Tiểu thuyết - ngôn tình

Cái Kết Đắng

1. THÔNG TIN SÁCH/EBOOK

Tác giả : Ruth Rendell

Download sách Cái Kết Đắng ebook PDF/PRC/MOBI/EPUB. Tải miễn phí, đọc online trên điện thoại, máy tính, máy tính bảng.

Danh mục : Tiểu thuyết – Ngôn tình

Đọc thử Xem giá bán

2. DOWNLOAD

Download ebook                      

File ebook hiện chưa có hoặc gặp vấn đề bản quyền, Downloadsach sẽ cập nhật link tải ngay khi tìm kiếm được trên Internet.

Bạn có thể Đọc thử hoặc Xem giá bán.

Bạn không tải được sách ?  Xem hướng dẫn nhé : Hướng dẫn tải sách


3. GIỚI THIỆU / REVIEW SÁCH

 

Lời giới thiệu


Ruth Rendell sinh năm 1930 tại South Woodford, London. Sau khi tốt nghiệp trường trung học nữ sinh tại Loughton, bà trở thành cây bút chủ đạo cho báo Chigwell Times, một tờ báo địa phương của Essex.

Bà được phong Sĩ quan cao cấp Đế chế Anh (CBE) năm 1996 và tước vị suốt đời Nữ Nam tước Rendell của Babergh, Aldeburgh ở Suffolk, vào ngày 24 tháng 10 năm 1997. Bà là một thành viên của Thượng nghị viện Anh. Năm 1998, Rendell có tên trong danh sách những nhà quyên góp tài chính cá nhân lớn nhất trong Đảng Lao động. Bà đã đưa dự thảo luật ra trước nghị viện, mà sau này đã trở thành Luật chính thức vào năm 2003.

Ruth Rendell đã được trao tặng rất nhiều giải thưởng, bao gồm giải Dagger bạc, vàng và kim cương Cartier từ Hiệp hội nhà văn trinh thám, ba giải Edgar từ tổ chức các tác giả viết truyện trinh thám Mỹ, giải Cuốn sách quốc gia của Hội đồng nghệ thuật, và giải thưởng văn học của tạp chí Sunday Times. Rất nhiều tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim hoặc kịch bản truyền hình. Bà cũng là nhà bảo trợ cho tổ chức từ thiện Kids for Kids nhằm giúp đỡ trẻ em ở những miền quê của Darfur.

Sáng tạo nổi tiếng nhất của Rendell, Chánh thanh tra Wexford, là một anh hùng giữa những câu chuyện về cảnh sát phổ biến đã được chuyển thể thành phim. Series mở đầu bằng tác phẩm From Doon with Death (1964). Rendell từng nói rằng nhân vật Wexford được sáng tạo dựa trên chính bản thân bà. Series gồm 24 tác phẩm và vẫn còn dang dở, gắn liền với sự nghiệp sáng tác của Ruth Rendell cho đến khi bà qua đời vào ngày 2 thàng 5 năm 2015. End in tears (Cái kết đắng – 2005) là cuốn tiểu thuyết thứ 20 trong series về Chánh thanh tra Wexford; tác phẩm đã đoạt giải Tiểu thuyết trinh thám của năm do Theakston’s Old Peculier trao tặng.

Ngoài ra, Rendell còn viết tiểu thuyết tâm lý tội phạm khai thác những chủ đề như ám ảnh về tình yêu, tác động của cơ hội và sự trùng hợp ngẫu nhiên lẫn nhân cách của tội phạm. Các tác phẩm có thể kể đến như A Judgement in Stone, The Face of Trespass, Live Flesh…

Rendell còn tạo ra một thương hiệu truyện trinh thám hết sức riêng biệt dưới bút danh Barbara Vine, đi sâu vào việc khám phá tiền sử tâm lý của những kẻ tội phạm và nạn nhân của bọn chúng, rất nhiều trong số đó chính là những con người khổ sở hoặc bị xã hội cô lập; hiểu lầm giữa người với người; cũng như hậu quả khôn lường của những bí mật gia đình và tội ác bị bị che giấu.

ĐỌC THỬ

CHƯƠNG 1

Nhấc ba lô ra khỏi ghế ngồi, hắn cảm thấy nó có vẻ nặng hơn so với lúc đầu để vào trong xe. Hắn đặt nó xuống một thềm dương xỉ mềm. Sau đó hắn trở lại ghế lái và lái chiếc xe vào sâu trong một cái hang được tạo ra bởi những bụi táo gai, những bụi mâm xôi và những dây hoa bia vắt qua tất cả mọi thứ trong khu rừng này. Đang là cuối tháng Sáu và thảm thực vật ở đây rất um tùm, rậm rạp.

Xuống xe và lùi lại để quan sát một lượt, hắn khó có thể nhìn thấy chiếc xe nữa. Có lẽ hắn chỉ nhìn thấy nó bởi vì hắn biết có nó ở đó. Không ai có thể nhận ra nó cả. Hắn cúi xuống, kéo ba lô lên vai của mình và từ từ đứng thẳng lên. Động tác này làm hắn nhớ đến một điều gì đó và khựng lại một chút khi nhớ ra đấy là gì: Nhấc đứa con trai bé nhỏ của mình ngồi lên vai. Dường như đã một trăm năm trôi qua. Chiếc ba lô nhẹ hơn thằng bé, nhưng hắn có cảm giác như nó nặng nề hơn.

Hắn lo sợ rằng nếu hắn đứng thẳng lên, chiếc ba lô sẽ kéo giật về đằng sau và làm gẫy xương sống của mình. Dĩ nhiên, điều đó chỉ là cảm giác của hắn. Chẳng hề gì, hắn sẽ không đứng thẳng, thậm chí sẽ không thử. Thay vào đó, hắn cúi xuống, gần như gập đôi người lại. Không xa lắm. Hắn có thể đi bộ như thế này suốt hai trăm mét1 để đến cây cầu. Bất kỳ ai nhìn thấy hắn từ xa trong thứ ánh sáng nửa vời thế này đều sẽ nghĩ hắn là một người gù.

1 Trong trường hợp không nhằm nhấn mạnh, các đơn vị đo độ dài: thước, dặm… sẽ được chiếu đổi về đơn vị đo chuẩn để giúp độc giả dễ theo dõi.

Và không ai nhìn thấy cả. Con đường làng ngoằn ngoèo uốn lượn quanh rừng Yorstone và vắt qua cây cầu. Hắn đã có thể đánh xe lên thẳng cây cầu nhưng như vậy sẽ bị nhìn thấy, vì thế hắn phải lái xe ra khỏi làn đường một đoạn và xuyên qua một khoảng rừng thưa để tìm cái hang mọc đầy những cây hoa bia. Hắn nghĩ mình đã nghe thấy tiếng của một chiếc ô tô từ phía xa, và theo sau là tiếng động cơ diesel nặng nề. Họ hẳn sẽ đi qua con đường bên dưới, đường Brimhurst chạy từ Myfleet đến Brimhurst Prideaux, băng qua gầm cầu Yorstone phía trước mặt hắn. Mặc dù không xa nữa nhưng hắn có cảm giác còn tới cả dặm. Nếu đôi chân hắn ngã quỵ vào lúc này, hắn sẽ không thể đứng lên được nữa. Liệu có thoải mái hơn khi kéo chiếc ba lô không? Điều gì xảy ra nếu hắn chạm mặt một ai đó? Tuy nhiên kéo lê một thứ gì đấy nhìn sẽ đáng ngờ hơn là vác nó. Hắn hơi đẩy vai ra sau một chút và ngạc nhiên khi thấy thoải mái hơn. Không gặp ai cả. Hắn có thể thấy làn đường xuyên qua tàng cây và cây cầu đá nho nhỏ không được gia cố bằng thép hay thay thế bằng một khung gỗ sơn sáng màu.

Theo báo địa phương, lan can của cây cầu thấp dưới mức an toàn. Tờ báo đó luôn chú trọng đến cây cầu này, về độ nguy hiểm của làn đường và các lan can quá thấp. Hắn đi bộ lên cầu, cúi xuống và để ba lô trượt xuống đất. Hắn mở nắp ba lô rồi kéo phéc mơ tuya. Để lộ một khối bê tông, gần giống hình cầu và to hơn quả bóng đá một chút. Ngoài ra còn có một đôi găng tay. Để an toàn, hắn đeo chúng vào. Mặc dù sẽ chẳng có ai kiểm tra tay mình, nhưng hắn không ngu ngốc đến nỗi làm chúng xước xát hay bầm tím.

Ánh sáng cuối ngày nhanh chóng lụi tàn và khi màn đêm buông xuống, trời trở nên lạnh hơn. Đồng hồ của hắn chỉ chín giờ mười lăm phút. Không còn lâu nữa. Hắn nhấc tảng bê tông lên bằng đôi tay đã đeo găng, cân nhắc để giữ nó thăng bằng sẵn sàng trên lan can, rồi nghĩ lại. Không phải không có khả năng xuất hiện một người nào đó đến từ con đường mà hắn đã đi và băng qua cây cầu. Hắn nghĩ đến việc chờ một cuộc gọi. Sẽ không còn lâu nữa.

Không có xe cộ nào chạy qua con đường bên dưới kể từ khi hắn lên cầu ngoại trừ một chiếc xe sắp tới, hướng về phía Brimhurst Prideaux, và rất có thể đang trên đường đi Kingsmarkham. Hắn nắm chiếc điện thoại di động để trong túi áo, lo lắng vì chưa nhận được cuộc gọi. Rồi tiếng chuông điện thoại reo lên.

“Chuyện gì?”

“Cô ta đi rồi. Anh có muốn đọc lại biển số xe không?” “Tôi biết rồi. Một chiếc Honda màu bạc.”

“Đúng vậy.”

“Một chiếc Honda màu bạc. Sẽ đến trong vòng bốn phút nữa.”

Bên kia tắt máy. Màn đêm hiện đã hoàn toàn bao phủ. Một chiếc ô tô chạy qua bên dưới cây cầu, thẳng tới Brimhurst St Mary và Myfleet. Con đường trở nên dốc dần nơi cây cầu vắt qua và quẹo về bên trái, gần như tạo thành một góc vuông. Ở góc này có những cây cao với phần thân cổ thụ rất lớn cùng biển báo hình mũi tên màu đen trắng quay ngược lại, chỉ đường cho xe cộ về bên trái. Một phút đã trôi qua.

Hắn di chuyển qua phía bên kia cây cầu, kéo lê chiếc ba lô đằng sau, và cúi xuống, dùng hết sức nhấc tảng bê tông lên rồi đặt nó trên lan can. Quả thật chẳng dễ dàng gì. Một phút nữa lại trôi qua. Một chiếc xe tải màu trắng rọi đèn pha đến từ hướng Myfleet, một chiếc xe con chạy phía sau vượt lên, và ngay đằng sau hắn là chiếc mô tô chạy tới từ hướng Kingsmarkham. Hắn chửi thề vì bị lóa mắt bởi ánh đèn pha từ những chiếc xe. Không một ai nhìn thấy hắn. Chiếc Honda màu bạc với biển số mà hắn thuộc lòng sẽ sớm, rất sớm xuất hiện thôi. Phút thứ ba qua đi. Rồi phút thứ tư.

Hắn ghét phải chờ đợi. Chiếc Honda màu bạc có thể đã đi đường khác. Nếu có thể nói rằng việc đó sẽ không bao giờ xảy ra thì thật tốt, nhưng người ta không thể nói trước được điều gì, không thể khi chiếc xe đi theo cái cách mà mọi người điều khiển nó. Hắn đang đứng đối mặt với con đường mà chiếc xe sẽ chạy đến, thẳng tới Myfleet. Nó sẽ băng qua gầm cầu nhưng là trước khi đến được khúc cua bên tay trái. Hắn có thể nhìn thấy ánh đèn từ đằng xa. Ánh đèn lúc ẩn lúc hiện vì tán cây và thân cây che khuất tầm nhìn của hắn. Hai luồng ánh sáng, không phải một chiếc xe mà là hai, cả hai đều màu bạc và đi rất gần nhau. Một trong hai là chiếc Honda nhưng hắn không thể thấy rõ từ vị trí này, không phải trong bóng tối, tuy nhiên hắn có thể đọc biển số xe hoặc ba chữ số cuối trên đó.

Ngay khi hắn đẩy thật mạnh tảng bê tông trên lan can và cảm thấy nó đã rơi xuống, hắn nhận ra rằng mình đã chọn nhầm xe. Vụ va chạm cực lớn giống như một quả bom phát nổ. Chiếc xe đầu tiên, mà hắn nhắm đến, tông thẳng vào một thân cây, nắp ca-pô bật tung, và kính chắn gió tan tành, một nửa thùng xe bị sụp xuống. Chiếc xe dường như bị tách làm hai và phát nổ. Chiếc đằng sau, không bị ảnh hưởng cho đến khi đâm vào chiếc đằng trước khiến cốp xe bật mở. Đó là chiếc Honda màu bạc mà hắn nhắm đến. Khi tài xế thoát ra ngoài và la hét, bàn tay cô ta quờ quạng trong không khí, hắn biết rằng mình đã thất bại.

Không chần chừ gì nữa, hắn thu lại chiếc ba lô và rời đi, một lần nữa quay lại nhìn chiếc xe đã chìm trong biển lửa. Trong ánh sáng chiếu rọi mọi thứ, lần đầu tiên hắn nhìn thấy người phụ nữ mà mình đã cố giết.

CHƯƠNG 2

George Marshalson đã có một giấc ngủ tồi tệ. Ông luôn bị như vậy khi cô ra ngoài. Lên giường ngay sau khi cô rời khỏi nhà, ông đã thiếp đi khoảng một hay hai tiếng, sau đó thức giấc và cứ nằm thao thức, sự hiện diện của Diana ngay bên cạnh cũng không thể giúp ích được gì. Đang là tháng Tám, đêm vẫn ngột ngạt, ẩm thấp và oi ả mặc dù đã mở hết các cửa sổ. Ông nằm nghe những âm thanh của đêm, tiếng nước chảy của dòng sông lững lờ, tiếng khóc nỉ non của một con chim không rõ là loài nào.

George nhấn nút bật sáng bảng hiện thị đồng hồ, và thấy mới chỉ mười một giờ bốn mươi mốt phút. Phòng tắm đang réo gọi ông, nhắc nhở ông với sự bứt rứt rằng, hầu hết đàn ông ở độ tuổi của mình, tuyến tiền liệt đã không còn hoạt động hoàn hảo nữa. Ông vén tấm rèm che cửa ra một chút và cảm nhận luồng không khí phả trên mặt mình. Bầu trời không một gợn mây và mặt trăng đã lên cao. Nhiều tuần nóng bức đã sấy khô những chiếc lá trên cây đến nỗi chúng uốn cong rủ xuống con đường làng, nhưng hiện tại lại chỉ có thể nhìn thấy sự trù phú, tươi tốt mãnh liệt của chúng vẫn phấp phới trong không khí ấm áp. Ông nghĩ sẽ tuyệt vời biết bao nếu có chuyện gì đó bất chợt xảy ra khiến cô về nhà sớm hơn. Chẳng hạn như cái câu lạc bộ tồi tệ đó đóng cửa, hay thậm chí là một cuộc đột kích của cảnh sát, mặc dù ông khó mà nghĩ rằng Amber đã làm điều gì đó thu hút sự chú ý của cảnh sát – hay có nhỉ? Bạn không bao giờ biết giới trẻ hiện nay nghĩ gì. Tuy nhiên, sẽ thật tuyệt vời khi bước đến bên những tấm rèm cửa, vén chúng lên và nhìn thấy cô đang đi bộ dọc theo con đường…

Hằng đêm ông vẫn ra ngoài đường để tìm kiếm hình bóng cô. Một hành động vô nghĩa, quá ngớ ngẩn để thú nhận với bất cứ ai. Thậm chí cả Diana cũng chẳng biết điều này. Ông đã ra ngoài và đi bộ tới ngã tư – hai hay ba trăm mét nữa? – nhìn xuôi nhìn ngược con đường chạy từ Myfleet tới Kingsmarkham, rồi lại đi bộ về. Không có kết quả gì, cũng như chưa từng có, nhưng đó là điều mà các bậc cha mẹ hay lo lắng hoặc người yêu vẫn thường làm. Ngay cả khi ông nghĩ đến chuyện làm điều ấy tối nay, nhưng bây giờ vẫn là quá sớm. Cô sẽ ở bên trong câu lạc bộ đó, ông nghĩ đấy là một địa điểm dưới lòng đất, cùng với bạn bè của cô làm những gì họ vẫn làm. Ông buông rèm xuống và đứng đó nhìn Diana. Bà ngủ yên lặng, một bàn tay đặt lên má. Tuổi xuân quay trở lại trong khi bà ngủ, giống như người ta thường nói rằng nó quay trở lại với những người mới chết. Ông tự hỏi rằng nếu bà có một ai khác thì sao nhỉ, ông nghĩ, “một ai khác”, như người ta vẫn nói. Dường như đối với ông thật đáng ghê tởm khi nghĩ đến việc phải chia sẻ chiếc giường với người đàn ông khác mặc dù ông cũng đã từng có vài người tình. Nhưng có lẽ, bà ấy không, hoàn toàn không như thế. Bà dửng dưng với ông, và ông cũng vậy. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, ông cũng chẳng bận tâm. Thi thoảng có vài lần nghĩ đến điều này, ông nhận ra rằng mình không thực sự quan tâm đến ai khác ngoài Amber.

Ông chìm vào giấc ngủ bồn chồn. Một âm thanh đánh thức ông dậy. Phải chăng là một chiếc xe trên đường? Thằng nhóc đó có thể đã đưa cô về nhà. Cậu ta vẫn thả cô ở ngã tư nhưng cũng có thể cậu ta đã đưa cô về tận nhà. Một lần nữa, ông bật bảng hiển thị đồng hồ. Một giờ năm mươi sáu phút. Đây là lúc mà cô về đến nhà. Cô thường rất yên lặng, tránh hết mức để đánh thức đứa trẻ cũng như làm phiền đến ông và Diana. Có lẽ cô đã về. Có lẽ âm thanh ông nghe được là tiếng đóng cửa trước. Ông nằm đó và lắng nghe. Yên tĩnh. Sau đó là tiếng chim, mặc kệ nó là loài nào, cất tiếng hót nỉ non. Hai giờ, hai giờ ba mươi, ba giờ kém mười… Ông tỉnh dậy và đi ra đầu cầu thang. Nếu đã về, cô sẽ đóng cửa phòng ngủ lại. Nhưng nó vẫn mở.

Một mớ bòng bong đập vào mắt ông: Giường chiếu lệch lạc, quần áo quăng tứ tung, ông cảm thấy bớt khó chịu đôi chút nhờ ánh trăng đêm. Cô vẫn chưa về. Ba giờ đã là rất muộn mà giờ đã quá ba giờ rồi. Ông xuống lầu, đi chân trần băng qua mặt sàn gỗ rộng thênh thang, nơi mát lạnh duy nhất trong căn nhà, tự nói với bản thân rằng ông sẽ tìm thấy cô trong phòng khách, phòng bếp, ăn hay uống thứ nước lấp lánh họ vẫn rót tràn như mọi khi. Cô không có ở đó. Ông nghĩ, quay lại giường ngủ thì có ích gì, mình sẽ không ngủ được. Nhưng ông còn có thể làm gì nếu không về lại giường? Chẳng có gì để làm trong màn đêm thế này vì giờ là thời điểm dành cho việc ngủ. Khi ông đi lên gác, ông nghe thấy tiếng khóc nhưng không phải từ con chim mà là từ đứa bé. Nếu nó bị bỏ lại với George, ông sẽ để mặc cho nó khóc, mặc dù ông chưa bao giờ để Amber khóc cả. Ông bước vào phòng ngủ nóng nực và thấy Diana trần trụi ngồi bên giường. Bà đã ngủ như vậy. Và luôn như vậy. Dĩ nhiên ông thích điều này khi lần đầu họ quen nhau, khi lần đầu họ cưới nhau. Và giờ ông nghĩ cảnh tượng đó… thật khó coi. Ở tuổi ông, và sắp tới, là đến bà. Bà đứng dậy, không nói với ông câu nào, khoác lên mình chiếc áo choàng lụa màu xanh bà đã cởi ra khi đi ngủ và tới xem đứa bé.

Bà mất mười phút để dỗ yên đứa trẻ. Khi bà quay lại, ông đã bật đèn và đang ngồi trên giường.

“Con bé vẫn chưa về”, bà nói. “Anh biết.”

“Anh phải kiên quyết hơn nữa. Anh phải nói với nó rằng lối hành xử như thế này là không thể chấp nhận được. Nếu nó muốn sống cùng chúng ta dưới cùng một mái nhà và hưởng thụ điều kiện sống ở đây, nó sẽ phải về nhà trước nửa đêm. Lạy Chúa, con bé chỉ mới mười tám tuổi thôi đấy.”

“Nó sắp đi rồi, phải không, vào tháng Mười một?”

Bà không trả lời. Bà sẽ bớt giận thôi, ông nghĩ. Ông tắt đèn và nghe trong bóng tối tiếng áo choàng lụa xanh trượt ra khỏi cơ thể trần truồng của bà. Làn da mịn màng ấm áp nơi đùi bà chạm vào ông. Nó làm ông rùng mình trong cái nóng.

Mặt trăng đã lặn, bình minh chưa đến. Ông nằm thao thức một giờ liền, sau đó đứng dậy, đi vào phòng tắm và mặc quần áo. Quần áo của người già, Amber nói thế, quần vải flannel, sơ mi có cổ và măng sét, vớ và giày ống có dây buộc, nhưng ông chẳng biết mặc gì nữa. Chắc là ông cũng đã ngủ một chút sau khi Diana quay trở lại giường. Có người nói rằng kể cả lúc ngủ thì bạn vẫn lơ mơ, thậm chí dù bạn chắc chắn rằng mình không hề như thế. Trong khi ông chìm vào giấc ngủ chập chờn, cô có thể đã về. Ông đứng đợi ở cửa sổ phòng ngủ, chờ năm phút, mười phút, trước khi đi ra ngoài, trì hoãn niềm vui khi nhìn thấy cuối cùng cửa phòng cô cũng đóng hoặc kinh hoàng thấy nó vẫn mở.

Cửa mở.

Giờ ông nghĩ, đặt nỗi sợ hãi lâu nay của mình vào lời nói, chắc hẳn có chuyện gì đó đã xảy ra với cô. Chuyện gì đó đã xảy ra với những cô gái mười tám tuổi ra ngoài một mình vào ban đêm. Đã năm giờ kém mười và trời dần hửng sáng. Bầu trời xanh và rực rỡ, mang một thứ sắc màu không tên và chẳng thể miêu tả được nếu không phải giống như một viên ngọc. Ngoài trời, thay vì nặng nề và ngột ngạt như hàng giờ trước đó, không khí đã trở nên tươi mới và mát mẻ. Ông nghĩ, mình sẽ đi bộ xuống góc phố, dọc theo con đường, đi hàng dặm nếu cần thiết cho đến khi tìm thấy Amber. Và nếu không, ít nhất mình sẽ không có mặt ở nhà, trên một chiếc giường bên cạnh người phụ nữ đó và nghe đứa trẻ khóc.

Dãy nhà duy nhất trên đường Mill là của riêng ông, và một trăm mét tính từ đó, ở phía bên kia, là một dãy ba căn biệt thự nhỏ. Tại sao chúng lại được xây ở đó từ một trăm năm mươi năm trước, chúng thuộc về người nào, dường như không ai biết. Bên ngoài căn biệt thự ở giữa, có một chiếc xe đang đỗ bên vệ cỏ. Tóm lại, George tự hỏi tại sao John Brooks lại để chiếc xe của mình ở đó qua đêm khi lối đi của anh ta có chỗ đậu cho nó. Ý nghĩ đó thoáng qua, mang ông trở lại với việc Amber đã được Brooks giúp khi cố gắng sử dụng máy tính của Diana. Tại sao không đi hỏi bản thân Diana nhỉ? Họ đã luôn luôn không thích nhau, cả hai người, từ đầu chí cuối. Làm thế nào mà lại có người không thích Amber bé nhỏ của ông vậy?

Nhưng nó đâu rồi? Chuyện gì đã xảy ra với con bé? Đi bộ bên lề đường dãy nhà Jewel, ông đến cuối đường Mill và nhìn ngược nhìn xuôi đường Myfleet. Con đường rất dài và thẳng tắp, một làn đường duy nhất với hai bên là những bãi cỏ và rừng cây, các dải đinh phản chiếu ánh sáng trên đường kéo dài đến khu vực trung tâm nhưng không thấy có biển báo giao thông hoặc vạch kẻ đường nào ngoài biển chỉ dẫn “Tới Brimhurst St John” chỉ xuống đường Mill. Đi bộ dọc theo nó dường như là vô tận. Tốt hơn ông nên quay trở về và lấy xe. Hoặc ông có thể gọi cho cậu nhóc Ben Miller đó. Dĩ nhiên, sẽ thật là quá đáng khi gọi điện thoại cho bất cứ ai vào lúc năm giờ sáng và Miller cũng không phải là bạn trai của Amber, cô không có bạn trai, nhưng ông không quan tâm lắm về điều đó. Ồ, sẽ thật nhẹ nhõm nếu con bé đang ở cùng với Miller ở Myfleet – nhưng nó sẽ không làm vậy. Tại sao nó lại tới đó cơ chứ?

Ông vòng lại và bắt đầu đi bộ về ở phía bên kia đường. Con bé hẳn phải dừng lại đâu đó với một trong những đứa bạn ở Kingsmarkham, Lara hoặc… có phải nó tên là Megan không nhỉ? Hay Samatha hay Chris? Ông hy vọng một cách mong manh vào điều đó. Ông cảm thấy những tia hy vọng bắt đầu trôi xa dần trong dòng suy nghĩ của mình. Mặt trời đang lên và mang theo hơi nóng. Ông bước lên bãi cỏ, hưởng thụ cảm giác mềm mại dưới chân mình, nhìn sang bóng mát của cây cối phía bên trái và thấy vật gì đó màu trắng lấp lánh ở đấy, bị che khuất bởi đám cỏ dại mọc cao. Một cú giáng vào trái tim và nỗi kinh hoàng tràn qua ông. Trong một lúc, ông không thể di chuyển, chỉ đứng đó nhìn vô định. Ông cất bước về phía vật màu trắng. Cố gắng để nhìn thấy chính là điều đau đớn nhất mà ông đã từng làm nhưng ông vẫn phải làm điều đó, ông phải nhìn. Ông thấy bàn tay chìa ra của cô, với chiếc đồng hồ màu trắng có khuôn mặt Gollum ngu ngốc, và ông ngã về phía trước. Mắt nhòa đi, có lẽ vậy, ông không biết, hoặc chỉ vì cơ thể cô là thứ duy nhất nằm sõng soài ở đây.

Ông không chắc rằng mình đã nằm đó bao lâu. Ông muốn chết. Ông nghĩ rằng nếu kiên quyết muốn thế thì ông sẽ chết và họ sẽ được tìm thấy cùng với nhau. Nhưng không phải vậy. Người giao báo đến nhà ông và dãy Jewel đã đỗ chiếc xe của mình ở ngã tư, rồi đi bộ xuống con đường, và nhìn thấy ông và cô. Khi ông không muốn di chuyển, người giao báo đã gọi điện cho cảnh sát rồi đợi họ đến.

CHƯƠNG 3

Người phụ nữ bước ra từ căn nhà khi họ lái xe đến đang bế một đứa trẻ tầm một tuổi trên tay. Chánh thanh tra Reginald Wexford và Trung sĩ thám tử Hannah Goldsmith tự giới thiệu bản thân rồi người phụ nữ nói, “Ông ấy đang ngủ. Bác sĩ đã tiêm cho ông ấy một liều thuốc an thần”.

“Tôi muốn nói chuyện với bà”, Wexford nói. “Bà là bà Marshalson?”

Bà ta gật đầu. Wexford chưa từng biết đến trường hợp một người cha tìm thấy thi thể bị sát hại của con gái mình, cũng không bao giờ nghĩ đến việc thấy một người cha mất con nằm sõng soài qua xác của cô ấy. Anh cũng có con gái nhưng anh không thể tưởng tượng được bản thân mình sẽ thế nào khi ở trong tình huống của George Marshalson.

Khi người đàn ông này được thuyết phục, và được đưa về nhà, các chuyên viên pháp y đã đến. Các phóng viên cũng đến, cả những nhân viên đội điều tra hiện trường và toàn bộ những ai có liên quan đến hiện trường án mạng. Về phần mình, Wexford cần phải ghi nhận điều duy nhất rằng cô ta còn rất trẻ, vẫn còn ở tuổi thiếu niên, rất xinh xắn, và nguyên nhân dẫn đến cái chết là bởi một cú đánh bạo lực vào đầu bằng một viên gạch hoặc mảnh nề.

Anh thẩm vấn người đưa báo đã tìm thấy ông ta và cô bé, sau đó anh cùng Hannah đi xuống phố về phía Clifton, ngôi nhà của gia đình Marshalson. Cái nóng mà họ đã quen thuộc đến nỗi dần thấy nó bình thường bị giam lại bên trong. Mọi người có thể cảm thấy nhiệt độ đang tăng lên. Bầu không khí trở nên ngột ngạt và nặng nề vào buổi trưa. Một vài tia sáng le lói qua những tán cây chi chít lá xanh vắt xuyên qua đường Mill.

Vườn trước của Clifton không có hoa lá gì, chỉ có ít cây bụi và cỏ úa vàng. Cánh cửa trước của ngôi nhà bật mở và người phụ nữ bước ra trước khi họ nói chuyện. Chính xác một cách thận trọng đến mức Wexford cảm thấy buồn cười, Hannah nói với anh bằng giọng điệu tử tế và nhẫn nại cô thường sử dụng khi nói chuyện với anh, “Đó chắc là bạn đời của ông ta”.

“Rất có thể là vợ của ông ta.”

Hannah tặng anh một cái nhìn mà cô dành cho một gã đàn ông trung niên vẫn gọi người phụ nữ hắn cưới là vợ. Sau đó, bà Marshalson dẫn họ vào trong nhà và thả thằng bé trên tay xuống. Chưa biết đi, nó chỉ bò trên sàn gỗ bóng loáng, bập bẹ, “Mẹ, mẹ”.

Diana Marshalson không buồn chú ý đến đứa trẻ. “Mời ngồi. Tôi không biết mình có thể kể được gì với hai người.

Khi quay trở lại, ông ấy chẳng nói năng gì cả. Ông ấy thực sự bị sốc.” Biểu hiện của họ hẳn phải nói cho bà ta về điều cả hai đang hiểu lầm. “Ồ, tôi không phải mẹ con bé. Tôi là vợ hai của George.”

Wexford đã nghiên cứu để phát hiện dấu hiệu của vẻ hài lòng trên khuôn mặt Trung sĩ thám tử Goldsmith và trong những gì cô chắc hẳn sẽ gọi là ngôn ngữ cơ thể của bà ta. Anh nhìn họ lúc này, biểu hiện ở khẩu hình miệng, sự thả lỏng ở đôi vai thường xuyên căng cứng của bà ta. Những điều được Diana Marshalson thể hiện đã tiết lộ rằng bà ta là mẹ kế của cô gái đã chết. Hannah thích thú với mối quan hệ phức tạp của gia đình này. Trong suy nghĩ của cô, họ đại diện cho sự tự do và quyền tự quyết. Một đám trẻ con, Wexford nghĩ, mỗi đứa lại có một người cha khác nhau và một số không cùng mẹ, tất cả đều sống dưới một mái nhà với bốn hoặc năm người lớn không liên quan sẽ là lý tưởng đối với cô.

Họ đi vào một phòng khách rộng rãi, cửa sổ kiểu Pháp rộng mở. Anh đã biết rằng gia đình Marshalson là những nhà thiết kế nội thất, dựa vào studio của Marshalson, Thiết kế và Phục hồi, ở Trung tâm Kingsbrook của Kingsmarkham nhưng anh cũng có thể biết mà không cần ai phải nói. Nhà của những người như vậy luôn luôn không thể nhầm lẫn, xinh đẹp, thể hiện gu thẩm mỹ hoàn hảo, các đồ trang trí vừa phải và không quá nhiều, màu sắc đích thị là những gì người ta sẽ chọn nếu tặng chúng như những món quà, và đồng thời mất đi vẻ ấm cúng, không phải là nơi mà ở đó, người ta thích cuộn mình lại với một cuốn sách cùng một ly rượu vang. Wexford ngồi xuống chiếc ghế sofa màu xám sẫm, Hannah ngồi trên một chiếc ghế bành màu xám nhạt, Diana Marshalson ngồi trên một chiếc khác, trông như thể có xuất xứ từ một cung điện ở Mandalay. Khuôn mặt điêu khắc của các vị thần tức giận trừng mắt từ lưng dựa cao có hình vòm.

“Điều gì đã khiến chồng bà ra ngoài vào sáng nay vậy, thưa bà Marshalson? Thời gian chính xác là vào lúc nào?”

“Tôi không biết”, bà ta đáp. “Tôi đang ngủ. Ông ấy đã vô cùng lo lắng khi con bé ra ngoài cả đêm. Tôi nghĩ ông ấy nhận ra con bé chưa về nhà.”

“Ông ấy ra ngoài để tìm cô bé à?”, Hannah tỏ vẻ hoài nghi. “Tôi nghĩ vậy. Ông ấy có thể đã nghĩ rằng – ồ, hoặc là con bé không có ở đó hoặc là điều gì đấy khủng khiếp đã xảy ra. Nhưng tôi không biết. Ông ấy đã ra ngoài. Tôi tỉnh dậy khi thằng bé khóc. Đó là vào lúc sáu rưỡi.” Bà ta như thể chỉ để ý đến tiếng khóc. “Tôi phải đi xem George thế nào. Hai người vui lòng đợi tôi một phút nhé? Tôi sẽ quay lại sớm nhất có thể.”

Khi bà ta ra ngoài thì thằng bé bò vào phòng, xoay xở đứng lên bằng cách bám vào cạnh của một chiếc bàn được dát trông như thể làm bằng gỗ mun và một số gỗ vàng nhạt. Thằng bé rất kháu khỉnh, làn da màu ô liu nhưng đôi má hồng hào, tóc đen xoăn và mọc thành từng vòng mà chỉ có thể nhìn thấy ở những đứa trẻ còn rất nhỏ.

“Xin chào”, Wexford nói. “Tên cháu là gì? Để chú đoán nhé. James phải không? Jack à? Cái tên phổ biến nhất hiện tại là Archie, người ta bảo chú thế.”

“Nó còn quá nhỏ để hiểu những gì anh nói đấy.” Cưỡng lại thôi thúc muốn nói với cô là anh biết điều đó, anh đã có hai đứa con và bốn đứa cháu, anh nhẹ nhàng nói rằng những đứa trẻ thích mọi người nói chuyện với chúng, chúng thích âm thanh và cả sự chú ý. Không quan trọng dù bạn nói gì đi chăng nữa. Hannah khẽ nhún vai, cử chỉ yêu thích của cô. Diana Marshalson, anh nghĩ, nhìn đủ trẻ để làm mẹ của đứa trẻ này nhưng chỉ vừa đủ mà thôi. Có lẽ bốn mươi lăm hay bốn mươi sáu tuổi, người vợ thứ hai có lẽ chưa từng kết hôn trước đó và muốn sinh một đứa con trước khi quá muộn. Anh thực sự khâm phục vẻ ngoài của bà ta. Cao, ưa nhìn, tóc đen với vóc dáng đầy đặn là gu của anh. Vợ anh cũng là một người như vậy.

Bà ta quay lại. “Ông ấy ngủ rồi. Đây có lẽ là điều tốt nhất cho ông ấy, mặc dù tôi sợ khi ông ấy tỉnh lại. Ông ấy sẽ phải tỉnh dậy vào lúc nào đó. Ông ấy rất yêu thương Amber. Con bé chỉ mới mười tám tuổi. Chuyện gì đã xảy ra?”

“Còn quá sớm để kết luận”, Hannah trả lời. “Cô ấy đã chết. Cô ấy bị tấn công. Thực sự đó là tất cả những gì chúng tôi biết.”

Thằng bé cố gắng trèo vào lòng của Diana Marshalson. Trong mắt Wexford, bà ta dường như kéo nó lên một cách mệt mỏi và không mấy nhiệt tình. “Amber ra ngoài vào tối hôm trước à? Lúc đó là mấy giờ và cô ta đã đi đâu?”

Mẹ kế của Amber cẩn thận lựa chọn từ ngữ. “Con bé đến câu lạc bộ. Tới một địa điểm gọi là Bling-Bling ở Kingsmarkham. Khoảng tám rưỡi đến chín giờ, tôi nghĩ vậy. Nghe thật kinh khủng, tôi biết, nhưng bọn trẻ luôn như thế. Đứa bạn đưa nó về nhà đã thả nó xuống ở cuối đường Mill. Trước đây đều như vậy, con bé đến câu lạc bộ thường xuyên và luôn chẳng có vấn đề gì.” Thằng bé đã túm được chuỗi ngọc trai bà ta đang đeo và bắt đầu giật mạnh. “Không, Brand, không được làm thế.” Bà ta cạy ngón tay thằng bé ra. “Amber đang đợi để lấy kết quả A level. Con bé vừa mới tốt nghiệp. Nghe này, chồng tôi đã ngủ rồi nhưng tôi nghĩ tôi phải ở đó với ông ấy. Chăm sóc cho ông ấy, hai người biết mà. Phòng khi ông ấy tỉnh lại. Tôi không thể rời xa ông ấy lâu hơn nữa.”

“Chúng tôi chỉ muốn…”, Hannah bắt đầu nhưng Wexford đã ngăn lại. “Chúng tôi sẽ quay lại vào hôm khác, thưa bà Marshalson.

Khi đó, có lẽ bà hoặc chồng bà có thể cho chúng tôi biết tên của bạn bè hay một số thông tin về bản thân Amber. Chúng tôi sẽ không làm phiền bà nữa.”

Diana Marshalson bế cắp nách thằng bé và ở lại đủ lâu để mở cửa cho họ.

“Chúng ta có thể có được tên của bạn cô bé, anh biết mà, thưa ngài”, Hannah nói. “Trông bà ta không giống như mẹ của một người phụ nữ.

Mặc dù anh biết điều này thực tế đã trở thành thông lệ được chấp nhận trong lực lượng cảnh sát trên khắp cả nước, Wexford rất không thích bị gọi là “ngài1”. Lúc này, anh không mong được gọi là “sếp2” và hầu như vẫn muốn cô gọi anh bằng tên thánh của mình hơn là cách gọi tắt khó chịu kia. Khi lần đầu cô gia nhập đội của anh, anh đã nhẹ nhàng yêu cầu cô đừng gọi thế, nhưng rốt cuộc mọi chuyện vẫn tiếp diễn như thể anh chưa nói gì cả. Nếu cô có bất cứ biểu hiện nào thiếu tôn trọng anh, anh đã có lý do để quở trách cô, nhưng cô lại không như vậy và sẽ không bao giờ. Anh chắc chắn rằng cô thích, thậm chí ngưỡng mộ anh – ngoại trừ cung cách và từ ngữ nói chuyện theo kiểu cổ lỗ sĩ của anh.

1 Nguyên văn: Guv (ngài, ông chủ).

2 Nguyên văn: Sir (sếp).

Hiện giờ cô đang lặp lại những gì mình đã nói vì anh không trả lời. “Bà ta có thể đã rất gắn bó với cô bé”, anh nói. “Chúng ta không biết cô bé đã ở cùng mẹ kế bao lâu rồi. Có thể từ khi Amber còn là một đứa trẻ.”

Quay trở lại hiện trường, Hannah không nói thêm câu nào nữa. Cô cảm thấy khó chịu khi Wexford sử dụng từ “cô bé”. Amber là một phụ nữ, cô ấy đã mười tám tuổi. Anh ta sẽ phải học thêm về cách dùng từ ngữ chuẩn xác, cô nghĩ, hoặc thế giới đang thay đổi từng ngày này sẽ bỏ lại anh ta phía sau mất. Vào một ngày khác, cô đã nghe anh nói về “người ta” khi anh định nói là “cộng đồng”.

Thi thể đã được chuyển đi. Vẫn còn một vài nhân viên mặc cảnh phục đứng trên bãi cỏ, nửa tá xe cộ chen chúc ở lối vào của con đường và nhân viên khám nghiệm hiện trường căng những dải băng màu xanh và trắng xung quanh vị trí xác của Amber. Sĩ quan Karen Malahyde đang đứng cạnh một phụ nữ tầm bốn mươi tuổi mặc quần jean và áo phông trắng.

“Đây là cô Burton, thưa sếp. Cô ấy sống ở một trong những căn hộ đối diện. Cô ấy đã ra ngoài tối qua và trở về nhà lúc nửa đêm.”

“Lydia Burton”, người phụ nữ tự giới thiệu. “Tôi sống ở số ba dãy nhà Jewel. Tôi ra ngoài với một người bạn. Anh ấy lái xe đưa tôi về và sau khi anh ấy về, tôi dắt chó đi dạo. Không lâu lắm, anh biết đó. Nhưng anh vẫn phải dắt chúng đi dạo, nếu không chúng sẽ làm bậy.”

Cô ta nhìn có vẻ dễ thương hơn là xinh đẹp, với làn da hồng hào và mái tóc xoăn, khuôn mặt không trang điểm trừ một ít mascara chuốt trên hàng mi dài. Đôi bông tai bạc hình mặt một chú chó đung đưa, cho người khác cảm giác cô ta là một người sống tiết kiệm.

“Ồ, vâng, dĩ nhiên rồi”, cô ta trả lời khi được anh hỏi xem cô ta có biết Amber Marshalson không. “Tôi là giáo viên chủ nhiệm ở trường Tiểu học Brimhurst. Amber đã học ở đó hai hay ba năm khi cha cô bé chuyển đến Brimhurst.”

“Cô đã nhìn thấy cô ta tối qua phải không?” “Ước gì tôi đã nhìn thấy.”

“Chuyện gì đã xảy ra?”

“Tôi e là mình không phải một người giỏi quan sát.”

Hannah Goldsmith không thích nghe người khác kể chuyện, đặc biệt là phụ nữ, việc này hạ thấp giá trị bản thân của chính họ. Có lẽ đó là dấu hiệu của sự thiếu tự trọng. Hiển nhiên mọi người đều công nhận một sự thật rằng ai cũng đáng giá như ai. Tất cả đều có những kỹ năng và sở trường của riêng mình, và mỗi thứ chỉ duy nhất thuộc về con người của chính cô (hoặc chỉ có thể là chính anh). “Cô dắt chó đi dạo lúc mấy giờ? Mười hai giờ ba mươi à?”

“Tôi nghĩ vậy. Tầm đó. Lúc đó đường rất tối vì bóng cây che mất và tôi không mang theo đèn pin. Có chút ánh trăng và tôi đi theo hướng ngược lại, lên đường Myfleet, có lẽ đi được hai trăm thước.” Mét, Hannah nghĩ, mét thì đúng hơn. Tại sao mọi người tốn nhiều thời gian để học thế nhỉ? “Khi tôi quay lại – ý tôi là ở ngã tư đường Mill – tôi đã nhìn thấy một người đàn ông. Anh ta đứng giữa những cái cây, chỗ đó.” Lydia Burton chỉ vào đám cây nơi thi thể của Amber Marshalson được tìm thấy. “Cảnh đó thật sự làm tôi sốc. Anh ta quay lưng lại phía tôi. Tôi không nghĩ là anh ta nhìn thấy mình. Tôi băng qua đường. Tôi chỉ mong về tới nhà – ý tôi là, nhìn thấy người đàn ông đó làm tôi muốn trở về nhà.”

“Cô có thể mô tả lại anh ta không, cô Burton?”

Hannah lắc đầu sốt ruột. Tại sao Wexford không thể nhớ phải nói là “bà”? “Tôi không nhìn thấy mặt anh ta. Anh ta đội mũ trùm đầu. Ý tôi là, anh ta mặc một chiếc áo lông cừu có mũ trùm đầu. Ừm, hầu hết những người trẻ tuổi đều mặc chúng. Tôi không nghĩ anh ta còn trẻ. Anh ta không phải là một cậu bé.”

“Cao hay thấp? Gầy hay mập? Và bao nhiêu tuổi?” “Hơi cao”, cô ta nói. “Khá gầy. Tôi ước gì mình có thể nhớ được nhiều hơn. Nhưng mọi người luôn nói vậy, đúng không? Tôi không nghĩ anh ta còn trẻ, mặc dù tôi không biết diễn tả như thế nào. Bốn mươi tuổi, tôi nghĩ vậy. Ít nhất là bốn mươi.”

“Thật tiếc vì cô không thể nhớ được gì hơn”, Hannah nói. “Cô không nhìn thấy Amber ư? Không, tôi nghĩ là không. Cô có biết cô ta hay đến câu lạc bộ không?”

Wexford ước gì Hannah có thể đưa ra giọng điệu ít chỉ trích hơn. Cô là một phụ nữ xinh đẹp trong mắt nhiều gã đàn ông, cao, thon thả, với khuôn mặt của thánh nữ El Greco và mái tóc bồng bềnh đen nhánh, nhưng anh tự hỏi liệu cô có đi đến các câu lạc bộ hay từng ra ngoài vào lúc mười một giờ đêm hay không, dĩ nhiên là trừ những ngày trực.

“Tôi thực sự không biết”, Lydia Burton nói. “Tôi chưa từng gần gũi với Amber. Chúng tôi chỉ chào hỏi khi nhìn thấy nhau.” Wexford hỏi cô ta về những người sống ở các căn hộ khác tại dãy nhà Jewel. “Ông già sống ở nhà số một là ông Nash, sau đó là vợ chồng Brooks tại nhà số hai, mà mọi người vẫn gọi là John và Gwenda.”

Họ nhìn cô ta quay trở vào căn nhà đầu tiên trong dãy, một căn hộ gọn gàng như các căn hộ khác, lát gạch đỏ với mái đá. Khu vườn phía trước của cô ta là một bãi cỏ nhỏ hình vuông được bao quanh bởi những bụi cây oải hương; một trang trại trồng hoa hướng dương rất lớn của ông Nash, cao ba mét với những đóa hoa mặt trời hướng lên trên; nhà Brooks thì nằm trọn trong khuôn viên hình chữ nhật của hàng rào được tỉa tót kỹ càng. Buổi sáng đã trở nên rất nóng với nhiệt độ khác thường tại Anh, không khí nặng nề và ánh nắng mặt trời đốt nóng hơi ẩm ở bất cứ nơi nào nó xuyên tới. Hannah Goldsmith nhìn Wexford đang bình tĩnh hơn bao giờ hết, làn da mịn màng tái nhợt của cô trắng như tuyết mùa đông, không một sợi tóc xổ ra khỏi nếp.

“Cô có thể bắt đầu từ dãy nhà Jewel, Hannah”, anh nói. “Trước khi những người ở đây đi làm. Hãy đưa Baljinder đi cùng.”

Họ tạo thành một cặp đôi tuyệt đẹp, anh nghĩ vậy, khi Hannah và DC3 Bhattacharya băng qua con đường, người phụ nữ nhìn thật thon thả, mái tóc bồng bềnh buông xuống như một thác nước, và người đàn ông cao ráo, không thể nói là gầy, mái tóc cắt ngắn đen tựa màn đêm của anh khiến tóc cô trông như có màu nâu. Lý lịch của họ phần nào cũng giống nhau, chuẩn mực, cổ điển, thuần là người da trắng. Họ có thể là anh trai và em gái, có lẽ là con của một người cha từ Iran và một người mẹ từ Iberia.

Detective Constable: Thám tử cảnh sát.

Suy nghĩ xem khu vực này đã thay đổi ra sao trong khoảng thời gian ngắn kể từ vụ án của Simisola, khi chỉ có không quá mười hai người dân tộc thiểu số, anh cùng Karen Malahyde bước trở lại chiếc xe của mình, nơi Donaldson đang ngồi chờ sau vô lăng.

“Một ngày nóng bức đây, Jim.”

Donaldson nói, “Vâng, thưa sếp”, theo một cách lạnh lùng, đáp lại lời bình luận vô cùng nhạt nhẽo này với sự dửng dưng mà nó xứng đáng.

“Anh biết đấy, tôi không nghĩ là mình đã từng đến đây. Ý tôi là, tới Brimhurst.”

“Đây không phải nơi mà anh có thể đến nếu như anh không quen biết một ai đó. Tất cả những gì có ở đây chỉ là hàng loạt các ngôi làng và nhà thờ, và tất cả đều bị khóa chặt kể từ khi vị cha xứ bỏ đi. Cửa hàng đã đóng cửa từ mười năm trước.”

“Làm sao anh biết tất cả những điều này?”

“Mẹ tôi sống ở đây”, Donaldson nói. “Người ta thích nó bởi vì nó yên tĩnh. Không có chuyện gì xảy ra cả – ồ, cho đến lúc này.”

“Không. Anh có thể bật điều hòa lên được không?”

Công cuộc khám nghiệm tử thi đối với anh không mấy hứng thú nhưng anh vẫn tham dự để mong tìm ra bất kỳ manh mối nào có thể. Thám tử điều tra Burden dễ tính hơn anh và bị lôi cuốn bởi công việc pháp y. Họ ngồi nhìn và xem xét hoặc, trong trường hợp của Wexford, giả bộ xem xét, trong khi các chuyên gia pháp y giải phẫu cơ thể của Amber Marshalson và kiểm tra vết thương khủng khiếp ở đầu cô, chỗ bị tấn công bởi một số vật nặng. Anh hỏi thời gian tử vong và câu trả lời là trong khoảng từ nửa đêm cho đến ba giờ sáng. Và chính xác hơn nữa thì cô ta không tự sát.

“Hung khí là một viên gạch, tôi nghĩ vậy”, Carina Laxton nói, “nhưng dĩ nhiên anh sẽ chẳng để tâm đến những gì tôi nói”.

“Dĩ nhiên rồi”, Burden nói vì anh không ưa cô ta. Ngoài việc thiếu một đốt sụn ở tuyến giáp và cái tên của cô ta, như anh đã từng nói với Wexford, thì cô ta chắc hẳn cũng là một người đàn ông, hoặc có lẽ cô ta đã từng là đàn ông. Thời đại này, bạn chẳng thể nào biết được điều đó. Cô ta không có ngực, không có mông, tóc húi cua và không trang điểm tí xíu nào trên khuôn mặt mộc. Tuy nhiên, anh phải thừa nhận rằng cô ta đã làm rất tốt trong công việc, ít sắc sảo và thô lỗ phổi bò hơn Mavrikian, và thái độ của cô ta thì khác xa với kiểu tự cao tự đại của ngài Hilary Tremlett.

“Cô ta chết bởi một đòn giáng vào đầu, mà không nói anh cũng biết”, cô ta nói. “Dĩ nhiên xác định loại hung khí”, cô ta nói với vẻ cứng nhắc lỗi thời không che giấu sự kiêu ngạo, “không phải là công việc của tôi. Chắc chắn anh cần đến sự hỗ trợ của một chuyên gia về gạch”.

“Một gì cơ?”

“Một chuyên gia về gạch.” Carina nói một cách chậm rãi trong trường hợp anh thấy khó hiểu những từ ngữ đơn giản.

“Dĩ nhiên rồi”, Burden nói.

“Bởi vì gạch không đơn thuần là gạch, anh biết đấy.” Ngay khi đã bỏ lại những lời đó để Burden tự hiểu, Carina nói, “Không có dấu hiệu xâm hại tình dục. Tất cả sẽ nằm trong bản báo cáo. Cô ta đã từng sinh con, và tôi mong là anh biết điều đó”.

“Tôi không biết điều này”, Wexford nói với vẻ ngạc nhiên. “Cô ta chỉ mới mười tám tuổi.”

“Anh có tưởng tượng ra điều này có nghĩa là gì không, Reg?” Carina Laxton lắc đầu với anh và mím môi. “Nếu cô ta mười hai tuổi thì điều này rất đáng để xem xét. Còn đây là ‘Chỉ mới’ mười tám tuổi.” Brand, anh nghĩ. Mình đã nghi ngờ. Nó là con của Amber chứ không phải của Diana? Và đó là Brand trong Ibsen hay Brand trong Brandon? Anh nói với Burden, “Đến văn phòng của tôi, Mike, sau đó chúng ta có thể quay trở lại đường Mill và cùng tới gặp gia đình Marshalson.”

Họ đã làm việc như một nhóm bất cứ khi nào có thể và đặc biệt khi Wexford cảm thấy rằng ở công ty của Hannah Goldsmith thêm một hoặc hai tiếng đồng hồ nữa sẽ khiến anh nói ra những điều mà anh phải hối tiếc. Họ lên xe, cả anh và Mike. Nếu họ không thể hoàn toàn nói ra tất cả những điều xuất hiện trong đầu mình cho nhau, họ sẽ chia sẻ nhiều nhất có thể. Anh thích Mike hơn bất kỳ ai anh biết ngoài vợ, con cái và cháu chắt của mình – và có lẽ không hoàn toàn ngoài họ. Đối với bảy người anh yêu thương và không ai biết rõ hơn anh rằng thích và yêu là hai chuyện khác nhau.

Lên tới văn phòng mình, nơi có tấm thảm màu xám mới tinh – một món quà tạ ơn từ những người trả thuế hội đồng ở Kingsmarkham – và hai chiếc ghế bành màu vàng vốn là tài sản riêng của anh, Burden chọn chỗ ngả lưng quen thuộc của mình trên một góc chiếc bàn bằng gỗ hồng mộc. Cái món đồ gỗ nội thất to lớn này cũng thuộc về Wexford, người đã để nó ở đó cùng với những chiếc ghế bành nhằm đối phó với giới truyền thông địa phương khi họ sục sạo xung quanh để tìm kiếm những bằng chứng về sự hoang phí và tham nhũng của cảnh sát. Burden luôn ăn vận một cách tinh tế dạo gần đây đã chọn những trang phục theo xu hướng “thoải mái nhưng lịch thiệp”. Những bộ cánh đẹp đã được chuyển về phía sau tủ quần áo, hoặc trong trường hợp đã cũ, thì về cửa hàng từ thiện, và vị thám tử điều tra thường xuất hiện với một chiếc quần jean cùng áo da lộn khoác bên ngoài một chiếc áo phông trắng mở cổ. Một trong những điều sâu kín trong tâm trí Wexford mà anh không thể nói ra ngoài đó là chỉ một số ít bạn bè cho rằng Burden đã luống tuổi để mặc thứ quần jean này. Nhưng chỉ có một số ít nói vậy và sự thật là Burden đủ gầy để mặc chúng mà vẫn làm toát lên vẻ trang nhã.

Anh trải những thứ tìm thấy trong túi áo khoác của Amber Marshalson lên trên bàn. Miếng vải cotton trắng thấm đẫm máu này đã được đem tới phòng thí nghiệm, cùng với chiếc váy ngắn màu hồng, bộ áo lót màu đen và thắt lưng da màu hồng pha đen của cô. Những thứ trong túi của cô được trải lên mặt bàn làm việc bằng da màu đỏ sậm.

“Họ không có túi xách nữa”, Wexford nói.

Burden đang nhìn chằm chằm vào một chiếc chìa khóa cửa trước móc vào chiếc nhẫn khảm mặt khớp với đồng hồ của cô ta, một ống nhựa trong suốt chứa một chất màu hồng tươi, có lẽ là một loại son môi, một bao có hai điếu thuốc lá, một thanh socola đã chảy mất một nửa vẫn còn gói trong giấy bạc, và một bao cao su. Vẫn còn chút giả bộ, anh hướng ánh mắt về thứ cuối cùng và mím chặt môi.

“Méo mó có hơn không”, Wexford nói.

“Điều này còn tùy thuộc xem cô ta định làm gì vào tối hôm đó. Cô ta không mang theo đồng nào à?”

Wexford mở ngăn kéo và lấy ra một túi nhựa trong suốt có ghi chú bên trong. Khá nhiều ghi chú và tổng cộng lên tới năm chục cái.

“Vẫn còn phải kiểm tra dấu vân tay nữa”, anh nói. “Phải có đến một ngàn pound ở đây. Trong túi áo khoác bên phải của cô ta có một chiếc chìa khóa và cái ống nhựa kia, tôi tin rằng nó là một loại son bóng. Dụng cụ tránh thai, thuốc lá và kẹo nằm ở túi áo bên kia.”

“Cô ta lấy từ đâu ra một ngàn pound này vậy?” “Đó là điều chúng ta phải tìm ra”, Wexford nói.


Giang Vi

Tôi là một người yêu sách cuồng nhiệt và đã hơn 20 năm. Tôi dành cả ngày để đọc, viết blog về sách và viết bình luận. Tôi tin rằng sách là công cụ mạnh mẽ nhất trong cuộc sống để mở mang đầu óc cho những ý tưởng và quan điểm mới. Các thể loại yêu thích của tôi bao gồm tiểu thuyết lịch sử, giả tưởng, khoa học viễn tưởng và phi hư cấu. Tôi cũng thích tìm hiểu về các nền văn hóa khác nhau thông qua văn học.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts:

Back to top button