhìn bản thân như một con cá bị lọt vào trong lưới, căn bản chẳng có sức mà phản kháng.

Lòng tôi thầm căm hận nhưng chỉ biết sợ hãi ngoảnh đầu đi, chợt thấy từ cổ Lưu Chu chảy ra những giọt máu đỏ tươi, màu sắc đó khiến đôi mắt tôi như chói lòa. Mặt Lưu Chu đầy nét bi thương, chậm rãi ngoảnh đầu lại, nói: “Tiểu thư, Lưu Chu phải đi đây, không thể hầu hạ tiểu thư được nữa rồi!”

Tôi nhất thời quên mất mình vẫn đang ở trong lưới, gắng sức gào lên: “Lưu Chu, muội định đi đâu? Sao muội có thể bỏ mặc ta mà đi như thế được!”

Lưu Chu khẽ nở nụ cười mỉm, nhẹ nhàng cất tiếng: “Tiểu thư, chủ tớ chúng ta tình như tỷ muội nhưng bây giờ tình nghĩa đã đến hồi kết thúc rồi. Thiếu phu nhân và tiểu thiếu gia ở dưới đó cô đơn lắm, không ai chăm sóc, Lưu Chu phải xuống đó hầu hạ bọn họ đây, tiểu thư xin hãy bảo trọng.”

Tôi nghe mà trái tim như bị một tảng đá nặng nề nện phải, rốt cuộc không kìm được mà bật khóc thành tiếng. Chợt lại thấy tẩu tẩu vẫn nguyên bộ dạng ngày xưa, xinh đẹp, đáng yêu, đang bế Trí Ninh trong lòng. “Trước đây ta vẫn gọi muội là nương nương nhưng giờ đây chúng ta không ở cùng một thế giới nữa rồi, muội chỉ còn là em chồng của ta thôi. Ta với Trí Ninh phúc bạc, không thể theo phu quân nữa, muội và phu quân phải chú ý giữ gìn mới được, đừng để những người đi trước như bọn ta lo lắng.”

Tiếng khóc của Trí Ninh dường như vẫn còn vang vọng bên tai, tôi bật khóc nức nở. “Tẩu tẩu hãy nói thực với muội đi, chuyện sao lại như vậy?”

Tẩu tẩu lắc đầu, thở dài không ngớt. “Muội thử nghĩ xem, đang là tháng Mười, sao có thể dễ dàng mắc bệnh sốt rét được đây?”

Phía bên kia, Lăng Dung chợt nở nụ cười, khẽ phe phẩy chiếc quạt lông trong tay, hờ hững nói: “Hoa đào dù có nở đẹp đến mấy thì rốt cuộc cũng chỉ là vật phàm tục mà thôi, sao có thể so được với sự thướt tha yểu điệu của trúc đào.”

Tẩu tẩu mỉm cười thản nhiên, đáp lại một câu: “Vậy sao? Đào với trúc đào vốn cùng một họ, hà tất phải tàn sát lẫn nhau! Dù có muốn phân cao thấp thì cũng nên nhìn vào lòng người.”

Lăng Dung chẳng hề nôn nóng, đưa quạt lên che mặt, cười nhạt, nói: “Đến tính mạng còn chẳng giữ nổi, nói gì tới lòng người! Sự cao thấp, sống chết ở kiếp này đã rõ ràng, Tiết tiểu thư nên suy nghĩ về kiếp sau thì hơn!”

Trong giấc mộng mơ hồ ấy, Lăng Dung từ đầu đến cuối chỉ gọi tẩu tẩu bằng ba chữ “Tiết tiểu thư” rõ ràng đến tột cùng.

Tôi chẳng còn tâm trạng để suy nghĩ đến những sự lạ bên trong, chỉ biết nghẹn ngào khóc lóc. Mái tóc mai đã chớm bạc cùng khuôn mặt già nua của song thân lóe hiện trước mắt tôi, tôi đưa tay muốn chụp lấy mà không sao chụp được, lớn tiếng gào thét cũng chẳng thể gọi về. Dung mạo của ca ca cũng bị chướng khí ở vùng Lĩnh Nam che phủ, càng lúc càng trở nên ảm đạm và không rõ ràng, cuối cùng thì hoàn toàn tan biến.


Giang Vi

Tôi là một người yêu sách cuồng nhiệt và đã hơn 20 năm. Tôi dành cả ngày để đọc, viết blog về sách và viết bình luận. Tôi tin rằng sách là công cụ mạnh mẽ nhất trong cuộc sống để mở mang đầu óc cho những ý tưởng và quan điểm mới. Các thể loại yêu thích của tôi bao gồm tiểu thuyết lịch sử, giả tưởng, khoa học viễn tưởng và phi hư cấu. Tôi cũng thích tìm hiểu về các nền văn hóa khác nhau thông qua văn học.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts:

Back to top button