Tiểu thuyết - ngôn tình

Những Tháng Năm Hổ Phách Tập 1

1. THÔNG TIN SÁCH/EBOOK

Tác giả : Tuyết Ảnh Sương Hồn

Download sách Những Tháng Năm Hổ Phách Tập 1 ebook PDF/PRC/MOBI/EPUB. Tải miễn phí, đọc online trên điện thoại, máy tính, máy tính bảng.

Danh mục : TIỂU THUYẾT

Đọc thử Xem giá bán

2. DOWNLOAD

Download Ebook         

File ebook hiện chưa có hoặc gặp vấn đề bản quyền, Downloadsach sẽ cập nhật link tải ngay khi tìm kiếm được trên Internet.

Bạn có thể Đọc thử hoặc Xem giá bán.

Bạn không tải được sách ? Xem hướng dẫn nhé : Hướng dẫn tải sách


3. GIỚI THIỆU / REVIEW SÁCH

Lời giới thiệu


Những Tháng Năm Hổ Phách là cuốn tiểu thuyết văn học tình cảm lãng mạn của tác giả nổi tiếng người Trung Quốc Tuyết Ảnh Sương Hồn.

“Trong những phút giây rực rỡ cuối cùng của thời thanh xuân này, bạn có nhận ra mình càng lúc càng thích nhớ lại chuyện ngày xưa không?

Những tháng ngày thuần khiết vô ưu đã qua, cái lứa tuổi trẻ dại mới bước chân qua ngưỡng cửa tình yêu, từ đơn giản tới thâm sâu, duyên và phận, gặp gỡ rồi chia ly… Cớ sao mới chỉ vừa chớp mắt mà thời gian đã vụt qua để rồi tháng năm vài bận lén trộm đổi, mang gương mặt trẻ trung năm xưa hóa thành dung nhan tang thương nhường này?

Thanh xuân đã qua như cuộc vui đã tàn, giữa cuộc đời đằng đẵng, quãng thời gian đẹp nhất lại chính là thứ trôi qua nhanh nhất. Ký ức tựa như một khối hổ phách trong suốt bảo bọc lấy tuổi hoa. Thứ tôi muốn kể chính là một câu chuyện được bọc trong hổ phách như thế, một đoạn hồi ức gian nan. Nếu mọi người nguyện ý thì xin cùng tôi lần theo từng dòng chữ lời văn, ngược dòng sông thời gian, cùng tìm lại những tháng năm tựa thủy.”

__ Hoài niệm về một thuở hồn nhiên đã xa__

LỜI MỞ ĐẦU

Khi màn diễn hoành tráng của thời thanh xuân dần tới hồi kết, bạn có nhận ra mình càng lúc càng thích nhớ lại chuyện xưa?

Vô vàn hồi ức mang theo biết bao hoài niệm. Tuổi hoa trong sáng, tinh khôi dẫu đã bị dòng thác thời gian ào ạt cuốn trôi vẫn in hình rõ nét trong trí nhớ như chuyện mới chỉ hôm qua, khiến người ta nhớ lại mà không khỏi thẫn thờ, hoài niệm lại càng bùi ngùi.

Những tháng ngày thuần khiết vô ưu;

Thuở trẻ dại mới e ấp bước vào yêu;

Yêu, từ thoảng qua tới đậm sâu;

Duyên, từ gặp gỡ tới chia ly, hợp rồi tan…

Cớ sao mới đó mà thoáng chốc thời gian đã vụt qua như ánh chớp? Tháng năm vài bận lén tráo gương mặt trẻ trung năm xưa thành dung nhan tang thương nhường này.

Thanh xuân đã qua như cuộc vui sớm tàn, tuổi hoa vẫy chào cất bước. Giữa cuộc đời đằng đẵng, quãng thời gian đẹp nhất lại chính là thứ trôi qua nhanh nhất. Dẫu tận sâu đáy lòng vẫn không cam tâm nhưng… Ai người thông thái có thể nói cho ta hay, phải làm sao mới có thể níu giữ những tháng ngày ấy?

Cũng may, thanh xuân dẫu chẳng thể níu kéo vẫn còn có thể lưu giữ mãi trong ký ức. Ký ức tựa như một khối hổ phách trong suốt, vững vàng bao bọc lấy tuổi hoa.

Thứ tôi muốn kể lại đây chính là một câu chuyện được bọc trong hổ phách như thế. Một đoạn hồi ức gian nan, nếu mọi người bằng lòng, xin cùng tôi lần theo từng dòng chữ lời văn, ngược dòng sông thời gian, cùng tìm lại tháng năm như nước đã trôi xa.

Những tháng ngày chúng tôi đã sống;

Năm tháng chúng tôi trưởng thành;

Quá trình chúng tôi thay đổi;

Đã từng của đã từng, quá khứ của quá khứ…

Chuyện cũ theo thời gian, qua những con chữ, ngưng lại thành từng khung hình không thể nào quên. Dẫu năm tháng thực tại lặng lẽ trôi đi, những tháng năm ký ức vẫn vĩnh viễn tồn tại trong tâm khảm…

ĐỌC THỬ

CHƯƠNG MỞ ĐẦU

Ngày hè oi nồng, ánh mặt trời như lửa đỏ rực bên song, hơi nóng bủa vây căn phòng không có điều hòa, ngột ngạt như trong lò lửa.

Trời rất nóng nhưng lòng Tần Chiêu Chiêu lại lạnh giá vô cùng, tất cả chỉ vì cuộc điện thoại của mẹ cô khi nãy. Mẹ gọi tới cũng chỉ kể mấy chuyện vặt vãnh trong nhà, vốn chẳng có gì đáng để tâm trạng của cô chùng xuống như vậy. Thế nhưng mẹ sực nhớ ra, báo cho cô: “Căn nhà cấp bốn chúng ta ở trước kia sắp bị dỡ bỏ, hàng xóm xung quanh cũng chuyển đi hết rồi. Chính quyền thành phố đang có ý định xây lại chỗ này thành nhà cho thuê giá rẻ.”

Căn hộ cũ của Tần gia vốn do cơ quan ba mẹ Tần Chiêu Chiêu phân cho nhân viên, tới lúc cần dỡ bỏ rồi sao? Thật khó mà tin được chuyện này, cô không khỏi sửng sốt. “Khi nào thì phá dỡ ạ?”

“Cũng sắp rồi, chính quyền yêu cầu toàn bộ cư dân nhanh chóng chuyển đi trong vòng nửa tháng, giải tỏa xong sẽ tiến hành dỡ bỏ mấy gian nhà cũ rồi xây nhà mới lên.”

“Có nửa tháng thôi à, sao nhanh thế?”

“Ừ, nhanh vậy đấy! Mẹ nghe nói kinh phí lần này lấy từ ngân sách dành để xây dựng nhà cho thuê giá rẻ của nhà nước. Cuối năm nay là hết hạn, không giải ngân sớm, chính phủ sẽ thu hồi vốn nên chính quyền thành phố mới đặc biệt để tâm như vậy.”

“Bao nhiêu người như thế, bảo dọn thì dọn đi đâu được? Cũng phải đến vài chục hộ ấy chứ, mà chuyển nhà đâu phải chuyện đơn giản?”

Mẹ cô giải thích, thật ra mấy chục hộ sống ở khu đó đều vui vẻ gấp rút dọn đi. Vốn dĩ mấy gian nhà họ ở thuộc về nhà máy, không đứng tên họ. Hơn nữa, đây toàn là nhà cấp bốn xây kiểu cũ: nhỏ hẹp, ẩm ướt lại không có nhà vệ sinh riêng, những người còn ở lại đó đến giờ chủ yếu là do không đủ tiền mua căn nhà mới tử tế. Nay tự nhiên chính quyền có ý định xây nhà cho thuê giá rẻ mà thực chất là sửa sang lại nhà cửa rồi thống nhất cho những gia đình khó khăn thuê. Tiền thuê nhà có một tệ một mét vuông, khác nào được ở không đâu. Hơn nữa, những hộ cần chuyển đi để lấy đất cho dự án sau này có thể được ưu tiên phân cho một căn, chẳng khác nào được cấp nguyên nhà mới, có ai không vui vẻ chuyển đi chứ? Thế nên mọi người đều nhanh chóng tìm chỗ để chuyển đi cả rồi.

“Có điều, phải chuyển nhà cũng rất phiền phức, chỉ chuyển tạm thời càng phiền toái hơn. Cũng may nhà mình đã mua được nhà mới, sửa sang đâu vào đấy rồi, vừa kịp để ba mẹ chuyển qua bên đó. Vốn dĩ ba con chẳng muốn đi đâu, ông ấy bảo ở nhà trệt thế này quen rồi, giờ chuyển sang nhà lầu thấy không quen, định giữ lại căn nhà bên kia đến khi nào con về thì ở, còn ba mẹ cứ ở nhà trệt bên này thôi. Giờ thì chẳng ở được nữa rồi, mấy bữa nay ba mẹ đang lục tục chuẩn bị dọn nhà. Trong nhà nhiều đồ linh tinh quá, thượng vàng hạ cám gì cũng có, mấy thứ này chẳng mang sang nhà mới làm gì. Mẹ quay về sửa soạn một chút, xem cái gì cần thì giữ lại, cái gì có thể bỏ thì bỏ bớt. Đồ đạc của con mẹ chẳng biết bỏ cái gì, thôi thì cứ giữ lại hết, sau này lúc nào về nghỉ con xem lại muốn giữ cái gì thì giữ, không thì bỏ, thế nhé!”

Bình thường vẫn nghe nơi này, nơi kia phải phá dỡ hay giải tỏa nhưng Tần Chiêu Chiêu chưa bao giờ nghĩ rằng sẽ có ngày căn nhà mình đã sống từ nhỏ cũng bị giải tỏa. Cô vẫn nghĩ sẽ chẳng bao giờ có ngày đó đâu, vì khu nhà máy cũ nằm ở ngoại ô phía đông thành phố, cách xa nội thành, mấy công ty địa ốc hay phòng môi giới nhà đất đều chẳng buồn để mắt tới vùng này. Thật không ngờ có ngày chính quyền lại muốn xây nhà cho thuê giá rẻ ở đây, vậy là căn nhà cũ của gia đình cô chẳng giữ được nữa rồi.

Đặt điện thoại xuống, ngoài kia ánh dương vẫn rừng rực thiêu đốt, hơi nóng vẫn bủa vây căn phòng hầm hập như lò lửa, nhưng Tần Chiêu Chiêu lại thấy tim mình nguội lạnh, một niềm xúc động dâng lên trong lòng chỉ chực bật ra thành nước mắt.

Nhà cũ phải phá bỏ rồi.

Chỉ là… sao cô lại luyến tiếc đến thế?

Dẫu rằng ngày còn bé cô cũng từng uất hận tại sao mình phải sống trong gian nhà cũ nát kinh khủng đó. Căn nhà cũ kĩ, sơ sài lại âm u, ẩm thấp, mỗi lần trời mưa đều phải mang chậu rửa bát ra hứng nước dột. Nhưng con người sinh ra có ai được chọn lựa chốn xuất thân, cuộc đời cô bất đắc dĩ khởi đầu từ nơi đó rồi. Bao nhiêu năm tháng trôi qua, căn nhà cũ kĩ ấy đã cùng cô lớn lên, dõi theo cô từ khi nhỏ xíu, bi bô tập nói đến ngày trưởng thành, trở thành một cô gái duyên dáng, yêu kiều. Căn nhà ấy ôm trọn trong mình tất cả những tháng ngày đẹp đẽ nhất của cuộc đời cô.

Ngôi nhà cũng là chứng nhân thầm lặng cất giữ mọi tâm sự, bí mật của cô. Người cô từng thích, người từng thích cô… Trong căn phòng bé nhỏ chục mét vuông này, dưới ánh đèn bàn vàng vọt kia, cô nắn nót từng nét chữ viết thư. Những bức thư ấy, chẳng biết tới giờ họ còn giữ không? Nếu còn, hẳn những nét chữ xanh xanh ngượng nghịu, vụng dại khi xưa đã tan vào năm tháng chảy trôi và nhạt nhòa gần như chẳng còn gì nữa rồi. Ngày nào đó, nếu họ vô tình thấy lại chúng trong đống đồ cũ, chẳng biết có còn nhớ được những dòng chữ ấy là của ai hay không?

Thế nhưng, ngôi nhà cũ kia thì hẳn còn nhớ, nhớ rõ lắm. Trên vách tường nào đó cô đã từng khắc tên người mình thích, khung cửa sổ từng bao lần bị người thích cô khe khẽ gõ vang… Căn nhà cũ giống như bảo tàng của cuộc đời cô, âm thầm cất giữ những tháng ngày, những tình yêu và mộng tưởng tươi đẹp nhất trong cuộc đời cô. Vậy mà giờ đây, cô lại mất nó.

Nước mắt lặng lẽ tuôn rơi, từng giọt từng giọt, ướt đẫm vạt áo. Trong làn nước mắt, những chuyện cũ năm xưa như một nhúm trà xanh, dịu dàng bung nở giữa dòng ký ức ấm áp, tỏa ra mùi hương thơm ngát cùng dư vị chua xót mãi không tan.

CHƯƠNG 1

Thuở nhỏ, Tần Chiêu Chiêu thích nhất hai việc là ăn và chơi.

Thật ra, đứa trẻ con nào cũng ham ăn, ham chơi, nhưng có thể coi Tần Chiêu Chiêu là ham ăn, ham chơi nhất trong số đó. Về khoản ăn uống, miệng cô đặc biệt tham lam, không bao giờ nhịn được khi thấy đồ ăn, nước miếng cứ ứa ra, vô cùng thèm thuồng.

Khi đó là những năm 80 của thế kỷ XX, cái ăn cái uống còn thiếu thốn nhiều. Mặc dù Cải tổ kinh tế[1] như làn gió xuân tươi mới đã bắt đầu thổi qua những vùng duyên hải hẻo lánh, nhưng đối với những thành phố nằm sâu trong đại lục, đó vẫn chỉ như “gió xuân không qua nổi ải Ngọc Môn[2]“, chẳng thấm tháp gì.

Tần Chiêu Chiêu sống cùng ba mẹ tại một thành phố “gió xuân chưa thổi tới” trong đại lục. Đó là một thành phố công nghiệp nhỏ thuộc tỉnh Giang Tây, hầu như tất cả các xí nghiệp quốc doanh lớn bé trong thành phố đều lấy tên “Nhà máy”, không giống bây giờ đổi hết thành hai chữ “Công ty” theo lối phương Tây. Ngày đó, hai người gặp nhau lần đầu, muốn biết nơi công tác của nhau sẽ hỏi: “Bác ở nhà máy nào vậy?”

Ba mẹ Tần Chiêu Chiêu cùng làm trong một nhà máy cơ khí quốc doanh. Nhà máy trải suốt một vùng rộng lớn ở ngoại ô phía đông thành phố, ngoài những dãy nhà xưởng rộng lớn còn có nhà ăn, ký túc xá, cửa hàng, chợ, nhà khách, rạp chiếu phim, bệnh viện, nhà trẻ, trường học… thậm chí còn có cả chi nhánh bưu điện, ngân hàng. Tất cả gói gọn lại như một vương quốc nhỏ lấy nhà máy làm trung tâm. Vương quốc này nằm liền kề với mấy nhà máy hầm mỏ quy mô vừa và nhỏ cùng nhiều thôn xóm vùng ngoại ô phía đông, tạo nên một khu vực thành thị – nông thôn kết hợp với nét đặc sắc riêng. Cả vùng này sinh ra vì có nhà máy, sống được nhờ có nhà máy nên tên cũng lấy tên nhà máy mà đặt. Nhà máy có tên “Nhà máy cơ khí Trường Thành”, thường gọi tắt là Trường Cơ, vì thế cả vùng này gọi là khu Trường Cơ.

Hầu hết cán bộ, công nhân viên làm việc tại Trường Cơ đều sống trong những gian nhà nhỏ do nhà máy phân cho. Phòng ốc được xây từ những năm 60, đa số đều là nhà cấp bốn, tường thuần một màu gạch đỏ tươi lợp mái ngói xanh. Nhà cửa lô nhô cao thấp dày đặc suốt hai bên trái phải dọc theo sườn đồi, trải nguyên một triền núi. Nhà thì nhiều mà không gian có hạn nên mỗi khi trong dãy nhà có ai đó nói to một chút là hai bên hàng xóm đều nghe rõ mồn một. Nếu chẳng may có nhà nào đánh mắng nhau ầm ĩ, hàng xóm ba bề bốn bên đều biết mà kéo tới xem náo nhiệt.

Tần gia sống trong một căn hộ dành cho gia đình nằm phía trên cùng bên trái dãy nhà cao nhất ở sườn núi phía đông của khu tập thể. Các dãy nhà có chừng chục gia đình, mỗi nhà có hai gian lớn bé kiểu cách giống nhau, tổng diện tích chừng mười bảy mét vuông, dọc theo tường nhà ngoài còn nối thêm một dãy phòng bếp hẹp và dài, nhỏ tới mức hai người cùng chui vào là không xoay nổi người. Hai hộ dùng chung một căn gác xép, không có nhà vệ sinh riêng, muốn đi vệ sinh phải tới nhà vệ sinh công cộng gần đó. Riêng việc tắm rửa, mùa hè có thể xách nước vào tắm trong nhà bếp, đến mùa đông đành sang nhà tắm của nhà máy.

Ngày đó, đời sống của công nhân viên chức nhà máy phần lớn đều khó khăn. Lương tháng không cao nên hết giờ làm nhiều người tranh thủ khai khẩn đất hoang quanh nhà để gieo luống rau hoặc vây rào nuôi vài ba con gà, lấy cái đắp đổi qua ngày. Những ngày tháng ấy, ngoại trừ ba bữa cơm một ngày, đám trẻ con không có thêm món đồ ăn vặt nào khác, người lớn không nỡ phung phí tiền bạc cho những thứ như vậy. Thỉnh thoảng được cho vài hào, mua mấy viên kẹo xù xì góc cạnh ngậm trong miệng là đã thấy vui mừng như nở hoa trong lòng rồi.

Cũng may, dẫu người lớn thường xuyên tiết kiệm tiền mua đồ ăn thức uống nhưng mỗi dịp lễ tết, nhà máy đều phát phúc lợi cho nhân viên, hầu hết là đồ ăn: có khi là những túi bánh quy đào giòn tan, có lúc lại là từng thùng lê, táo hoặc túi bánh Trung thu… Mỗi lần xưởng phát phúc lợi là một lần vui vẻ của cô bé Tần Chiêu Chiêu, bởi vì như vậy đồng nghĩa với việc được ăn uống thỏa thích.

Thời điểm vui vẻ nhất trong năm đương nhiên là Tết âm lịch, chẳng những nhà máy phát đồ mà ở nhà ba mẹ cũng sẽ làm thêm vài món ngon đón Tết: bánh đậu chiên giòn này, bánh bỏng gạo này, còn cả gừng ngâm đường nữa… nhà nào cũng giống nhà nào. Đám trẻ con vô cùng hăm hở tới từng nhà chúc Tết, ăn hoa quả. Đứa nào cũng chọn chiếc áo thật nhiều túi, ăn no nê rồi còn cố nhét cho đầy túi mới thỏa mãn rời đi.

Ngoài những ngày lễ tết được phát món này món kia, hằng năm mỗi khi hè về, tới mùa dưa hấu, nhà máy lại cử vài xe tải tới các huyện lân cận mua dưa hấu về bán rẻ cho công nhân viên trong các xưởng, cứ năm hào một cân, thật như vừa bán vừa cho, mỗi người được mua tối đa hai mươi lăm cân. Mỗi khi tới ngày xe tải của nhà máy chở dưa về, đám con nít trong khu tập thể lại được phen mừng vui hớn hở, một đoàn con nít lô nhô đứng chờ trên đường lớn trước cổng nhà máy, hết mong lại ngóng, chỉ hy vọng xe dưa có thể về sớm. Thế nhưng, có lần đoàn xe chở dưa gặp trục trặc giữa đường nên tới tận tối mịt vẫn chưa thấy đâu, rất nhiều đứa trẻ khóc lóc, sụt sịt, nhất định không chịu đi ngủ. “Con muốn ăn dưa hấu cơ, phải ăn dưa xong mới đi ngủ cơ.”

Tần Chiêu Chiêu chính là đứa khóc dữ nhất, bất kể ai dỗ dành thế nào cũng không chịu đi ngủ, nhất định phải chờ tới khi đoàn xe chở dưa về mới chịu thôi. Cuối cùng mẹ cô đành chịu thua, bỏ luôn ý định dỗ cô bé đi ngủ. Chỉ là đợi lâu như vậy, lại khóc nhiều, cô nhóc tự khắc mệt mỏi, bèn dựa vào lòng mẹ ngồi chờ, mí mắt cứ trĩu dần xuống rồi ngủ lúc nào không biết. Sáng hôm sau, vừa mở mắt đã sực nhớ ra hôm qua chưa đợi được dưa hấu về, cô liền nhảy bụp khỏi giường, để nguyên chân trần chạy đi, vừa chạy vừa khóc. “Mẹ ơi, mẹ ơi, hôm qua con vẫn chưa được ăn dưa hấu.”

Nhưng vừa mới chạy tới gian ngoài, thấy một hàng bảy, tám trái dưa da xanh biếc nằm lăn lóc dưới đất bên chân tường gạch đỏ tươi là cô bé nín ngay. Rốt cuộc, dưa hấu cũng về tới nhà rồi.

Mỗi ngày sau bữa trưa, mẹ cô lại bổ một quả dưa hấu: một nửa ăn buổi trưa, nửa kia để tối ăn. Vì nhà không có tủ lạnh, dưa hấu bổ ra rồi phải ăn hết ngay trong ngày, nếu không sẽ hỏng mất nên Tần Chiêu Chiêu rất thích chí vì cô bé có thể ăn tới sướng bụng thì thôi.

Nhưng những món như bánh quy đào giòn hay bánh Trung thu hoặc các loại hoa quả như lê, táo lại giữ được khá lâu nên mẹ cô sẽ cất hết đi, không để cho cô bé được ăn tới no nê, thỏa thích. Thỉnh thoảng mẹ mới lấy cho cô một miếng, còn nói mấy món đồ ngon thì nên để dành mới ăn được lâu. Cô bé nghe vậy cũng chẳng hiểu gì, trong lòng ấm ức, cảm thấy sao mẹ mình hẹp hòi quá.

Khi đó, Tần Chiêu Chiêu cũng chưa nhận ra rằng, tuy mẹ chẳng bao giờ để cô được ăn thỏa thích nhưng những đồ ăn ngon như vậy hầu như chẳng bao giờ ba mẹ động tới, cuối cùng có bao nhiêu đều chui cả vào bụng cô.

Lúc ấy, cô bé chỉ cảm thấy chưa thỏa mãn, còn tham ăn tới mức phải đi lấy trộm. Có lần nhà máy chia táo cho công nhân, mỗi người được một thùng, vậy là ba mẹ được hai thùng mang về. Mẹ cô khui cả hai thùng táo, cẩn thận lựa những quả sứt sẹo hay bị sâu đục ra ăn trước rồi xếp hết những quả ngon lành vào trong một chiếc chậu lớn, cất tận trên nóc tủ ba gian. Để như vậy thoáng khí hơn cất trong thùng giấy, đồ ăn sẽ lâu hỏng hơn.

Tần mẹ chắc mẩm tủ cao như vậy chỉ có người lớn mới với được, Tần Chiêu Chiêu bé nhỏ tuyệt đối không thể nào với tới. Nhưng mẹ cô lại quên mất con gái mình là một con sâu háu ăn, một khi đã dính tới đồ ăn thì đầu óc cô sẽ vô cùng nhanh nhạy, nghĩ ngay ra cách kê thêm một chiếc ghế đẩu nhỏ trên chiếc ghế tựa cao rồi trèo lên đó để trộm táo. Đến khi mẹ cô phát hiện ra thì chậu táo đã vơi non nửa.

Vì chuyện này mà ba nổi giận, quất cho cô bé vài cái vào mông, khiến cô khóc ầm ĩ một hồi. Từ khi bị đánh, cô bé ngoan ngoãn hơn, không dám động lòng trộm thêm thứ gì nữa.

Số lần nhà máy phát đồ ăn ngon dù sao cũng có hạn, cả năm tính đi tính lại cũng chỉ được vài lần, hơn nữa đồ ăn lại luôn bị mẹ “cất giữ nghiêm ngặt” nên những lúc bình thường, con mèo tham ăn Chiêu Chiêu sẽ phải tự nghĩ cách để kiếm được món này món kia.

Mấy quầy tạp hóa trong nhà máy cũng có bán những món đồ ăn vặt thật ngon mắt, nhưng trong túi không có tiền thì chỉ có thể ngồi nhìn chứ làm sao ăn được. Tìm ba mẹ xin tiền mua quà vặt thật vô cùng khó khăn, mười lần vòi vĩnh may ra mới được một lần. Tần Chiêu Chiêu liền dẩu cái miệng nhỏ xíu càu nhàu với mẹ: “Mẹ à, vì sao con không được lĩnh lương vậy? Có lương rồi con sẽ không cần tìm ba mẹ xin tiền nữa.”

Mẹ cô nghe vậy, cười không ngớt. “Con muốn được lĩnh lương sao? Vậy phải chờ lúc nào con lớn, đi làm mới được.”

“Bao giờ con mới lớn nhỉ?”

Ba cô liền trêu con gái: “Mỗi ngày ăn thêm hai bát cơm, đảm bảo con sẽ lớn nhanh.”

Tần Chiêu Chiêu ngây thơ tin là thật, ngày nào cũng cố gắng ăn thật nhiều, no căng bụng. Nhưng ăn nhiều như vậy mà hiệu quả chẳng thấy đâu, vẫn chỉ là cô bé nhỏ xíu, cô rất bất mãn. “Con ăn bao nhiêu cơm như thế, ăn lâu ơi là lâu, sao chẳng lớn thêm vậy, thật chẳng hay ho gì.”

Chuyện lớn nhanh xem chừng rất xa vời, muốn được lĩnh lương cũng không thể ngày một ngày hai, Tần Chiêu Chiêu chỉ còn cách là thường xuyên tìm cớ vòi vĩnh ba mẹ tiền mua đồ ăn, tất nhiên chuyện này rất khó khăn. Ngoài ra, cũng có những món đồ ăn vặt không mất tiền, ví dụ như kẹo leng keng.

Kẹo leng keng không cần mua bằng tiền, có thể đổi bằng đồ phế liệu hay đồ bỏ như vỏ tuýp kem đánh răng dùng hết, quần áo thủng, giày rách, lá sắt vụn hay dây thép nhỏ. Ông lão vẫn hay gánh gánh hàng kẹo leng keng đi hết nhà này sang nhà kia luôn là người được đám con nít trong khu hoan nghênh nhất, mỗi lần vừa nghe thấy tiếng rao “Kẹo leng keng, kẹo leng keng đây!” là lũ trẻ con lại ùa về phía ông như bầy én nhỏ.

Kẹo leng keng là một khối kẹo tròn, lớn bằng mặt thớt, bên ngoài phủ một lớp đường kết tinh trắng muốt như bột phấn, bên trong vàng ruộm, óng ả như lúa mạch chín. Khối kẹo giòn và rất cứng, ông già bán kẹo phải dùng một lưỡi đục và một cây búa nhỏ ghè khối kẹo lớn thành từng viên nhỏ giống như người ta đẽo đá; búa chạm lưỡi đục tạo nên những tiếng leng keng nên mới có tên là kẹo leng keng. Viên kẹo cứng đơ nhưng vừa ngấm nước bọt là sẽ nhanh chóng mềm ra, cắn một miếng là có thể kéo ra thành sợi vừa nhỏ vừa dài, mùi vị vô cùng thơm ngon, ngọt ngào nhưng dính răng không gì bằng. Người lớn không thích ăn món này nhưng trẻ nhỏ thì cực kỳ ưa thích.

Nhưng thích thì thích vậy chứ cơ hội đổi được kẹo để ăn không nhiều. Gánh kẹo leng keng của ông lão cơ hồ ngày nào cũng ghé qua khu tập thể nhưng vỏ kem đánh răng, giày rách, sắt vụn, dây thép hỏng đâu phải ngày nào cũng có. Cuộc sống khó khăn nên người lớn ai ai cũng tiết kiệm, quần áo mặc rách thì mạng vá lại rồi mặc tiếp, giày hỏng rồi cũng không tùy tiện vứt bỏ. Những đôi xăng đan nhựa đi mấy năm đã rách vẫn được giữ lại, nếu đôi đang dùng chẳng may đứt quai, sẽ cắt lấy một mảnh từ đôi cũ hơ qua lửa cho mềm rồi gắn lên, tiếp tục dùng. Hầu như nhà nào cũng tiết kiệm như vậy nên những thứ gọi là đồ bỏ mà bọn trẻ có thể mang đi đổi lấy kẹo ăn thật sự không dễ kiếm chút nào.

Thời thơ ấu, Tần Chiêu Chiêu nhớ mãi hai lần đi đổi kẹo leng keng. Một lần, cô bé nặn sạch kem đánh răng còn trong tuýp ra rồi lấy vỏ mang đi đổi kẹo, kết quả thế nào chẳng nói cũng biết, cô bé lại bị ba đét cho vài cái. Lần khác là khi cô bé lang thang chơi trong khu công trường đang thi công thì nhặt được một chiếc búa, từ lưỡi đến cán búa đều làm bằng sắt. Cầm cây búa nặng trịch trong tay, việc đầu tiên cô bé nghĩ tới là mang nó đi đổi kẹo ăn. Ông già đổi kẹo vừa nhìn thấy cây búa là mặt mày hớn hở, liền đem khối kẹo to bằng bàn tay còn lại trong gánh đưa cả cho cô bé. Thế là lần đó, một mình cô được độc hưởng khối kẹo thật to, ăn đến sung sướng đã nghiền.

Mấy món đồ ăn vặt dù mất tiền hay không mất tiền mua đều vậy, không dễ có mà ăn. Cũng may là vào mùa hè hằng năm, Tần Chiêu Chiêu luôn được ăn kem miễn phí đến no bụng.

Nhà máy Trường Cơ có xưởng làm kem riêng, mỗi khi hè đến, nhà máy đều điều động một số công nhân tới xưởng làm kem que, sau đó còn phát phiếu kem miễn phí cho toàn bộ công nhân viên chức trong nhà máy. Mỗi nhân viên được phát một trăm hai mươi phiếu một tháng, dùng phiếu này có thể đổi lấy kem ăn, coi như một khoản trợ cấp giải khát ngày hè.

Phiếu đổi kem này mang tiếng là phát cho nhân viên nhà máy nhưng thực chất là phúc lợi cho đám con nít. Chỉ cần trong nhà có trẻ nhỏ thì những phiếu kem này cơ hồ đều chuyển giao hết cho bọn chúng ngay trong ngày phát phiếu.

Kem que nước đường là loại rẻ nhất, một phiếu đổi được một cây, nếu bán cho người dân quanh vùng thì năm xu một cây; kem đậu xanh hai phiếu một chiếc, giá bán một hào. Đắt nhất là kem sữa, bốn phiếu mới đổi được một que, hai hào một cây; một cây kem này có thể đổi lấy bốn cây kem nước đường. Trẻ con nhà khác thường tiếc phiếu không dám ăn nhưng Tần Chiêu Chiêu lại thường xuyên ăn kem này. Bởi vì ba cô làm ở phân xưởng nhiệt độ cao nên mỗi tháng nhận được số phiếu gấp đôi người bình thường, cộng thêm phiếu của mẹ nữa là tổng cộng ba trăm sáu mươi phiếu; trong nhà chỉ có mình cô là trẻ con, một mình có hơn ba trăm phiếu kem, đương nhiên cô bé muốn ăn thế nào thì ăn.

Nhà bên cạnh có tới ba đứa nhóc nhưng chỉ có một trăm hai chục phiếu vì nhà họ chỉ có ba làm trong nhà máy còn mẹ thì không, vậy nên số phiếu thường chẳng đủ dùng. Con gái út nhà đó suýt soát tuổi Tần Chiêu Chiêu, cũng vô cùng ham ăn, mỗi lần thấy cô mang phiếu đổi kem sữa thì luôn thèm thuồng bám riết lấy. “Cho tớ ăn thử một miếng được không?”

Nhưng tại sao Tần Chiêu Chiêu phải bằng lòng cho cô bé ăn cùng chứ? Riêng chuyện ăn uống, con nít trời sinh đã keo kiệt, nhỏ nhen, mỗi lần như vậy cô lại làm ra vẻ không nghe thấy gì mà nhanh chóng chuồn mất.

Sau này, mấy tiệm quà vặt trong nhà máy lại bán thêm loại kem hình đầu búp bê, vừa mềm vừa dẻo lại ngọt, thoáng chốc đã vượt mặt các loại kem mà nhà máy sản xuất. Rất nhiều đứa trẻ thèm được nếm thử loại kem hình đầu búp bê này, Tần Chiêu Chiêu lại càng thèm muốn. Nhưng vấn đề là loại kem này khá đắt, một cây kem giá tận năm hào, không thể ngày nào cũng bắt mẹ mua cho ăn được, vì thế phần lớn thời gian chỉ có thể ngồi nhìn thèm thuồng.

Sau đó lại có thêm kem bọc sô cô la tám hào một que, bên ngoài phủ một lớp sô cô la, kem này thì ngon cực kỳ. Cô bé liền quấn chặt lấy mẹ đòi mua, nhưng một cây kem thôi mà giá tận tám hào thì quả thực quá đắt, mẹ có ý không muốn mua, cô mặc kệ, vẫn mè nheo: “Con muốn ăn, con muốn ăn cơ!”

Rốt cuộc mẹ cũng chẳng làm lung lay nổi ý muốn của cô bé, đành mua cho cô một cây. Cây kem này thật sự thơm ngon chưa từng thấy, cô bé luyến tiếc không nỡ ăn nhanh, cứ liếm chầm chậm từng chút một. Nhưng tốc độ liếm không kịp tốc độ chảy, kem tan chảy dọc theo ngón tay như dòng lệ trắng; cô bé luống cuống tay chân, hết liếm cây kem lại liếm xuống ngón tay. Tới khi ăn hết cây kem, cô còn giữ lại que kem, ngậm trong miệng lâu thật lâu, đến tận lúc không còn nhận ra chút vị ngọt nào nữa mới luyến tiếc ném bỏ.

Ngoài kem que miễn phí mùa hè, còn có bỏng gạo mùa đông vừa rẻ vừa ngon. Mỗi khi tháng Chạp ghé đến, lại có ông lão vác theo một cái lò to trông như cái hồ lô đi vòng vòng quanh nhà máy, lớn tiếng rao: “Nổ bỏng đây!”

Mùa đông, bỏng chiếm vị trí bá chủ tuyệt đối trên thị trường đồ ăn vặt, hầu như nhà nào cũng đem gạo hay ngô trong nhà đi nổ bỏng hay làm một ít bánh bỏng gạo nên ông già nổ bỏng làm ăn rất phát đạt. Đám con nít bám riết theo người lớn, giương cặp mắt chờ mong, ngóng đợi từng mẻ bỏng ra lò. Mỗi khi nghe tiếng nổ “bụp”, nhìn bát ngô hay bát gạo bỏ vào lò nở thành một gàu bỏng trắng như tuyết, Tần Chiêu Chiêu luôn vừa nhiệt liệt vỗ tay hoan hô vừa không dằn lòng được, đưa tay bốc trước một nắm bỏng bỏ vào miệng, không hề ngại nóng.

Nếu trên phương diện ăn, Tần Chiêu Chiêu không mấy khi được thỏa mãn như ý thì về chuyện chơi, lúc nào cô bé cũng được chơi tới đã đời.

Ban ngày ba mẹ phải đi làm, đám con nít chưa đến tuổi đi học đều được gửi vào nhà trẻ của nhà máy. Các dì ở nhà trẻ đều là người nhà của nhân viên nhà máy được chiếu cố vào đây trông trẻ, hết thảy đều là các cô, các bác ba, bốn mươi tuổi, không được học hành gì. Nhiệm vụ chính của họ là trông chừng cho bọn trẻ chơi không xảy ra chuyện gì. Họ không thể dạy chữ hay giảng Toán nên phần lớn thời gian bọn trẻ ở nhà trẻ chỉ chơi, muốn chơi gì thì chơi, ngày nào cũng chơi rất vui vẻ.

Ngày phải đến lớp chơi đã vui nhưng những ngày được nghỉ ở nhà chơi lại càng vui hơn. Nhà máy Trường Cơ nằm ở khu ngoại ô phía đông thành phố, thế tựa vào núi, nhìn ra sông, là chỗ chơi tự nhiên của đám trẻ, chúng có thể nô đùa thỏa thích ở đồng ruộng, trong núi hay bên sông.

Đám con trai thường hào hứng lên núi trèo cây bắt chim hoặc xuống bờ sông mò tôm cá; còn đám con gái lại thích kéo nhau ra ruộng chơi, đuổi bướm, bắt chuồn chuồn, hái hoa thảo tử… Mỗi khi hái được hoa thảo tử thì có thể bện thành vòng hoa đeo lên cổ hoặc tay. Tần Chiêu Chiêu mới bốn tuổi, còn nhỏ xíu nhưng đã theo các chị lớn học tết vòng hoa, tất nhiên cô bé bện không thuần thục, quýnh lên muốn khóc. Chị Tiểu Đan nhà bên hơn cô năm tuổi, rất ra dáng chị lớn, bện cho cô bé một cái vòng hoa thật đẹp đội lên. Cô bé đeo cả ngày, lưu luyến không nỡ tháo xuống, tới khi về đến nhà còn lén lút soi gương làm đỏm. Con gái hình như trời sinh đã biết yêu thích cái đẹp.

Những ngày không ra ngoài chơi, cô bé sẽ cùng các chị lớn chơi nhảy dây trên con đường trước cửa nhà.

Chích chích chích, chim én kêu chích chích chích, mã lan nở hoa, hai mươi mốt, hai trăm năm sáu, hai trăm năm bảy, hai trăm năm tám, hai tám, hai chín, ba mươi mốt…

Cô bé nhảy dây rất khá, còn ít tuổi nhưng tay chân, động tác rất linh hoạt. Có điều, đến lúc chơi lò cò nhảy ô lại không được vậy, lò cò trên một chân rất khó giữ thăng bằng, chưa kể còn khó điều chỉnh lực dưới chân, hơi động một chút là đá văng viên gạch nhỏ dưới chân ra khỏi đường kẻ ô, vì thế các chị lớn không thích chơi chung với cô, thường gạt cô bé sang một bên ngồi xem.

Không chỉ thế, cả đám còn cùng nhau chơi trò gia đình, ban đầu chỉ bắt chước mấy chuyện trong nhà hằng ngày: người đóng vai ba, người đóng vai mẹ, còn có thêm ông nội, bà nội… giả vờ là một gia đình lớn sống cùng một nhà. “Ba mẹ” ngày ngày đi làm, “bà nội” ở nhà nấu cơm, “ông nội” trồng trọt rau củ, “bé cưng” của cả nhà thì đi học, vân vân… Sau này còn bắt chước cả những hoạt động trên lớp, đóng vai thầy giáo, cô giáo, hiệu trưởng… Cứ thế, sau này từ trò chơi gia đình mà trở nên sôi nổi rầm rộ, còn chuyển sang bắt chước theo những phim truyền hình ăn khách.

Khi đó, bộ phim truyền hình Hồng Kông Anh hùng xạ điêu đang vô cùng ăn khách, nếu một đám tiểu cô nương tụ tập với nhau cùng chơi đóng kịch, hẳn sẽ rất thích thú bắt chước những diễn viên nổi tiếng trên ti vi, hầu như đều tranh nhau sắm vai Hoàng Dung, kế tới là Mục Niệm Từ. Vậy là thành phiên bản thăng cấp của trò chơi gia đình, giờ còn cần cả sân khấu, đạo cụ nữa. Bởi vì muốn bắt chước các nhân vật cổ trang cần phải có hóa trang, phục trang; ví như muốn đóng vai Hoàng Dung cô nương thì đầu cần chải mấy lọn đuôi sam rũ xuống bên tai, trên đầu còn phải cài vài đóa hoa, người khoác thêm tấm ga trải giường hay chiếc khăn lông dài để giả như tà áo thướt tha trong những bộ cổ trang. Hơn nữa, quan trọng nhất là cần phải trang điểm, mấy cô bé không có son để tô môi hồng, chỉ có một cây bút nước đỏ nhưng cũng liệu cơm gắp mắm tô lên môi thành màu hồng hồng, lại điểm thêm một nốt son giữa ấn đường, thế là coi như chuẩn bị xong xuôi.

Trò chơi đòi hỏi phải hóa trang cho thật xinh đẹp này đối với một đám tiểu cô nương thật có sức hấp dẫn khó cưỡng.

Trò chơi thường diễn ra ở nhà chị Tiểu Đan, mấy cô bé học trò cứ tan lớp là rủ nhau chạy thẳng đến nhà chị. Mọi người mang theo những món đồ trang sức rẻ tiền, màu sắc sặc sỡ của riêng mình như dây lụa, hoa cài đầu, kẹp tóc nhựa, dây chuyền ngọc trai, vân vân, rồi thay phiên nhau đóng vai Hoàng Dung, cố hết sức hóa trang và đóng cho thật xinh đẹp. Tần Chiêu Chiêu cũng muốn tham gia với các chị, ban đầu các chị chê cô nhỏ quá, không muốn cho chơi cùng, cuối cùng cũng miễn cưỡng tiếp nhận, nhưng luôn đẩy cho cô đóng vai cô Khùng, không cần chải đầu, cài hoa hay hóa trang gì hết, cô vô cùng thất vọng.

Chung quy vẫn là chị Tiểu Đan tốt bụng nhất, một ngày nọ chị cũng cho Tần Chiêu Chiêu được sắm vai Hoàng Dung một lần. Chị chải đầu cho cô, tết thành rất nhiều đuôi sam, một ít tết lại thành búi, một ít thả xuống hai bên má, còn quấn vòng cổ trân châu lên một que kem nhỏ, làm thành chiếc trâm cài đầu cắm vào búi tóc của cô. Chị còn dùng bút nước đỏ tô hồng đôi môi nhỏ xíu, điểm thêm một nốt ruồi son, cô nhóc trong gương giống như lột xác, biến thành người khác.

Hôm đó, sau khi trò chơi kết thúc, Tần Chiêu Chiêu lưu luyến không nỡ tháo trang sức. Cô bé đứng trước gương, soi thế nào cũng không thấy đủ, cảm thấy mình thật xinh đẹp. Trong lòng phấn chấn không sao nói nên lời.

Cuộc sống vật chất khó khăn nhưng khi đám trẻ con cùng nhau chơi đùa lại đủ trò, muôn màu muôn vẻ. Những ngày tháng đó để lại cho Tần Chiêu Chiêu ký ức về một thời thơ ấu vui vẻ trước khi đi học. Đám trẻ con trong khu tập thể thường dựa theo tuổi mà xưng bạn gọi bè, nô giỡn với nhau, chẳng bao giờ phải rầu rĩ vì không tìm được bạn chơi. Tần Chiêu Chiêu gần như quen thuộc với từng gương mặt trẻ con ngây thơ ở nơi này dù chưa chắc có thể gọi được hết tên.

Thế nhưng có một ngày, Tần Chiêu Chiêu phát hiện trong khu tập thể nhà máy hóa ra còn có một khuôn mặt non nớt hoàn toàn xa lạ với cô bé.

CHƯƠNG 2

Phòng ốc của khu tập thể nhà máy Trường Cơ phần lớn được xây từ những năm 60, chủ yếu là nhà cấp bốn, nhưng giữa một loạt những căn nhà thấp lè tè vẫn có vài tòa nhà bốn tầng mới xây nhô lên lẻ loi như hạc giữa bầy gà. Căn nhà hai phòng ngủ, một phòng khách tuy không lớn lắm nhưng “chim sẻ nhỏ vẫn đủ ngũ tạng, nhà nhỏ vẫn đủ tiện nghi”, nó vẫn có phòng bếp và nhà vệ sinh khép kín, so với điều kiện ngày đó thì đúng là kiểu nhà đẹp hiếm gặp. Những căn nhà mới xây thế này thường chỉ dành cho cán bộ cao cấp của nhà máy, vài căn được phân cho nhân viên lão thành cống hiến lâu năm hoặc những công nhân được nhận danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cấp thành phố”. Viên chức bình thường bụng đầy tức tối nhưng chẳng biết làm gì, đành nửa đùa nửa thật gọi đó là khu “Trung Nam Hải[3]“.

Khu tập thể của nhà máy xây men theo một triền núi nhỏ, khu “Trung Nam Hải” nằm ở lưng chừng núi, còn căn nhà cấp bốn của Tần Chiêu Chiêu ở trên đỉnh núi. Vì địa thế cao lại nằm ở khu tận cùng bên trái nên nhà cô cách khá xa những ngôi nhà còn lại trong dãy nhưng tương đối gần khu “Trung Nam Hải”, nếu không muốn nói là gần như láng giềng. Có điều, vẫn còn một bức tường gạch đỏ chắn ngang giữa hai khu nhà, giống như ngân hà chia cách nhân gian và thiên đường. Bên kia bức tường là “thiên đường” nơi lãnh đạo nhà máy cư ngụ, bên này là “nhân gian” của những người lao động phổ thông.

Cũng không nhớ rõ từ khi nào Tần Chiêu Chiêu bắt đầu thấy từng đợt tiếng nhạc tuyệt diệu thoát khỏi khu “Trung Nam Hải” tìm tới bên kia tường. Tần Chiêu Chiêu thấy tiếng đàn thật êm tai, mới tò mò hỏi mẹ đó là tiếng gì, mẹ nói với cô bé đó là tiếng đàn organ, Phó giám đốc Kiều mới mua một cây organ cho con trai luyện đàn.

Tần Chiêu Chiêu hết sức thèm muốn. “Mẹ à, con cũng muốn được học đàn organ.”

Mẹ cô bé cười khổ, lắc đầu. Nửa sau thập niên 80 của thế kỷ XX, đàn organ hiện đại vượt ngàn dặm xa xôi du nhập vào Trung Quốc, trở thành thứ đồ chơi được ưa chuộng hàng đầu lúc bấy giờ. Chỉ có điều, giá đàn organ rất đắt, học phí cũng không rẻ, những gia đình công nhân ăn lương nhà nước thu nhập chỉ tầm tầm lại phải phụng dưỡng hai bên cha mẹ già cả ở quê như vợ chồng họ Tần không thể chiều theo sở thích học đàn của con gái được. Thế nên bất kể Tần Chiêu Chiêu có ngang ngạnh, khóc lóc, vòi vĩnh đến đâu thì cũng không thể đạt được ước muốn. Cuối cùng, vì cô bé làm ầm ĩ quá nên ba nổi giận, lôi cô bé qua một bên, quất cho vài cái thật đau. “Ba mày còn chưa chết đâu, khóc cái gì mà khóc?”

Nhận mấy roi từ đôi tay rắn chắc như khối thép của ba, Tần Chiêu Chiêu đau đớn khóc ré lên. Nghe tiếng con khóc, Tần mẹ xót ruột ngăn lại. “Mình làm cái gì vậy? Con nó muốn học đàn, mình không thỏa nguyện được cho con thì thôi, sao còn nhẫn tâm đánh đập nó như thế?”

Ba cô tức giận, thở hổn hển. “Phải rồi, là tôi không thỏa nguyện được cho con gái. Ai bảo tôi không phải là giám đốc chứ! Nó cứ việc đi tìm Phó giám đốc Kiều, xin ông ấy nhận làm con, thế là được học đàn rồi đấy!”

Tần Chiêu Chiêu còn nhỏ không hiểu chuyện, cứ ngỡ những lời ba nói trong lúc tức giận là thật, rằng có thể tùy tâm nguyện mà chọn ba. Cô bé ôm trong lòng uất ức với mấy roi của ba, nước mắt nước mũi giàn giụa, ôm mặt thút thít, một mình chạy thẳng tới nhà Phó giám đốc Kiều.

Trước đó cô bé chưa từng tới nhà Phó giám đốc Kiều, nhưng khi lách mình qua hàng rào gạch đỏ quanh khu “Trung Nam Hải”, men theo tiếng đàn organ du dương, cuối cùng cô bé cũng tìm được căn nhà cần tìm, giơ tay gõ nhẹ.

Người mở cửa chính là Phó giám đốc Kiều Vĩ Hùng trẻ trung, khỏe mạnh. Năm nay ông mới được thăng chức phó giám đốc, quả là hoạn lộ vô cùng rộng mở, tiền đồ xán lạn. Gương mặt ông thoáng lộ chút kinh ngạc khi thấy vị khách bé nhỏ đứng trước cửa. Tuy lâu nay vẫn có rất nhiều khách khứa viếng thăm nhà ông nhưng đây là lần đầu tiên có một cô bé nhỏ thế này. Cô bé nhỏ xíu, gương mặt ửng hồng như táo chín, ngẩng đầu giương hàng mi dài ngấn nước, sợ sệt cất tiếng hỏi: “Bác à, bác có phải Phó giám đốc Kiều không ạ?”

Phó giám đốc Kiều càng ngạc nhiên. “Phải rồi, là bác đây. Cô bé, cháu tìm bác có chuyện gì sao?”

“Phó giám đốc Kiều, bác làm ba cháu được không ạ?”

Một câu này của Tần Chiêu Chiêu đã kéo phu nhân của Phó giám đốc Kiều chạy ra xem. Phu nhân hiện tại của Phó giám đốc Kiều kém ông chừng mười tuổi, bà không phải vợ cả mà lấy ông sau khi người vợ kết tóc của ông mất. Lúc ấy, cô con gái của Kiều Vĩ Hùng và người vợ trước là Kiều Diệp đã mười lăm tuổi, bà cũng sinh được cho ông một cậu con trai mập mạp. Kiều Diệp không hợp tính mẹ kế, sau khi tốt nghiệp trường kĩ thuật, vào làm trong nhà máy đã mau chóng tìm đối tượng rồi kết hôn và dọn ra ở riêng, vì vậy căn nhà rộng lớn này chỉ còn lại ba người. Thoáng nghe có cô bé xa lạ tìm tới cửa “xin nhận ba”, Phó giám đốc phu nhân sửng sốt vạn phần, nhất định phải chạy ra xem rõ ngọn ngành. Thấy một cô bé nước mắt nước mũi giàn giụa, bà dịu dàng hỏi: “Cháu là con nhà ai vậy? Sao đột nhiên lại chạy tới tìm chúng ta thế này? Sao cháu lại muốn làm con của Phó giám đốc Kiều? Ba cháu đâu?”

“Ba cháu không cho cháu học đàn organ, ông ấy còn bảo muốn học thì tới xin Phó giám đốc Kiều nhận làm con. Phó giám đốc Kiều ơi, cho cháu làm con gái bác được không? Cháu rất muốn được học đàn.”

Vợ chồng Phó giám đốc Kiều sợ run, liếc nhìn nhau, không nói được lời nào. Tần Chiêu Chiêu giương ánh mắt mong đợi nhìn họ, trên gương mặt nhỏ nhắn tràn đầy nét đáng thương.

Tiếng đàn trong nhà chợt ngừng. Một cậu nhóc xem chừng không lớn hơn Tần Chiêu Chiêu là bao đi tới, tò mò nhìn cô bé. Tần Chiêu Chiêu còn dùng ánh mắt hiếu kỳ gấp chục lần nhìn lại cậu nhóc. Bởi vì cậu nhóc này hoàn toàn khác biệt với đám con trai Tần Chiêu Chiêu vẫn gặp trước giờ. Cậu ta sạch bong, từ đầu đến chân không nhuốm hạt bụi nào. Trên người, áo sơ mi trắng muốt tựa mây, quần yếm thuần một sắc lam tựa trời xanh, nhìn thế nào cũng thấy thuận mắt.

Đám con trai lớn lên ở những chốn nửa phố nửa quê như khu Trường Cơ phần lớn đều chạy nhảy khắp nơi như bầy khỉ con. Đứa nào đứa nấy trông thật bẩn thỉu, bùn đất bê bết đầy mặt, đầy đầu. Quần áo trên người cứ bẩn đem giặt rồi lại bẩn, cuối cùng giặt tới bạc phếch, không còn nhận ra màu sắc gì nữa. Còn như cậu nhóc sạch sẽ, chỉn chu trước mặt, đây là lần đầu Tần Chiêu Chiêu được thấy, vì thế cô bé không khỏi mở to cặp mắt loang loáng nước, ngơ ngẩn nhìn.

Phó giám đốc phu nhân lập tức xoay người đi tới. “Kiều Mục, con ra ngoài làm gì? Mau vào luyện đàn tiếp đi!”

Cậu bé tên Kiều Mục ngoan ngoãn nghe lời, quay người về phòng. Cậu ta vừa mới lộ mặt đã lại đi vào trong. Nhiều năm sau, Tần Chiêu Chiêu đọc được một câu “kinh hồng nhất miết”, ý nói “vừa nhìn thoáng qua đã để lại ấn tượng sâu sắc” trong sách giáo khoa Ngữ văn, lòng không khỏi nhớ tới lần thoáng gặp Kiều Mục năm đó.

Hôm đó, phu nhân của Phó giám đốc Kiều dắt Tần Chiêu Chiêu về nhà. Biết cô bé đến nhà Phó giám đốc Kiều gây ra chuyện xấu hổ, mẹ cô khe khẽ thở dài còn ba mặt đỏ phừng phừng. Cô bé vô cùng sợ hãi, thầm nghĩ lần này nhất định sẽ được một trận no đòn. Nhưng cuối cùng ba không những không đánh cô mà còn lục tung cả nhà tìm cây kèn harmonica từ ngày ông còn tại ngũ thổi cho cô nghe.

“Chiêu Chiêu à, kèn harmonica nghe cũng hay lắm. Hay là mình không học đàn organ, ba dạy con thổi harmonica được không?”

Tần Chiêu Chiêu không được học đàn organ, đành cùng ba học thổi kèn harmonica. Cô bé cảm thấy tiếng kèn harmonica không hay bằng tiếng đàn organ điện tử nhưng đã không thể học organ thì harmonica cũng là một loại nhạc cụ, ít nhiều cũng có cảm giác được an ủi.

Sau hôm viếng thăm nhà Kiều Mục, lúc đi nhà trẻ, Tần Chiêu Chiêu cứ nghĩ mãi một chuyện, không sao hiểu được. “Mẹ à, Kiều Mục không đi nhà trẻ sao?”

Trong nhà trẻ của nhà máy toàn là những cô bé, cậu bé trạc tuổi Chiêu Chiêu. Hôm đó nhìn thấy Kiều Mục, cô thấy cậu ấy chắc cũng chẳng lớn hơn mình bao nhiêu, thế tại sao cậu ấy không đến nhà trẻ nhỉ?

Tần mẹ liền cho cô bé biết: “Kiều Mục không học ở nhà trẻ trong nhà máy mà học ở trường mẫu giáo thực nghiệm trong thành phố.”

“Trường mẫu giáo thực nghiệm là cái gì hả mẹ?”

Ngày ấy, trường mẫu giáo thực nghiệm là trường mầm non tốt nhất trong thành phố. Một là học phí rất đắt, hai là đường sá xa xôi, lại chẳng có xe cộ đưa đón nên những công nhân bình thường chẳng muốn hao phí thời gian, tiền bạc đưa con cái tới học ở đó, hầu hết chỉ chọn gửi con ở trường mẫu giáo của nhà máy. Tần mẹ chẳng biết phải giải thích với con thế nào, đành qua quýt: “Trường mẫu giáo thực nghiệm là trường lớn hơn nhà trẻ của chúng ta một chút.”

“Mẹ à, con cũng muốn được học ở trường mẫu giáo thực nghiệm.”

Tần mẹ thở dài. “Chiêu Chiêu, con có thể đừng cái gì cũng muốn được không? Con không thể học đàn, cũng không thể học ở trường mẫu giáo thực nghiệm được.”

“Tại sao ạ?”

Tần mẹ không giải thích rõ ràng, chỉ xoa đầu con gái, thở dài.

Sau này lớn lên, Tần Chiêu Chiêu mới dần hiểu được lý do. Con người có thể không phân chia tầng lớp nhưng vẫn có sự khác biệt thứ bậc, biểu hiện rõ ràng nhất của sự phân chia thứ bậc này là thân phận, địa vị và điều kiện kinh tế. Kiều Mục và cô chính là hai con người nằm ở hai cấp bậc hoàn toàn khác nhau, cho nên cậu mới có thể được học đàn, còn cô chỉ có thể thổi kèn harmonica; cậu có thể học ở trường mẫu giáo thực nghiệm, còn cô chỉ có thể đến nhà trẻ của nhà máy.

Nhưng lúc bấy giờ, Tần Chiêu Chiêu chưa thể lý giải sâu xa như vậy được, cô chỉ có cảm giác Kiều Mục hoàn toàn không giống cô và đám con nít vẫn thường thân thiết chơi đùa cùng cô.

Cô bé chưa từng thấy cậu ra ngoài chơi đùa, chưa bao giờ thấy bóng dáng cậu lẫn trong đám con trai vẫn thường túm năm tụm ba lê la chơi đập ảnh, bắn bi, lăn vòng sắt, thả chuồn chuồn tre… bên đường cái. Các trò như leo cây, tìm tổ chim hay lội sông mò cá càng không cần phải đề cập tới. Cô cảm thấy thật kỳ lạ, chẳng lẽ cậu không bao giờ ra ngoài chơi sao?

Kiều Mục là cậu bé không thích ra ngoài chơi đầu tiên mà Tần Chiêu Chiêu gặp. Tới giờ cô đã hiểu tại sao trước kia mình chưa từng gặp cậu, vì cậu sống trong một căn nhà lầu vừa đóng cửa lại là thành một nơi kín mít, lại rất ít khi ra ngoài chơi. Cả ngày đều ở trong nhà như vậy, làm sao người ta biết cậu được chứ?

Sau này Tần Chiêu Chiêu mới biết, mỗi sáng Kiều Mục đều được mẹ đưa tới trường mẫu giáo thực nghiệm, chiều được mẹ đón về rồi còn phải đi học đàn, chỉ đến tối mới về nhà; ăn uống, tắm rửa xong, luyện đàn thêm một lúc là đã buồn ngủ rồi. Cậu căn bản không có thời gian mà chơi đùa, hơn nữa mẹ cũng không cho phép cậu ra ngoài chơi cùng đám trẻ hàng xóm. Nếu không luyện đàn, cậu chỉ ở trong nhà học từ mới hay đọc cổ thi.

Mẹ của Kiều Mục là Mục Lan, bà vốn không phải người gốc ở đây mà là thanh niên trí thức Thượng Hải được đưa tới đây tham gia đội ngũ sản xuất vào những năm 70. Ông nội của bà vốn là thương nhân giàu có ở Thượng Hải thời trước Giải phóng. Sau Giải phóng, ông bị quy chụp vào thành phần tư bản nên phải chịu đủ loại phong trào, vận động khiến cả nhà phải chịu khổ theo. Tỷ như trong thời gian thực hiện phong trào lên rừng núi, về nông thôn, lẽ ra theo chính sách, một trong hai người con nhà họ Mục có thể ở lại thành phố với gia đình nhưng cũng chẳng xong. Người của tổ dân phố ngày ngày tìm tới, nói dễ nghe là động viên, còn khó nghe là muốn đuổi người về nông thôn. Lý do là con cháu của thành phần tư bản càng cần phải tiếp nhận sự tái giáo dục và rèn luyện của giai cấp nông dân. Thế là cha mẹ nhà họ Mục đành rớt nước mắt tiễn hai con lên đường, con gái Mục Lan tới Giang Tây còn con trai Mục Tùng về Vân Nam.

Sau ba năm ở đội sản xuất nông thôn, Mục Lan được tuyển vào nhà máy cơ khí Trường Thành, không phải ăn đời ở kiếp ở nông thôn. Đối với việc được may mắn vào làm trong nhà máy ở thành phố của bà, nhiều người ác miệng đồn đoán sau lưng là do bà đã ngủ với cán bộ thôn nên mới được như vậy. Rốt cuộc phải hay không phải thì cũng chẳng ai có chứng cứ rõ ràng. Hơn nữa, trên người bà còn ẩn chứa một phong thái kín đáo không thể diễn tả bằng lời, thứ phong thái này khiến người khác không dám đứng trước mặt bà khua môi múa mép. Dung mạo của bà cũng không thể nói là quá xinh đẹp nhưng đặt cạnh một nhóm công nhân trong nhà máy, người ta liếc mắt cũng có thể nhận ra bà. Đối với việc này, người trong nhà máy Trường Cơ chỉ có thể kết luận: “Suy cho cùng, người ta vẫn là con gái thành phố lớn nên hẳn là không giống với đám người ở thành phố nhỏ chúng ta.”

Nhưng giữa làn sóng thanh niên trí thức trở lại thành phố những năm 70 thì niềm may mắn được làm việc ở nhà máy của Mục Lan lại trở thành bất hạnh. Trung ương có chính sách cho phép thanh niên trí thức được trở lại thành phố nhưng có hai điều hạn chế: một là những thanh niên trí thức đã kết hôn ở nông thôn không được phép về thành phố, hai là những người đã được nhà nước bố trí công tác cũng không thể trở về. Mục Lan đã là nhân viên ăn lương tại nhà máy Trường Cơ, vì thế bà không thể trở về Thượng Hải được nữa. Nếu đã không thể quay về, chỉ còn cách an cư ở thành phố nhỏ này mà thôi. Sau khi phí hoài những năm tháng như hoa, cuối cùng năm hai mươi bảy tuổi, Mục Lan kết hôn với một cán bộ góa vợ làm cùng nhà máy là Kiều Vĩ Hùng, năm sau sinh được cậu con trai Kiều Mục. Từ đó, Kiều Mục là tất cả đối với bà.

Lớn lên ở thành phố nên Mục Lan có kế hoạch nuôi dạy con trai vô cùng nghiêm khắc. Kế hoạch của bà so với chốn nửa tỉnh nửa quê như khu Trường Cơ này là cực kỳ tiến bộ. Các bậc cha mẹ ở vùng này vốn không có ý thức “bồi dưỡng con cái”. Mặc dù nhà nước đã ban hành chính sách kế hoạch hóa gia đình nhưng những năm đầu thập niên 80, số nhà con một không nhiều, hầu như nhà nào cũng có hai, ba con, thậm chí có nhà còn có tận năm, sáu đứa; lấy đâu ra thời gian, tiền bạc, tinh lực mà chăm chút cho chừng đó con. Sinh con rồi chỉ cần đảm bảo không để chúng phải ăn đói mặc rét đã mừng lắm rồi. Trước khi đi học, hầu như đám trẻ đều lớn lên hoang dại như bầy dê thả giữa đồng, muốn chơi sao thì chơi, chỉ cần không khóc lóc, không đánh lộn thì cha mẹ cũng chẳng buồn quản chúng. Đến khi bọn trẻ đi học rồi mới bắt đầu quan tâm xem chúng học hành ra sao, thi thoảng cũng trông chừng đám trẻ làm bài tập, nếu điểm thi không ra sao thì quất cho vài roi vào tay, như vậy gọi là dạy dỗ con cái.

Dốc lòng bồi dưỡng con cái như Mục Lan: mới đi mẫu giáo đã cho học đàn, ngày ngày phải luyện chơi đàn, còn dạy con học từ vựng, cổ thi, ở khu Trường Cơ này chẳng có người thứ hai.

Mục Lan cũng không phải người chỉ biết ép con cái học hành, không được chơi bời, ở nhà vẫn có rất nhiều đồ chơi để cậu nhóc chơi một mình, bà chỉ không cho con trai xuống nhà chơi với đám trẻ con trong khu tập thể. Bà sợ đám trẻ kia quá lỗ mãng, sợ con mình đi theo chúng sẽ nhiễm thói xấu vào người. Hơn nữa, bọn chúng mở miệng là nói giọng đặc sệt tiếng địa phương, trong khi con bà từ nhỏ đã được dạy nói tiếng phổ thông chuẩn, để cậu đi chơi với đám trẻ kia khó tránh pha tạp ít nhiều phương ngữ, điều đó khiến bà không vui.

Chính nhờ sự tận tâm của Mục Lan nên đã bồi dưỡng ra một Kiều Mục đặc biệt trong mắt Tần Chiêu Chiêu. Cô bé cảm thấy cậu khác xa tất cả những đứa trẻ trong khu tập thể nhà máy.


Giang Vi

Tôi là một người yêu sách cuồng nhiệt và đã hơn 20 năm. Tôi dành cả ngày để đọc, viết blog về sách và viết bình luận. Tôi tin rằng sách là công cụ mạnh mẽ nhất trong cuộc sống để mở mang đầu óc cho những ý tưởng và quan điểm mới. Các thể loại yêu thích của tôi bao gồm tiểu thuyết lịch sử, giả tưởng, khoa học viễn tưởng và phi hư cấu. Tôi cũng thích tìm hiểu về các nền văn hóa khác nhau thông qua văn học.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts:

Back to top button