Review

Trại Trẻ Đặc Biệt Của Cô Peregrine

Thể loại Văn Học – Tiểu Thuyết
Tác giả Ransom Riggs
NXB NXB Văn Học
Công ty phát hành Nhã Nam
Số trang Đang cập nhật
Ngày xuất bản 2016
Giá bánXem giá bán

Jacob lớn lên cùng những câu chuyện ông nội thường hay kể. Câu chuyện về thưở thiếu thời ông đã trải qua tại một trại trẻ đã được phù phép, nơi sinh sống của những đứa trẻ sở hữu năng lực phi thường: một cô bé biết bay, một cậu bé tàng hình, một cô bé có thể tạo ra lửa…

Năm tháng qua đi, Jacob dần không còn tin vào những điều phù phiếm, cậu đặt những bước đi đầu tiên vào một cuộc sống nhung lụa êm đềm do bố mẹ bày sẵn trước mắt. Nhưng cái cái chết đột ngột của người ông cậu kính yêu nhất đã làm thay đổi tất cả. Theo lời trăng trối của ông, cậu lên tàu tìm kiếm trại trẻ từng được nhắc đến trong những câu chuyện xa xưa. Và chính tại đây, cậu không chỉ khám phá ra bí mật động trời về thân thế của mình, mà còn bước chân vào một cuộc phiêu lưu sẽ biến cuộc đời tầm thường tẻ nhạt vốn có của cậu sang một trang mới vĩnh viễn không thể quay đầu…

Một tuyệt phẩm với trí tưởng tượng không có giới hạn được kết hợp từ con chữ và những bức ảnh hoài cổ nhuốm màu gothic, TRẠI TRẺ ĐẶC BIỆT CỦA CÔ PEREGRINE sẽ làm mê hoặc không chỉ thiếu niên mà cả những người trưởng thành, bất kỳ ai còn muốn tin rằng những câu chuyện cổ tích không hoàn toàn là hư cấu.

[taq_review]

Trích dẫn

Mở Đầu Tôi vừa mới chấp nhận rằng cuộc đời mình sẽ bình thường thì những chuyện khác thường bắt đầu xảy ra. Chuyện đầu tiên tới như một cú sốc kinh hoàng, và như bất cứ điều gì làm bạn thay đổi mãi mãi, nó cắt rời cuộc đời tôi thành hai nửa: Trước và Sau. Như nhiều điều khác thường sẽ tới sau đó, nó liên quan tới ông nội Abraham Portman của tôi.

Ngày tôi còn nhỏ, ông nội Portman là người thú vị nhất tôi biết. Ông từng sống trong một trại mồ côi, chiến đấu trong các cuộc chiến tranh, vượt đại dương trên những chiếc tàu hơi nước và băng qua sa mạc trên lưng ngựa, biểu diễn trong các gánh xiếc, biết mọi thứ về súng đạn, cách thức tự vệ và kỹ năng sống sót trong thế giới hoang dã, nói được ít nhất ba thứ tiếng ngoài tiếng Anh. Tất cả đều có vẻ lạ lẫm vô cùng với một cậu nhóc chưa bao giờ rời khỏi Florida, và bất cứ khi nào gặp ông, tôi lại khẩn khoản nài rủ ông thết đãi mình những câu chuyện. Ông luôn chiều tôi, kể lại chúng như những bí mật chỉ có thể gửi gắm nơi tôi. Lên sáu tuổi, tôi quyết định rằng cơ hội duy nhất để mình có được cuộc đời ngoạn mục dẫu chỉ bằng một nửa của ông nội là trở thành nhà thám hiểm. Ông động viên tôi bằng cách chiều chiều cùng tôi cắm cúi nhìn xuống những tấm bản đồ thế giới, lên kế hoạch cho những chuyến thám hiểm tưởng tượng bằng các tuyến đường vạch ra bằng đinh rệp mũ đỏ và kể cho tôi nghe về những chốn lạ lùng tôi sẽ khám phá một ngày nào đó. Ở nhà, tôi thể hiện tham vọng của mình để ai cũng biết bằng cách lượn lờ vòng quanh với một miếng bìa cuộn thành ống áp vào mắt, miệng hét toáng lên, “Đất liền kia rồi!” và “Chuẩn bị một toán đổ bộ nào!” cho tới khi bố mẹ đá đít tôi ra ngoài. Tôi nghĩ hai người lo rằng ông nội có thể tiêm nhiễm vào tôi một thói mơ mộng vô phương cứu chữa nào đó mà tôi sẽ không bao giờ dứt bỏ được – lo rằng những chuyện hoang đường này sẽ khiến tôi dửng dưng với những tham vọng thực tế hơn – đến mức một ngày nọ mẹ phải kéo tôi ngồi xuống và giải thích rằng tôi không thể trở thành một nhà thám hiểm vì mọi thứ trên thế giới đã được khám phá cả rồi. Tôi đã sinh ra nhầm thế kỷ, và tôi cảm thấy mình bị lừa dối.

Tôi thậm chí còn cảm thấy bị lừa dối nhiều hơn khi vỡ lẽ ra là phần lớn những câu chuyện hay ho nhất ông nội Portman kể không thể nào là thật. Những câu chuyện dài nhất luôn kể về tuổi thơ của ông, chẳng hạn như ông ra đời tại Ba Lan nhưng đến năm mười hai tuổi đã được đưa bằng tàu thủy tới một trại trẻ ở Wales. Khi tôi hỏi vì sao ông bị chia lìa với hai cụ nội, câu trả lời của ông luôn giống nhau: vì những con quái vật truy đuổi ông. Ba Lan nát bươm cũng chỉ vì chúng, ông kể vậy.

“Quái vật kiểu như thế nào ạ?” tôi tròn mắt hỏi. Câu hỏi này đã trở thành thường lệ. “Những con quái vật lưng gù gớm ghiếc, da dẻ lở loét và hai con mắt đen ngòm ấy” ông trả lời như thế. “Và chúng bước đi thế này này!” Rồi ông nhấc từng bước chân lê tới chỗ tôi như một con quái vật trong mấy bộ phim ngày xưa cho đến khi tôi cười phá lên, vùng bỏ chạy.

Mỗi khi mô tả chúng, ông lại thêm thắt vào vài chi tiết kinh dị mới: chúng bốc mùi rác rưởi đang phân hủy; chúng vô hình, ta chỉ có thể thấy cái bóng của chúng, có một bó xúc tu uốn éo ẩn trong miệng chúng, sẵn sàng lao vút ra trong nháy mắt và lôi tuột bạn vào giữa bộ hàm mạnh mẽ. Chẳng mấy chốc tôi bắt đầu bị khó ngủ, trí tưởng tượng tích cực thái quá của tôi biến tiếng lốp xe kêu lạo xạo trên mặt đường ướt thành hơi thở phì phò nặng nề ngay bên ngoài cửa sổ phòng mình, hay những cái bóng dưới cánh cửa ra vào thành những xúc tu đen xám đang uốn éo. Tôi sợ chết khiếp lũ quái vật nhưng lại vẫn hào hứng tưởng tượng ra cảnh ông nội tôi chiến đấu với chúng và sống sót để kể lại câu chuyện.

Còn lạ kỳ hơn thế là những câu chuyện ông kể về cuộc sống tại trại trẻ ở Wales. Theo lời ông, đó là một nơi được phù phép, được lập nên để bảo vệ những đứa trẻ khỏi lũ quái vật nằm trên một hòn đảo ngày ngày đều sáng ánh mặt trời và chưa từng bao giờ có ai bị ốm hay chết. Tất cả mọi người sống cùng nhau trong một ngôi nhà lớn, được một con chim già sắc sảo bảo vệ, hay ít nhất trong chuyện kể là như thế. Tuy nhiên, khi lớn lên, tôi bắt đầu thấy nghi ngờ.

“Là chim gì hả ông?” một buổi chiều năm lên bảy, tôi hỏi trong lúc đưa mắt nhìn ông đầy ngờ vực từ bên kia bàn chơi bài, khi ông vừa để tôi thắng cờ tỷ phú.

“Một con chim ưng to hút tẩu thuốc”, ông đáp.

“Ông ơi, ông nghĩ cháu ngớ ngẩn lắm hay sao thế ạ.”

Ông đưa ngón cái gạt qua đống tiền màu cam và xanh dương đang vơi dần của mình. “Ông hông bao giờ ngẫy cháu ngớ ngẩn, Yakob.” Tôi biết mình đã làm ông buồn vì khẩu âm Ba Lan vốn chẳng bao giờ ông để lộ bỗng buột ra rất rõ, khiến cho không trở thành hông và nghĩ biến thành ngẫy. Cảm thấy có lỗi, tôi quyết định đành cho ông thêm cơ hội.

“Nhưng tại sao lũ quái vật lại muốn làm hại ông ạ?” tôi hỏi.

“Vì bọn ông không giống những người khác. Bọn ông đặc biệt.”

“Đặc biệt thế nào cơ?”

“À, đủ kiểu đặc biệt”, ông kể. “Có một cô bé biết bay, một cậu bé nuôi ong trong cơ thể, một người anh trai và cô em gái có thể nâng bổng những tảng đá lên quá đầu.”

Khó mà dám chắc ông có đang nghiêm túc hay không. Thế nhưng lại phải nói rõ, ông tôi không phải người có tiếng hay kể chuyện cười. Ông cau mày khi nhìn ra vẻ nghi ngờ trên mặt tôi.

“Được rồi, cháu không nhất thiết phải tin lời ông”, ông nói. “Ông có ảnh đây này!” Ông đẩy chiếc ghế gấp đang ngồi ra sau và đi vào trong nhà, để tôi lại một mình ngoài hàng hiên có lắp kính. Một phút sau, ông trở ra, cầm theo một hộp đựng xì gà cũ. Tôi nhổm người ra trước để nhìn trong khi ông lấy ra bốn bức ảnh nhăn nhúm ố vàng.

Đầu tiên là một bức ảnh mờ nhòe chụp thứ gì đó trông như một bộ quần áo mà không thấy người mặc. Hoặc thế, hoặc người mặc đồ không hề có đầu.

“Tất nhiên là cậu ta có đầu!” ông tôi vừa nói vừa cười. “Chỉ có điều cháu không thể nhìn thấy được.”

“Sao lại không? Cậu ấy vô hình ạ?”

“Ái chà, hãy xem bộ óc của anh chàng này kìa!” Ông nhướng mày lên như thể khả năng suy luận của tôi đã khiến ông ngạc nhiên. “Tên cậu ta là Millard. Một anh chàng rất nhộn. Thỉnh thoảng cậu ta sẽ nói, “Này Abe, tớ biết hôm nay cậu đã làm gì đấy nhé, đoạn kể lại xem cháu đã đi đâu, đã ăn gì, cả vụ cháu ngoáy mũi khi tưởng không có ai nhìn nữa. Đôi lúc cậu ta sẽ đi theo cháu, lặng thinh như một con chuột, không mặc gì trên người để cháu không thể trông thấy

Giang Vi

Tôi là một người yêu sách cuồng nhiệt và đã hơn 20 năm. Tôi dành cả ngày để đọc, viết blog về sách và viết bình luận. Tôi tin rằng sách là công cụ mạnh mẽ nhất trong cuộc sống để mở mang đầu óc cho những ý tưởng và quan điểm mới. Các thể loại yêu thích của tôi bao gồm tiểu thuyết lịch sử, giả tưởng, khoa học viễn tưởng và phi hư cấu. Tôi cũng thích tìm hiểu về các nền văn hóa khác nhau thông qua văn học.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts:

Back to top button