Thành Phố Hồn Rỗng
Thể oại | Văn học nước ngoài |
Tác giả | Ransom Riggs |
NXB | NXB Văn Học |
Công ty phát hành | Nhã Nam |
Số trang | 512 |
Ngày xuất bản | 05-2016 |
Giá bán | Xem giá bán |
Giới thiệu sách
Mồng 3 tháng 9 năm 1940.
Vội vã nói lời tạm biệt hòn đảo từng là chốn náu thân yên ấm, mười đứa trẻ đặc biệt chạy trốn khỏi đám quái vật đang săn lùng mình. Chỉ có một người có thể giúp họ, cô phụ trách Peregrine, nhưng bà lại đang bị mắc kẹt trong hình dạng một con chim. Jacob Portman và bạn bè của cậu bắt đầu cuộc hành trình đầy bất trắc khó lường, hy vọng có thể tìm được người giúp cô phụ trách yêu quý trở lại dạng người. Nhưng nơi mà họ tìm đến, London năm 1940, đã là một thành phố tan hoang dưới tầm bom đạn, và những nguy hiểm chết người ẩn giấu mọi nơi, chưa kể thứ rùng rợn nhất: những xác sống, hồn rỗng. Với từng ấy thử thách, liệu đám trẻ có cứu được cô Peregrine?
Là tập thứ 2 trong series “Trại trẻ đặc biệt của cô Peregrine”, Thành phố hồn rỗng tiếp nối một câu chuyện khiến độc giả mê hoặc. Như một nhà ảo thuật dày dạn, Ransom Rigg kết hợp văn phong hồi hộp với những bức ảnh minh họa kỳ lạ để củng cố bầu không khí ám ảnh của câu chuyện. Đáng sợ đến mức kinh ngạc nhưng cũng vô cùng cảm động, điểm đáng chỉ trích duy nhất của sách chính là nó buộc những độc giả cứ phải nôn nao khi kết thúc trang cuối – họ không muốn kìm lòng chờ đợi cho đến tập tiếp theo.
Nhận định
“Căng thẳng, kịch tính và kỳ lạ… những con chữ và hình ảnh cùng tỏa sáng rực rỡ để tạo nên một câu chuyện khó quên.”
(John Green, tác giả của The fault in our stars)
[taq_review]
Trích dẫn
“Đó không phải là một con chim thật, thưa ông soát vé. Chúng cháu không bao giờ nghĩ tới việc vi phạm quy định như thế. Đây là món đồ chơi ưa thích của chị gái cháu, ông thấy đấy, và chị ấy nghĩ ông muốn lấy mất nó.” Cô xoắn hai bàn tay cầu khẩn đầy khổ sở. “Ông sẽ không lấy đi món đồ chơi ưa thích của một đứa trẻ chứ, phải không ông?”
Người soát vé nhìn Bronwyn với vẻ ngờ vực .“Chị cháu trông có vẻ hơi quá tuổi để chơi đồ chơi rồi, cháu không thấy thế sao?”
Emma ghé sát lại và thì thầm, “Chị ấy có hơi chậm chạp, ông thấy đấy…”
Bronwyn cau mày khi nghe thấy mấy lời này nhưng không còn lựa chọn nào ngoài tiếp tục diễn trò. Người soát vé bước về phía cô. “Vậy để ta xem món đồ chơi này nào.”
Đã đến khoảnh khắc quyết định. Chúng tôi nín thở trong khi Bronwyn mở áo khoác ra, thò tay vào trong, rồi từ tốn lấy cô Peregrine ra. Khi nhìn thấy con chim, trong một khoảnh khắc khủng khiếp tôi thoáng nghĩ bà đã chết. Cô Peregrine đã trở nên hoàn toàn bất động, nằm trên tay Bronwyn với đôi mắt nhắm nghiền, hai chân chìa ra cứng đơ. Sau đó tôi nhận ra bà chỉ đang giả bộ.
“Ông thấy chưa?” Bronwyn nói. “Không phải chim thật. Chỉ là chim nhồi thôi.”
“Lúc trước ta thấy nó cử động!” người soát vé nói.
“Nó là… à… một món đồ chơi chạy cót,” Bronwyn nói. “Ông xem nhé.”
Bronwyn quỳ gối xuống, đặt cô Peregrine xuống đất bên cạnh mình, rồi đưa tay xuống dưới cánh chim làm bộ đang vặn cót. Một khoảnh khắc sau mắt cô Peregrine mở ra và bà bắt đầu nhảy vòng quanh, bắt đầu lắc lư cứng nhắc như máy, còn đôi chân nhảy bật lên bật xuống như lắp lò xo. Cuối cùng, bà sững lại rồi nằm lăn ra, bất động như một mô hình. Một màn biểu diễn thực sự đáng đoạt giải Oscar.
Người soát vé có vẻ gần như – song chưa hoàn toàn – bị thuyết phục.
“Được rồi,” ông ta đằng hắng, “nếu đó là một món đồ chơi, cháu làm ơn cất nó vào thùng đồ chơi của cháu nhé.” Ông hất hàm về chiếc rương Bronwyn đã đặt xuống ke ga.
Bronwyn do dự. “Đây không phải…”
“Vâng, được thôi, không có gì khó cả,” Emma vừa nói vừa mở nắp khóa rương. “Bỏ nó vào trong này đi chị!”
“Nhưng sẽ thế nào nếu không có không khí trong đó?” Bronwyn khẽ thì thầm với Emma.
“Thì chúng ta sẽ khoét vài cái lỗ vào thành rương!” Emma thì thầm đáp lại.
Bronwyn cầm cô Peregrine lên và nhẹ nhàng đặt bà vào trong cái rương. “Rất xin lỗi, thưa cô,” cô thì thầm, hạ nắp rương xuống rồi khóa lại.
Cuối cùng người soát vé cầm lấy vé của chúng tôi.“Hạng nhất!” ông ta ngạc nhiên thốt lên.“Toa của các cháu ở tận đầu đoàn tàu.” Ông ta chỉ về phía đầu cuối ke ga. “Tốt nhất các cháu nên nhanh lên!”
“Bây giờ ông ấy mới chịu nói cho chúng ta biết!” Emma nói, và chúng tôi hối hả chạy dọc theo ke ga.
Với một màn hơi nước xì ra và tiếng kim loại và chạm khi chuyển động, đoàn tàu bắt đầu chuyển bánh bên cạnh chúng tôi. Lúc này nó mới chỉ nhích đi chầm chậm, nhưng theo mỗi vòng bánh lăn nó lại chạy nhanh hơn một chút.
Chúng tôi đã chạy tới ngang với toa hạng nhất. Bronwyn là người đầu tiên nhảy lên qua cửa toa đang mở. Cô để cái rương của mình xuống lối đi giữa toa và đưa tay giúp Olive lên tàu.
Thế rồi từ phía sau chúng tôi một giọng nói hét lớn, “Dừng lại! Xuống khỏi đó!”
Đó không phải là giọng người soát vé. Giọng nói này trầm hơn, quyền uy hơn.
“Tớ thề là nếu có thêm một người nữa tìm cách ngăn chúng ta lên chuyến tàu này…” Enoch nói.
Một phát súng vang lên, và cú sốc đột ngột nó gây ra làm chân tôi bị vấp. Tôi loạng choạng nhào ra khỏi khung cửa toa và bật lùi xuống sân ga.
“Tao nói dừng lại!” giọng nói đó lại gắt lên, và ngoái lại nhìn, tôi thấy một người lính mặt quân phục đứng trên sân ga, quỳ gối xuống trong tư thế ngắm bắn, súng trường chĩa về phía chúng tôi. Cùng hai tiếng nổ đinh tai, hắn bắn thêm hai phát đạn nữa sượt qua trên đầu chúng tôi để đặt được mục đích của mình. “Xuống tàu và quỳ gối xuống!” hắn nói, hối hả rảo bước về phía chúng tôi.
Tôi đã định chạy lên tàu, nhưng rồi tôi thoáng thấy đôi mắt tên lính, và màu trắng đục không hề có đồng tử của chúng thuyết phục tôi đừng làm vậy. Hắn là một xác sống, và tôi biết hắn sẽ không buồn cân nhắc trước khi bắn hạ bất cứ ai trong chúng tôi. Tốt hơn đừng cho hắn lý do làm vậy.
Bronwyn và Olive hẳn cũng có cùng suy nghĩ, vì họ xuống khỏi tàu và quỳ gối xuống cạnh chúng tôi.
Chỉ thiếu chút nữa, tôi thầm nghĩ. Chúng tôi chỉ thiếu chút nữa.
Đoàn tàu rời ga không có chúng tôi, hy vọng tốt nhất của chúng tôi để cứu cô Peregrine đang chạy xa dần.
Và cô Peregrine đang ở trên đó, tôi chợt nhớ ra và choáng váng buồn nôn. Bronwyn đã để cái rương của cô trên tàu! Một thôi thúc tự động bao trùm lấy tôi, và tôi vùng dậy đuổi theo đoàn tàu – nhưng rồi một nòng súng trường xuất hiện chỉ cách mặt tôi gần chục phân, và trong tích tắc tôi cảm thấy tất cả cơ bắp của mình không còn chút sức lực nào.
“Không. Thêm. Bước. Nào. Nữa.”
Tôi sụp trở lại xuống đất.
***
Chúng tôi đều quỳ gối, tay giơ lên, tim đập thình thịch. Gã lính đi vòng quanh chúng tôi, căng thẳng, súng chĩa lăm lăm, ngón tay đặt sẵn lên cò. Đó là lần quan sát một gã xác sống cận kề nhất, lâu nhất tôi từng trải qua từ sau vụ bác sĩ Golan. Hắn đang mặc một bộ quân phục Anh tiêu chuẩn – áo kaki bỏ vào trong quần len lông cừu, ủng đen, mũ sắt – nhưng mặc chúng một cách vụng về, quần nhăn nhúm, còn mũ sắt lại lật quá ra sau đầu, như thể đây là những món trang phục hắn vẫn chưa mặc quen. Có vẻ hắn cũng bồn chồn, đầu nghiêng qua ngó lại trong lúc hắn đồn chúng tôi lại. Hắn chỉ có một mình, và dù chỉ là một nhóm trẻ con không vũ khí, chúng tôi cũng đã giết chết một xác sống và hai con hồn rỗng trong ba ngày vừa qua. Hắn sợ chúng tôi, và điều đó, hơn bất cứ điều gì khác, làm tôi sợ hắn. Nỗi sợ hãi làm hắn trở nên không lường trước.
Hắn rút một chiếc bộ đàm đeo ở thắt lưng ra rồi nói liến thoắng vào đó. Xì xì một lát, rồi câu trả lời quay trở lại ngay sau đó. Tất cả đều bằng mật mã; tôi không hiểu lấy một từ.
Hắn ra lệnh cho chúng tôi đứng dậy. Chúng tôi đứng lên.
“Chúng ta đi đâu đây?” Olive rụt rè hỏi.
“Tản bộ một chút,” hắn nói. “Một cuộc tản bộ ngoan ngoãn, trật tự.” Hắn có cách phát âm cụt ngủn, các nguyên âm nghe bèn bẹt cho tôi biết hắn từ nơi khác đến nhưng giả khẩu âm Anh, tuy vậy không được khá cho lắm. Lũ xác sống đáng lẽ phải là các bậc thầy ngụy trang, song gã này rõ ràng không phải là một ngôi sao trong cộng đồng của hắn.
“Chúng mày không được tách khỏi hàng,” hắn nói, nhìn trừng trừng vào lần lượt từng người trong chúng tôi. “Chúng mày không được chạy. Tao còn mười lăm viên đạn – đủ để khoét hai cái lỗ lên mỗi đứa chúng mày. Và đừng cho là tao không thấy áo khoác của mày, thằng nhóc vô hình. Cứ thử đi tao phải đuổi theo mày xem, tao sẽ xẻo cả hai ngón tay cái vô hình của mày ra làm kỷ niệm.”
“Vâng, thưa ông,” Millard nói.
“Không được nói gì hết!” gã lính gắt gỏng. “Giờ đi đều bước!”
Chúng tôi đi ngang qua trước quầy vé, người bán vé giờ đã đi đâu mất, rồi ra khỏi nhà ga, ra ngoài phố. Cho dù các cư dân Coal chẳng buồn liếc mắt nhìn chúng tôi tới lần thứ hai lúc chúng tôi đi vào thị trấn trước đó, giờ họ ngoái đầu nhìn theo chăm chăm như những con cú khi chúng tôi bị giải đi thành một hàng trước họng súng. Gã lính giữ cho chúng tôi đi ngay ngắn trong hàng, cấm cảu quát nạt khi ai đó đi trệch hàng quá xa. Tôi đi sau cùng, hắn đằng sau lưng tôi, và tôi có thể nghe thấy tiếng dây lưng đạn kêu lạch cạch trong khi chúng tôi bước đi. Chúng tôi đang quay ngược trở lại con đường đã đi tới lúc trước, thẳng ra khỏi thị trấn.
Tôi tưởng tượng ra cả tá kế hoạch đào tẩu. Chúng tôi nên tản ra. Không – hắn sẽ bắn hạ ít nhất vài người trong chúng tôi. Có lẽ ai đó cần vờ ngất xỉu trên đường, sau đó người đi sau sẽ vấp chân, rồi trong lúc lộn xộn – không, hắn quá tỉnh táo để mắc mưu một trò kiểu đó. Ai đó trong chúng tôi cần phải tiếp cận hắn đủ gần để đoạt lấy khẩu súng.