Văn học nước ngoài

Ngôi Nhà Nhỏ Trên Thảo Nguyên Tập 8: Năm Tháng Vàng Son

1. THÔNG TIN SÁCH/EBOOK

Tác giả : Laura Ingalls Wilder

Download sách Ngôi Nhà Nhỏ Trên Thảo Nguyên Tập 8: Năm Tháng Vàng Son ebook PDF/PRC/MOBI/EPUB. Tải miễn phí, đọc online trên điện thoại, máy tính, máy tính bảng.

Danh mục : VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI

Đọc thử Xem giá bán

2. DOWNLOAD

Download ebook                      

File ebook hiện chưa có hoặc gặp vấn đề bản quyền, Downloadsach sẽ cập nhật link tải ngay khi tìm kiếm được trên Internet.

Bạn có thể Đọc thử hoặc Xem giá bán.


Bạn không tải được sách ? Xem hướng dẫn nhé : Hướng dẫn tải sách


3. GIỚI THIỆU / REVIEW SÁCH

Lời giới thiệu


Laura đi dạy học. Lần đầu tiên cô phải sống xa nhà, trải nghiệm một không gian mới mẻ và phải đương đầu với rắc rối. Laura cảm thấy khó khăn, nhưng mỗi Thứ Sáu, dẫu mưa nắng hay gió bão, Almanzo Wilder đều đến đón và đưa cô về nhà. Tập sách này mở ra những khởi đầu mới mẻ trọng đại với Laura trong tình yêu, sự trưởng thành.

Ngôi Nhà Nhỏ Trên Thảo Nguyên xoay quanh cuộc sống của gia đình Ingalls và công cuộc khai hoang những vùng đất mới của nước Mỹ cuối thế kỉ 19. Cuốn sách bắt nguồn từ những câu chuyện thuở ấu thơ của tác giả Laura Ingalls Wilder, được kể lại bằng ngôi thứ ba qua lời kể của nhân vật chính, cô bé Laura – người con thứ hai trong gia đình Ingalls. Ấn tượng lớn nhất với mỗi độc giả khi đọc Ngôi Nhà Nhỏ Trên Thảo Nguyên có lẽ là tình cảm gia đình ấm áp, tình làng nghĩa xóm, tình cảm bạn bè trong sáng. Thiên tiểu thuyết cũng ngợi ca những con người lạc quan, yêu đời, tràn đầy nghị lực sống dù sống trong điều kiện khó khăn gian khổ khi khai phá vùng đất mới. Bên cạnh những áng văn tuyệt đẹp về thiên nhiên bao la trên những vùng thảo nguyên hoang sơ của nước Mỹ cuối thế kỉ 19, tác phẩm còn đề cập đến nhiều vấn đề của nước Mỹ đương thời: nạn phân biệt chủng tộc, nội chiến Nam-Bắc, tự do tín ngưỡng, mặt trái của nền tư bản, vấn đề tự do báo chí…

ĐỌC THỬ

1. LAURA RỜI NHÀ

Chiều chủ nhật quang đãng và những cánh đồng tuyết phủ lấp lánh dưới nắng. Gió nam thổi nhẹ nhưng lạnh tới mức các bàn trượt xe rít lên khi lướt trên những đống tuyết đóng cứng. Móng ngựa khua thành một âm thanh lốp cốp đều đều buồn nản. Bố im lặng.

Ngồi bên cạnh Bố trên tấm ván đặt ngang cỗ xe, Laura cũng nín thinh. Chẳng có điều gì để nói cả. Cô đang trên đường tới trường để dạy học.

Chỉ mới ngày hôm qua, cô còn là một học sinh nhưng lúc này cô đã thành cô giáo. Chuyện xảy ra thật bất ngờ. Laura khó có thể không mong ngày mai cô được đến trường cùng với Carrie và ngồi trên chiếc ghế của cô bên Ida Brown. Nhưng ngày mai cô đã là cô giáo.

Cô thực sự không hiểu mình sẽ xoay sở thế nào. Cô chưa bao giờ dạy học và cũng chưa tròn mười sáu tuổi. Thậm chí so với tuổi mười lăm, cô cũng nhỏ bé và lúc này cô càng thấy mình hết sức nhỏ bé.

Mặt đất đầy tuyết trôi lui nhẹ trải dài hoang vắng ở xung quanh. Laura không nhìn lại phía sau nhưng cô biết thị trấn aã cách xa nhiều dặm đường vào lúc này và chỉ còn là một chấm đen nhỏ trên màu trắng của cánh đồng quạnh quẽ mênh mông. Ở đó có một phòng ăn ấm áp mà Mẹ đang ngồi cùng Carrie và Grace cũng đã thành xa thẳm. Vùng định cư của Brewster còn cách nhiều dặm đường phía trước vì ở xa thị trấn những mười hai dặm. Laura không biết nơi đó như thế nào và cũng không quen biết ai ở đó. Cô chỉ thấy ông Brewster vỏn vẹn một lần khi ông ta tới mướn cô dạy học. Ông ta gầy, nâu sạm giống như mọi chủ nông trại và không nói nhiều về bản thân.

Bố nhìn về khoảng xa phía trước trong lúc nắm dây cương với những bàn tay bọc găng và thỉnh thoảng lên tiếng thúc giục lũ ngựa. Nhưng Bố biết chắc Laura đang cảm nghĩ thế nào. Cuối cùng Bố quay sang phía cô và lên tiếng như đang đáp lời cho sự khiếp hãi của cô vào ngày mai:

– Này Laura! Thế là bây giờ con đã thành một cô giáo rồi. Chúng ta đều biết điều này sẽ đến, phải không?

Nhưng không ai ngờ chuyện đến sớm như vậy.

Laura đáp:

– Bố nghĩ con có làm nổi không? Giả dụ… chỉ giả dụ thôi là… lũ trẻ không nghe lời con vì thấy con còn nhỏ quá.

Bố trấn an cô:

– Đương nhiên là con làm nổi. Con chưa từng chịu thua một việc nào khi con ráng làm, đúng không?

Laura nhìn nhận:

– Đúng là thế. Nhưng con… con chưa bao giờ thử dạy học.

Bố nói:

– Con đã giải quyết xong mọi việc mà con gặp phải. Con không khi nào bỏ cuộc mà luôn bám dính lấy mọi việc cho tới khi con biết phải làm gì với nó. Thành công trở thành một thói quen như bất kỳ việc gì khác mà một người tiếp tục làm.

Im lặng lại trở lại, ngoại trừ tiếng của những bàn trượt xe và tiếng vó ngựa khua lộp cộp trên mặt tuyết cứng. Laura cảm thấy dễ chịu hơn một chút. Đúng là như vậy, cô vẫn luôn nỗ lực và cô phải luôn nỗ lực. Được, bây giờ cô phải dạy học. Bố nói:

– Còn nhớ lúc ở vùng suối Plum không, Bình Rượu Nhỏ? Lúc Mẹ con với Bố ra thị trấn và một cơn bão tuyết nổi lên đó? Con đã mang hết cả đống củi vào trong nhà.

Laura cười lớn và tiếng cười của Bố rung lên như tiếng chuông trong sự lặng trang giá ngắt.

Biết bao điều vụn vặt, kinh hoàng và ngớ ngẩn mà cô đã làm vào những ngày xa xôi đó! Bố nói:

– Đó là cái cách đối đầu với mọi thứ! Hãy tự tin ở mình là có thể chiến thắng tất cả. Con tự tin ở con và đó là cách duy nhất làm cho mọi người ở đây phải tin vào con.

Bố ngưng lại một lúc rồi thêm:

– Còn một điều mà con cần vượt qua.

Laura hỏi:

– Điều gì vậy, Bố?

– Con thường quá mau lẹ, Nhà-kho-vẫy-cánh à. Con thường làm hoặc nói trước rồi nghĩ sau. Bây giờ con cần tập nghĩ trước và nói sau. Nếu con nhớ được điều này con sẽ không khi nào bối rối.

Laura nói một cách hăng hái:

– Con sẽ nhớ, Bố.

Trời quá lạnh không thể nói chuyện được. Hai cha con tiếp tục im lặng để giữ hơi ấm trong lúc tiến về phía nam. Gió buốt thốc thẳng vào mặt họ. Một vết bàn trượt xe mờ nhạt kéo dài về phía trước.

Không có một thứ gì khác để ngắm nhìn ngoài mặt đất thấp trắng toát vô tận và bầu trời nhợt nhạt mênh mông với những chiếc bóng xám xanh của lũ ngựa che mờ những khoảng lấp lánh trên tuyết.

Gió lay động mảnh khăn trùm dày bằng len đen của Laura trước mắt cô. Hơi thở của cô đóng thành một cụm sương giá trên tấm khăn phả vào miệng và mũi cô một làn hơi lạnh ẩm ướt.

Cuối cùng, cô đã nhìn thấy một căn nhà phía trước. Lúc đầu căn nhà rất nhỏ rồi lớn hơn khi họ tới gần. Cách chứng nửa dặm có một căn nhà khác nhỏ hơn và xa hơn về phía bên kia có một căn nhà khác nữa. Sau đó lại một căn nhà khác hiện ra. Bốn căn nhà cả thảy, tất cả chỉ có thế. Những căn nhà nằm riêng biệt và nhỏ nhoi trên cánh đồng trắng toát.

Bố kìm ngựa dừng lại. Nhà của ông Brewster giống như hai căn lều ghép chung để làm thành một chiếc mái nhọn. Lớp giấy lợp phết hắc ín trơ trọi và tuyết tan chảy thành những nhũ băng lớn treo lơ lửng trên mái hiên như những chiếc cột tròn lớn hơn cánh tay Laura. Chúng giống như những chiếc răng vĩ đại lởm chởm. Một vài chiếc cắm sâu vào trong tuyết và một vài chiếc gãy ngang. Những tảng băng rơi xuống đông cứng trong lớp tuyết cáu bẩn quanh cửa ra vào ngay chỗ đổ nước dơ. Cửa sổ không có rèm che nhưng khói bay ra từ ống khói bám vào mái nhà thành những mạng lưới.

Ông Brewster mở cửa. Một đứa nhỏ đang khóc ầm ĩ trong nhà nên ông nói lớn để có thể nghe được:

– Vào nhà chơi, Ingalls. Vào trong cho ấm người.

Bố đáp:

– Cám ơn. Đường trở về dài tới mười hai dặm nên tốt hơn là tôi sẽ đi.

Laura chui ra thật mau từ phía dưới những tấm mền để giữ cho hơi ấm không len vào. Bố đưa cho cô chiếc túi đeo của Mẹ trong đó đựng mấy bộ đồ lót của cô cũng như chiếc áo choàng và sách vở.

Cô nói:

– Tạm biệt, Bố

– Tạm biệt, Laura.

Cặp mắt xanh lơ của Bố như mỉm cười khuyến khích cô. Nhưng mười hai dặm đường là quá xa để có thể lái xe lui tới và cô sẽ không thể gặp lại Bố trong hai tháng.

Cô bước mau vào trong nhà. Trong một lúc, cô không thể nhìn rõ mọi vật vì vừa từ ngoài trời sáng bước vào. Ông Brewster lên tiếng:

– Đây là bà Brewster và đây là cô giáo.

Một người đàn bà có vẻ rầu rĩ đứng bên lò bếp đang khuấy thứ gì trong chảo.

Một đứa con trai đang đeo vào váy của bà và gào khóc. Mặt thằng bé dơ dáy, mũi chảy lòng thòng.

Laura ráng hết sức giữ vui vẻ lên tiếng:

– Chào bà Brewster.

Bà Brewster nói:

– Hãy qua phòng bên kia bỏ đồ choàng ngoài ra. Treo đồ sau tấm màn ở chỗ ghế sô pha.

Bà xoay lưng về phía Laura và tiếp tục khuấy nước thịt trong chảo.

Laura không biết phải nghĩ ra sao. Cô không thể làm điều gì xúc phạm đến bà Brewster. Cô bước qua phòng bên. Vách ngăn đứng thẳng ngay dưới nóc nhà và chia căn nhà thành hai phần đều nhau. Ở bên này tấm ngăn, những chiếc rui và lớp giấy lợp mái phết nhựa hắc ín chạy xuôi xuống các tấm vách thấp lè tè. Vách ván được đóng bít kỹ từng kẽ hở. Căn nhà giống hệt căn lều giữ đất của Bố nhưng nhỏ hơn và không có trần ở phía trên.

Dĩ nhiên phòng bên kia rất lạnh. Nó chỉ có một ô cửa sổ nhìn ra ngoài khu đồng trống phủ đầy tuyết. Sát tường ngay dưới cửa sổ là chiếc ghế sô pha làm bằng cành cây lớn với chiếc tựa lưng bằng gỗ uốn cong và một phía đầu cũng uốn cong lên. Giường ngủ được làm ngay trên ghế sô pha. Những tấm màn bằng vải nâu treo sát vách ở hai phía giường trên một sợi dây chạy ngang qua phía trên cửa sổ để khi kéo lại có thể che kín chiếc ghế. Đối diện là một chiếc giường kê sát vách và sát chân giường có một khoảng trống vừa đủ kê một chiếc bàn và một chiếc rương.

Laura treo áo khoác, khăn quấn, khăn chùm và mũ trên những chiếc đinh móc sau tấm màn vải và đặt chiếc túi của Mẹ trên mặt nền ngay phía dưới. Cô đứng run rẩy trong cái lạnh không mong muốn bước qua phòng bên ấm áp đang có mặt bà Brewster. Nhưng cô phải qua và cô đã làm vậy.

Ông Brewster ngồi sát bên lò bếp đang giữ đứa con trai nhỏ trên đầu gối. Bà Brewster đang vét nước thịt vào một chiếc chén. Bàn ăn đã được bày với các dao, dĩa xô lệch cẩu thả vứt trên tấm khăn trải bàn màu trắng lem luốc; tấm khăn trải nhăn nhúm trên bàn.

Laura thu hết can đảm lên tiếng:

– Tôi có thể giúp bà được không, bà Brewster?

Bà Brewster không trả lời. Bà ta giận dữ trút khoai tây lên đĩa, dằn mạnh lên mặt bàn. Chiếc đồng hồ trên vách rè rè báo hiệu lên tiếng và Laura thấy đã bốn giò kém năm phút. Ông Brewster giải thích:

– Dạo này điểm tâm rất muộn nên chúng tôi chỉ ăn một ngày hai bữa.

Bà Brewster quát lớn:

– Tôi muốn biết đó là lỗi của ai! Giống như tôi không hề có đủ việc làm từ sáng đến tối trong tình huống…

Ông Brewster cao giọng hơn:

– Tôi chỉ muốn nói ngày ngắn quá…

– Vậy thì cứ nói những gì anh muốn nói đi!

Bà Brewster quăng chiếc ghế cao lại bên bàn, chộp đứa con dằn mạnh cho ngồi xuống đó… Ông Brewster nói với Laura:

– Bữa ăn sẵn sàng rồi.

Cô ngồi xuống chiếc ghế trống. Ông Brewster tiếp cho cô khoai tây, thịt heo ướp muối và nước xốt thịt. Thức ăn ngon nhưng sự lặng thinh khó chịu của bà Brewster khiến Laura khó thể nuốt nổi. Cô cố gắng hỏi một cách vui vẻ:

– Trường học có ở xa đây không?

Ông Brewster nói:

– Khoảng nửa dặm, phía bên kia các lô đất. Đó là một căn lều trại. Người được giao cho canh tác khu đất đó không đủ kiên trì theo đuổi nên đã bỏ cuộc và quay về miền Đông.

Rồi, ông cũng im lặng. Đứa nhỏ ngọ nguậy cố thọc vào mọi thứ trên bàn. Thình lình nó liệng chiếc đĩa thiếc đầy thức ăn xuống nền nhà. Bà Brewster tát nó và nó gào lên. Nó tiếp tục gào thét và đá vào chân bàn.

Cuối cùng bữa ăn chấm dứt. Ông Brewster nhấc chiếc thùng sữa khỏi hàng đinh móc trên vách bước ra chuồng bò. Bà Brewster bỏ đứa con ngồi trên nền nhà và dần dần nó ngưng gào khóc trong lúc Laura giúp lau sạch bàn. Sau đó, cô lấy chiếc tạp dề trong túi xách của Mẹ, buộc choàng trên chiếc áo khoác màu nâu và cầm lấy chiếc khăn lau khô những chiếc đĩa mà bà Brewster vừa rửa xong.

– Cậu bé của bà tên gì, bà Brewster?

Cô hỏi với hy vọng lúc này bà Brewster sẽ dễ chịu hơn. Bà Brewster đáp:

– John.

Laura tiếp:

– Cái tên thật hay. Mọi người có thể gọi là Jimmy lúc còn nhỏ và khi lớn lên thì John là một cái tên rất đàn ông. Lúc này bà có gọi cậu bé là Johnny không?

Bà Brewster không trả lời. Sự im lặng mỗi lúc càng trở nên kinh khủng hơn. Laura cảm thấy khuôn mặt của bà Brewster đang nóng hừng hực. Cô tiếp tục lau khô những chiếc đĩa như một cái máy. Khi họ dứt công việc, bà Brewster hắt nước dơ và treo chiếc chảo lên hàng đinh móc. Bà ngồi lên chiếc ghế đu và đung đưa một cách uể oải trong lúc Johnny trườn phía dưới lò bếp và nắm đuôi con mèo kéo ra.

Con mèo cào nó và nó hét lên. Bà Brewster tiếp tục đung đưa.

Laura không dám can thiệp vào. Johnny cứ gào khóc còn bà Brewster ủ rũ đung đưa chiếc ghế đu và Laura ngồi trên chiếc ghế gỗ cạnh bàn nhìn ra ngoài cánh đồng. Con đường cắt ngang mặt tuyết chạy thật xa vượt hẳn khỏi tầm mắt. Mười hai dặm ở phía xa kia là nhà của cô. Lúc này Mẹ đang lo bữa ăn tối và Carrie đã đi học về. Hai người hẳn đang cười nói với Grace. Bố đã bước vào nhà và nhấc Grace lên đung đưa trên cánh tay như Bố vẫn thường nhấc Laura khi cô còn bé. Tất cả tiếp tục chuyện trò bên bàn ăn trong bữa ăn tối. Sau đó, mọi người ngồi dưới ánh đèn sáng thoải mái đọc sách trong lúc Carrie học bài. Rồi Bố choi đàn.

Căn phòng trở nên tối hơn và tối hơn nữa. Laura không còn nhìn rõ con đường. Cuối cùng, ông Brewster mang sữa trở về. Rồi bà Brewster thắp đèn. Bà ta lọc sữa và cất chảo trong lúc ông Brewster ngồi xuống mở một tờ báo. Không ai nói một tiếng nào. Một sự im lặng khó chịu đè xuống nặng trĩu.

Laura không biết làm gì vì còn quá sớm để lên giường. Trong phòng không còn một tờ báo hoặc cuốn sách nào khác. Lúc này cô sực nghĩ tới những cuốn sách học. Bước qua gian phòng bên lạnh buốt và tối đen, cô mò mẫm sục tìm trong chiếc túi xách của Mẹ và sờ thấy cuốn sách lịch sử. Cô cầm sang nhà bếp, lại ngồi bên chiếc bàn và bắt đầu đọc. Cô nghĩ một cách chán nản:

– Ít nhất thì cũng không có gì cản trở việc học của mình.

Cô cảm thấy đau đớn ê ẩm tựa hồ bị đánh đập, nhưng dần dần cô quên bẵng mình đang ở đâu khi bị cuốn vào cuốn sách lịch sử. Cuối cùng cô nghe tiếng chuông đồng hồ điểm tám giờ. Tiếp đó cô đứng dậy lễ phép chào chúc mọi người ngủ ngon. Bà Brewster không trả lời, nhưng ông Brewster đáp lại:

– Chúc cô ngủ ngon.

Trên giường, Laura run lập cập bỏ áo ngoài, áo lót và mặc chiếc áo dài ngủ bằng flanen. Cô luồn vào dưới những lớp mền trên chiếc ghế sô pha và kéo các tấm màn vải che xung quanh xuống.

Gối nhồi lông chim và rất nhiều mền, nệm nhưng chiếc ghế sô pha quá hẹp.

Cô nghe thấy bà Brewster đang nói một cách rất nhanh và giận dữ. Laura chùm mền kín đầu chỉ để hở một lỗ nhỏ ở mũi, nhưng cô vẫn nghe thấy những tiếng cằn nhằn của bà Brewster:

– … hợp với anh nhưng tôi phải lo cho một người ở trọ!

Cô lại nghe tiếp:

– … thật khủng khiếp với cái xứ này! Một giáo viên, thực sự!… chính tôi đã là một giáo viên, nếu tôi không lấy một người chồng là…

Laura nghĩ:

– Rút cuộc là bà ta không muốn nuôi một giáo viên trong nhà. Bà ta như một vật cản của bất kỳ ai khác.

Cô thấy tốt hơn là không nên nghe thêm điều gì và cố ngủ. Nhưng suốt đêm trong giấc ngủ, cô phải cố lo giữ cho khỏi rớt xuống từ chiếc ghế sô pha quá hẹp và khiếp sợ ngày mai khi cô bắt đầu dạy học.

2. NGÀY ĐẦU DẠY HỌC

Laura nghe tiếng lửa reo trong lò bếp. Trong một thoáng cô ngỡ mình nằm trên giường với Mary và Bố đang nhóm lửa vào buổi sáng. Rồi cô nhìn thấy những tấm màn vải và biết mình đang ở đâu và biết rằng sáng hôm nay cô phải bắt đầu dạy học.

Cô nghe thấy tiếng ông Brewster nhấc chiếc thùng sữa xuống và tiếng cánh cửa sập lại sau lưng ông. Phía bên kia tấm màn che, bà Brewster đã ra khỏi giường. Laura không cục cựa, cảm thấy nếu cô nằm im lìm, cô có thể ngăn không cho ngày tới.

Ông Brewster đã mang sữa về và cô nghe thấy ông nói:

– Tôi phải đi nhóm lửa ở trường học. Tôi sẽ về đúng giờ ăn sáng.

Cánh cửa lại sập lại sau lưng ông.

Lập tức, Laura gạt đống mền ra. Trời lạnh như cắt. Răng cô va vào nhau lách cách và mấy ngón tay cứng ngắc đến nỗi cô không thể đóng nổi nút giầy.

Nhà bếp không lạnh lắm. Bà Brewster đã đập băng trong thùng nước, đang đổ đầy ấm trà và đáp lại lời chào buổi sáng của Laura một cách dễ chịu. Laura đổ đầy nước vào trong thau và rửa mặt và tay ở chiếc ghế dài bên cạnh cửa ra vào. Nước giá băng khiến má cô nhói buốt và mặt cô như sưng đỏ trong chiếc gương soi phía trên chiếc ghế dài khi cô đứng chải tóc.

Những khoanh thịt heo ướp muối đang được chiên và bà Brewster đang xắt những khoanh khoai tây đã luộc chin để nguội trong một chiếc chảo khác trên lò. Johnny làm ầm ĩ trong phòng ngủ và Laura vội vã kẹp tóc, buộc tạp dề, nói:

– Để tôi lo món khoai trong lúc bà mặc quần áo cho cậu bé.

Thế là trong lúc bà Brewster mang Johnny vào trong bếp lo cho nó sẵn sàng ăn sáng, Laura làm xong việc xắt khoai, ướp muối cùng gia vị lên. Rồi cô đảo những khoanh thịt và bày bàn ăn gọn gàng. Cô nói:

– Tôi mừng là Mẹ tôi đã nhắc mang theo chiếc tạp dề lớn này. Tôi thích một chiếc tạp dề thật lớn có thể phủ kín hết quần áo như của bà, bà có thấy thế không?

Bà Brewster không trả lời. Lúc này lò bếp đỏ rực khiến toàn bộ căn phòng rất ấm nhưng cũng rất u ám. Không một lời nói ngắn ngủi, cần thiết nào được trao đổi bên bàn ăn.

Laura như trút được gánh nặng khi khoác áo choàng, cầm lấy sách vở và chiếc xô thiếc đựng bữa ăn trưa bước ra khỏi nhà. Cô băng qua đoạn đường dài nửa dặm dưới trời tuyết để tới trường. Con đường chỉ có dấu chân của ông Brewster với những bước thật dài so với bước chân của Laura.

Khi loạng choạng dấn bước vào những đám tuyết dầy, cô bỗng bật cười lớn tiếng. Cô nghĩ:

– Tốt! Mình đã ở đây. Mình khiếp sợ bước tới nhưng mình không quay lui được. Dạy học không thể nào tệ hơn ở lại căn nhà đó với bà Brewster. Bằng mọi cách, không thể nào tệ hơn thế.

Rồi cô lại kinh hãi thấy mình nói lớn quá:

– Mình sẽ phải cố gắng.

Một làn khói than đen mềm mại bốc lên bầu trời buổi sáng từ chiếc ống khói của căn lều trại cũ. Thêm hai hàng dấu chân dẫn tới trước cửa căn nhà và Laura nghe thấy bên trong có tiếng nói. Trong một thoáng, cô gom hết can đảm và đẩy cửa bước vào.

Những vách ván không được bít kỹ. Những vệt nắng chiếu xuyên qua các kẽ hở in lên một hàng ghế và bàn viết tự đóng đặt ở giữa phòng. Phía bên kia trên vách ván đối diện, những mảnh ván vuông được đóng ghép lại và sơn đen làm thành một tấm bảng đen.

Ngay phía trước hàng ghế ngồi sừng sững một chiếc lò sưởi lớn. Các cạnh tròn và phía trên lò đỏ rực ánh lửa thoát ra từ trong lò và đang đứng xúm quanh lò là một đám học trò mà Laura phải dạy dỗ. Tất cả đều nhìn Laura. Hết thảy có năm học sinh trong đó hai nam và một nữ cao hơn Laura. Cô cố lên tiếng:

– Xin chào.

Tất cả chào đáp lại trong lúc vẫn nhìn cô. Một khối nắng ùa vào phòng từ khung cửa sổ sát bên cửa ra vào. Phía bên kia, trong một góc gần lò sưởi có một chiếc bàn nhỏ và một chiếc ghế.

– Đó là bàn cô giáo.

Laura nghĩ rồi nghĩ tiếp:

– Trời ơi, mình đã là cô giáo.

Tiếng bước chân của cô vang lên thật lớn. Mọi cặp mắt đều hướng theo cô. Cô đặt sách vở và xô thức ăn lên bàn, cởi áo khoác, mũ trùm. Cô treo hết lên chiếc đinh móc trên vách gần chiếc ghế.

Trên bàn có một chiếc đồng hồ nhỏ, kim đồng hồ chỉ chín giờ kém năm phút.

Bằng mọi cách cô sẽ phải xoay xở vượt qua năm phút trước giờ học.

Cô chậm chạp tháo găng tay, nhét vào túi áo khoác. Rồi cô nhìn vào tất cả những cặp mắt và bước tới bên lò sưởi. Cô đưa hai bàn tay lên tựa hồ như để sưởi ấm. Tất cả học sinh nhường đường và vẫn nhìn cô chăm chú. Cô phải nói một điều gì. Cô phải làm thế.

Cô nghe thấy tiếng nói của mình:

– Sáng nay trời lạnh quá, phải không?

Rồi không đợi câu trả lời, cô tiếp:

– Các bạn có đủ ấm với những chỗ ngồi xa lò sưởi không?

Một trong các học sinh nam lớn nói nhanh:

– Tôi sẽ ngồi ở ghế cuối cùng, chỗ đó lạnh nhất.

Cô học trò cao lớn nói:

– Charles và tôi sẽ ngồi cùng với nhau, chúng tôi học chung một cuốn sách.

Laura nói:

– Tốt lắm, bây giờ tất cả các bạn có thể ngồi gần lò sưởi hơn.

Một sự bất ngờ thích thú với cô vì năm phút đã qua! Cô lên tiếng:

– Tất cả có thể ngồi vào chỗ. Lớp học bắt đầu.

Cô gái nhỏ nhất chiếm chỗ ngồi trên cùng, phía sau là một cậu bé rồi tới cô gái lớn ngồi chung với Charles và cuối cùng là cậu trai lớn khác. Laura rập cây viết chì lên mặt bàn:

– Lớp học giữ trật tự. Bây giờ tôi sẽ ghi tên và tuổi của các bạn.

Cô gái nhỏ là Ruby Brewster, chin tuổi. Cô có mái tóc nâu, cặp mắt nâu sáng long lanh và ẻo lả như một con chuột. Laura biết cô bé sẽ dịu dàng và ngoan ngoãn. Cô đã học xong Lớp Một và trong môn toán cô đang học làm toán trừ.

Cậu bé là anh trai của cô, Tommy Brewster, mười một tuổi, đã học xong Lớp Hai và biết làm toán chia đơn giản.

Cặp ngồi chung là Charles và Martha Harrison. Charles mười bảy tuổi, gầy xanh và nói năng chập chạp. Martha mười sáu tuổi, linh lợi hơn và nói thay cả hai.

Học sinh cuối cùng là Clarence Brewster. Cậu ta cũng lớn tuổi hơn Laura. Cặp mắt nâu của cậu ta sáng hơn và linh động hơn cặp mắt của cô em nhỏ Ruby, mái tóc cậu ta màu xậm, dầy và rối bù.

Cậu ta nói nhanh và năng động. Cách nói của cậu ta gần như hỗn xược.

Clarence, Charles và Martha cùng học Lớp Bốn. Cả ba đã học nửa chừng sách đánh vần và đang học phân số trong môn toán. Về địa dư, cả ba đã học về các tiểu bang Tân Anh Cát Lợi và trả lời khá tốt những câu hỏi của Laura khiến cô sắp xếp dạy ngay họ về các bang Trung Tây. Không một học sinh nào từng học về ngữ pháp và lịch sử ngoại trừ Martha mang theo một cuốn ngữ pháp của mẹ và Charles có một cuốn lịch sử. Laura nói:

– Được rồi, các bạn có thể cùng bắt đầu với các bài mở đầu về ngữ pháp và lịch sử và trao đổi sách để học bài.

Khi Laura dạy dứt bài học này và phân xong bài cho tất cả thì đã tới giờ nghỉ. Tất cả choàng khăn áo ra ngoài chơi trong tuyết và Laura thở ra một hơi dài nhẹ nhõm. Một phần tư của ngày dạy đầu tiên đã qua.

Lúc này cô bắt đầu sắp đặt. Cô sẽ dạy tập đọc, toán pháp và các bài đọc thuộc lòng về ngữ pháp vào trước buổi trưa, rồi buổi chiều sẽ lại tập đọc, lịch sử, tập viết và đánh vần. Đánh vần phải chia thành ba lớp vì Ruby và Tommy chưa thể bắt kịp sách đánh vần.

Sau mười lăm phút, cô gõ lên cửa sổ kêu học sinh vào lớp. Từ đó cho tới buổi trưa, cô lắng nghe và kiên nhẫn sửa chữa cách tập đọc lớn tiếng của tất cả.

Giờ trưa nhích đi chậm chạp. Laura ngồi một mình bên chiếc bàn ăn bánh mỳ với bơ trong lúc tất cả học sinh quây quần bên lò sưởi vừa trò chuyện, nô giỡn vừa ăn bữa ăn trưa. Sau đó, đám con trai chạy ra ngoài trời tuyết trong lúc Martha cùng Ruby đứng coi bên cửa sổ và Laura ngồi im tại bàn. Lúc này cô đã là cô giáo và phải xử sự như một cô giáo.

Cuối cùng giờ trưa trôi qua và cô lại thêm một lần gõ lên cửa sổ. Đám con trai hối hả chạy vào, thở ra những đám khói sương và rũ hơi lạnh khỏi khăn, áo khi treo lên. Tất cả đều sôi nổi vì lạnh và những động tác hâm nóng. Laura lên tiếng:

– Lò bớt lửa rồi. Charles có thể vui lòng cho thêm than vào đó không?

Sẵn sàng nhưng chậm chạp, Charles nhấc chiếc xô than nặng và trút gần hết vào lò.

Clarence nói:

– lần sau tôi sẽ làm!

Cậu ta nói có lẽ không phải để tỏ ra xấc xược. Nếu cậu ta tỏ ra như thế thì Laura có thể làm gì? Cậu ta là một chàng trai mập lùn, vạm vỡ, to lớn hơn và nhiều tuổi hơn cô. Cặp mắt nâu của cậu ta nhìn cô sáng rỡ. Cô cố đứng vươn lên thật cao và gõ cây bút chì lên mặt bàn. Cô nói:

– Lớp học giữ trật tự.

Dù lớp học nhỏ bé, cô nghĩ tốt nhất là vẫn giữ theo nề nếp của một trường học ở thị trấn và gọi từng trò lên đọc bài. Ruby chỉ có một mình một lớp nên phải trả lời hoàn hảo mọi câu hỏi vì không có ai giúp cô trả lời bớt một câu hỏi nào. Laura để cô bé đánh vần chậm chạp và nếu cô bị vấp, cô có thể cố làm lại. Cô bé đánh vần mọi từ trong bài học. Tommy chậm chạp hơn, nhưng Laura dành thời gian cho cậu suy nghĩ và cố gắng nên làm cũng tốt.

Rồi Martha, Charles và Clarence đọc bài đánh vần. Martha không mắc lỗi nào nhưng Charles nhầm năm từ và Clarence nhầm ba từ. Vì là lần đầu tiên nên Laura không phạt ai. Cô nói:

– Martha ngồi xuống. Còn Charles và Clarence hãy lên bảng viết lại những từ mà các bạn đã nhầm, mỗi từ ba lần.

Charles đi một cách chậm chạp và bắt đầu viết những từ sai của mình. Clarence liếc xéo về phía Laura một cái nhìn hỗn xược. Rồi quay về phía Laura không đưa tay xin phép nói, cậu ta lên tiếng:

– Cô giáo! Bảng viết nhỏ quá.

Cậu ta đang biến hình phạt không thuộc bài của mình thành trò vui và coi thường Laura.

Một lúc lâu, một lúc kinh hoàng khi cậu ta đứng nhìn cô và cô nhìn thẳng vào cậu ta. Rồi cô nói:

– Phải, bảng nhỏ lắm Clarence. Tôi rất tiếc nhưng trò hãy xóa tất cả những gì trò đã viết và viết lại các từ một cách cẩn thận hơn. Cố viết nhỏ hơn và sẽ có đủ chỗ.

Cậu ta phải làm theo vì cô không biết cô có thể làm gì nếu cậu ta không làm.

Vẫn nhăn nhở nhưng có vẻ ngoan ngoãn, cậu ta quay lại tấm bảng xóa sạch những chữ viết nguệch ngoạc. Cậu ta viết ba từ, mỗi từ ba lần và ký tên mình với một vòng hoa ở phía dưới.

Laura thấy nhẹ hẳn người khi đồng hồ chỉ bốn giờ. Cô lên tiếng:

– Tất cả cất sách vở đi.

Khi mọi cuốn sách đã nằm gọn trong các ngăn bàn, cô nói:

– Giờ học chấm dứt.

Clarence chộp áo khoác, khăn quấn, mũ trên đinh móc và với một tiếng hét lớn, cậu ta là người đầu tiên lao ra cửa. Tommy theo cậu ta bén gót nhưng cả hai chờ ở ngoài trong khi Laura giúp Ruby mặc áo, buộc dải mũ. Chín chắn hơn, Charles và Martha lo choàng áo cẩn thận để chống với cái lạnh khi bước ra. Cả hai phải đi bộ tới một dặm đường.

Laura đứng bên cửa sổ nhìn theo đám học sinh bước đi. Cô có thể nhìn thấy nhà trại của anh trai ông Brewster chỉ cách khoảng nửa dặm. Khói từ ống khói bốc lên và cửa sổ hướng tây của căn nhà phản chiếu ánh mặt trời đang lặn xuống sáng lóa. Clarence và Tommy náo loạn trong tuyết và chiếc mũ trùm màu đỏ của Ruby bập bềnh theo sau. Xa tít tắp bên cửa sổ phía đông nam mà Laura có thể nhìn thấy, bầu trời thật quang đãng.

Trường học không có cửa sổ để cô có thể nhìn về phía tây bắc. Nếu có một cơn bão tuyết nổi lên, cô không thể biết bão đang kéo tới cho tới khi nó ập đến.

Cô lau sạch tấm bảng và cầm chổi quét nền nhà. Không cần có giỏ rác vì những kẽ hở giữa các tấm ván lát nền nhà rất lớn. Cô đóng các ô gió lò sưởi, khoác áo, gom sách vở, xô đựng thức ăn trưa, đóng cẩn thận cánh cửa ra vào rồi theo lối đi ban sáng trở về căn nhà của bà Brewster.

Ngày đầu là cô giáo của cô đã trôi qua. Cô thầm cảm ơn đã được như thế.

3. MỘT TUẦN LỄ

Khi lê bước qua trời tuyết, Laura cố tìm cách làm cho mình vui lên. Laura nghĩ thầm không dễ kết thân với bà Brewster, nhưng cô không thể buồn phiền việc đó. Có lẽ tối nay sẽ không có chuyện khó chịu.

Cho nên Laura bước vào nhà người đầy tuyết và đỏ gay vì lạnh vẫn vui vẻ nói năng với bà Brewster. Nhưng trước tất cả những nỗ lực của cô, bà Brewster vẫn đáp lại bằng những lời lẽ cụt ngủn và chỉ có thế. Trong bữa ăn tối không ai nói một tiếng nào. Sự im lặng thật âm u và dễ ghét tới mức Laura không thể thốt ra lời.

Sau bữa tối, cô lại giúp làm việc và lại tiếp tục ngồi trong bóng tối trong lúc bà Brewster lặng lẽ đung đưa chiếc ghế. Cô cảm thấy muốn phát bệnh trong ước muốn được trở về nhà.

Ngay khi bà Brewster thắp đèn, Laura mang ngay sách vở tới bàn. Cô tự ra bài học cho mình và quyết định học thuộc trước giờ đi ngủ. Cô muốn bắt kịp với lớp học của cô ở thị trấn và hy vọng sự miệt mài làm việc có thể đủ giúp cô quên hẳn mình đang ở đâu.

Cô ngồi thu mình trên chiếc ghế vì sự im lặng có vẻ như đang dồn ép cô từ mọi phía. Bà Brewster ngồi uể oải. Ông Brewster vỗ cho Johnny ngủ trong lòng ông và ngắm ngọn lửa trong lò qua những ô gió. Chiếc đồng hồ gõ bảy tiếng. Rồi tám tiếng. Chín tiếng. Lúc này Laura ráng hết sức lên tiếng:

– Khuya quá rồi. Tôi xin phép đi ngủ trước.

Bà Brewster không lưu ý tới lời cô nói. Ông Brewster giật mình và nói:

– Chúc cô ngủ ngon.

Trước khi Laura có thể bước vội vào gian phòng tối om, bà Brewster đã bắt đầu cãi cọ với chồng. Laura cố ráng không nghe. Cô kéo mền lên trùm kín đầu, ấn tai vào trong gối thật chặt, nhưng cô vẫn nghe thấy. Cô biết là bà Brewster muốn cô nghe thấy.

Bà ấy nói rằng bà ấy không phải nô lệ của một mảnh váy kênh kiệu không chịu làm gì ngoài việc chải chuốt và ngồi ở trường học suốt ngày. Bà ta bảo nếu ông Brewster không tống Laura ra khỏi nhà thì bà sẽ một mình bỏ về miền Đông không cần có ông. Bà ta cứ tiếp tục lải nhải nói và nói mãi và giọng nói của bà khiến Laura muốn đổ bệnh. Đó là một giọng nói hả hê được gây thương tổn cho người khác.

Laura không biết làm gì. Cô muốn trở về nhà, nhưng cô phải tránh nghĩ đến gia đình hoặc cô sẽ phải gào khóc. Cô phải nghĩ ra một thứ gì để làm. Không có một nơi nào khác để ở, hai căn nhà khác trong khu định cư này cũng chỉ là những căn lều trại. Gia đình Harrison có một phòng cho bốn người còn gia đình anh trai ông Brewster có tới năm người. Không ai còn chỗ dành cho Laura.

Cô nghĩ thực sự cô không gây một điều gì cho bà Brewster. Cô tự làm giường của mình và còn giúp vào việc bếp núc. Lúc này bà Brewster đang cằn nhằn về cái xứ buồn nản, gió máy và rét buốt nên bà muốn trở về miền Đông. Bất giác Laura hiểu ra:

– Bà ta không nổi điên vì mình. Bà ta chỉ muốn cãi cọ về mình do bà ta muốn cãi cọ. Bà ấy là một người đàn bà vị kỷ và bần tiện.

Ông Brewster không nói một lời nào và Laura nghĩ:

– Mình cũng phải chịu đựng điều đó. Không có một nơi nào khác ở đây cho mình ở cả.

Khi thức dậy vào buổi sáng, cô nghĩ:

– Mỗi ngày mình chỉ phải trải qua một chốc lát thôi.

Thật khó ở tại một nơi mà mình không muốn. Cô thận trọng tránh gây một chuyện gì cho bà Brewster và hết sức giúp bà mọi công việc có thể làm. Một cách lễ độ, cô lên tiếng chào vào buổi sáng và mỉm cười, nhưng không cười nổi. Cô không biết từ trước là phải có hai người mới cười được.

Ngày thứ hai ở trường cô khiếp hãi nhưng vẫn qua được êm ả. Clarence ngồi ỳ ra thay vì học và Laura phát hoảng là cô sẽ lại phải phạt cậu ta, nhưng cậu ta thuộc bài. Có lẽ cô không nên rối trí vì cậu ta.

Lạ lùng là cô thấy quá mệt vào lúc bốn giờ. Ngày thứ hai đã qua và tuần lế thứ nhất cũng qua một nửa vào trưa mai.

Thình lình Laura nín thở và đứng sững trên lối đi đầy tuyết. Cô nghĩ tới ngày Thứ Bảy và Chủ Nhật, trọn vẹn hai ngày ở trong căn nhà đó cùng với bà Brewster. Cô nghe thấy mình nói lớn:

– Ồ, Bố. Con không thể.

Đó là một tiếng thút thít và cô cảm thấy xấu hổ khi nghe vang lên. Không có ai khác nghe thấy. Xung quanh cô, đồng cỏ vắng hoe, trắng toát trải dài im ắng. Cô thấy thà cứ ở tại chỗ trong cái lạnh như cắt còn hơn là bước về căn nhà bần tiện hoặc sáng mai trở lại trường học đầy ắp lo âu. Nhưng mặt trời đang lặn xuống và sẽ mọc lên vào ngày mai. Mọi thứ phải tiếp diễn.

Đêm đó Laura lại mơ thấy cô đi lạc trong bão tuyết. Cô biết rõ giấc mơ. Cô đã mơ thấy thế vài lần kể từ khi cô thực sự đi lạc trong bão tuyết với Carrie. Nhưng cơn bão tuyết này tồi tệ hơn trước. Lúc này, tuyết như kim châm và gió dữ dội thổi như cố cuốn cô và Carrie ra khỏi chiếc ghế sô pha hẹp. Laura gom tận lực cố níu lấy Carrie một hồi lâu nhưng thình lình Carrie không còn ở đó. Bão tuyết đã cuốn cô bé đi. Tim Laura như ngừng đập vì kinh hoàng. Cô không thể bước tiếp vì không còn hơi sức. Cô chìm xuống, chìm xuống trong bóng tối đen kịt. Rồi Bố từ thị trấn tới trên một cỗ xe trượt băng lớn. Bố gọi Laura:

– Về nhà ngày Thứ Bảy nghe, Bình-Rượu-Nhỏ!

Mẹ cùng Mary, Carrie và Grace đều kinh ngạc. Mary kêu lên sung sướng:

– Ôi, Laura!

Gương mặt Mẹ sáng lên với nụ cười trên môi, Carrie hối hả giúp Laura cởi áo choàng và Grace nhảy nhót vỗ tay:

– Charles, sao anh không nói với cả nhà?

Mẹ hỏi và Bố nói:

– Sao, Caroline, anh đã nói là anh kéo được một mẻ lưới nho nhỏ. Laura nho nhỏ mà.

Và Laura nhớ lại bên bàn ăn bữa trưa, cách thức Bố uống trà và đẩy lui chiếc ly về phía sau, nói:

– Hãy mong cho tôi kéo được một mẻ lưới nho nhỏ vào chiều nay.

Mẹ nói:

– Ô, Charles!

Laura không hề đi xa khỏi nhà bao giờ, cô vẫn ở nguyên đấy.

Rồi cô tỉnh dậy. Cô đang ở nhà Brewster và đã là sáng Thứ Tư. Nhưng giấc mơ thực tới nỗi cô gần như vẫn tin chắc là có. Có thể Bố tới đón cô về nhà vào Thứ Bảy. Tính cách của Bố là luôn trù liệu những chuyện bất ngờ như thế.

Trong đêm đã có bão tuyết. Cô phải mở lối để tới trường. Nắng sớm phớt hồng trên những dặm dài tuyết trong suốt và mọi vệt bóng nhỏ đều ngả màu xanh nhạt. Khi Laura lao tới và vẹt lối qua những cụm tuyết mềm, cô thấy Clarence đang mở đường cho Tommy và Ruby. Tất cả đều đến cửa trường cùng một lúc.

Cô bé Ruby dính tuyết từ đầu tới chân, thậm chí chiếc mũ trùm và các bện tóc của cô bé cũng đầy tuyết. Laura chải tóc cho cô bé và nhắc giữ nguyên áo ngoài cho tới khi trong phòng ấm áp hơn.

Clarence bỏ thêm than vào lò sưởi trong lúc Laura rũ áo khoác và quét tuyết lọt xuống các kẽ ván nền nhà. Những tia nắng chiếu qua khung cửa sổ giúp gian phòng có vẻ ấm áp hơn, nhưng bên ngoài trời càng lạnh hơn. Không bao lâu, hơi ấm lò sưởi đã xóa mờ hơi thở của họ. Đúng chín giờ và Laura nói:

– Lớp học giữ trật tự.

Martha và Charles đến trong hơi thở hổn hển, chậm ba phút. Laura không muốn nhắc đến chuyện chậm trễ này vì cả hai đã phải đạp tuyết mở đường suốt một dặm dài. Một vài bước nhấn vào trong những đám tuyết dầy thật dễ chịu và thích thú, nhưng đạp tuyết để mở lối đi lại vô cùng nặng nhọc cho từng bước chân. Trong một lúc, Laura nghĩ sẽ bỏ qua lỗi cho Martha và Charles một lần. Nhưng như thế không phải là hay. Không sự tha thứ nào có thể làm thay đổi thực tế và cả hai sẽ chậm trễ. Cô lên tiếng:

– Tôi rất tiếc là tôi phải lưu ý hai bạn về việc đến trễ giờ. Nhưng các bạn có thể tới bên lò sưởi hơ ấm trước khi về chỗ.

Martha nói:

– Chúng tôi xin lỗi, cô Ingalls. Chúng tôi không ngờ lại mất nhiều thời giờ như thế.

– Mở lối đi là một việc nặng nhọc, tôi biết thế.

Laura nói và đột nhiên cô và Martha cười với nhau, một nụ cười thân thiện khiến Laura cảm thấy việc dạy học trở nên dễ dàng hơn. Cô nói:

– Lớp Hai đứng lên, bước tới trước.

Và Ruby, Lớp Hai, đứng lên bước tới phía trước cô.

Trọn buổi sáng trôi qua êm ả. Buổi trưa, Ruby bước tới bàn của Laura, bẽn lẽn tặng cô một chiếc bánh quy. Sau khi tất cả ăn xong bữa trưa, Clarence mời cô cùng ra ngoài chơi cầu tuyết và Martha nói:

– Mời cô ra đi. Như thế mình sẽ có đủ ba người ở một phe.

Laura rất hài lòng vì được mời và nôn nóng được ra ngoài nắng giữa trời tuyết trắng trong nên bước ra. Thật là thích thú. Cô cùng Martha, Ruby chiến đấu chống lại Clarence, Charles và Tommy.

Không khí đầy những trái cầu tuyết. Clarence và Laura nhanh hơn hết, né tránh, vốc chụp, nặn tuyết giữa những bàn tay bao găng quăng đi rồi lại né tránh. Laura nóng bừng và cười lớn khi một nắm tuyết lớn bùng vỡ ngay trên mắt cô và miệng cô mở ra, tuyết trát đầy mặt.

Cô nghe thấy Clarence nói:

– Ui chà, tôi không tính làm thế.

Laura chà hai mắt không nhìn thấy gì đáp:

– Thôi xong rồi! Chỉ là một va chạm nhẹ.

Cậu ta nói:

– Đứng im đó, để tôi.

Cậu ta nắm lấy vai cô tựa hồ cô là Ruby và lau mặt cô bằng đuôi chiếc khăn quấn. Laura nói:

– Cám ơn.

Nhưng cô biết rằng cô không nên chơi nữa. Cô quá nhỏ bé và quá trẻ nên sẽ không buộc nổi học sinh giữ kỷ luật nếu chơi đùa với tất cả.

Ngay buổi chiều hôm đó, Clarence kéo tóc Martha. Bím tóc nâu của cô quết qua bàn của cậu ta khi cô xoay đầu và cậu ta nắm lấy giật mạnh.

Laura lên tiếng:

– Clarence, đừng quấy rầy Martha. Hãy để tâm vào bài học của bạn.

Cậu ta cười giả lả với cô như để nói rằng:

– Được thôi, nếu cô nói thế thì tôi sẽ không làm.

Khủng khiếp với cô là Laura gần như mỉm cười. Cô chỉ có vừa đủ thời gian để kịp giữ lại vẻ nghiêm khắc. Lúc này cô thấy chắc là cô đã bối rối về Clarence.

Ngày Thứ Tư trôi qua. Chỉ còn Thứ Năm và Thứ Sáu. Laura cố không mong Bố tới kiếm nhưng cô không thể ngưng hy vọng. Thật hết sức dễ chịu khi Bố tới kiếm và cứu cô khỏi hai ngày khổ sở trong căn nhà của bà Brewster. Nhưng dĩ nhiên Bố không biết được nỗi khổ sở đó ra sao. Cô không nên trông đợi ở Bố. Dù sao, nếu thời tiết tốt, chắc chắn Bố có thể tới. Nếu Bố tới cô sẽ chỉ còn chịu đựng hai buổi tối cay cực và tối Thứ Sáu đã được ở nhà! Cô vẫn không mong Bố, cô phải không mong để không thất vọng khi Bố không tới. Tuy nhiên cô biết cả nhà đều nhớ cô và nếu thời tiết êm ả, chắc chắn Bố sẽ tới.

Nhưng sáng Thứ Sáu có bão và gió trở lạnh hơn.

Trọn ngày ở trong lớp học, Laura lắng nghe tiếng gió, sợ nó đổi thành tiếng bão tuyết gào hú và thình lình, căn lều lay động với khung cửa sổ trống trơn.

Qua các kẽ hở gió càng thổi lạnh hơn. Tiếng gió bốc cao và lùa từng cụm tuyết lướt ngang cánh đồng rộng. Lúc này Laura biết là Bố không nên đến. Hai mươi bốn dặm đường trong thời tiết như thế này quá cực nhọc với lũ ngựa. Laura nghĩ:

– Mình phải làm cách nào qua hết khoảng thời gian cho tới Thứ Hai?

Laura khốn khổ rời mắt khỏi khung cửa sổ và bắt gặp Charles đang ngồi ngủ gật. Đột nhiên, cậu ta nhảy dựng lên choàng thức. Laura suýt bật cười nhưng Clarence liếc cô, mắt hấp háy. Cô không thể bỏ qua chuyện này. Cô lên tiếng:

– Clarence, tại sao bạn không học?

Cậu ta đáp:

– Tôi thuộc hết các bài học rồi.

Cô không nghi ngờ điều này. Clarence học rất nhanh. Cậu ta luôn theo kịp Martha, Charles và vẫn còn dư thời giờ ngồi chơi.

Cô gõ lên mặt bàn:

– Chúng ta sẽ coi xem các bạn đánh vần tốt ra sao. Lớp Ba đứng lên. Tới đây.

Căn lều lay động trong tiếng gió từng lúc hú mạnh hơn khắp xung quanh. Hơi nóng hừng hực từ lò sưởi làm tuyết lùa qua các kẽ ván vào phòng tan chảy thành những vệt nước dài trên mặt nền.

Clarence đánh vần trôi chảy mọi từ mà Laura nêu ra trong lúc cô tự hỏi có nên cho lớp học tan sớm không. Nếu cô chờ tới khi bão mạnh hơn thì Charles và Martha có thể không về tới nhà kịp.

Hình như cô thấy tiếng gió có một âm vang lạ lùng như tiếng chuông bạc. Cô lắng nghe và cả lớp cùng lắng nghe. Cô không biết làm gì trước chuyện này. Bầu trời không thay đổi. Vẫn những đám mây xám xà thấp trôi vùn vụt trên cánh đồng tràn ngập tuyết bay theo gió. Âm thanh lạ lùng trở nên rõ hơn gần như tiếng nhạc. Đột nhiên khắp cánh đồng đầy ắp tiếng rung của những chùm chuông nhỏ.

Tiếng chuông xe ngựa!

Mọi người lại thở ra và mỉm cười. Hai con ngựa nâu lướt nhanh qua khung cửa sổ. Laura biết rõ chúng. Đó là Prince và Lady, những con ngựa của chàng Wilder trẻ! Tiếng chuông vang lên lớn hơn và dừng lại. Rồi một vài tiếng chuông khua nhẹ nhẹ. Những con ngựa nâu đang dừng sát bên ngoài bờ vách phía nam dưới mái che của căn lều.

Laura căng thẳng tới mức giữ nghiêm giọng:

– Cả lớp ngồi xuống.

Cô chờ một lát rồi tiếp:

– Các bạn có thể cất sách vở. Còn hơi sớm một chút, nhưng bão có thể giữ hơn. Lớp học chấm dứt.


Giang Vi

Tôi là một người yêu sách cuồng nhiệt và đã hơn 20 năm. Tôi dành cả ngày để đọc, viết blog về sách và viết bình luận. Tôi tin rằng sách là công cụ mạnh mẽ nhất trong cuộc sống để mở mang đầu óc cho những ý tưởng và quan điểm mới. Các thể loại yêu thích của tôi bao gồm tiểu thuyết lịch sử, giả tưởng, khoa học viễn tưởng và phi hư cấu. Tôi cũng thích tìm hiểu về các nền văn hóa khác nhau thông qua văn học.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts:

Back to top button