Văn học trong nước

Búp Sen Xanh

1. THÔNG TIN SÁCH/EBOOK

Tác giả : Sơn Tùng

Download sách Búp Sen Xanh ebook PDF/PRC/MOBI/EPUB. Tải miễn phí, đọc online trên điện thoại, máy tính, máy tính bảng.

Danh mục :  SÁCH VĂN HỌC TRONG NƯỚC

Đọc thử Xem giá bán

2. DOWNLOAD

Download ebook                      

File ebook hiện chưa có hoặc gặp vấn đề bản quyền, Downloadsach sẽ cập nhật link tải ngay khi tìm kiếm được trên Internet.

Bạn có thể Đọc thử hoặc Xem giá bán.


Bạn không tải được sách ?  Xem hướng dẫn nhé : Hướng dẫn tải sách


3. GIỚI THIỆU / REVIEW SÁCH

Lời giới thiệu


Xin giới thiệu tác phẩm BÚP SEN XANH của nhà văn Sơn Tùng với các bạn.

Nhà văn Sơn Tùng sinh năm 1928, tại làng Hoa Luỹ (nay là Kim Luỹ), Diễn Châu, Nghệ An, một vùng đất ngay bên bờ biển. Sơn Tùng lớn lên trong cộng đồng dân chài lấy thuyền làm nôi và tiếng sóng vỗ bờ làm lời ru của mẹ. Chính cái mênh mông, phóng khoáng của biển cả đã hun đúc nên khí phách phóng túng pha chút ngang tàng của Sơn Tùng. Nhưng “gã thuyền chài” ấy lại được giáo dưỡng trong một gia đình nhà nho nghèo có truyền thống “trọng chữ hơn trọng miếng ăn”.

Năm 1941, ở tuổi 16, tràn đầy nhiệt huyết, Sơn Tùng đeo ba lô hoà vào dòng chảy của cơn lốc cách mạng. Ban đầu ông hoạt động trong phong trào thanh niên, sinh viên thủ đô. Sau khi Hà Nội giải phóng, Sơn Tùng vào học tại trường Đại học nhân dân và sau đó trở thành cán bộ tuyên truyền của Đảng. Năm 1961 ông về viết cho báo Nông nghiệp và từ cuối năm 1962 là phóng viên của báo Tiền phong. Năm 1967 ông được điều vào Nam thành lập và phụ trách tờ Thanh niên giải phóng. Năm 1971 ông bị thương nặng và rời chiến trường miền Nam mang trên mình 14 vết thương, 3 mảnh đạn còn găm trong sọ não. Nửa người bên phải hầu như bị liệt, thần kinh chéo bị tổn thương nặng, mắt bên phải bị mờ. Ông được đưa sang Trung Quốc chữa bệnh và được vào viện điều dưỡng 3 năm liền. Sau đó ông xin về nhà và … luyện khí công. Với nghị lực phi thường, ông khổ luyện từ 2h sáng tới 8h tối, sức khoẻ ông dần dần bình phục. Trí nhớ cũng hồi phục dần. Khi tay phải duỗi ra được, chân tập tễnh bước thấp bước cao, Sơn Tùng đã lao vào công việc. Điều đầu tiên mà ông làm là truy tìm cho được tác giả của lá Quốc kỳ mà trong những năm tháng ở chiến trường miền Nam ông đã dày công tìm kiếm. Hàng chục chuyến đi, hàng ngàn giờ lao tâm khổ tứ, cuối cùng ông đã tìm ra được cho chúng ta tác giả Quốc kỳ: Nguyễn Hữu Tiến.

Với sự cố gắng phi thường, bất chấp bệnh tật, vết thương đau nhói hành hạ mỗi khi trái gió trở trời, từ năm 1974 đến 1990 ông đã cho ra đời 13 cuốn sách bằng tay phải chỉ còn 3 ngón co quắp. Tuy nhiên, công bằng mà nói, đề tài mà Sơn Tùng thể hiện thành công nhất vẫn là đề tài lãnh tụ, mà đỉnh cao là Búp sen xanh. Đây cũng là công trình mà ông bỏ ra nhiều thời gian và công sức nhất: bắt đầu từ năm 1948 và hoàn thành vào năm 1980. Bằng những chuyến đi không biết mệt mỏi, những cuộc tìm kiếm kiên trì, cuối cùng ông đã gặp được bà Lê Thị Huệ để rồi từ những câu chuyện với bà Huệ ở tuổi 80 ông đã tái dựng lại một trong những quãng đời gian khó, nhưng đẹp đẽ và thơ mộng nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Phát hiện của Sơn Tùng đã mở ra một bước ngoặt, một cách tiếp cận hoàn toàn mới tới cuộc đời và sự nghiệp của Bác. Năm 1981 Búp sen xanh với 100.000 bản ra đời đã gây một tiếng vang lớn.

Cuốn tiểu thuyết lần lượt nhận đủ các loại giải thưởng và chuẩn bị tái bản lần thứ 2 thì không hiểu từ đâu xuất hiện một lời phán: cuốn sách “có vấn đề”. Ngày 23/6/1983, một tờ báo đã dành cả nửa trang phê phán Sơn Tùng dưới tiêu đề Vài ý kiến về Búp sen xanh: “…Không thể nào có một nhân vật Út Huệ yêu Bác, chờ đợi Bác, theo dõi con đường Bác đi cứu nước suốt hàng chục năm mà trong tư tưởng, hành động lại không có biểu hiện gì trước phong trào chung của cách mạng cả nước đang phát triển…”. Bài báo kết luận: “Điều nguy hiểm hơn là tác giả Búp sen xanh đã gắn sự kiện mối tình của Út Huệ và Bác với sự kiện cắm hoa huệ trong nhà sàn của Bác ở Phủ Chủ tịch, và gắn sự kiện đó với câu nói của Bác năm 1962 khi tiếp đoàn cán bộ miền Nam ra thăm miền Bắc: miền Nam luôn trong trái tim tôi”. May thay, cuối cùng thì một kết luận chính thức của cơ quan chức năng “Búp sen xanh không có vấn đề gì” đã dẹp bỏ những lời đồn đại và phê phán vô căn cứ đó. Lập tức 100.000 cuốn của lần tái bản thứ 2 đã ra mắt bạn đọc. Rồi mối tình của cô Út Huệ với chàng thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã đựơc đưa lên màn ảnh bạc và ngày nay người ta tiếp nhận nó như một lẽ đương nhiên…

(Lê Thọ Bình – Vietnamnet 14/02/2004).

ĐỌC THỬ

THỜI THƠ ẤU

Cơn giông mùa hạ dấy lên ở phía Nam. Mây đen từng khối ùn ùn như nấm từ dưới chân trời đùn lên. Thoáng chốc, các ngọn núi của dãy Dăng Màn (1), Thiên Nhẫn… đã ngập chìm vào mây đen đục. Mảng nắng hẹp dần. Cảnh sắc hai bờ sông Lam đã ngả màu sẫm. Những bóng mây trôi qua các cánh đồng chiêm đang mùa thu hoạch, loang lổ, mảng sáng, mảng tối, ô xanh, ô vàng, nhìn về xa xa như một tấm da báo trải rộng hút tầm mắt.

Từ trong khối mây đen dày đặc, thỉnh thoảng quắc lên một roi chớp xanh lè, ngoằn ngoèo rạch sáng vào da trời chì. Tiếp sau roi chớp là tiếng trời gầm…

Bên gốc cây đa đầu làng Chùa (2) có mấy con bò đứng ngủ, mồm nhai uể oải, những cục bọt trắng xốp đọng hai bên mép. Những con ruồi bò bay nhớn nhác tránh né mỗi lần con bò quất mạnh cái đuôi vào hai bên hông. Một tốp người đi làm đồng về ngồi nghỉ chân bên gốc đa đang gạ ông Xẩm hát cho nghe một bài mới. Ông Xẩm ngước đôi mắt mù lòa về phía có tiếng sấm xa xa, hai cánh mũi phập phồng đón nhận mùi hoa sen từ đầm làng đưa tới. Ông nhíu đôi lông mày đen, hỏi những người đang ngồi bên cạnh :

– Trời sôi bụng hay… hay là tiếng súng của cụ Đình (3) ở trên rừng lại kéo về nữa đó, bà con?

Qua nhiều giọng cười giòn, ông Xẩm gật gật đầu nghe, vẻ đắc ý với câu nói đáp lại lời ông hỏi :

– Tiếng sấm của cơn giông chiều đó ông ạ. Trời dạo này loạn giông chứ có giọt mưa nào đâu! Còn cái công việc “bình Tây” của các quan Nghè, quan Cử thì… vận nước Nam mình hỏng mất rồi ! Vua Hàm Nghi đã bại trận, Tây dương (4) đày vua đi biệt xứ. Ôi! Có còn chi nữa mà mong với đợi, hở ông?

Một cụ già, tay vót hom giỏ, từ nãy vẫn ngồi im lặng nghe mọi người trò chuyện. Bỗng cụ cắm lưỡi mác xuống đất, tựa hai bàn tay lên cán, mắt chớp chớp, nói :

– Răng lại nhủ là “có còn chi nữa mà mong với đợi”? Nước có lúc suy lúc thịnh, nhưng có khi mô hết được những bậc hiền tài lo việc giữ nước, việc cứu nước. Cây cổ thụ ni bị gãy thì rồi sẽ có cây khác mọc lên. Rừng không bao giờ hết cây, dân không khi mô hết người tài cao chí lớn mô.

Mọi người nhìn cụ già vẻ hợp ý. Ông Xẩm đưa ống tay áo lên lau hai hố mắt. Ông vẫn mấp máy cánh mũi về phía ngọn gió :

– Dịp ni sen nở nhiều. Ngồi ở chỗ mô cũng được ngửi hương sen.

– Ông ơi – một cô bé gái gọi – cháu biếu ông mấy cái gương sen luộc, ông ăn cho mát ruột ạ.

Ông Xẩm cầm trong tay những cái gương sen đã luộc chín nhũn như tấm mền ong, giọng cảm động, hỏi :

– Cháu là con nhà ai mà thảo ăn rứa?

Cô bé chỉ mĩm cười. Mấy người ngồi cạnh ông già mù nói to :

– Con gái anh nho Sắc đó, ông ạ.

Ông Xẩm nở nụ cười trên cung môi héo hắt, nói:

– Ngỡ đứa mô chứ cháu Thanh, con gái đầu lòng của anh chị nho Sắc, cháu ngoại thầy tú Hoàng (5) thì… thì tôi mô có lạ lẫm chi! Để rồi tôi hát cho bà con ớ đây và cháu Thanh cùng nghe nhớ.

Bé Thanh lại đưa cho ông Xẩm cái bầu nước :

– Ông uống ngụm nước mát rồi hẵng hát ông ạ.

– Cảm ơn lòng thảo của cháu. Ông không khát. Chứ cháu đem nước ra đồng cho ai rứa?

– Dạ… cho mệ cháu ạ.

– Ờ. Vậy ra mệ cháu vẫn chưa ở cữ, còn đi làm đồng xa được. Chứ…. cháu thích được bồng em gái hay bồng em trai, nói ông biết để ông hát mừng cháu nào?

– Cháu thích mệ cháu sinh em trai nữa ạ.

Ông già mù gật đầu, mỉm cười, tay lần mò lên dây đàn. Mọi người ngồi quanh gốc đa đã xúm xít bên ông Xẩm. Mấy con bò vẫn lim dim mắt ngủ, bọt mép tụ tan, tan tụ. Tiếng đàn bầu réo rắt bay lên lên theo lời ca của ông xẩm :

Trời ơi có thấu chăng trời!

Nước Nam cơ khổ nhiều đời đắng cay

Vì chưng Tây thổ sang đây,

Nó vào Gia Định, ở rày Đồng Nai.

Dần dà ra Lục tỉnh, Đàng ngoài,

Các quan tâu đánh, vua ngài không cho.

Bởi vì vua Tự Đức không biết đường lo,

Nó vào nó chiếm mất cả thành đô kinh kỳ…

Bé Thanh chưa hiểu thấu ý nghĩa lời ca, nhưng hai mắt của bé lim dim, bé lắng nghe tiếng đàn ông Xẩm. Những người ngồi cạnh bé Thanh, mặt luôn luôn biến đổi theo từng lời ca của ông Xẩm.

Trời ơi có thấu lúc này,

Khắp nơi khổ cực rạc rài tấm thân.

Một nước làm năm bảy nước ăn,

Để cho quan Tây bắt phu, bắt thuế trong dân nặng nề.

Các quan ta tức giận nhiều bề,

Lập binh tiến đánh Tây thì cho tan

Để mà khôi phục nước Nam…

Đang lúc mọi người đắm vào tiếng đàn não ruột, lời ca xé lòng của ông Xẩm thì một bà tựa tay trên lưng bò, chỉ tay về phía đầm sen, gọi :

– Cháu Thanh ơi! Mệ cháu… có chuyện chi… người ta đang dìu mẹ cháu về nhà kia kìa!

Bé Thanh, tuổi lên bảy, dáng mảnh khảnh, rời khỏi gốc đa, tay cầm cái bầu nước, chạy hối hả về phía những người đang dìu mẹ mình. Chạy đến với mẹ nhưng trong đầu bé Thanh vẫn còn vọng theo những lời ca của ông Xẩm : “… Lập binh tiến đánh Tây thì cho tan… Để mà khôi phục nước Nam… Kẻo dân tình cơ khổ gian nan nhiều bề…”

Dưới bóng tre đầu làng, bà đồ (vợ ông đồ Hoàng Xuân Đường, bà ngoại của bé Thanh) cùng mấy người đứng tuổi cũng đang chạy ra phía đầm sen. Gió đồng lùa những dải lưng, dải yếm của họ bay phấp phới về phía sau…

Về tới đầu sân, cơn đau chuyển sinh lại thốn thoáy, mệt quá chị nho Sắc phải ngồi thụp xuống bên gốc cây thị. Chim chiều về tổ đang ríu rít trên ngọn cây. Bà đồ chốc chốc lại mắng yêu con gái :

– Tham công tiếc việc cho lắm… Đã biểu ở nhà, gần kỳ sinh nở rồi… đừng có đi mần đồng xa nữa…

Bà giục cô An, em gái của chị nho Sắc :

– An, con vô quạt than lên… Mau…

Bà lại giục bé Thanh :

– Cháu đi sang bên nhà với ông. Giữ cả em Khiêm ở bên đó. Tối ni tụi bay ăn cơm, ngủ ở bên nhà bà cả nhớ.

Bé Thanh bước qua dãy chè mạn hảo ngăn đôi sân nhà mình với sân của ông bà ngoại. Thanh vừa nghe tiếng mẹ rên, vừa nghe rõ tiếng ông ngoại ho khúc khắc và tiếng của bố thay ông ngoại đang giảng bài cho học trò :

“Các trò hãy lắng nghe giảng rồi sẽ chép bài sau… Khổng Tử viết : Tự thiên tử dĩ chí ư thứ dân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bản. Nghĩa là : Từ ông vua cho đến kẻ thường dân, ai nấy đều phải lấy việc sửa mình làm gốc…”

Từ bên hè nhà chị nho Sắc, tiếng cô An nói khỏa lấp cả tiếng khóc chào đời của đứa trẻ khiến anh nho Sắc ngừng giảng bài trong giây lát.

– Ồ ồ… chị nho lại sinh con trai… sinh con trai nữa rồi. Mặt mày sáng láng, khôi ngô lắm.

Bà đồ quát : “Cái con bé, có im cái miệng quở độc cháu đi không!”. Bà giục rối rít : “Đưa cái thanh nứa… mau lên… cắt rốn cho cháu. Rồi. Xong rồi… Đưa cái quần cũ của cha mi đây… Trên dây phơi ấy. Tau giặt kỹ rồi. Ủ cháu vô quần ông cho có khước… Có hơi ấm ông nó sẽ được sáng dạ, học giỏi hơn ông, hơn cha cho mà coi…”. Bà còn dặn chị nho Sắc: “Con nhớ là hằng ngày phải chăm lau sạch đĩa đèn rồi hãy đổ dầu thắp. các cụ thường dạy : Sinh con dạ sáng làu làu, nhớ mẹ ngày trước chăm lau đĩa đèn.

Tiếng rên của chị nho im bặt. Tiếng khóc oa oa của đứa bé vẫn chưa dứt hẳn. Và cái ngôn ngữ đầu tiên ấy cửa đứa bé đã hòa âm trong tiếng gà gọi con lên ổ, tiếng bò gọi bê vào chuồng, tiếng chim câu ríu rít trên mái nhà tiếng lá reo, tiếng đồng xa vọng về…

Hương sen từ ngoài đầm bay theo gió pha lẫn mùi bồ kết cháy từ nồi than trong buồng chị nho Sắc tỏa ra ngào ngạt.

Làng Chùa nhòa trong khói sương lam. Đám học trò của cha con ông đồ đã lũ lượt ra về từ lâu. Chúng đi theo lối cổng lớn, không đi tắt qua sân của chị nho Sắc như mọi ngày. Đầu ngõ nhà chị nho đã treo một cành xương rồng gai (6).

Cái cánh cổng chống làm bằng khung tre kết cành rào, hình chữ nhật, đã được sập xuống, cài chặt. Khu vườn nhà ông đồ cũng như mọi nhà khác ở làng Chùa đều đã trở nên một cõi riêng biệt, kín bưng. Giữa cảnh vắng lạnh này nổi lên tiếng ếch nhái kêu gào trời làm mưa cứ ra rả không mệt mỏi. Vô số đốm sáng lập lòe xanh ảo của bầy đom đóm bay chập chà chập chờn trong tối mênh mông.

Ông đồ ngồi xếp bằng trên phản gu, tựa khuỷu tay xuống mặt cái gối cốt bông bọc vải điều gấp cao ba thớt. Anh nho Sắc ngồi đối diện với ông nhạc, vẻ thoải mái. Bé Khiêm ngủ say, nằm sát bên đùi ông, chân duỗi dài sang gần chỗ bố ngồi. Ngọn đèn dầu lạc đậu trên mép đĩa tỏa sáng khắp gian nhà. Những con thiêu thân sa vào đĩa dầu vẫy đôi cánh mỏng yếu ớt, chới với . Bên cạnh cây đèn, cái đỉnh trầm nhỏ thư thả nhả ra những sợi khói thơm mảnh như chỉ. Hương sen ngoài đầm đưa vào nhè nhẹ.

Anh nho Sắc cầm cái nậm chuyên rượu vào chén cho bố vợ. Ông đồ uống một hơi cạn chén rượu :

– Mừng cho nhà ta, mừng cho cả họ Nguyễn làng Sen…

Ông đồ đứng lên, dáng cung kính, thắp năm nén hương, vái năm vái trước bàn thờ gia tiên. Ông đứng nghiêm trang trước làn hương khói. Anh nho Sắc cũng đứng chắp tay thành kính ở phía sau ông. Từ phía đầm sen, tiếng chim cuốc khắc khoải: Quốc… Quốc!

Hai cha con ông đồ trở lại chỗ ngồi. Ông đồ dằn từng tiếng : “Dạ… thính… tử… quy… thốn… tâm… can…” (đêm nghe chim tử quy nhói tim gan). Anh nho Sắc nhận thấy ở người bố vợ, người thầy học của mình từ ngày lâm bệnh, tâm trạng có nhiều trăn trở, nhiều cảm hoài. Anh muốn đứa con trai thứ của mình được ông đặt tên cho. Anh nói :

– Thưa cha, cha đặt tên cho cháu đêm nay luôn ạ.

– Tôi đang nghĩ.

Ông đồ gõ gõ ngón tay trên mặt gối, nói tiếp : Sinh con quý tử khó nuôi… Trồng cây ngon trái lắm người lăm le… Con người ta có thể xét đoán được hiệu quả trước của công việc mình sắp làm. Ví như khi ta cầm nắm hạt giống trong tay thì ta đã dám tin chắc sẽ có những mầm cây mọc lên bậm bạp, và nhìn các mầm non xanh tốt đoán biết được cây quả của nó sau này. Cho nên, tôi muốn đặt cho cháu tên là Côn (7), tự là Tất Thành.

Anh nho Sắc chớp chớp mắt, môi hé nở nụ cười :

– Côn… ấy là tích loài cá hóa chim bằng, phải không thưa cha?

-Chính vậy đó. Theo mong ước của tôi thì… thằng bé sẽ có chí vùng vẫy bốn bể, dù gặp truân chuyên chìm nổi, nhưng ắt thành công. Cho nên tự Tất Thành.

Anh nho Sắc nâng cây bút lông thỏ dúng vào nghiên son. Hương trầm, hương sen như tỏa khắp gian nhà và tụ hội vào ngọn bút Nguyễn Sinh Sắc đang nắn nót dòng chữ NGUYÊN SINH CÔN, tự TẤT THÀNH.

Gió Lào thổi từng cơn dài. Bầu trời, mặt đất bốc mùi nóng khét như sắp sửa bùng cháy. Những cánh đồng khô nẻ hoang hoác, thưa thót bóng người. Không một con cò, con vạc đi kiếm ăn trên đồng. Cây cối đói nước đứng rũ rượi. Giữa trời nắng lửa, những con diều hâu sải cánh liệng tìm mồi dưới đất. Quạ khoang, quạ đen bay thành bầy về phía ngàn xanh, nơi đang có tiếng súng của nghĩa quân Phan Đình Phùng.

Trên các ngả đường quan, đường liên hương, từng tốp người đi kiếm ăn, đầu đội nón mê, trên mình chỉ có chiếc khố dây. Thỉnh thoảng có vài ba bà nhà giàu đi chợ, nón thúng quai thao, váy lụa quét gót, chùm xà tích bạc (8) buông dài song song với các dải yếm, dải thắt lưng màu hoa lý, hoa hiên.

Anh nho Sắc tay cầm ô che nắng, tay xách một khăn gói vải tây điều đựng đầy những thang thuốc bắc. Ngọn gió Lào từ phía cửa thành ùa đến thổi tung tà áo dài vải thâm đất trên người anh; gió mạnh, cái ô trên tay anh lảo đảo. Anh sải từng bước dài qua cửa Tả đi về phía cửa Tiên. Anh thấy ở phía trước một lá cờ ba sắc phật phờ trên cao. Dưới chân cột cờ, những người che ô, đội nón, lác đác có cả những mũ trắng, lố nhố rất đông. Anh định mang thuốc về sớm, nhưng trước việc lạ này, anh rảo bước lại nơi đó. Trên quãng đường gần tới đám hội, cờ đuôi nheo treo hai bên và cờ lá chuối cắm vòng quanh khán đài rực rỡ.

Anh nho Sắc dừng lại ở ngoài cổng chào tết bằng lá dừa, trang trí hoa cờ, đèn lồng. Trên cổng cao gắn bốn chữ nho cỡ to, xếp lối chữ triện : “Đại Pháp vạn tuế”. Từ bên trong cổng chào, tiếng kèn thổi oang oang chói tai, khác hẳn tiếng đàn đáy, đàn bầu mà anh đã quen thuộc. Một người mặc đồ sang trọng, treo trước ngực một mảnh giấy điều hình đuôi én, chữ vàng : “Quốc khánh Đại Pháp”. Ông ta tiến đến, chìa tay :

– Xin mời huynh vô dự ngày lễ đại khánh của Pháp quốc.

Anh nho Sắc chẳng ưa gì cái trò này của bọn thực dân Pháp và lũ quan lại làm tay sai cho chúng, nhưng anh cần nhìn tận mắt cái việc chúng đang bày ra giữa quê hương mình. Anh vừa bước vào trong cái cổng chào, một con mụ người Pháp mũi diều hâu, mắt mèo, tóc lông bò rừng, váy hoa dài lệt bệt phồng to như cái nơm, áo hở ngực, lồ lộ dây chuyền vàng quấn cổ, hai cổ tay hai vòng ngọc biêng biếc xanh, chân đi giày gót cao nghều, bước vội đưa cho anh một gói vuông bọc giấy bóng đỏ, bên trong có chữ “Đại Pháp vạn tuế”. Mụ đầm nói, anh nghe như tiếng chim, tiếng vượn. Anh chẳng hiểu gì nhưng bất giác anh cứ cầm lấy gói quà từ tay mụ đầm. Một người thông ngôn đứng tuổi nói với anh :

– Bà lớn phát quà nhân ngày quốc khánh của nước Đại Pháp. Mời anh vô dự lễ và nghe hiểu thị.

Một tay xách khăn gói đầy thuốc bắc, một tay cầm gói quà của mụ đầm đưa và cái ô ngoắc vào khuỷu cánh tay, anh nho Sắc bước từng bước nặng trĩu. Giữa tháng bảy, nhưng là tháng năm âm lịch, nắng xế chiều gay gắt. Cả đám người đứng chen chúc dưới bóng rạp mái bằng. Những người đứng vòng ngoài đều phải giương ô, đội nón. Anh nho Sắc lách vào mé rạp, ngó lên phía khán đài. Một đám quan lại áo thụng, khăn chít ngồi khép nép ở mấy dãy ghế đầu. Một tên Tây cao lớn mặc đồ nhà binh, hai cầu vai gắn sắc hàm sĩ quan có ngù lua tua phủ xuống. Cả khuôn mặt hắn như nhuộm phẩm điều do nắng hè của cái xứ nhiệt đới này phả cháy. Anh nho Sắc vừa nhìn hắn chằm chằm, vừa lắng nghe tên thông ngôn nói giọng Nam Kỳ : “Cái xứ An Nam này đã chịu ân sâu nghĩa nặng của nước Đại Pháp từ thời chúa Nguyễn ở Đàng trong bị giặc áo vải Tây Sơn đánh bật ra tận đảo Côn Lôn… Nước An Nam này mà không có sự giúp đỡ của Đại Pháp thời cái họa nội chiến giữa Đàng trong với Đàng ngoài không thể chấm dứt được. Và nếu không sớm có mặt người Pháp thời cái xứ sở hẻo lánh, tối tăm này đã bị người Bồ Đào Nha hoặc người Hà Lan hay người Anh chiếm đóng rồi. Hời các ngài tai mắt xứ An Nam! Hãy nhận ra sự có mặt của người Pháp ở đây là một duyên may hiếm có…”.

Càng nghe nhiều những lời khoe khoang sức mạnh, hăm dọa, mạt sát, dụ dỗ… của tên Pháp thực dân, anh nho Sắc càng thấy nhói đau, mặt cứ tối sầm lại. Anh lẳng lặng ra về. Anh lê từng bước nặng nề ra khỏi thành Vinh. Ngay trên lối về huyện ly Nam Đàn, một đám người đi ăn xin còn ngồi trốn nắng dưới bóng cây. Anh mở cái gói quà của ngày Quốc khánh Pháp mà mụ đầm đưa cho anh toàn là bánh, kẹo được bọc giấy bóng, giấy bạc – đem phát tất cả cho đám người đang đói lả ở bên lề đường. Anh tự nhủ : Tây dương đã an tọa thế ấy thì quân quan Phan Đình Phùng, quan Tôn Thất Thuyết dù cố sức mấy cũng khó lòng chuyển được vận nước đang suy!

Trên đường từ thành Vinh về làng Chùa, anh nho Sắc đuổi bao nhiêu ý nghĩ ngổn ngang. Anh lo sức khỏe của bố vợ đang ngày một sa sút. Vợ anh sinh lần này bị mất sữa và bị bệnh hậu sản. Anh đã cắt hàng chục thang thuốc cho vợ uống, bệnh có thuyên giảm, nhưng vẫn không có sữa cho con bú. Bé Côn vừa phải đi bú nhờ vừa phải ăn cơm bà ngoại mớm cho. Điều trăn trở lớn nhất trong lòng anh nho Sắc : Biết mất nước mà không lo việc cứu nước là phạm điều bất trung. Nhưng khốn nỗi, gánh gia đình của anh quá nặng. Mới hăm bảy tuổi mà đã ba con. Còn là cậu học trò, chưa có khoa cử gì. Đã nhiều đêm, anh và bố vợ ngồi đàm luận việc nước việc nhà cạn mấy đĩa dầu. Anh thường suy nghĩ về những lời bố vợ nói : Vợ chồng anh sinh ra giữa

thời buổi bọn bạch quỷ đến hà hiếp nhà vua, nhưng nước Nam ta chưa mất hẳn cho Tây-lang-sa (9). Đến thời các con của anh ra đời thì : Bé Thanh sinh năm Giáp Thân. Năm đó nhà vua đã ký hòa ước giao cả nước ta cho người Tây-lang-sa cai trị (tức năm 1884 ký hòa ước Pa-tơ-nốt công nhận quyền đô hộ của Pháp ở Việt Nam). Sang năm Ất Dậu, Tây-lang-sa đã cử quan “đầu triều” (10) sang ngự trị bên cạnh nhà vua nước Nam. Rồi quan thân thần Tôn Thất Thuyết đã phải rước vua Hàm Nghi lánh ra đồn trú ở vùng rừng núi Quảng Trị, Quảng Bình và xuống chiếu Cần Vương. Đến lượt bé Nguyễn Sinh Khiêm ra đời, năm Mậu Tý (1888), vua Hàm Nghi bị sa vào tay giặc! Ôi! Vua đã bị Tây-lang- sa đày đi biệt xứ tận nước người (11). Tây-lang-sa lại đưa Đồng Khánh lên ngôi. Người ta truyền rằng, trước lúc bọn Tây-lang-sa đày vua Hàm Nghi đi, chúng còn dụ dỗ, mua chuộc đủ phương kế, nhưng nhà vua không chịu khuất phục, nhận việc đi đày chứ không cam chịu nhục để trở lại ngai vàng! Chúng nó thay vua thì cũng đổi “quan Tây đầu triều” khác sang nước mình cai trị. Cái tên của nó ngoằn ngoèo khó nhớ, khó gọi… Hình như là Bè hay Buôn Bè (12), rồi gì gì ấy nữa kia. Năm nay, bé Côn ra đời, lại một tên “quan Tây đầu triều” khác đến cai quản xứ mình. Thế cuộc xoay vần như vậy đó! Các con anh sinh ra giữa lúc nước ta đã mất hẳn cho bọn bạch quỷ rồi! Đất nước ta đang đắm chìm vào đêm tối. Nhưng anh hùng nghĩa khí dám xả thân cứu sơn hà xã tắc thì đều bị thất bại! Ôi! Dân Nam ta khác nào đàn gà con đã bị diều hâu cướp mất mẹ!…

Anh nho Sắc mải miết nghĩ suy về những điều tâm sự của người bố vợ, người thầy, mà cũng chính là tâm trạng anh trước bối cảnh “quốc loạn, gia bần”. Vì mải nghĩ quên cả đường dài, lúc về gần đến cây đa đầu làng anh mới nhận ra mình đã đi sắp đến nhà. Nỗi lo về bệnh tình của bố vợ, về cảnh vợ bị ốm, mất sữa lại dấy động trong lòng anh. Và trước mắt anh chập chờn hình ảnh khoa thi Hương (13) sắp đến.

Anh rẽ sang con đường mòn đi tắt về phía đầm sen để bà con ngồi gốc đa hóng mát nghe ông Xẩm đàn hát được tự nhiên.

Bên đầm sen, trước lối vào nhà, anh dừng bước đón nhận làn hương mát. Giữa đất trời khô cháy bao la, đầm sen như mặt gương xanh làm dịu bầu nóng hạ. Những bông sen trắng, sen hồng đua sắc khoe màu với đàn ong đi kén mật. Anh chợt nghe trong sân nhà có tiếng bé Nguyễn Sinh Khiêm đang nựng em, nói chệch âm vì chưa thật rõ tiếng: “Anh cho eng (em) Côông (Côn) cái búp sen xanh nì… Búp sen xanh, đẹp… đẹp lắm em ạ…”

Anh nho Sắc đi thẳng vào nhà lớn, nơi ông nhạc nằm dưỡng bệnh. Chị nho Sắc đã gượng dậy được, đang bế bé Côn ngồi dưới gốc thị, mớm cơm cho con.

Lại một mùa sen nở. Nhưng không phải mùa sen báo tin vui một con người ra đời như ba năm về trước mà mùa sen tang tóc đến với vợ chồng anh Nguyễn Sinh Sắc : ông tú Hoàng Xuân Đường tạ thế.

Tin bố vợ qua đời đến với anh nho Sắc giữa lúc gà gáy đầu. Anh chẳng kịp sửa soạn gì, chỉ đến chắp tay xá thầy học giữa đêm khuya để về hộ tang bố vợ. Người thầy học của anh, một ông đồ nổi tiếng dạy học trò thành đạt, xúc động đưa cho anh mười nén hương trầm :

– Thầy Hoàng Xuân Đường là bạn đồng môn của tôi, tuy ông không có khoa bảng cao, nhưng tôi coi ông là bậc đàn anh. Anh mang về mười nén hương trầm này thắp trước linh cữu ông và anh vái giùm tôi năm vái vì tôi chưa thể đi viếng ông lúc ni được.

Ông Nguyễn Thúc Tự chắp tay cưng kính vái trước mặt anh nho Sắc năm vái để anh nho Sắc chuyển những cái vái ấy về linh cữu ông Hoàng Xuân Đường.

Trời tối như mực. Anh nho Sắc cùng mấy người bạn học cũ từ làng Đông Chữ đi trong tiếng gà gọi sáng, chó sủa dậy làng. Anh nhắc lại với các bạn lời thầy dặn lúc anh đi học thêm với ông đồ Nghi Lộc : “Cái mệnh của con người ta là : sinh, lão, bệnh, tử. Cha ốm đau kỳ này, nếu chưa phải là tận số thì rồi cũng qua khỏi. Nhược bằng… Chữa được bệnh không ai chữa được mệnh. Cho nên con cứ thư tâm mà đi học thêm. Kỳ thi Tân Mão (1891) con đã không thành đạt thì kỳ thi Giáp Ngọ (1894) tới con phải…”. Anh ân hận : “Tuy đã được thầy căn dặn vậy, lòng tôi vẫn áy náy về bệnh tình của thầy. Tôi đã dặn nhà tôi là hễ thấy bệnh cha khang khác thì cho người xuống ngay gọi tôi về. Ngờ đâu cái số tôi được thầy đón về làm con, làm học trò, mà lúc thầy trút hơi thở cuối cùng từ biệt cõi đời thì tôi lại không được cái phúc phận ở bên thầy!”

Anh nho Sắc và các bạn anh đi một mạch từ Nghi Lộc về tới làng Chùa vừa lúc mặt trời mọc. Anh Quý (14) và anh San (15) đang đứng đợi anh nho Sắc bên bờ ao sen. Cử Quý, nho San, nho Sắc nhìn nhau nuốt nước mắt, không nói lời nào mà chia nhận với nhau nỗi đau qua ánh mắt.

Anh nho Sắc từ ngoài sân chạy vào, hai tay dang rộng, phủ phục xuống nền nhà, bên cạnh giường người thầy học, người bố vợ. Toàn thân anh rung lên từng chập dài. Bé Côn, tay không rời chéo áo của mẹ, ngơ ngác nhìn mọi việc đang xảy ra, vẻ khó hiểu.

Qua một cơn khóc nấc dài, anh nho Sắc đốt mười nén hương trầm, kể lại những điều mà thày học Nguyễn Thức Tự nhờ. Anh vái đúng số vái thầy Tự đã gửi về. Anh thưa với mẹ vợ và bà con chú bác trong họ Hoàng :

– Thưa mẹ, thưa các bác, các chú, các bà và anh chị em trong họ hàng làng xóm, bạn hữu. Theo tục lệ từ xưa của nhân dân ta thì con rể để tang bố vợ có ba tháng. Nhưng phần tôi thì xin cho tôi được để đại tang ba năm, làm việc hiếu trong tang lễ như một người con trai trưởng. Vì thầy Hoàng Xuân Đường là người nuôi nấng tôi, dạy tôi học chữ thánh hiền từ tấm bé, gả con gái đầu lòng cho tôi và gây dựng cơ nghiệp cho tôi…

Mọi người xúc động hướng mắt nhìn anh nho Sắc đầy trìu mến. Một cụ già trong họ nghẹn ngào nói :

– Quý hoá quá! Cái bụng anh nho Sắc nhiều chữ nên nghĩ khác hẳn những người khác từ xưa tới nay. Cao đạo nên cao kiến. Ông bác tôi nằm đó hẳn là mát dạ.

Một số bà con nói nhôn nhan khắp nhà, khắp sân :

– Khối người có con trai hàng đàn mà lúc chết kiến kéo đến khoét mắt, còn các con thì bâu lại đống của tranh chia phần hơn!

Ba chị em bé Thanh, bé Khiêm, bé Côn đứng sát vào thành giường ông, chăm chú nghe mọi người nói những lời tốt đẹp về ông mình, về cha mình. Bỗng bé Nguyễn Sinh Côn níu áo cha, nói :

– Cha ơi! Cây nến cũng khóc ông. Nước mắt nó chảy cha ơi!

Anh nho Sắc xoa xoa đầu con :

– Ừ, cây nến cũng biết thương ông. Ai cũng thương nhớ ông, con ạ.

Anh cử Quý và anh nho San bế bé Côn và bé Khiêm đi ra sân. Bé Thanh đã lên chín thì luôn luôn ở bên cạnh dì An.

Anh nho San hỏi bé Côn :

– Người ta khóc là phải gào lên từng tiếng, cây nến nó đâu biết nói mà cháu lại bảo nó khóc ông?

Bé Côn, hai mắt lúng liếng :

– Cha cháu, chú Quý, cả chú nữa, nước mắt chảy mà nỏ (16) có tiếng khóc. Cây nến trên bàn thờ cũng chảy nước mắt thương ông cháu chứ không có tiếng khóc, chú ạ.

Anh cử Quý nói với anh nho San :

– Bé Côn sớm biết xét đoán, nhớ tốt.

– Cháu Côn có thích đi học chữ không – Anh nho San hỏi.

Bé Côn nói luôn :

– Cháu đã học rồi, chú ạ.

– Cha cháu dạy cháu học à?

– Khôông ạ.

– Cháu đã học được những chữ chi nào?

Côn lật ngửa bàn tay anh nho San ra, chìa ngón tay trỏ, vừa vạch vừa nói :

– Chữ nhất là một nì, chữ nhị là hai nì, chữ tam là… là ba nì.

Bé Khiêm vẻ khinh thường em :

– Hắn chỉ hoọc (học) được mỗi ba cấy chự nớ (cái chữ ấy) thôi.

– Hứ, – bé Côn giọng nũng nịu – anh Khêm (Khiêm) nói nỏ phải… nỏ phải. Êm (em) biết nhiều hơn chứ, đâu chỉ có ba chữ. – Bé Côn lại ngửa bàn tay anh nho San ra vạch từng nét chữ tứ, chữ ngũ…

Trong nhà, bài vị, linh sàng cũng đã lập xong. Anh nho San, anh cử Quý bế hai anh em Khiêm, Côn vào làm lễ khâm liệm ông Hoàng Xuân Đường.

Một hồi bảy tiếng cồng gióng giả vừa dứt, giọng người chủ tang kéo dài gọi : “Ba… hồn… bảy… vía… cụ Hoàng… Xuân… Đường… về… nhập xác…!”. Tiếng trống, tiếng cồng, nhạc bát âm và tiếng khóc càng cất lên inh ỏi. Nắp quan tài đậy lại. Cả nhà gục đầu vào phía áo quan. Bà đồ, chị nho Sắc, cô An ôm choàng lấy quan tài gào khóc…

Đúng giờ Thìn (17), chiếc quan tài được từ từ nâng lên trên những cánh tay của đám học trò và những người thân thích, bằng hữu cụ đồ. Anh cử Quý, anh nho San, anh Thuyết khiêng ở đằng đầu quan tài. Anh nho Sắc mặc đồ đại tang phủ phục xuống đất cho quan tài khiêng đi qua.

Ông già Xẩm, vai mang đàn bầu, tay cầm gậy cũng dò từng bước đi theo đám tang ông đồ ra tới giữa đồng.

Xong tuần tang bố vợ, anh nho Sắc gầy rộc như qua một trận ốm. Chị nho Sắc và cô An thì phải bắt tay ngay vào công việc : ngày đi làm đồng, tối dệt vải quá nửa đêm mới đi ngủ. Số tiền tốn kém vào việc ma chay tuy được những học trò, bạn hữu phúng điếu nhiều, nhưng chẳng thấm tháp, cho nên mẹ con bà đồ phải lấy công dệt vải để trang trải. Phần thì kỳ thi Hương cũng không còn xa nữa, cả nhà bà đồ đều lo lắng, mong đợi nhiều ở anh nho Sắc trong kỳ thi này.

Từ ngày ông đồ mất, vợ chồng anh nho Sắc về ăn chung với bà đồ. Ngôi nhà tranh ba gian của ông bà đồ dựng lên cho vợ chồng nho Sắc ra ở riêng nay tạm cho những chị em làng Chùa mượn làm nơi nhóm phường kéo sợi. Những đêm trăng, từ mái nhà này những điệu ví dặm được cất lên cùng với tiếng xa quay…

Một hôm, có mấy người bà con bên họ ngoại của bà đồ đến dự lễ đốt vàng mã cho ông đồ nhân tết “xá tội vong nhân” rằm tháng bảy. Khách ở lại nghỉ đêm. Bà đồ ngồi ở giữa giường. Ba chị em bé Thanh, Khiêm, Côn ngồi vây quanh bà nghe bà kể chuyện với khách. Trăng rằm sáng như ban ngày. Những khóm cúc ngoài cửa sổ ngả bóng vào trang sách của anh nho Sắc đang học. Chị nho Sắc thì ngồi dệt trên khung cửi ở gian nhà đầu hồi phía Tây. Cô An đi quay sợi với phường vải bên nhà chị nho Sắc.

Mấy người khách cứ tấm tắc khen :

– Bác có được người con rể như anh nho Sắc thật là quý hóa.

Bà đồ đã từ lâu được ấm lòng về điều ấy. Cho nên bà nhắc lại chuyện cũ với một giọng hối hận :

– Vợ chồng nhà nho đã có ba mặt con. Ấy vậy mà cái bụng của tôi vẫn chưa hết áy náy về cái tích tôi không muốn gả con Loan cho nho Sắc.

Bà mời khách ăn trầu. Bé Thanh và bé Côn tranh nhau được giã trầu giúp bà. Bé Khiêm thì ngồi lì xì, nghịch trò xếp những thứ trong cơi trầu thành ô, thành hình khối… Bà đồ vẫn cái giọng đều đều :

– Ngay lúc ông nhà tôi đón nho Sắc về nhà này, quần áo lấm lem bùn đất, tóc đỏ hoe như râu ngô khô, mặt mũi đen nhẻm, chỉ có hai con mắt sáng tinh anh, cặp lông mày dài mượt lộ rõ một đứa trẻ có tướng mạo. Tôi thương nó như con đẻ từ bữa ấy kia. Hơn mười năm nho Sắc ăn học trong nhà ni, tôi không hề chê nổi một tí chi về đường ăn nết ở cả. Nhưng khi ông nhà tôi đưa ra cái việc gả con Loan cho nho Sắc là tôi không thuận bụng. Tôi đâu có tính chi cái chuyện “môn đăng hộ đối” mà sợ miệng thế gian cười chê rằng con gái nhà có danh có giá mà hư đốn để bố mẹ phải gán luôn cho đứa con nuôi đã ăn ở trong nhà. Được cái, ông nhà tôi đã quyết là làm… Ông đã xuống tận quê ngoại thưa chuyện ni với cha mẹ tôi. Ông còn mời cả họ Hoàng lại để ông thưa việc ông gả con gái đầu lòng cho nho Sắc…

Đối với ba chị em Thanh, Khiêm, Côn thì đây là lần đầu tiên được nghe bà ngoại nói kỹ về bố mẹ mình.

Không ai còn nhớ được người đầu tiên của dòng họ Nguyễn Sinh đến làng Sen khai cơ lập nghiệp. Người ta chỉ còn nhớ rằng, từ buổi làng Sen còn là trang trại đã có người họ Nguyễn ở sinh sống. Hồi bấy giờ còn gọi là Trại Sen, vì có nhiều đầm sen rộng bát ngát. Sen nhiều đến nỗi có những tên : Đồng Sen, Cồn Sen, Đầm Sen, Giếng Sen…

Do có nhiều sen, cảnh trí trong làng, ngoài đồng lại đẹp nên Trại Sen đổi tên thành làng Mỹ Liên. Về sau các cụ lại đổi là Kim Liên.

Nhất vui là cảnh Kim Liên

Cảnh tiên có cảnh, người tiên có người.

Cái thuở ấy, làng Sen gồm có năm phường : phường Giữa (xóm Đông Lĩnh), phường Phú Đầm (xóm Nam Lĩnh), phường Cơn Trôi (xóm Tây Lĩnh), phường Thượng (xóm Thượng Thọ), phường Ngoài (xóm Trung Ca, vì dân xóm này hát xướng giỏi, có phường hát nhà trò).

Lúc về ở Trại Sen, họ Nguyễn chưa đệm chữ Sinh. Qua gia phả của một nhánh họ thì : “Hoàng sơ tổ khảo là Nguyễn Bá Phụ. Tiếp đến đời Nguyễn Bá Bạc, đời Nguyễn Bá Ban, đời Nguyễn Văn Dân. Bốn vị tổ này không ghi rõ sinh về thời nào. Đến đời ông Nguyễn Vật bắt đầu lót đệm chữ “Sinh”, ông là giám sinh, triều Lê Thánh Đức, năm thứ ba. Kế đến, ông to đời thứ sáu là Nguyễn Sinh Trí mới mười bảy tuổi đã đậu hiếu sinh. Đến năm ba mươi tư tuổi, ông đậu tam trường khoa thi Hội”.

Họ Nguyễn Sinh giàu và có khoa cử đời ông tổ thứ năm, thứ sáu. Đến đời thứ mười là Nguyễn Sinh Nhậm vẫn ở lại phường Phú Đầm, một phường nhiều đầm sen nhất Trại Sen. Ông Nguyễn Sinh Nhậm vào bậc trung lưu của làng Sen. Ông lập gia đình sớm nhưng hiếm con, khi sinh hạ được một người con trai tên là Nguyễn Sinh Trợ, tên chữ là Thuyết thì bà Nhậm chết. Ông Nhậm ở vậy nuôi con cho đến tuổi thành niên và lập gia đình riêng cho con trai rồi mới lấy vợ kế. Ông cưới bà Hà Thị Hy, một cô gái có tài hoa, nhan sắc bị quá lứa ở làng Sài, cùng một xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh với làng Sen.

Hà Thị Hy là con gái một nghệ nhân nổi tiếng về ngón đàn đáy, đàn bầu. Nhà giàu có, thuộc loại nhiều ruộng nhất của làng Sài. Ông ham học chữ “thánh hiền”, nhưng không màng chuyện thi cử. Trong nhà luôn luôn nuôi thầy dạy học. Năm ông đã hai thứ tóc còn nuôi cử nhân Hồ Sĩ Tạo dạy cho các con cháu và ông học thêm. Ông còn nhóm lên trong nhà mình một “phường hát ả đào”. “Phường hát ả đào” của ông chỉ để làm vui trong gia đình, trong họ hàng và những bà con có đám cưới, đám ăn mừng thượng thọ.

Hy được cha yêu quý, truyền cho tất cả vốn hiểu biết về đàn, phách và ca trù. Cô lại còn có biệt tài về múa đèn. Khuôn mặt “trăng rằm”, lông mày cong vành bán nguyệt, mắt lá đào, mũi thon dài, môi cắn chỉ, cổ ba ngấn, lưng ong, cô dang thẳng hai cánh tay hình chữ thập trên đôi cánh tay ấy đặt mỗi bên ba đĩa đèn, và trên đầu cũng đội ba đĩa đèn đầy dầu, thắp sáng. Cô múa dẻo như con rắn luồn qua những cành cây mà dầu trong đĩa không sánh ra ngoài, đèn không tắt một ngọn nào. Nhiều bà con trong làng khâm phục tài múa đèn của cô đã gọi cô là cô Đèn. Nhưng, không ít người ngầm coi cô là “xướng ca vô loài”. Những nhà giàu có không muốn dạm hỏi cô về làm dâu. Những nhà không bằng nhà bố mẹ cô thì lại sợ không “môn đăng hộ đối”.

Một buổi trưa hè. Gió Lào phả cái nóng vào mọi chốn mọi nơi trên đất làng Sài. Một nhóm con trai ra đầu làng ngồi mát, đan rổ rá. Cô Đèn đi chợ xa về. Cô mặc váy lụa, bốn dải lưng xanh, dây xà tích, áo dài vải Đồng Lầm lấp ló cổ áo trắng, yếm thắm, vấn khăn nhung, tóc thả đuôi gà. Cô đi từ ngoài đường hàng huyện trở vào làng. Cô quẩy đôi thúng đậy hai cái mẹt kín bưng, trên mẹt có một chồng bánh đa. Vừa đi chớm tới bóng râm đầu cổng làng, thấy đông người đang ngồi mát dưới gốc cây, cô đã cố ý đi nép vào ria đường làng. Bất thần, một anh chàng giơ tay đụng vào vai cô và nói giọng chớt nhả. Cả đám trai làng cười ồ lên. Cô Đèn mặt đỏ bừng, hai con mắt lá đào quắc sáng như hai ngọn đèn, mắng : “Cái hạng các anh không đáng dụng đến gấu váy của tôi đâu”. Như lửa bị giội nước, mọi người mặt ngay cán tàn ngồi im như phỗng đá. Cô Đèn đã đi khuất sau bờ tre, đám trai làng mới hỏi nhau :

– Con Đèn chượi (chửi) người trêu nó hay chượi cả bọn chúng mình ngồi đây hề?

– Hắn gọi “cái hạng các anh”, rứa là hắn nhủ cả đám chúng mình.

Từ cái hôm ấy, tất cả con trai chưa vợ ở làng Sài “ăn thề” với nhau : Không ai được hỏi cô Đèn làm vợ. Nếu con trai ở làng khác đến làng Sài dạm hỏi cô Đèn thì đón đường đánh. Cuộc trả thù này đã hãm duyên cô Đèn cho tới năm cô đã ba mươi tuổi mà vẫn chưa lấy được chồng. Có người gợi ý với bố cô Đèn nên soạn một cơi trầu, một bầu rượu mời đám trai làng đèn, xin lỗi để họ xá cho… Ông đã bàn với con gái cái điều ấy. Nhưng cô Đèn vẫn một mực không chịu nhún mình với đám trai làng. Khi ông Nguyễn Sinh Nhậm từ làng Sen đánh liều sang xin ăn hỏi cô Đèn, trai làng Sài họp lại bàn luận… Họ xót xa cho cô Đèn : Một người con gái tài hoa, nhan sắc nhất làng mà phải chịu cái “án treo” quá lứa, lỡ duyên, nay phải đi làm vợ kế của một người làng khác! Chúng ta không nên ngăn cản nữa. Đọ gươm khi còn trên yên, đừng chém theo lúc người đã ngã ngựa!

Trai làng Sài đã dựng một cổng chào ở đầu làng trên con đường đi sang làng Sen. Họ còn nhờ cử nhân Hồ Sĩ Tạo làm cho một bài văn chúc. Lúc đám rước dâu tới cổng chào, trai làng Sài bận quần trắng, áo dài, đội khăn, đứng thành hai hàng. Một người có giọng bình văn hay bước ra đọc bài chúc. Họ nhà trai đã đáp lễ mười quan (18) tiền đồng, một vò rượu tăm và một cái thủ lợn.

Cô Hy về làm bạn với ông Nguyễn Sinh Nhậm được ít lâu thì năm Quý Hợi (1863) sinh con trai. Ông Nhậm đặt tên cho con là Nguyễn Sinh Sắc. Cuộc sống của gia đình rất êm ấm. Nhưng niềm hạnh phúc của mẹ con cô Đèn đã tắt phụt như ngọn đèn trước gió : Nguyễn Sinh Sắc mới lên ba thì ông Nguyễn Sinh Nhậm chết. Trước lúc trút hơi thở cuối cùng, ông Nhậm gọi cả hai người con trai, người con dâu đến bên giường và căn dặn vợ chồng Nguyễn Sinh Thuyết : “Cha phải hai lần xây dựng bạn trăm năm mà cũng chỉ được có hai mụn con trai. Cha những mong có đôi ba lần sinh nữa cho đông anh đông em, cũng như rừng nhiều cây bão tố không xô ngã được. Không ngờ cha phải sớm từ giã các con. Tội nhất là em Sắc của các con còn quá bé bỏng. Mẹ kế của các con thì tuổi trẻ chưa qua! Cho nên vợ chồng con phải thay cha giúp mẹ kế của các con nuôi em Sắc nó nên người, mà điều hệ trọng là làm sao cho bé Sắc có năm ba chữ thánh hiền. Điều mong muốn cuối cùng của cha là : Dầu cha đã khuất, các con phải kính trọng người mẹ kế của các con như lúc cha đang tại đường. (Ý nói như lúc còn sống)”.

Sau ngày ông Nhậm qua đời, vợ chồng ông Nguyễn Sinh Thuyết ngỏ ý đón mẹ con bà Hy về ở chung. Nhưng bà Hy e ngại sẽ không tránh khỏi sự va chạm giữa bà với con dâu riêng của chồng. Với tấm thân quả phụ ngoài ba mươi tuổi, Hà Thị Hy cặm cụi thờ chồng, nuôi con. Hằng ngày bà đem con theo ra đồng làm lụng, tối về, vòng tay mẹ ấp cổ con trong xó nhà hiu quạnh. Hà Thị Hy lòng đầy hy vọng một vài năm nữa, con trai mình biết nhớ được mặt chữ thì cho đi học. Nào ngờ, một buổi sáng, hàng râm bụt còn đẫm sương mai, bé Sắc chạy từ trong nhà ra ngõ, gọi thất thanh:

– Anh…ơi…! M…ệe mch …ết…mệ…em chết!… Anh… ơ…ii!

Vợ chồng Nguyễn Sinh Thuyết hốt hoảng chạy tắt vườn băng qua bờ rào sang nhà người mẹ kế. Nhưng cô Đèn – Hà Thị Hy đã tắt nghỉ trên giường góa bụa. Hàng xóm cũng đã ùa tới. Tiếng khóc thương tiếc người thiếu phụ bạc mệnh dậy lên với những lời than thở : “Ôi! Một người con gái đã một thời sáng lên như ngọn đèn mà cũng ngắn ngủi như ngọn đèn!”.

Tin cô Đèn chết bay sang làng Sài. Những người cùng lứa với cô Đèn cảm thấy đột ngột. Đám trai làng trước đây đã “cầm duyên” cô nghe tin này càng sửng sốt. Họ rủ nhau sang ngay làng Sen tham gia việc chôn cất cô Đèn. Nghĩa tử là nghĩa tận, gia đình anh Thuyết vui lòng chấp thuận để trai làng Sài được đào huyệt và tự tay khiêng quan tài cô Đèn đến tận nơi yên nghỉ cuối cùng. Những bạn hát ở trong “phường hát ả đào” làng Sài cũng mang theo đàn, phách vừa đi vừa hát những bài tiễn biệt cô Đèn. Trai làng Sài còn nhờ ông Hồ Sĩ Tạo làm “Văn ai” khóc cô Đèn. Ông cử họ Hồ đã đứng trước mộ cô Đèn đọc bài “Văn ai”. Mọi người xúc động theo giọng bi ai của ông cử họ Hồ thổn thức đọc điếu văn.

Cha chết. Mẹ lại chết. Nguyễn Sinh Sắc mới hơn bốn tuổi đầu về ở với người anh cùng cha khác mẹ, lòng trống trải, mắt ngơ ngác, xa lạ với tất cả. Những đêm đầu tiên ở trong nhà anh, Sắc cứ ngỡ là ở nơi bãi hoang. Thỉnh thoảng Sắc khóc thét : “Mệ !… Mệ… ơi ii!” Người anh cứ phải nằm xuống ôm em giữ cho em ngủ. Nhưng, hễ rời vòng tay anh ra, Sắc lại giật mình khóc thét trong đêm khuya. Người chị dâu khó tính lại nạt nộ em, cằn nhằn chồng : “Nó không ngủ thì cho nó đi ra cồn để ma nó bắt”.

Sợ chị dâu mắng, bé Sắc nhắm nghiền mắt nằm im thin thít. Hình ảnh mẹ bay lượn trong quầng ảo giác xanh đỏ tím vàng. Và Sắc thấy một váng hào quang tỏa sáng. Mẹ của Sắc hóa thành bà tiên trong truyện cổ tích mà mẹ đã kể cho Sắc nghe. Sắc bỗng thấy lâng lâng như nhấc mình bay lên theo mẹ. Rồi mẹ của Sắc lại như một con cò trắng chở Sắc bay qua đồng xanh, qua sông xanh, qua ngàn xanh, qua biển xanh…

Thuyết tưởng em đã ngủ yên, anh rón rén dậy. Anh đến thì thầm dặn vợ đừng mắng mỏ đứa em mồ côi bố mẹ đang tuổi trứng nước. Bé Sắc đã choàng dậy, giấc mơ tan biến, chỉ thấy một mình trống trải. Sắc chạy ra sân, ra ngõ, ra đường cái theo dòng nhớ trong mơ. Đến bờ ao sen, từng bầy đom đóm bay, Sắc bắt đầu rùng mình sợ hãi, bấy giờ mới khóc to gọi : M…ệ… ơ i  i! Mệ… ơi… về… với con… Mệ… ơi!

Đêm tối như mực. Tiếng chó sủa rinh làng. Vợ chồng anh Thuyết, bà con trong họ, trong xóm đổ xô ra đường đuổi theo bé Sắc…

Qua một trận ốm kéo dài, ai cũng tưởng bé Sắc không sống nổi. Nhờ được ông ngoại săn sóc thuốc thang, Sắc đã khỏe mạnh. Tiếc thay, ông ngoại của Sắc lại từ trần mà bà ngoại thì đã mất từ lâu, Sắc lại trở về làng Sen sống với anh Thuyết.

Làm theo lời cha dặn lúc hấp hối, Nguyễn Sinh Thuyết cho Sắc đi học chữ nho ngày một buổi; học về, đi chăn bò, cắt cỏ. Hôm đưa em đến thầy tú Vương xin học, anh Thuyết bưng cơi trầu, chai rượu đi trước, Sắc mặc áo năm thân nhuộm nâu non, quần dài quá gối đi theo anh. Chị Thuyết đứng trước cửa nhà bếp nói với ra sân :

– Gớm! Nhà vua nỏ thừa bảng vàng để ghi danh ông nghè, ông cống cho cái nòi “xướng ca vô loài” mà học với hành, tốn nghiên tốn bút.

Anh Thuyết quay phắt lại. Anh vớ cái cọc chống rèm. Chị Thuyết ba chân bốn cẳng chạy lủi qua phía hè bếp. Anh Thuyết quát với mấy tiếng mắng vợ. Rồi anh quay lại dỗ ngọt em :

– Chị mi độc mồm vậy thôi chứ nỏ để bụng chi mô.

Sắc đưa ống tay áo lau nước mắt đi theo anh đến nhà thầy học.

Ngay những buổi ban đầu, thầy tú Vương đã nhận ra Sắc là một học trò sáng dạ. Thầy đã thử cho Sắc về nhà học một tối phải thuộc lòng và đến viết trầm (19) cho thầy xem năm mươi chữ ít nét, ba mươi chữ nhiều nét. Nguyễn Sinh Sắc đã đem lại sự ngạc nhiên cho thầy. Và thầy tú Vương cầm bàn tay học trò Nguyễn Sinh Sắc xem từng đường vân dạng. Thầy tấm tắc : “Đúng. Rất đúng. Con nòi. Nòi cầm ca. Nòi nhả ngọc phun châu. Nòi cô Đèn. Tài hoa lắm. Con gắng học. Con sẽ làm nên nếu con có chí học. Mỗi chữ là một con mắt. Người không có chữ trong đầu là người mù giữa thế gian”.

Lời thầy tú Vương như một ánh chớp mở vào thế giới tuổi thơ của Nguyễn Sinh Sắc. Rồi Sắc thấy lởn vởn trong ý nghĩ của mình một câu hỏi : Chị Thuyết thường mắng mình là “con nhà xướng ca vô loài”. Còn thầy tú Vương thì khen mình là : “Con nòi. Nòi cầm ca. Nòi nhả ngọc phun châu. Nòi cô Đèn…” Sắc tự tin : Điều thầy nói với học trò là lời mẹ nói với con. Và từ hôm Sắc được thầy khen, Quý và San kết thân với Sắc. Biết Sắc thiếu hơi ấm bố mẹ, San và Quý mỗi khi có quà bánh đều để phần đem đến lớp học cho Sắc. Có lần Sắc nói với bạn :

– Các cậu cho mình nhiều thứ, mình nỏ có chi cả!

Hiểu nỗi lòng của bạn, San, Quý an ủi Sắc :

– Đừng nghĩ ngợi có hay không có cái chi đối đãi nhau, nhà tụi mình đầy đủ hơn nhà Sắc mà.

Được thầy khích lệ, được bạn an ủi, Sắc càng chăm chỉ việc nhà để đỡ bị chị dâu mắng mỏ vì quá ham học. Một lần Sắc ngồi đun cám lợn, chị dâu đang thái chuối ngoài sân. Sắc dùng que củi than tập viết lên nền nhà. Vì quá say sưa viết, Sắc quên khuấy, nồi cám bị khê nặc. Chị Thuyết từ ngoài sân chạy vào hắt cả rổ rau chuối vào người Sắc, mắng té tát : “Đồ mặt nạc đóm đày. Cháy nồi của tau rồi. Học với hành, chữ với nghĩa chi cái thứ mi…!”. Sắc biết mình có lỗi nên bặm môi chịu chửi, không khóc, không tỏ vẻ khó chịu với chị. Vả lại Sắc đã nhận ra tính khí người chị dâu nóng, phàm miệng, nhưng miếng ăn thì nhường nhịn cho chồng, cho em. Hằng ngày chị Thuyết phải xới cơm chia : Anh Thuyết, cột trụ gia đình, được ăn mỗi bữa ba bát cơm độn, xới đầy. Sắc được hai bát vừa, chị Thuyết chỉ có một bát đầy và vét cháy. Nhiều hôm anh Thuyết bưng bát cơm thứ ba vừa đi quanh sân vừa ăn, rồi lẻn ra sau nhà ngắt lá chuối gói nửa bát cơm còn lại giấu vào cái nón mê của Sắc thường đội đi chăn trâu. Biết gói cơm này là của anh đã giấu chị nhường cho mình, Sắc mang theo ra bãi chăn trâu mới ăn.

Một buổi chiều sau tết Nguyên đán. Mưa xuân lâm thâm. Gió se se lạnh. Nguyễn Sinh Sắc đội nón mê, khoác tơi lá nằm tùm hum trên lưng trâu ở cánh đồng Dăm Quan. Con trâu mải miết gặm cỏ. Sắc mê say học bài. Sợ bụi mưa thấm vào trang sách, Sắc nghiêng nghiêng mái nón che phía gió thổi.

Con trâu đang gặm cỏ bỗng nghênh đầu lên nhìn về phía có người lạ đi tới. Nhưng Sắc mải dán mắt vào trang sách không biết có người đang đứng bên con trâu để ý việc học bài của mình.

– Cháu chăm chỉ quá? Hiếu học là một đức tính đáng quý.

Sắc giật mình hơi bối rối ngước nhìn : Một ông trông hiền từ, dáng vẻ một thầy đồ, tay che ô, đầu đội khăn nhiễu khoác áo dài kép, chân đi guốc to bàn cuốn mỏ, quai mây hình đuôi én. Sắc nhảy từ lưng trâu xuống đất, đứng lễ phép bên ông.

– Cháu là con nhà ai?

– Thưa ông cháu là con ông Nhậm ạ.

– À ra… cháu là con trai ông Nhậm, con cô Đèn! Thảo nào. Cháu sớm có chí học. Cháu giữ bền được cái chí học thì ắt sẽ làm nên đó.

Ông nhìn tập vở trong tay Sắc, hỏi :

– Cháu đã học đến sách gì?

– Thưa ông, cháu đang học sách “Sơ học vấn tân” ạ.

– Nghĩa của nó là gì?

– Da… là bắt đầu học hỏi ạ.

– Nghĩa rộng là gì?

– Thưa ông, cháu nhớ lời thầy Vương giảng là : Hỏi về đường hướng của sự học ạ.

– Sách này do người Nam ta soạn hay người Tàu soạn, hở cháu?

– Thưa ông, thầy Vương dạy rằng sách “Sơ học vấn tân” là do người nước ta soạn cho con cháu đời sau học ạ.

– Cháu đọc trầm cho ông nghe vài câu, được không?

– Cháu xin đọc : Kỳ tại quốc bản, cổ hiệu Việt Thường, Đường cải An Nam, Hán xưng Nam Việt, Thần Nông tứ thế, thứ tử phân phong, Việt Kinh Dương vương, hiệu Hồng Bàng thị…

– Tốt. Tốt lắm… Cháu thử giải nôm cho ông nghe coi.

– Nước ta xưa gọi là Việt Thường. Nhà Đường chúng đổi là An Nam, sang nhà Hán chúng lại gọi là Nam Việt. Cháu bốn đời vua Thần Nông vốn là con thứ được phong làm vua xứ ta là Kinh Dương, hiệu Hồng Bàng.

Ông liền hỏi tên, hỏi tuổi của Sắc. Ông nói với Sắc giọng cảm động :

– Ông ước ao có một người con trai mà không được. Ngày mai cháu đến nhà thầy tú Vương học, cháu thưa lại với thầy là ông đồ Hoàng Xuân Đường đã gặp cháu và ông chuyển lời thăm sức khỏe đến thầy. Có thể một ngày không xa, ông sẽ đến vịnh thơ uống rượu với thầy.

Đầu mùa hè năm đó, ông tú họ Hoàng từ làng Chùa sang làng Sen chơi nhà thầy tú Vương. Lâu ngày gặp nhau, hai ông đồ say chuyện, say thơ, say hương rượu từ lúc hoa râm bụt nở bừng cho đến lúc chúng cúi gục cần câu xuống bờ giậu. Gió Nam hiu hiu thổi qua bờ tre, lướt vào cửa sổ nhẹ nhàng. Hai ông đồ đã thiêm thiếp giấc nồng. Học trò của thầy tú Vương đến, thấy thầy có khách đã lảng ra vườn bắt ve sầu, tìm tổ chim, săn chuồn chuồn ông voi…

Phan Văn San, Vương Thúc Quý và Nguyễn Sinh Sắc thì lúi húi dán diều giấy ở đầu nhà. Thỉnh thoảng Sắc chạy vào kéo quạt (20) cho hai thầy đồ ngon giấc. Do có tiếng động mạnh từ ngoài cối xay lúa, hai thầy giật mình tỉnh giấc thấy trò Sắc một tay cầm sách học ôn bài, một tay kéo quạt.

Niềm xúc động dấy lên ánh mắt của hai thầy nhìn Nguyễn Sinh Sắc. Thầy tú Vương nói : “Hiếu tại tâm. Nhân bất hiếu bất thành nhân” (Hiếu ở lòng. Người không có hiếu chẳng là người).

Thầy tú Vương giọng sảng khoái nói với Sắc :

– Thầy cho phép con đưa thầy tú Hoàng Xuân Đường về gặp anh chị của con. Nếu anh chị của con vui lòng cho con được về nhập thân vào nhà thầy tú Hoàng Xuân Đường là phúc phần cho con lắm.

Ông đồ Hoàng Xuân Đường đến gặp vợ chồng anh Thuyết Vừa nghe chưa trọn câu chuyện của ông đồ, chị Thuyết đã mau miệng :

– Bẩm thầy, vợ chồng con mô dám phụ cái bụng tốt của thầy. Thầy đón bé Sắc về dưới đó ngay giờ cũng được ạ.

Anh Thuyết lườm vợ :

– Mẹ hắn vội chi rứa? Để em nó ở lại vài hôm, còn coi ngày, coi giờ nữa chứ!

– Dề, – chị Thuyết trề môi, – làm nhà, tậu ruộng đâu mà phải chọn ngày lành tháng tốt!

Anh Thuyết nuốt giận lẫn nước mắt đắng cổ họng. Anh đưa cho em bọc áo quần, sách vở mà không dám nhìn thẳng vào mắt em, sợ bật lên tiếng khóc.

Nắng chiều xiên khoai. ông đồ nghiêng mái ô về phía mặt trời. Bóng chiếc ô che trùm hai mái đầu cao, thấp.

Ra khỏi làng Sen, Sắc ngoái lại nhìn mái nhà mình thấp thoáng sau bóng tre, cố ghìm nước mắt. Sắc ôm choàng ngang người ông đồ, giọng hơi lạc, run run :

– Ông ơi ! ông đón cháu về nuôi cho cháu ăn học à? Thật vậy ông?

– Nói dối trẻ con là một trọng tội. Ông sẽ dạy cháu học. Cháu muốn học bao lâu ta cũng không ngăn cản.

Bé Sắc quỳ hẳn xuống đất, chắp tay như sắp vái lạy :

– Ôi sung sướng! Sung sướng! Con không còn cha mệ! Ông ơi! Cho con được gọi ông là cha của con. Có thể trời phật đã phù hộ cho con chăng?

– Con đứng lên đi. – ông dìu Sắc dậy. – Ta đã nhận con vào lòng ta ngay từ hôm gặp con nằm trên lưng trâu mà học chữ thánh hiền. Ta không có con trai. Đã từ lâu ta hằng mong có người nối chí. Nay ta chọn con. Ta hỏi thêm con điều này nữa : Con ước ao được học nhiều chữ để làm gì?

– Thưa cha, người dốt nát thì khổ cực. Con muốn có nhiều chữ để đỡ bị kẻ khác đè đầu và biết thuốc mà chữa bệnh; con có chữ con sẽ dạy chữ, dạy thuốc cho người chưa biết ạ.

– Được. Con đã biết chọn việc học để làm người. Hợp với ý của cha. Cha yên tâm về con.

Năm cậu bé Nguyễn Sinh Sắc về làm con trong gia đình ông bà đồ, cô Hoàng Thị Loan mới lên năm tuổi. Tám năm sau, bà cố sinh thêm con gái, đặt tên là An. Cô Loan lên tuổi mười ba thì bước vào đời làm vợ Nguyễn Sinh Sắc, một anh nho mười tám tuổi. Đến năm mười sáu tuổi, cô Loan sinh con gái đầu lòng : Nguyễn Thị Thanh, tự là Bạch Liên. Bốn năm sau, Loan lại đẻ con trai Nguyễn Sinh Khiêm, tự Tất Đạt. Nguyễn Sinh Côn ra đời tiếp sau đó vài năm…

Bé Thanh, Khiêm, Côn khi đã biết được phần nào về dòng dõi nhà mình, thường hỏi mẹ :

– Hồi còn bé, cha của chúng con sao mà khổ cực nhiều vậy mệ?

Chị nho Sắc xoa đầu các con, giọng thủ thỉ :

– Các con lớn lên đã…

Bé Thanh lại hỏi mẹ :

– Mệ ơi! Ba chị em con, đứa mô giống bà nội nhiều hở mệ?

– Mệ không được biết mặt bà nội. Các con đến hỏi bà ngoại. Bà ngoại của các con đã có lần được xem bà nội múa đèn, gảy đàn, hát nhà trò.

Lúc ba chị em bé Thanh hỏi ríu ra ríu rít bên bà ngoại thì bà chỉ lên phía bộ tranh tố nữ : “Bà nội của tụi bây y hệt cái cô trong tranh kia. Chị em mi đứa mô cũng giống bà nội cả. Riêng thằng Côông là giống bà nội nhiều nhất…”


Giang Vi

Tôi là một người yêu sách cuồng nhiệt và đã hơn 20 năm. Tôi dành cả ngày để đọc, viết blog về sách và viết bình luận. Tôi tin rằng sách là công cụ mạnh mẽ nhất trong cuộc sống để mở mang đầu óc cho những ý tưởng và quan điểm mới. Các thể loại yêu thích của tôi bao gồm tiểu thuyết lịch sử, giả tưởng, khoa học viễn tưởng và phi hư cấu. Tôi cũng thích tìm hiểu về các nền văn hóa khác nhau thông qua văn học.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts:

Back to top button