Kinh doanh - đầu tư

Khi Rồng Muốn Thức Dậy

khi rong muon thuc day sach ebook1. THÔNG TIN SÁCH/EBOOK

Tác giả : Phạm Đỗ Chi

Download sách Khi Rồng Muốn Thức Dậy ebook PDF/PRC/MOBI/EPUB. Tải miễn phí, đọc online trên điện thoại, máy tính, máy tính bảng.

Danh mục :  SÁCH KINH DOANH – ĐẦU TƯ

Đọc thử Xem giá bán

2. DOWNLOAD

Download ebook                      

File ebook hiện chưa có hoặc gặp vấn đề bản quyền, Downloadsach sẽ cập nhật link tải ngay khi tìm kiếm được trên Internet.

Bạn có thể Đọc thử hoặc Xem giá bán.

Bạn không tải được sách ?  Xem hướng dẫn nhé : Hướng dẫn tải sách


3. GIỚI THIỆU / REVIEW SÁCH

Lời mở đầu

Năm 2000, cuốn sách Đánh thức con Rồng ngủ quên do tôi và GS Trần Nam Bình của Đại học New South Wales (Australia) đồng chủ biên, đã ra mắt bạn đọc giữa thời kỳ Đổi mới để góp ý về các chính sách vĩ mô và phát triển kinh tế trên bình diện rộng lớn bao gồm lý thuyết kinh tế và định hướng cơ cấu, thể chế, xã hội, giáo dục, an sinh xã hội, môi trường, v.v… Sách nhấn mạnh cơ chế “thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” được đặt ra và áp dụng ở Việt Nam, gần như không có mặt trong lý thuyết kinh tế và chỉ là giải pháp “second best”1 mà Việt Nam và cả Trung Quốc đã chọn lựa.

Sau hơn 20 năm áp dụng, những kết quả thuận lợi (tăng trưởng nhanh, xóa đói giảm nghèo, v.v…) cũng như bất lợi đều được thể hiện (bất ổn định vĩ mô, nền kinh tế không hiệu quả, ICOR tăng gấp đôi từ 4 lên 8, v.v…). Đặc biệt, sự chênh lệch quá mức về thu nhập và tài sản trong xã hội đã và đang gây rất nhiều khó khăn cho một khối đông dân cư như các công nhân thành phố và đa số nông dân nghèo phải vật lộn trong cuộc sống hàng ngày với lạm phát hai con số, trong khi một thành phần khác được tiếp tục thụ hưởng các đặc lợi kinh tế một cách bất quân bình.

Đường hướng tăng trưởng nhanh như mong đợi của Việt Nam không thể tiếp tục trong những điều kiện hiện tại. Các mất cân đối kinh tế vĩ mô phải được điều chỉnh trước khi tăng trưởng bền vững có thể thực hiện với ba khâu đình trệ cần phải giải quyết: (i) hạ tầng cơ sở xấu, (ii) giáo dục suy thoái và (iii) hành chính thiếu hiệu quả và minh bạch, khiến tham nhũng trở thành quốc nạn và gây ra những đổ vỡ xã hội ngày càng nghiêm trọng.

Nếu các chính sách Đổi mới đã góp phần đánh thức được “con Rồng ngủ quên” trong hai thập niên qua, con Rồng đó muốn thức dậy thật sự phải thực hiện thêm nhiều chính sách cần thiết để ổn định tình hình kinh tế vĩ mô đang ở biên giới của một cơn khủng hoảng tài chính và thay đổi mô hình kinh tế để thực hiện tăng trưởng bền vững trong 10 năm tới.

Năm 2011, thường được gọi là “năm bản lề”, có thật sự được là thời kỳ chuyển tiếp mong muốn cho kinh tế Việt Nam hay không? Và, nếu có, Việt Nam phải theo đuổi những chính sách cấp thiết nhằm ổn định vĩ mô và thay đổi cơ cấu nền kinh tế như thế nào? Giới hữu trách cũng như các nhà kinh tế ngoài chính phủ đều đang loay hoay quanh các vấn đề này và các giải pháp.

Với hoài vọng đóng góp cho năm bản lề của nền kinh tế Việt Nam, cá nhân người chủ biên mong mỏi tập hợp nhiều tác giả cho một cuốn sách mới với mục đích tương tự như Đánh thức con Rồng ngủ quên của mười năm trước. Trong khi đi tìm các ý tưởng chính cho sách mới, chúng tôi đọc thấy bài của tác giả Dương Ngọc đăng trên mạng VNeconomy nêu ra 10 nghịch lý đang tồn tại trong kinh tế Việt Nam như sau:

· Một là, tăng trưởng cao hơn nhưng vẫn tụt hậu, thậm chí còn tụt hậu xa hơn.

· Hai là, tăng trưởng liên tục trong thời gian dài, nhưng vẫn chưa được coi là phát triển bền vững.

· Ba là, mở cửa hội nhập để đẩy mạnh xuất khẩu, nhưng lại nhập siêu liên tục với quy mô lớn.

· Bốn là, chuyển sang kinh tế thị trường đã nhiều năm, nhưng thể chế chuyển chậm.

· Năm là, chuyển sang công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã hơn 15 năm, nhưng tính gia công còn nặng.

· Sáu là, “tam nông” rất quan trọng, nhưng chưa được quan tâm tương xứng.

· Bảy là, với mục tiêu tăng trưởng cao, Việt Nam đã kích cầu đầu tư lớn (có tỷ lệ đầu tư so với GDP đứng hàng đầu thế giới), nhưng lãi suất vay vốn ở Việt Nam cũng thuộc loại cao so với các nước và vùng lãnh thổ.

· Tám là, tỷ lệ tiết kiệm, tỷ lệ động viên tài chính cao, nhưng tỷ lệ bội chi ngân sách cũng lớn và ngày càng tăng.

· Chín là, khoa học – công nghệ là động lực của tăng trưởng, là yếu tố để nâng cao chất lượng tăng trưởng, nhưng tác động đối với nền kinh tế còn thấp.

· Mười là, giáo dục được coi như quốc sách hàng đầu, nhưng còn nhiều hạn chế, bất cập.

Chúng tôi nghĩ ngay là sẽ cố gắng giải thích đa số các nghịch lý đó để tìm ra lời giải cho thực trạng kinh tế Việt Nam năm 2011.

Như đã nói ở trên, động lực thật sự cho công việc mà chúng tôi đang theo đuổi là hoàn cảnh kinh tế khó khăn hiện nay của số đông gia đình ở các thành phố hay nông thôn. Chúng tôi rất xúc động khi đọc trên mạng những đoạn như sau về đời sống xung quanh, thí dụ như của một gia đình “tiêu biểu” ở thành thị mà chúng tôi không được trải nghiệm hàng ngày để thật sự thấu hiểu:

Công chức trẻ cũng có gì hơn!

Lê Trường

Hai vợ chồng chúng tôi đều là công chức nhà nước, lương hai vợ chồng một tháng cũng được 3,2 triệu đồng. Tổng nguồn thu đơn giản chỉ có một khoản ấy, nhưng thực hiện chi thì phức tạp vô cùng. Tiền mua sữa một tháng cho con 300 nghìn; đóng tiền nuôi (trông giữ) trẻ 600 nghìn; tiền thuê nhà, điện, nước 800 nghìn; nuôi hai chiếc điện thoại di động 200 nghìn; nuôi hai chiếc xe máy (uống xăng) hết 200 nghìn; bình quân một tháng hết 400 nghìn hiếu, hỉ những người liên quan. Tổng cộng các khoản cứng phải chi như trên là 2,5 triệu. Còn lại 700 nghìn là tiền ăn, uống, mua quần áo, chi tiêu sinh hoạt khác của gia đình có ba người ăn; mà tiêu chuẩn của em bé thì chắc chắn không thể cắt giảm được. Một tuần có hai ngày nghỉ (thứ 7, chủ nhật) cũng không tìm được việc gì để làm thêm, gia đình cũng không dám ra khỏi nhà, vì đi ra khỏi nhà là lại liên quan đến tiền. Chỉ mong mọi người trong gia đình được khỏe mạnh, xin đừng ốm đau, chứ đến bệnh viện lại liên quan đến tiền. Nhiều lúc nghe vợ tính toán chi tiêu, mình cũng tủi thân, chỉ động viên “thì có như thế mới là một gia đình”. Cứ nghĩ hai vợ chồng hết cảnh dè xẻn chi tiêu của thời sinh viên rồi, nhưng bây giờ lại còn tệ hơn. Cũng không biết trong hoàn cảnh như thế này, có khi nào “cái khó ló cái khôn” được nữa không. Mình thật là yếu đuối. Chắc rồi sẽ qua.”

Trong tâm tư đó, chúng tôi – các tác giả cuốn sách, đều muốn góp phần nhỏ bé của mình cho ước mơ tăng trưởng bền vững của đất nước và nâng cao đời sống kinh tế cũng như chất lượng sống của người Việt Nam trong một xã hội công bằng hơn.

Các bài viết tương đối ngắn gọn và nhấn mạnh đến góc cạnh hàm ý chính sách và áp dụng thực tiễn. Nội dung sách gồm bốn phần chính:

A. Dẫn Nhập: Tổng quan về thực trạng kinh tế Việt Nam năm 2011 và các biện pháp ổn định vĩ mô và phát triển bền vững cho các thập niên tới, cũng như phân định rõ hơn việc áp dụng song hành nền kinh tế thị trường và xã hội chủ nghĩa.

B. Ổn định kinh tế vĩ mô: Nhìn lại kinh nghiệm 20 năm qua, nhất là phân tích chính sách 5 năm 2006-2010 vừa qua, đề xuất các chính sách cho năm 2011 và thời gian tới: chính sách tài khóa, tiền tệ, tỷ giá, lãi suất, v.v…

C. Tư duy và mô hình kinh tế mới?: Những tư duy nhằm tìm kiếm một mô hình kinh tế mới,thí dụ: chiến lược đầu tư theo chiều sâu thay vì chiều rộng như từ trước (chiến lược phát triển đã phần lớn dựa vào vốn đầu tư nhà nước [do hệ thống tín dụng ngân hàng cung cấp và ưu đãi] và FDI – chú trọng quá nhiều vào bất động sản, khai thác tài nguyên khoáng sản… ); nâng cao vai trò của doanh nghiệp tư nhân để tăng hiệu quả nền kinh tế (giảm ICOR); và chú trọng nhiều hơn vào thị trường nội địa để tăng mãi lực cho nhu cầu phát triển. Chính sách này sẽ kêu gọi ít vốn đầu tư hơn trước đây và thích hợp với khả năng tài chính yếu kém của Việt Nam hiện nay.

D. Nông nghiệp nông thôn và các khâu đình trệ chính: các biện pháp để thật sự nâng cao khu vực nông nghiệp nông thôn, các vấn đề hộ nghèo, giáo dục đại học và đầu tư cơ sở hạ tầng (nhấn mạnh vai trò của việc hợp doanh công – tư (PPP, public-private partnership)), cũng như y tế và an sinh xã hội.

Giống như ĐTCRNQ, cuốn sách này là tập hợp những công trình của một số nhà kinh tế người Việt làm việc trong và ngoài nước. Một số tác giả (khoảng một phần năm) đã từng tham dự vào ĐTCRNQ. Phần còn lại là bài viết của các tác giả mới, tuy rằng tên tuổi của họ đã từ lâu rất quen thuộc với các độc giả thường xuyên theo dõi các bài viết về kinh tế Việt Nam. Mặc dù người viết có thể đếm từ tuổi 30 đến trên 80, đa số các tác giả mới là các bạn đồng nghiệp trong lứa tuổi 30-40, đang công tác tại các đại học, viện nghiên cứu và cơ quan chính quyền hay ngành kinh doanh tư nhân tại Việt Nam. Có thể nói không quá rằng các tác giả này là đại diện nhóm nhà nghiên cứu kinh tế trẻ tuổi với nhiều triển vọng và do đó phản ánh được phần nào tiếng nói của thế hệ trẻ hiện nay. Vì thế, ở khía cạnh tác giả, cuốn sách Khi Rồng muốn thức dậy vừa mang tính liên tục, vừa có tính chuyển tiếp để chuyền tay bó đuốc của thế hệ trước trong sách Đánh thức con Rồng ngủ quên.

Giá trị của một cuốn sách là do độc giả quyết định. Chúng tôi hy vọng độc giả sẽ rút ra được một vài lợi ích thực tiễn từ cuốn sách này trong việc tìm hiểu kinh tế Việt Nam hay áp dụng một số đề xuất chính sách cho hoàn cảnh khó khăn của đất nước hiện nay.

Tôi xin trân trọng cảm ơn các bạn đồng tác giả, đặc biệt là GS. Trần Nam Bình đã gợi ý cho việc hình thành cuốn sách mới này, vì bận rộn đã không thể góp mặt như một đồng chủ biên nhưng đã tích cực góp ý cho việc sắp xếp bố cục, chuẩn bị kỹ thuật, kêu gọi đóng góp của một số tác giả và có bài góp mặt; như vậy trên tinh thần, GS. Bình đã là đồng chủ biên. Tôi cũng xin ghi nhận và cảm ơn những cảm tình đặc biệt dành cho cuốn sách này của ông Huỳnh Sơn Phước, nguyên Phó Tổng Biên tập báo Tuổi Trẻ, và ông Dương Thanh Thủy, nguyên biên tập viên Thời báo Kinh tế Sài Gòn.

Lời cuối chúng tôi xin đặc biệt dành cho ông Nguyễn Cảnh Bình (Tổng Giám đốc), bà Đào Quế Anh (Phó tổng Biên tập) và Công ty Cổ phần Sách Alpha đã tích cực hỗ trợ trong việc xuất bản và phát hành cuốn sách này.

ĐỌC THỬ

I LOAY HOAY VỚI MÔ HÌNH KINH TẾ SAU HAI THẬP NIÊN ĐỔI MỚI

I. KINH TẾ VIỆT NAM ĐANG Ở ĐÂU?

Sau hai thập niên thực hiện cải cách kinh tế theo định hướng Đổi mới từ năm 1989, nhiều thành tựu đã được chứng minh qua những con số thống kê tốt đẹp và thảo luận khá đầy đủ trong nhiều tài liệu nghiên cứu trong và ngoài nước.2 Đặc biệt là thu nhập tính theo đầu người đã tăng từ khoảng 200 USD trong những năm đầu thập niên 1990 lên mức 1.200 USD trong năm 2010.

Tuy nhiên, trong cuộc tranh đua toàn cầu, bài toán không thể dừng lại với cái bóng của chính mình, của đêm trước Đổi Mới. Theo đó, vấn đề quan trọng cần đặt ra trong bối cảnh hội nhập là:

· Chúng ta hiện ở đâu trong khu vực?

· Trong 20 năm qua, Đổi mới đã đem lại những chuyển dịch cơ cấu kinh tế ra sao và những thách thức gì đang đặt ra trong bối cảnh hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu?

· Có cần một tư duy mới để “phát triển bền vững toàn bộ nền kinh tế xã hội” thay vì chỉ nhắm đến độ tăng trưởng cao hàng năm, bất chấp sự thiếu ổn định vĩ mô đặt ra hàng năm trong việc thực hiện kế hoạch 5 năm 2006-2010 vừa qua?

Như đã nêu trên, kể từ năm 1989, Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng về tăng trưởng và giảm đói nghèo. GDP trung bình đầu người đã tăng lên trên 1.000 USD từ năm 2008, để được xếp hạng chung với các quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp. Về chuyển dịch kinh tế, các con số thống kê mới đây cho thấy tỷ trọng của khu vực công nghiệp trong GDP đã tăng từ 36,7% năm 2000 lên 39,7% năm 2008; tỷ trọng khu vực nông nghiệp đã giảm từ 24,5% xuống còn 22,1%; và tỷ trọng dịch vụ giảm nhẹ từ 38,7% xuống 38,2% trong cùng thời kỳ.3

Mặc dù vậy, nếu nhìn vào cơ cấu kinh tế tổng quát thì biểu hiện đáng lo ngại nhất là về cơ bản Việt Nam vẫn còn là một quốc gia nông nghiệp, với trên 60% lao động nông nghiệp và 70% dân cư sống ở khu vực nông thôn. Về mức sống, thu nhập trung bình đầu người của Việt Nam còn rất khiêm tốn so với khu vực.

II. NHÌN LẠI ĐỔI MỚI – TỔNG QUAN KẾT QUẢ VÀ NHỮNG THÁCH THỨC

2.1. Cái nhìn tổng hợp

Nhìn chung sau gần hai thập kỷ Đổi mới, ngoài hai mục tiêu chính yếu đã đạt được là thu nhập bình quân và giảm nghèo đói (như đã bàn ở trên), các thành tựu hay thử thách của nền kinh tế có thể tóm tắt như sau:

Việt Nam đã thực hiện được nhanh chóng:

1. Cuộc cải cách giá cả, bao gồm: giá cả hàng hóa, giá lao động (lương bổng), giá của tiền nội tệ (tỷ giá), hay giá tư bản (lãi suất);

2. Ổn định nền kinh tế vĩ mô một cách tương đối;

3. Nỗ lực mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế;

4. Thành công trong giảm tỷ lệ nghèo đói.

Các cải cách cơ cấu tương đối chậm chạp hơn như trong:

1. Hệ thống pháp lý;

2. Cải cách hành chính;

3. Cải cách hệ thống thuế;

4. Tự do hóa thương mại trong nước cũng như nền mậu dịch quốc tế.

Trì trệ nhất là các cải tổ:

1. Cổ phần hoá các xí nghiệp quốc doanh;

2. Hệ thống ngân hàng quốc doanh;

3. Xây dựng thể chế (institutional building).

2.2. Các vấn đề vĩ mô trong bối cảnh hội nhập

Các thành tựu kinh tế xã hội đã được bàn đến trong các công trình nghiên cứu khác. Ở đây chúng tôi chú trọng vào các vấn đề cốt lõi cần cải thiện để có thể hội nhập nhanh chóng và hiệu quả hơn:

· Điều tiết kinh tế vĩ mô vẫn luôn là vấn đề tiên quyết để phát triển ổn định và bền vững, điển hình là từ giữa năm 2008 đến quý I/2011, chính sách vĩ mô đã phải nhiều lần quay 180 độ từ chống lạm phát sang kích cầu chống suy thoái, rồi sau đó lại đang chuyển sang chống lạm phát một cách quyết liệt, một phần do ảnh hưởng của kinh tế thế giới.

· Chính sách đầu tư tiếp tục hướng vào khu vực quốc doanh như bao năm qua, dù là trong thời kỳ Đổi mới, gây ra nhiều thất thoát và khiến nền kinh tế kém hiệu quả một cách trầm trọng. Các tập đoàn quốc doanh lớn tiếp tục được nhận nhiều phân bố nguồn lực lớn, hưởng nhiều ưu đãi và tín dụng ngân hàng thay vì khu vực doanh nghiệp tư nhân.

2.3. Lạm phát và vấn đề điều tiết kinh tế vĩ mô

Lạm phát vẫn là vấn đề kinh tế vĩ mô hàng đầu cho đến năm 2011. Thực tế cho thấy Việt Nam đã bước vào cơ chế thị trường, đã chuyển dần từ kế hoạch hóa tập trung theo mệnh lệnh sang cơ chế thị trường trong 20 năm qua. Cùng với đó là tiến trình hội nhập ngày càng sâu rộng vào thị trường quốc tế. Hai xu thế này sẽ khiến những chỉ số vĩ mô chịu tác động của những biến thiên của thị trường, trong khi Việt Nam đang rất cần một nền tảng kinh tế vĩ mô ổn định để duy trì môi trường kinh doanh hấp dẫn, thu hút đầu tư trong và ngoài nước. Như vậy, đã đến lúc cần một tư duy mới về điều hành nền kinh tế và sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng để đưa ra các chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô hợp lý hàng năm.

Từ nhiều năm qua khi nói đến điều tiết vĩ mô, chúng ta thường chỉ nhằm mục đích đạt mức tăng trưởng GDP cao hàng năm, nhất là mới đây trong các năm sau 2000 phải áp dụng liên tục chính sách kích cầu nhằm gia tăng mức tổng cầu thay vì lo đến lạm phát. Nhưng kinh nghiệm 5 năm 2006-2010 vừa qua (xem thêm chi tiết ở phần dưới) cho thấy điều tiết kinh tế vĩ mô không chỉ là khúc hát đơn điệu kích cầu lúc kinh tế suy yếu mà còn là ngăn chặn để nền kinh tế không phát triển quá nóng. Thực tế cho thấy vai trò phối hợp quan trọng trong việc ngăn chặn lạm phát và điều tiết vĩ mô của các cơ quan như Bộ Kế hoạch Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính. Một phần áp lực của lạm phát có thể đến từ bên ngoài do giá cả nhập khẩu xăng dầu và vật liệu hay thực phẩm, và mục đích chính của điều tiết vĩ mô là dùng các biện pháp tiền tệ và tài khóa để làm giảm bớt áp lực đó kịp thời và ngăn chặn “tâm lý lạm phát” như kinh nghiệm trong vài năm gần đây. Đây sẽ là điều kiện cốt lõi để duy trì tăng trưởng bền vững.

Kinh nghiệm tăng trưởng của hai mươi năm qua cho thấy ba vấn đề nổi bật và liên hệ mật thiết: chiến lược tăng trưởng dựa vào tích lũy hay đầu tư cao hàng năm – nhất là của khu vực công gây nhiều thất thoát, làm cho đầu tư thiếu hiệu quả biểu hiện qua hệ số ICOR rất cao, và đồng thời làm cho nền kinh tế cũng như xuất khẩu thiếu tính cạnh tranh cần thiết.

Vấn đề này khá tế nhị để bàn cãi nếu không có các số liệu chính xác. Nhưng dựa vào vài tính toán đơn giản để thiết lập hệ số ICOR khá phổ thông dùng trong các mô hình tăng trưởng dài hạn định nghĩa mối tương quan giữa đầu tư và tăng trưởng4 thì vấn đề thiếu hiệu quả của đầu tư ở Việt Nam khá nghiêm trọng, và đây sẽ là vấn đề số một của việc hội nhập. Hệ số này cao có nghĩa là cần nhiều vốn đầu tư để tạo được cùng mức tăng dự kiến cho tổng sản phẩm GDP, điều này giải thích tỷ lệ Đầu tư toàn xã hội/GDP rất cao và tăng nhanh từ 28% năm 1999 đến 42% các năm 2008-2010 (trong đó khu vực Nhà nước luôn giữ tỷ lệ cao nhất). Nguyên nhân chính là hệ số ICOR của Việt Nam đã tăng hơn gấp đôi từ mức 3 trong các năm 1990-1991 lên đến 7-8 trong các năm gần đây. Sự gia tăng này mang ý nghĩa đáng lo ngại khi so sánh với các nước láng giềng. Khi ở trình độ phát triển thấp tương đương với Việt Nam vào những năm từ 1950 đến 1975, hệ số ICOR của Hồng Kông, Singapore, Đài Loan, Nhật Bản và Hàn Quốc chỉ dao động trong khoảng 1 đến 2, thấp hơn nhiều so với ICOR của Việt Nam hiện nay. Nếu giả sử Việt Nam duy trì được cùng hệ số ICOR như các nước láng giềng và từ đó tính ra được con số đầu tư cần thiết nhỏ hơn nhiều để đạt được cùng mức tăng trưởng GDP như trong thập niên vừa qua, thì có thể tính ra con số thất thoát hay lãng phí rất lớn.

Từ đó nảy sinh các mất cân đối kinh tế vĩ mô căn bản mà rõ nét nhất là trong kế hoạch 5 năm 2006-2010 vừa qua, mà chúng ta sẽ đi vào vài chi tiết dưới đây.

III. CÁC MẤT CÂN ĐỐI VĨ MÔ TRONG 5 NĂM 2006-2010

Kinh tế Việt Nam năm 2011 đang trải qua một “cơn bão tài chính” mà biểu hiện rõ rệt nhất là sự trở lại của lạm phát hai con số từ cuối năm 2010, tỷ giá tiền VND mất giá hàng ngày và vượt mức 22.000 VND/USD, lãi suất cho vay quanh mức 20%, dự trữ ngoại hối quốc gia xuống còn độ tương đương 6-8 tuần nhập khẩu…

Cơn bão này không phải chỉ do các yếu tố khó khăn ngắn hạn từ bên ngoài như kinh tế thế giới phục hồi chậm, giá dầu tăng vọt trở lại lên trên 100USD/thùng, giá lương thực-thực phẩm thế giới đang có xu hướng tăng nhanh,…mà thực chất nó bắt nguồn từ vài năm nay do các chính sách kinh tế nội tại:

Tăng trưởng GDP chậm lại từ 2008 do khủng hoảng thế giới bên ngoài và thiếu ổn định vĩ mô bên trong: Sau hàng loạt năm tăng trưởng khá cao của Việt Nam cho đến 2007, kể từ năm 2008 – điểm khởi đầu của khủng hoảng kinh tế toàn cầu – Việt Nam cũng không là ngoại lệ khi tăng trưởng GDP giảm còn 6,2%; năm 2009 chỉ còn 5,2%; năm 2010 phục hồi ở mức 6,8%. Tựu chung cho ba năm 2008-2010, đà tăng trưởng sụt giảm dưới mức 7% của thập niên trước đó.

· Vốn đầu tư FDI đăng ký giảm mạnh nhưng vốn thực hiện vẫn được duy trì: Theo các chuyên gia nhìn toàn cảnh thế giới sau khủng hoảng, thì khu vực Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng vẫn là những nước có tỷ lệ sinh lời cao và có tiềm năng phát triển tốt trong tương lai. Nhờ đó, luồng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam ngay trong năm khủng hoảng 2008 lại tăng vọt đáng ngạc nhiên. Vốn đăng ký vào Việt Nam trong năm 2009 giảm mạnh nhưng vốn thực hiện cũng xấp xỉ năm 2008. Vào năm 2010, vốn đăng ký tiếp tục giảm nhưng vốn thực hiện ở mức 11 tỷ USD, cao hơn 2009 đôi chút. Suy giảm FDI đăng ký là do sự mất cân bằng vĩ mô, đặc biệt là do tỷ giá tiền VND giảm mạnh trong ba năm qua.

· Lạm phát tăng cao từ năm 2007 do thiếu kinh nghiệm ổn định vĩ mô cùng với mức cung tiền tăng quá cao so với tăng trưởng danh nghĩa: Từ 2007, lạm phát tăng nhanh là một vấn đề khiến các nhà hoạch định kinh tế Việt Nam phải đau đầu để giải quyết. Nguyên do chính: so sánh từ 2005 đến 2010, chính sách cung tiền và tín dụng tăng mạnh hơn GDP danh nghĩa quá nhiều, do chính sách tiền tệ lỏng lẻo, đồng thời áp lực chi tiêu công trong và ngoài ngân sách quá lớn. Đặc biệt là chính sách tài khóa với các đặc điểm chi tiêu công và nợ công tăng nhanh, ưu đãi các doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả, và sân chơi không công bằng trong chính sách tín dụng với khu vực tư nhân. Sau một loạt thay đổi chính sách vĩ mô từ kích cầu năm 2007-2008 sang kìm hãm lạm phát năm 2009 đã cho một kết quả khả quan là lạm phát giảm xuống 6,9% vào cuối năm 2009 (so với 20% năm 2008). Tuy nhiên, do việc nới lỏng tiền tệ từ giữa năm 2010 để đạt mức tăng trưởng mục tiêu trên 6,5%, áp lực lạm phát trở lại mạnh mẽ từ đầu quý IV và chỉ số giá tiêu dùng CPI đã tăng 11,75% vào năm 2010.

· Thâm hụt thương mại và cán cân vãng lai thêm trầm trọng do vấn đề nhập siêu: do cơ cấu sản xuất thiếu kỹ nghệ phụ trợ trong đó xuất khẩu phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên liệu và dụng cụ. Cán cân vãng lai ước tính năm 2009 không thay đổi nhiều so với năm 2008, trong khi cán cân thương mại lại giảm thâm hụt gần 8 tỷ USD so với năm 2008, cho thấy các thu nhập từ bên ngoài năm 2009 giảm đáng kể so với năm 2008. Điều này phù hợp với tình hình kinh tế thế giới vẫn đang khó khăn với sự phục hồi chậm, nên các dòng tiền từ đầu tư không đạt được như mong muốn. Tình trạng này vẫn tiếp diễn trong năm 2010.

· Áp lực trên tỷ giá:do lạm phát luôn cao, cán cân thanh toán thiếu hụt và dự trữ ngoại hối xuống thấp giảm gần 2/3 từ năm 2007 đến nay tạo ra áp lực trên tỷ giá VND (mất giá trên 30% từ 2006).

· Đầu tư tăng cao nhưng hiệu quả kém khiến việc cắt giảm các khoản chi tiêu công cũng như thất thu ngân sách trở nên cấp thiết: Hệ số ICOR luôn cao gắn liền với tỷ lệ đầu tư/GDP quá cao cùng mức tăng nhanh của nợ công là những đặc điểm nổi bật của nền kinh tế trong 5 năm qua. Lĩnh vực tài chính giai đoạn 2007-2008 với sức hút mạnh mẽ các luồng vốn bên ngoài đổ vào ào ạt, đã chứng giám sự sụt giảm đáng kể của chính những luồng tiền này trong hai năm qua 2009-2010. Khi rủi ro tiềm ẩn bùng phát, các nhà đầu tư cũng như các nhà quản lý kinh tế có được một bài học kinh nghiệm và có cơ hội để nhìn lại những sai lầm, thiếu sót của mình.

IV. LOAY HOAY CHO MỘT TƯ DUY KINH TẾ MỚI?

Tựu chung, như TS. Trần Văn Thọ đề cập5, kinh tế Việt Nam đã có được “tăng trưởng” với độ tăng GDP hàng năm cao trong những năm trước 2008, nhưng vẫn chưa “phát triển” được theo đúng nghĩa biểu hiện ở sự thiếu tính bền vững và thiếu chất lượng cao, với các vấn đề “thắt nút cổ chai” căn bản như hạ tầng cơ sở luôn thiếu thốn, môi trường xấu và đang trên đà hủy hoại nghiêm trọng, nền giáo dục ngày càng xuống dốc cần thay đổi để tạo sức cạnh tranh cần thiết cho nền kinh tế trong thập niên sắp tới, và thủ tục hành chính cần cải cách gấp rút hơn.

Vấn đề căn bản nhất cho tư duy kinh tế Việt Nam của thập niên tới đây là chọn lựa thể chế thích hợp cho sản xuất. Chúng ta nên tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu sản xuất và phân bố tài nguyên qua khu vực nhà nước gồm các xí nghiệp quốc doanh hay thật sự cần tăng cường vai trò chủ động của khu vực doanh nghiệp tư nhân?

Yếu tố cốt lõi là mô hình tăng trưởng từ 20 năm qua, dựa trên khuyến khích xuất khẩu và đầu tư cao với FDI và đầu tư của khu vực công, cần được tái cấu trúc với một chiến lược mới và một mô hình phát triển hài hòa hơn nhắm vào thị trường nội địa. Để dựa vào phát triển “nội lực”, yếu tố căn bản nhất là phải cải thiện hệ thống lương bổng và mức lương căn bản để tăng mãi lực tiêu thụ trong nước, đây là đề tài đã được bàn cãi nhiều nhưng chưa có giải pháp cụ thể.

Trong đề tài về tái cấu trúc nền kinh tế, TS. Nguyễn Đình Cung cũng phân tích thêm là nền kinh tế nước ta hiện chủ yếu “phát triển theo chiều rộng” dựa vào các nguồn tài nguyên và lao động chi phí thấp, và nhấn mạnh rằng cần một “quá trình thay đổi có tính hệ thống trung và dài hạn, thiết lập nên một cơ cấu mới về phân bố và sử dụng nguồn lực của nền kinh tế một cách hợp lý và hiệu quả hơn.”6

4.1. Vấn đề dài hạn nổi cộm với việc tái cấu trúc nền kinh tế

Vụ nợ lớn và khủng hoảng tài chính của VINASHIN năm qua đã đặt lại những vấn đề dài hạn về chi tiêu và nợ công của chính phủ cũng như hiệu quả của toàn nền kinh tế. Do “biến cố” lớn này, từ giữa năm 2010, Chính phủ đã ra nhiều nghị quyết và thông tư về chiến lược phát triển kinh tế xã hội mới cho 10 năm tới, đặc biệt nhấn mạnh ba điểm:

· Mục tiêu cấp bách là tái cấu trúc nền kinh tế.

· Cải cách Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN), nhất là các Tổng Công ty Nhà nước vốn được nhận nhiều ưu đãi.

· Vai trò, tác động của các doanh nghiệp tư nhân trong tương lai.

Đây là những vấn đề sẽ được các chiến lược gia kinh tế trong và ngoài nước thảo luận nhiều hơn trong thời gian tới trong khuôn khổ lộ trình các chính sách 5 năm (2011-2015) và 10 năm (2011-2020). Nhưng tựu chung chúng tôi thấy có hai khía cạnh chính:

· Thay đổi căn bản trong kế hoạch đầu tư quốc gia nhằm: (i) làm giảm các thất thoát lãng phí khổng lồ gây sốc hiện tại trong các công trình đầu tư, nhất là các dự án với nguồn vốn quốc gia hay vay vốn ODA và các nguồn vốn tư nhân nước ngoài; (ii) tăng hiệu quả đầu tư bằng cách thật sự nâng cao vai trò của khu vực tư nhân và áp dụng kế hoạch đầu tư mới bớt dùng vốn công hơn; và (iii) trong tổng thể nhằm giảm hệ số ICOR giữa nhu cầu đầu tư và độ tăng trưởng đang quá cao của Việt Nam.

· Đặt ra vấn đề ổn định kinh tế vĩ mô dài hạn nhằm chặn đứng tâm lý lạm phát phải đối phó từng năm như trong thời gian gần đây, và nhất là trong năm 2011.

4.2. Từ vấn đề tái cấu trúc kinh tế và guồng máy sản xuất…

Tựu chung, kinh tế Việt Nam đã có được “tăng trưởng” với mức tăng GDP hàng năm cao trong thập niên qua, nhưng vẫn chưa “phát triển” được theo đúng nghĩa biểu hiện ở sự thiếu tính bền vững, thiếu chất lượng cao với các vấn đề xã hội như môi trường. Hạ tầng cơ sở cũng như nền giáo dục ngày càng xuống dốc cần thay đổi để tạo sức cạnh tranh cần thiết cho nền kinh tế trong thập niên tới.

Vấn đề căn bản cho kinh tế Việt Nam vẫn là chọn lựa thể chế thích hợp cho sản xuất. Câu hỏi là: Chúng ta nên tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu sản xuất và phân bố nhiều tài nguyên qua khu vực doanh nghiệp nhà nước, nhất là bằng các Tổng Công ty nhà nước, như đang làm hiện tại, hay cần thật sự tăng cường vai trò tác động của khu doanh nghiệp tư nhân – một bước đi mới quyết đoán trong tương lai?

Và nếu muốn tăng cường vai trò của khu vực tư nhân, thì những chính sách thích hợp gồm cả tiền tệ lẫn tài khóa cần được nghiên cứu để đẩy mạnh đầu tư và sản xuất tư nhân thông qua việc thay đổi động cơ kinh doanh, cân bằng rủi ro và lợi nhuận cho hoạt động đầu tư. Với cơ chế và động cơ khuyến khích hiện nay, dường như đối với khu vực tư nhân, những hoạt động đầu tư dài hạn có rủi ro cao và khả năng thu lợi thấp hơn những hoạt động đầu cơ ngắn hạn vào thị trường bất động sản hay vàng và ngoại tệ. Điều này tạo những cơn “sốt”, “bong bóng” trên thị trường trong nước – nhất là trong khu vực bất động sản– và tiềm ẩn rủi ro đổ vỡ cho khu vực tài chính ngân hàng nếu không được giám sát.

Yếu tố cốt lõi là mô hình tăng trưởng 20 năm qua, dựa trên khuyến khích xuất khẩu và đầu tư cao với FDI và đầu tư của khu vực công, cần được tái cấu trúc bằng một chiến lược mới phát huy tốt hơn lợi thế so sánh của Việt Nam để tăng giá trị gia tăng của hàng xuất khẩu và gia tăng các kỹ nghệ phụ trợ, đồng thời với việc phát triển thị trường trong nước bằng những mặt hàng chất lượng cao. “Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam” có thể là chính sách khả thi với nhiều tiềm năng.

Để phát triển “nội lực”, yếu tố căn bản là phải cải thiện chất lượng hoạt động điều hành và nguồn nhân lực trong khu vực công qua việc thực hiện kiên quyết chương trình cải cách hành chính, chế độ tiền lương hợp lý hơn với việc tăng năng suất (thí dụ: một người làm việc thay cho hai người có thể được hưởng lương gấp đôi), tăng cường giám sát và minh bạch công khai trong hệ thống.

Với đề tài tái cấu trúc nền kinh tế, nhiều tác giả khác trong cuốn sách sẽ nhấn mạnh là nền kinh tế đất nước hiện chủ yếu “phát triển theo chiều rộng” dựa vào các ngành tài nguyên và lao động chi phí thấp. Giải pháp là cần một quá trình thay đổi trung và dài hạn theo chiều sâu với một cơ cấu mới về phân bố và sử dụng nguồn lực của nền kinh tế một cách hợp lý và hiệu quả hơn. Để làm được việc này, Việt Nam cần có chính sách phù hợp để phát triển khu vực doanh nghiệp tư nhân thông qua thay đổi động cơ và khuyến khích hoạt động đầu tư như trình bày ở trên.

Với cơ cấu sản xuất hiện có luôn dẫn đến nhập siêu cao và từ đó gây áp lực thường trực trên cán cân thanh toán quốc tế và tỷ giá, một trong những việc tái cấu trúc cấp thiết khác là giải quyết vấn đề nhập siêu khi có tốc độ tăng trưởng bền vững hơn. Các nền kinh tế khác ở Đông Á, sau khi gặp phải cùng vấn đề nhập siêu và thất thu cán cân vãng lai cao ở những thập niên đầu của chu kỳ tăng trưởng nhanh, thường đạt được mức xuất siêu đáng kể để có tăng trưởng bền vững do không bị áp lực của cán cân thanh toán, và sau đó còn có thể tăng nhanh quỹ dự trữ ngoại hối như một gối dựa (cushion) tài chính vững chắc. Chúng ta sẽ cần một dự án tái cấu trúc toàn diện guồng máy sản xuất, dựa trên các nghiên cứu định lượng sâu sắc của bảng “Input-Output”, để giải quyết lâu dài vấn đề nhập siêu.

Chúng ta cũng sẽ cần một dự án cải cách toàn diện nền giáo dục –nhất là giáo dục cơ bản và đại học – để chuyển dịch nhanh hơn nền kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ với sự chú trọng vào công nghệ thông tin chẳng hạn.

Cuối cùng là một chiến lược mới nhằm công nghiệp hóa nông thôn nhanh hơn với việc áp dụng công nghệ để tăng năng suất nông nghiệp và cải thiện mãi lực của khu vực nông thôn. Sự Liên hệ là các kêu gọi khẩn trương tăng tốc phát triển khu vực nông thôn và cải thiện đời sống nông dân, nhất là nhu cầu phát triển một nền nông nghiệp sạch để giải quyết đồng thời vấn đề cải thiện môi trường và hướng vào xuất khẩu các nông sản sạch đang có nhu cầu tăng cao trên thị trường khu vực (như từ Nhật Bản và Hàn Quốc) và quốc tế.

4.3. …Tới vấn đề đầu tư công

Vấn đề nan giải nhất là tỷ lệ đầu tư/GDP hiện tại của Việt Nam ở mức quá cao: 42%, do chiến lược chỉ đạo là dùng đầu tư cao của khu vực nhà nước để đạt mức tăng trưởng cao hàng năm. Đó cũng là nguyên nhân chính dẫn đến thiếu hiệu quả trong đầu tư và tỷ lệ thất thoát cao. Ưu tiên quan trọng là phải giảm tỷ lệ này bằng nhiều biện pháp quyết liệt gồm cả việc thay đổi guồng máy đầu tư nhà nước và giảm ngân sách đầu tư công hàng năm trong 5 năm tới.

Bước đột phá đề nghị là cải cách hành chính trong hoạt động đầu tư công:

· Tách cơ quan quản lý khỏi kinh doanh.

· Ban hành “Luật Đầu tư công” tập trung vào việc tăng minh bạch công khai trong mua sắm và cơ chế giám sát, kiểm toán hiệu quả hơn với các dự án sử dụng vốn nhà nước.

· Tăng cường năng lực cho các tổ chức thanh tra giám sát các hoạt động đầu tư công như kiểm toán nhà nước, thanh tra chính phủ cũng như vai trò giám sát và phản biện của Quốc hội với những dự án lớn và quan trọng.

Bước cụ thể là tăng hiệu quả đầu tư thông qua việc gia tăng đầu tư tư nhân nhằm giảm tỷ lệ đầu tư toàn xã hội/GDP từ mức 42% hiện tại xuống còn 35% vào năm 2015, qua việc giới hạn mức đầu tư công xuống mức tối đa là 20% của GDP vào năm 2015, nhằm giảm chỉ số ICOR từ 7-8 hiện nay xuống 3-4, mà không làm phương hại đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6-7% hàng năm trong 5-10 năm tới.

Riêng đầu tư nhà nước sẽ đặt trọng tâm vào phát triển hạ tầng, với việc tăng tốc chương trình hợp tác công tư (Public-Private Partnership Program – PPP) để tăng cường vốn đầu tư nước ngoài vào khu vực trọng yếu này.

Nhiều nước tận dụng mô hình truyền thống như công ty cổ phần hay hình thức mới như quỹ đầu tư cơ sở hạ tầng tư nhân để xã hội hóa hoạt động đầu tư, và Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi kinh nghiệm bổ ích của nước ngoài trong lĩnh vực này. Một trong những điểm mấu chốt cho thành công của mô hình này là quản trị doanh nghiệp cần minh bạch hơn và có cơ chế hữu hiệu để bảo vệ các nhà đầu tư.

Trên đây mới chỉ là vài tiền đề góp ý vào thao thức và mạch nghĩ chung hiện nay của cả nước ý thức được sự cần thiết của thay đổi, của một tư duy mới cho nền kinh tế xã hội nói chung và một chiến lược phát triển cho 10 năm tới nói riêng, nhưng thật sự chúng ta vẫn đang loay hoay với việc tìm ra những ý kiến và hướng đi cụ thể.

4.4. …Và sau cùng là việc đánh giá của các cơ quan định mức tín nhiệm nước ngoài

Ngày 29/7/2010, hãng định mức tín nhiệm quốc tế Fitch Ratings đã giảm một bậc định mức tín nhiệm nợ chính phủ của Việt Nam, từ BB- xuống mức B+. Đây là lần thứ hai tổ chức này hạ bậc xếp hạng của Việt Nam sau lần đầu vào tháng 7 năm 2009. Việc hạ bậc lần này của Fitch dựa vào các lý do trong báo cáo của họ như sau:

“Mức tín nhiệm nợ quốc gia của Việt Nam đã giảm xuống trong bối cảnh các dòng vốn từ bên ngoài yếu đi, nhu cầu gia tăng của Việt Nam về vốn để bù đắp cho thâm hụt cán cân vãng lai và trả nợ tới hạn, nền kinh tế bị USD hóa ở mức độ khá cao và hệ thống ngân hàng bộc lộ nhiều điểm yếu…”

Mặc dù chúng ta có thể chưa đồng ý với một số điểm trong lập luận của họ và thông điệp không êm tai nói trên, nhưng thực tế là đánh giá mới này khiến việc vay vốn tương lai của Việt Nam trở nên khó khăn hơn và chịu lãi suất cao hơn. Do đó, cũng nên coi đây là một cảnh báo cần thiết và đúng lúc cho việc giải quyết tình hình kinh tế vĩ mô thiếu ổn định, vấn đề tài chính công đã bàn ở trên, cũng như những vấn đề tồn đọng của hệ thống ngân hàng và tín dụng.

Chỉ khi nào tình hình tài chính nói chung được cải thiện theo nghĩa rộng, chúng ta mới có thể hy vọng những dòng tiền đầu tư nước ngoài, cả trực tiếp (FDI) lẫn gián tiếp (FII) qua thị trường chứng khoán, sẽ tăng cường mạnh mẽ và đều đặn. Cộng thêm với lòng tin trở lại của giới đầu tư trong nước, từ đó mới hy vọng chấm dứt tình trạng “đóng băng” hiện tại và tái phát triển hai thị trường bất động sản và chứng khoán một cách bền vững.

II TƯ DUY MỚI VÀ VIỆC CƠ CẤU LẠI NỀN KINH TẾ

  1. NGHĨ LẠI VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN

Việt Nam đã chọn Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa làm mô hình phát triển. Trong hơn hai thập kỷ qua, nhiều điểm tích cực của kinh tế thị trường đã được phát huy để đem lại mức tăng trưởng kinh tế khá cao, đưa phần lớn người dân Việt Nam thoát khỏi đói nghèo – nỗi ám ảnh của cả dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử. Tuy nhiên, khi vẫn còn lúng túng trong việc hiểu định hướng xã hội chủ nghĩa là gì và mối quan hệ của nó với kinh tế thị trường như thế nào thì các nguyên tắc thị trường ngày càng chi phối sâu rộng các hoạt động kinh tế đã làm cho các vấn đề như: bất bình đẳng, chênh lệch giàu nghèo, ô nhiễm, thậm chí là mâu thuẫn xã hội đang trở nên nghiêm trọng và gay gắt hơn.

Để có thể đi đến cái đích “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”, Việt Nam cần phải phát huy nhiều hơn nữa yếu tố xã hội chủ nghĩa bằng việc tập trung nguồn lực của Nhà nước để giải quyết những mặt trái của kinh tế thị trường; song song với việc hoàn thiện các thể chế thị trường với nòng cốt là xây dựng một nhà nước pháp quyền; và giảm thiểu tối đa việc tham gia trực tiếp vào các hoạt động kinh doanh của Nhà nước, nhất là những hoạt động mà thị trường có thể làm tốt chức năng của nó.

1.1. Kinh tế thị trường không phải là chiếc đũa thần

Nói đến kinh tế thị trường nhiều người sẽ hình dung ngay đến các nước phát triển và cho rằng đó chính là chủ nghĩa tư bản. Thực ra, các nước phát triển đã gặt hái được thành công không chỉ nhờ tuân thủ các quy luật của kinh tế thị trường mà còn hạn chế được những mặt trái của nó. Trong khi đó, nhiều nước đã không thành công, hay ít nhất cũng gặp rắc rối, do đã lãng quên hay không xử lý được những thất bại của thị trường. Ở những mức độ khác nhau, các nước chuyển đổi từ mô hình kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường đều đang gặp phải vấn đề.

Cải cách “vụ nổ lớn”: Thành công và thất vọng

Sau thất bại của mô hình kinh tế kế hoạch, các nước đông Âu và Liên Xô đã cải cách theo kiểu “vụ nổ lớn” (the Big Bang) để “xóa đi tất cả làm lại từ đầu”. Hầu hết tài sản nhà nước được tư nhân hóa. “Sau một đêm”, các thể chế kinh tế tập trung được thay bằng các thể chế thị trường. Với cách tiếp cận này, một số nước đã có được những thành công nhất định, trong khi một số khác chỉ đem lại sự thất vọng cho dân chúng cùng với bất ổn xã hội.

Các nước đông Âu đã trở thành thành viên của Cộng đồng châu Âu (EU) như Czech, Hungary, Bungary hay Ba Lan, nói chung là đã thành công với mức độ phát triển hay tiến bộ xã hội tiệm cận với các nước phát triển. Lý do của thành công là: (1) không ít thì nhiều về cấu trúc xã hội hay văn hóa của các nước này cũng có những tương đồng với các nước tây Âu; và (2) quan trọng nhất là sức ép để trở thành thành viên của EU đã buộc các nước đông Âu phải tiến hành cải cách nhanh chóng và xây dựng các thể chế thị trường trên nguyên tắc thượng tôn pháp luật hay pháp quyền giống như các nước khác trong EU. Tuy có được những thành công ban đầu, nhưng các nước này vẫn đang phải đối mặt với những mặt trái của kinh tế thị trường.

Đối với Liên bang Nga, có hai quan điểm trái chiều và người viết bài thuộc về nhóm cho rằng cải cách của nước Nga đã không thành công trên thực tế. Phần lớn khối tài sản khổng lồ của một quốc gia từng được xem là hùng mạnh nhất thế giới đã rơi vào tay một số ít người. Khi mà pháp quyền không được tôn trọng để chống lại tình trạng “cá lớn nuốt cá bé”, quy luật khắc nghiệt nhất của kinh tế thị trường, thì một xã hội bất công cho phần lớn dân chúng đã được tạo ra. Những xung đột xã hội hay sắc tộc gần đây chính là hậu quả của sự bất công này.

Cải cách ở những nước thuộc Liên Xô cũ như: Ucraina, Belarus… đã đem lại sự thất vọng cho công chúng. Chán ngán với chính phủ hiện tại, dân chúng hoặc là sử dụng lá phiếu của mình, hoặc là gây bạo loạn để hình thành nên chính phủ mới. Đây chính là những cuộc cách mạng màu hay được nhắc đến. Tuy nhiên, sự thất vọng đã xảy ra ngay sau đó và đưa xã hội đã rơi vào tình trạng chia rẽ và bất ổn triền miên.

Thực ra, bản chất của sự bất ổn ở Nga hay các nước thuộc cộng hòa Xô Viết trước đây là do các quan hệ thị trường đã được đưa vào quá nhanh trong khi pháp quyền không được tôn trọng. Cho dù ai đứng trong chính phủ cũng là để bảo vệ lợi ích của số ít những người đã thâu tóm phần lớn tài sản quốc gia trong quá trình chuyển đổi. Phúc lợi xã hội không được coi trọng và quyền lợi của phần lớn người dân bị hy sinh. Mặt trái của kinh tế thị trường không được quan tâm giải quyết làm cho dân chúng mất niềm tin.

“Dò đá sang sông”: Thành công ban đầu, nhưng…

Khác với các nước đông Âu và Liên Xô, Việt Nam và Trung Quốc đã tiến hành cải cách kinh tế theo cách tiệm tiến hay “dò đá sang sông”. Các hoạt động kinh tế từng bước được nới lỏng để chúng tuân theo các quy luật thị trường. Kết quả rõ nhất đối với hai nước là tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong một thời gian rất dài trong khi vẫn duy trì được sự ổn định chính trị, xã hội. Chính sách cải cách của hai nước đã đem lại lợi ích cho rất nhiều người, nhất là những cải cách về đất đai, nông nghiệp và nông thôn. Tuy nhiên, hiện tại cả Việt Nam và Trung Quốc đang phải đối mặt với hai vấn đề hết sức nan giải.

Thứ nhất, cải cách kinh tế đã đi quá nhanh trong khi mục tiêu ổn định được đặt lên hàng đầu nên cải cách hệ thống chính trị đã diễn ra khá thận trọng. Sự tương thích giữa các thể chế kinh tế và chính trị ở cả hai nước đang được tranh luận sôi nổi được biểu hiện rõ nét nhất qua bình luận gần đây của ông Nguyễn Văn An, nguyên Chủ tịch Quốc hội Việt Nam, và phát biểu của ông Ôn Gia Bảo, Thủ tướng Trung Quốc ở Thâm Quyến hồi tháng 8/2010.

Cải cách các thể chế chính trị như thế nào là điều không hề đơn giản. Nếu không có những cải cách để loại bỏ sự xơ cứng hay thoái hóa của bộ máy, nhất là tình trạng tham nhũng và vô trách nhiệm tràn lan, thì sự ổn định của các thể chế chính trị nói riêng, xã hội nói chung sẽ bị đe dọa. Tuy nhiên, việc rập khuôn các thiết chế dân chủ theo kiểu phương Tây có lẽ không phải là phương cách tốt. Sự bất ổn, thậm chí là bạo loạn ở các nước thuộc Liên Xô cũ cũng như nhiều nước trong khu vực là bài học nhãn tiền cho bất cứ ai mơ về những cải cách không thực tế. Tuy nhiên, cho dù tiếp cận theo phương thức nào, thì cũng cần phải có sự cạnh tranh hay giám sát thực chất ở mỗi vị trí trong bộ máy nhà nước.

Thứ hai, mặt trái của kinh tế thị trường hay những thất bại thị trường đang nổi lên ngày càng nhiều và gay gắt. Kinh tế thị trường không còn là chiếc đũa thần để giải quyết mọi vấn đề của mô hình kinh tế kế hoạch như nhiều người mong đợi, mà nó lại gây ra rắc rối. Cái vòng luẩn quẩn thất bại của thị trường dẫn đến thất bại của nhà nước và ngược lại cứ liên tục xảy ra. Càng tăng trưởng kinh tế, thì những người ở vị thế bất lợi càng bị thiệt thòi. Nếu cứ để cho thị trường vận hành một cách tự do theo “bản năng” của nó thì sự bất công hay các vấn đề xã hội khác sẽ trở nên ngày càng nghiêm trọng hơn. Không ai khác, nhà nước sẽ phải giải quyết những vấn đề này. Tuy nhiên, câu hỏi khó nhất là nhà nước nên làm như thế nào.

1.2. Cần phát triển thêm các lý luận vế định hướng XHCN

Những lúng túng trong việc giải thích về định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam có lẽ là do sợ vi phạm các nguyên lý của Marx và Lenin, lý thuyết nền tảng của chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, cần có cái nhìn uyển chuyển hơn về vấn đề này.

Những lý luận của Marx là một trong những nền tảng quan trọng của một ngành trong kinh tế học và triết học hiện đại. Những phân tích về giá trị thặng dư, về bóc lột của Marx có thể đúng trong xã hội mà tính đồng nhất của các loại hàng hóa rất cao và hầu hết các hoạt động sản xuất đều là thâm dụng lao động. Giá trị của một mét vải nhìn chung là như nhau và sức lao động kết tinh rất lớn trong đó. Cách thức mà các nhà tư bản, những ông chủ sử dụng chủ yếu để bắt người lao động làm việc cật lực nhằm đem lại sự giàu có cho nhà tư bản là kỷ luật và đàn áp. Do vậy, tư duy cần có “chuyên chính vô sản” và nhà nước đứng ra làm thay thị trường để chống lại tình trạng người bóc lột người có thể là hợp lý trong bối cảnh những mặt trái của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chưa được nghiên cứu cũng như trải nghiệm qua.

Tuy nhiên, thời đại “ăn chắc mặc bền” cách đây hơn một trăm năm rất khác với thời đại “ăn ngon mặc đẹp” của chúng ta. Việc rập khuôn cứng nhắc các lý luận của Marx và Lenin là không phù hợp trong bối cảnh hầu hết các hoạt động kinh tế thiên về thâm dụng tri thức, tài năng và vốn hơn là lao động. Việc Bill Gates trở thành nhà tư bản hay người người giàu nhất thế giới chính là nhờ ông đã tạo cho nhân loại một giá trị lớn hơn khối tài sản của ông nhiều lần chứ không phải do ông ta bóc lột của người khác bằng gậy gộc. Thêm vào đó, xét về sức lao động, công sức của một cầu thủ trung bình chạy trên sân chắc chắn không kém Messi hay Ronaldo, nhưng thu nhập của những cầu thủ đắt nhất hành tinh này cao hơn rất nhiều lần so với những cầu thủ thông thường. Lý do các cầu thủ này nhận được thù lao cao là họ giúp cho khán giả có được niềm vui sướng nhiều hơn chứ không phải họ lao động nhiều hơn.

Những lập luận của Marx và Lenin vẫn còn giá trị, nhưng chỉ riêng chúng thì không thể giải thích được thực tế sinh động hiện nay. Sự thất bại của mô hình kinh tế tập trung và những nghiên cứu về các hình thức sở hữu và hành vi đã chỉ ra rằng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất không tạo ra động lực và cơ chế để nguồn lực được sử dụng hiệu quả, ít nhất là trong thời đại của chúng ta.

Xét về lý tưởng, mô hình kinh tế kế hoạch nhà nước làm thay thị trường nếu thành công thì có thể trên lý thuyết tốt đẹp hơn nhiều so với kinh tế thị trường. Tuy nhiên, mô hình này đã vi phạm nguyên tắc cốt lõi về hành vi của con người. Điều nghịch lý là quyết định cá nhân và quyết định tập thể là khác nhau. Nếu một việc làm nào đó, để mỗi cá nhân làm thì tất cả mọi người sẽ có hành động như nhau, nhưng cũng những người này cùng tập hợp lại để đưa ra quyết định tập thể thì quyết định thường là trái ngược với quyết định của mỗi cá nhân. Trong chế độ công hữu, tình trạng ăn theo và cha chung không ai khóc là điều khó tránh khỏi. Hơn thế, trong bối cảnh không thể kiểm soát được hành vi thì hành động hợp lý của hầu hết những người được giao quản lý doanh nghiệp là sử dụng tài sản của nhà nước để trục lợi cá nhân, củng cố địa vị của mình, thay vì đạt như các mục tiêu cao đẹp được mong đợi.

Mô hình sở hữu mà nó tạo động lực để các nguồn lực của xã hội được sử dụng hiệu quả chính là sở hữu cá nhân. Vì lý do này mà ngay cả ở các nước bắc Âu, những quốc gia được xem là khá thành công trong việc xây dựng xã hội chủ nghĩa cũng đang triệt để tiến hành tư nhân hóa mà ở Việt Nam gọi là xã hội hóa việc cung cấp các dịch vụ công chứ không nói gì đến các hoạt động kinh doanh. Ngay cả nhà tù, một công cụ sức mạnh của nhà nước, hiện cũng đã được giao cho tư nhân quản lý.

Tóm lại, để mô hình Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có thể phát huy tốt, đưa mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh sớm trở thành hiện thực, Việt Nam cần làm rõ hơn nữa các khái niệm then chốt để có những định hướng rõ ràng trong mô hình phát triển của mình. Ở vế kinh tế thị trường, nhà nước chỉ nên tập trung vào việc ổn định kinh tế vĩ mô, cải thiện môi trường kinh doanh và xây dựng một nhà nước pháp quyền đúng nghĩa. Đối với vế xã hội chủ nghĩa, nhà nước nên tập trung vào việc giải quyết các vấn đề xã hội mà khu vực thị trường không thể hoặc thực hiện không hiệu quả. Với cách hiểu như vậy, sẽ không nhất thiết phải đặt ra vấn đề công hữu hay tư hữu, nguyên nhân của những rắc rối trong thời gian qua. Hơn thế, Việt Nam có thể gọi mô hình phát triển của mình là Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Việc cắt đi từ “định hướng” sẽ loại bỏ được cảm giác yếu tố xã hội chủ nghĩa chỉ được gắn thêm vào kinh tế thị trường, hai thứ vốn không ăn khớp với nhau.

  1. CƠ CẤU LẠI NỀN KINH TẾ: HƯỚNG ĐI NÀO CHO VIỆT NAM?

Cùng dòng mạch các tư duy mới như trên là việc tái cấu trúc nền kinh tế đang được bàn đến rất nhiều. Khi những xung lực cho tăng trưởng đang yếu dần, những thách thức đang lộ diện rõ hơn thì việc cơ cấu lại nền kinh tế không còn là vấn đề được đặt ra mà cần giải quyết rốt ráo nhằm tìm ra những làn sóng tăng trưởng mới giúp Việt Nam có thể bắt kịp các nước phát triển.

Câu hỏi đặt ra là nền kinh tế nên được cơ cấu lại như thế nào? Việc nhìn lại yếu tố dẫn đến thành công cũng như những vấn đề đặt ra sau hơn 20 năm đổi mới và kinh nghiệm quốc tế có thể là cách tiếp cận phù hợp cho Việt Nam.

2.1. Khi năng lực được giải phóng

Có nhiều nguyên nhân tạo ra thành công trong hơn 20 năm đổi mới của Việt Nam. Tuy nhiên, yếu tố quan trọng nhất chính là năng lực sản xuất được giải phóng và phát huy. Khi năng lực đã được tích tụ, nền kinh tế có khả năng sản xuất 40 triệu tấn lương thực chỉ cần trả ruộng về tay nông dân là có thể đạt được mức tiềm năng, hay đội ngũ đông đảo doanh nghiệp dân doanh đã được phát huy sở trường nhờ Luật doanh nghiệp năm 2000 để tạo ra làn sóng tăng trưởng mạnh trong gần một thập niên qua.7

Thành công quả là kỳ diệu với hơn nửa dân số thoát khỏi đói nghèo. Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình (GDP bình quân đầu người từ 1.000 USD trở lên) sau khi duy trì được tốc độ tăng trưởng cao (hơn 7,5%) trong hơn 2 thập niên.

Nói đơn giản là từ một nước thiếu ăn phải nhập khẩu lương thực và nhiều mặt hàng thiết yếu, sau hơn 20 năm Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia dẫn đầu thế giới về xuất khẩu nông sản và các mặt hàng gia dụng như: hồ tiêu (số một), gạo và cà phê (số hai), chè, cao su, thủy sản, dệt may, da giày và đồ gỗ.

Nói cách khác, Việt Nam đã là “nước lớn” về xuất khẩu những mặt hàng kể trên nhờ biết khai thác thế mạnh của mình. Hơn thế, đây chính là những ngành giúp giải quyết việc làm và nâng cao đời sống cho phần lớn người dân Việt Nam. Tuy nhiên, điều đáng quan tâm là các mặt hàng này mới chỉ dừng ở mức sơ chế hoặc gia công. Việc đầu tư vào những khâu có giá trị gia tăng cao hơn dường như chưa được quan tâm đúng mức.

2.2. Hành trang cho tương lai

HỘP II.1: TẠI SAO CÁC HÃNG SẢN XUẤT Ô TÔ VÀO VIỆT NAM?
Câu trả lời sẽ không phải là tiềm năng có thể phát triển dựa vào những lợi thế quốc gia mà là chính sách ưu đãi thuế cho một thị trường đủ để kiếm được những khoản lợi nhuận khá lớn.

Với giá trị 1,2 tỷ USD nhập khẩu 80 nghìn ô tô nguyên chiếc năm 2009, ước tính một cách thận trọng với giả định thuế suất nhập khẩu bình quân khoảng 60-70% thì phần thuế nhà nước thu được sẽ là 700-800 triệu USD.

Tương tự, với 1,5 tỷ USD giá trị linh kiện nhập khẩu để sản xuất khoảng 100 nghìn chiếc xe, giả sử thuế suất nhập khẩu trung bình từ 20-30% thì phần thuế thu được sẽ vào khoảng 300-450 triệu USD. Nhưng nếu giá trị linh kiện này là xe nguyên chiếc thì thuế nhập khẩu sẽ từ 800 triệu đến 1 tỷ USD.

Như vậy, phần thuế chênh lệch ít nhất cũng khoảng nửa tỷ USD hay hơn 1 triệu tấn gạo. Đây có thể coi là phần trợ cấp cho việc sản xuất (thực chất là lắp ráp) hơn 100 nghìn xe ô tô trong nước với tỷ lệ nội địa khá khiêm tốn.

Ước tính bình quân một chiếc xe lắp ráp tại Việt Nam được trợ cấp khoảng 5.000 USD và một việc làm trong ngành này (trực tiếp 50 nghìn người và liên quan 200 nghìn người) được trợ cấp khoảng 2.000 USD một năm, gấp đôi GDP bình quân đầu người hiện nay.

Hơn thế, phần lớn số tiền chênh lệch nêu trên thuộc về các nhà sản xuất (phần lớn là nước ngoài), nhưng với số vốn đầu tư khiêm tốn của các nhà đầu tư nước ngoài cho thấy dường như họ đang khai thác lợi nhuận nhờ ưu đãi thuế trong ngắn hạn chứ không phải là chiến lược phát triển ngành ô tô dài hạn ở Việt Nam. Khi hết ưu đãi và thị trường mở cửa thì họ sẽ nhập khẩu ô tô về bán tại thị trường Việt Nam.

Nhằm đạt được mục tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, trong thời gian qua, nhiều ngành công nghiệp như: sản xuất ô tô, sắt thép, hay đóng tàu đã được đầu tư hay trợ cấp thông qua ưu đãi thuế nhiều tỷ USD. Tuy nhiên, chắc hẳn nhiều người sẽ e dè khi nói rằng đây là những ngành thế mạnh và hứa hẹn của Việt Nam cho dù hầu hết các nhà sản xuất ô tô hàng đầu thế giới đã có mặt tại Việt Nam và cách đây vài năm Việt Nam đã ký hợp đồng đóng những con tàu trọng tải trên 50 nghìn tấn. Đơn giản là việc phát triển chúng không dựa vào thế mạnh quốc gia mà do những yếu tố khác. Ví dụ về ngành sản xuất ô tô trong hộp 1 là một khía cạnh.

Ngược lại, khi Việt Nam xây dựng chính sách công nghiệp cách đây hơn một thập kỷ, ít ai nghĩ rằng sẽ có ngày các hãng công nghệ hàng đầu như Intel, Canon hay Samsung bỏ hàng tỷ USD xây dựng các nhà máy hiện đại tại Việt Nam.

Tại sao các hãng này lại đặt cược hàng tỷ USD vào Việt Nam? Câu trả lời có lẽ nằm ở hai lý do:

Thứ nhất, tiềm năng thị trường Việt Nam lớn. Ví dụ chỉ cần 1/10 dân số Việt Nam sử dụng con chip của Intel thì quy mô thị trường đã lên đến ba bốn tỷ USD.

Thứ hai, tiềm năng về nguồn nhân lực chất lượng cao. Tuy chất lượng giáo dục đang có vấn đề, ví dụ vào đầu năm 2008, theo báo Tuổi Trẻ “sau một năm trực tiếp khảo sát gần 2.000 sinh viên năm cuối tại năm trường đại học chuyên ngành kỹ thuật lớn nhất Việt Nam, họ [Intel] chỉ chọn được 40 sinh viên đủ khả năng”, nhưng nhìn vào tố chất của người Việt, nhất là sự cần cù và khả năng sáng tạo, thì tiềm năng nguồn nhân lực chất lượng cao là rất rõ ràng.

Đây có lẽ là những ngành mà Việt Nam có tiềm năng dựa vào thế mạnh của mình. Tuy nhiên, với điều kiện hiện tại, rất khó để Việt Nam tự phát triển, việc dựa vào những người đi đầu có lẽ là chiến lược hợp lý hơn cả.

2.3. Cám dỗ về các ngành công nghiệp hiện đại8

Những người sáng lập ra kinh tế phát triển cho rằng: (1) loại sản phẩm mà một quốc gia xuất khẩu có ý nghĩa đến thành quả kinh tế; và (2) công nghiệp hóa tạo ra sự lan truyền lợi ích mà chúng dẫn đến tăng trưởng. Tuy nhiên, do thiếu các mô hình chính thức, lý thuyết kinh tế học chính thống đã không thể kết hợp được các ý tưởng này. Thay vào đó, hai cách tiếp cận được sử dụng để giải thích cho sự chuyên môn hóa của các quốc gia.

Cách tiếp cận thứ nhất tập trung vào tỷ phần tương đối giữa các nhân tố sản xuất (vốn vật chất, lao động, đất đai, kỹ năng, vốn nhân lực, cơ sở hạ tầng và thể chế). Các nước nghèo tập trung vào sản xuất các loại hàng hóa thâm dụng lao động không có kỹ năng, đất đai, trong khi các nước giàu chuyên môn hóa các sản phẩm đòi hỏi cơ sở hạ tầng, thể chế cũng như vốn nhân lực và vốn vật chất.

Cách tiếp cận thứ hai nhấn mạnh đến sự khác biệt về công nghệ và phải được bổ sung bằng một lý thuyết về điều gì dẫn đến sự khác biệt. Những mô hình về sự đa dạng và những nấc thang chất lượng giả định rằng luôn có một sản phẩm tân tiến hơn một chút hay chỉ là một sản phẩm khác mà các nước có thể tham gia mà không cần để ý đến sự tương tự của sản phẩm khi xem xét tăng trưởng và chuyển đổi cơ cấu.

Trên thực tế nhiều nước đang hưởng lợi rất nhiều từ phân công lao động, nhưng do yếu tố chính trị học, nên cách tiếp cận thứ nhất có vẻ không được các nước đang phát triển chú ý vì ít ai muốn chuyên môn hóa vào việc “bán sức lao động”. Ngược lại, cách thứ hai có vẻ lý tưởng vì nước nào cũng mong muốn có những ngành công nghiệp “mũi nhọn”, hàm lượng công nghệ cao.

Lập luận một quốc gia có thể chuyển sang sản xuất những mặt hàng tân tiến mà không cần quan tâm đến nền tảng hiện tại cộng với hình ảnh so sánh một tấn gạo xuất khẩu chỉ đem lại khoảng 400 USD, chỉ bằng một cái máy ảnh nặng chừng 100 gam hay một con chip chưa đến vài gam quả là cám dỗ để nhiều nước tập trung nguồn lực cho những ngành thâm dụng vốn và chất xám vì họ cho rằng không thể giàu được nếu cứ sản xuất giản đơn. Tuy nhiên, mong muốn và khả năng thường là hai phạm trù khác biệt.

2.4. Lý thuyết về bước nhảy của đàn khỉ

Trên cơ sở lập của Adam Smith, “Bí mật về sự giàu có của các quốc gia liên quan đến sự phân công lao động. Khi con người và các doanh nghiệp chuyên môn hóa vào những hoạt động khác nhau, hiệu quả kinh tế sẽ gia tăng”. Và những bất cập của hai cách tiếp cận nêu trên, nhóm học giả gồm: Barabási, Hausmann, Hidalgo, Klinger thuộc Đại học Harvard đã đưa ra lý thuyết về bước nhảy của những con khỉ (monkey jumping) bằng việc phân tích thực nghiệm quá trình phát triển sản phẩm và công nghiệp hóa của các nền kinh tế trên thế giới.

Hình dung một sản phẩm như một cái cây và tất cả các sản phẩm như một khu rừng. Một quốc gia bao gồm một tập hợp các doanh nghiệp, giả định giống như những con khỉ sống trên những cái cây khác nhau và khai thác những sản phẩm này. Quá trình tăng trưởng giống như việc di chuyển từ phần rừng còi cọc nơi mà những cái cây có ít trái hơn sang những vùng tươi tốt hơn. Điều này có nghĩa là những con khỉ phải nhảy qua những khoảng cách, hay các doanh nghiệp phải sắp xếp lại nguồn nhân lực, vốn vật chất và thể chế hướng vào sản phẩm thì mới khác với hoạt động sản xuất hiện tại.

Các lý thuyết tăng trưởng truyền thống giả định rằng luôn có những cái cây trong tầm với, và vì vậy cấu trúc của cánh rừng là không quan trọng. Tuy nhiên, nếu cánh rừng này không đồng nhất, nơi đông đúc, nơi thưa thớt và nếu những con khỉ chỉ có khả năng nhảy những khoảng cách giới hạn, thì cấu trúc của không gian sản phẩm và định hướng của một nước trở nên cực kỳ quan trọng cho sự phát triển.

Theo lý thuyết, nhiều yếu tố khả dĩ có thể tạo ra sự liên hệ giữa các sản phẩm – sự gần gũi giữa các cây – ví dụ như: sự tập trung lao động, đất đai và vốn, mức độ tinh vi của công nghệ, nhập lượng và xuất lượng tham gia trong chuỗi giá trị của sản phẩm (bông vải, sợi, vải, may) hoặc các thể chế yêu cầu. Vấn đề đặt ra là sự tương tự theo khía cạnh hay chiều nào là quan trọng?

Nếu hai loại hàng hóa liên quan với nhau vì chúng cùng yêu cầu những thể chế, cơ sở hạ tầng, yếu tố vật chất, công nghệ giống nhau hay là một sự kết hợp nào đó thì chúng có thể sản xuất nối tiếp, ngược lại những sản phẩm không tương tự ít có khả năng sản xuất cùng nhau. Điều này được gọi là sự “gần gũi” (proximity) mà nó làm cho khả năng sản xuất một sản phẩm mới của một quốc gia phụ thuộc vào khả năng sản xuất những sản phẩm khác của nước này.

Ví dụ một nước có khả năng xuất khẩu táo sẽ có thể có hầu hết các điều kiện thích hợp để xuất khẩu lê vì chúng có cùng yêu cầu về thổ nhưỡng, khí hậu, công nghệ đóng gói và vận chuyển. Thêm vào đó, họ có những nhà nông học giỏi, quy định về vệ sinh hay thỏa thuận thương mại dễ dàng áp dụng vào hoạt động kinh doanh lê. Ngược lại, tất cả hay hầu hết khả năng được phát triển cho việc kinh doanh táo sẽ là vô dụng đối với những sản phẩm khác biệt như sản xuất dây đồng hay đồ gia dụng.

Nhóm học giả này kết luận “Các nền kinh tế tăng trưởng bằng cách nâng cấp các sản phẩm mà họ sản xuất và xuất khẩu. Công nghệ, vốn, thể chế và kỹ năng cần thiết để chế tạo các sản phẩm mới thì dễ hơn khi dựa vào một số sản phẩm so với những sản phẩm khác.”

Nói một cách đơn giản, nhóm học giả này đã không thừa nhận lập luận một nước có khả năng tham gia vào bất kỳ sản phẩm nào và cho rằng các quốc gia nên lựa chọn phát triển các sản phẩm tiếp theo dựa trên những sản phẩm hiện có, nhất là các sản phẩm xuất khẩu nhằm phát huy năng lực sẵn có.

2.5. Hướng đi nào cho Việt Nam?

Nếu cách tiếp cận về “bước nhảy của bầy khỉ” nêu trên là hợp lý thì hình như định hướng phát triển các ngành công nghiệp hay công nghiệp hóa của Việt Nam có điều gì đó chưa ổn. Những ngành nghề liên quan đến cắt may, thiết kế thời trang… chắc chắn gần với công nghiệp dệt may và da giày hơn là cắt thép đóng tàu. Việc chế biến các sản phẩm có chất lượng và giá trị gia tăng cao hơn từ con tôm, con cá hay hạt gạo, hạt cà phê chỉ là bước nối tiếp của các hoạt động sơ chế nông sản và thủy sản, khác xa so với sản xuất sắt thép hay xe hơi.

Khoảng cách giữa những sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam và những ngành đang được tập trung nhiều vốn và ưu đãi có lẽ quá xa nên các doanh nghiệp khó lòng mà chuyển sang được. Đây có thể là điều đang gây rắc rối cho kinh tế Việt Nam.

Để có thể gặt hái được thành công như mong đợi, Việt Nam cần xem xét một số vấn đề sau:

Thứ nhất, tập trung nguồn lực cho những ngành công nghiệp gần với các sản phẩm nông nghiệp, thủy sản, dệt may và da giày nhằm phát huy những thế mạnh của Việt Nam. Hơn thế, việc phát triển những sản phẩm này còn góp phần thu hẹp khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng vì chúng mang lại lợi ích cho phần lớn người dân Việt Nam.

Thứ hai, tập trung phát triển những yếu tố cần thiết (nhất là nguồn nhân lực) cho những ngành công nghiệp yêu cầu hàm lượng chất xám cao. Cụ thể là làm sao thỏa mãn nhu cầu lao động sẵn có cho các doanh nghiệp như Intel, Canon hay Samsung, hay nhân lực cho ngành công nghiệp phần mềm.

Thứ ba, sẵn sàng mở cửa mời gọi đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong bất kỳ lĩnh vực nào miễn là hoạt động của họ có lợi cho Việt Nam và đảm bảo nghiêm ngặt các điều kiện môi trường và an ninh quốc gia.

Tóm lại, hơn lúc nào hết, bây giờ chính là lúc Việt Nam cần tiến hành cơ cấu lại nền kinh tế nhằm phát huy những lợi thế và thế mạnh, tạo ra những làn sóng tăng trưởng mạnh và bền mới để đưa Việt Nam bắt kịp các nền kinh tế phát triển, thoát khỏi cái bẫy thu nhập trung bình.


 

Giang Vi

Tôi là một người yêu sách cuồng nhiệt và đã hơn 20 năm. Tôi dành cả ngày để đọc, viết blog về sách và viết bình luận. Tôi tin rằng sách là công cụ mạnh mẽ nhất trong cuộc sống để mở mang đầu óc cho những ý tưởng và quan điểm mới. Các thể loại yêu thích của tôi bao gồm tiểu thuyết lịch sử, giả tưởng, khoa học viễn tưởng và phi hư cấu. Tôi cũng thích tìm hiểu về các nền văn hóa khác nhau thông qua văn học.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts:

Back to top button