Kỹ năng mềm

Lời Dạy Của Đức Phật Về Thành Tựu Trong Gia Đình, Nơi Công Sở, Ngoài Xã Hội

1. THÔNG TIN SÁCH/EBOOK

Tác giả : Basnagoda Rahula

Download sách Lời Dạy Của Đức Phật Về Thành Tựu Trong Gia Đình, Nơi Công Sở, Ngoài Xã Hội ebook PDF/PRC/MOBI/EPUB. Tải miễn phí, đọc online trên điện thoại, máy tính, máy tính bảng.

Danh mục : KỸ NĂNG SỐNG

Đọc thử Xem giá bán

2. DOWNLOAD

Download Ebook         

File ebook hiện chưa có hoặc gặp vấn đề bản quyền, Downloadsach sẽ cập nhật link tải ngay khi tìm kiếm được trên Internet.

Bạn có thể Đọc thử hoặc Xem giá bán.

Bạn không tải được sách ? Xem hướng dẫn nhé : Hướng dẫn tải sách


3. GIỚI THIỆU / REVIEW SÁCH

Lời giới thiệu


Tôi phải thú nhận rằng dường như có điều gì không ổn khi một người suốt đời sống trong thế tục như tôi lại viết lời giới thiệu cho một quyển sách về giáo lý của Đức Phật về sự thành đạt, trí tuệ và bình an nội tâm. Quan điểm của tôi về tôn giáo đã bị chỉ trích nhiều, vì tôi tin rằng hầu hết các tôn giáo đều là một hình thức tâm bị nhiễm vi-rút (virus) làm lây nhiễm chúng sinh bình thường mạnh khỏe – và thường là có tri thức.

Chỉ có Phật giáo dường như tách biệt với các tôn giáo khác vì tính chất cởi mở, uyển chuyển và thực dụng. Do đã sống hơn nửa thế kỷ ở Sri Lanka, tôi đã thấy giáo lý của Đức Phật được áp dụng như thế nào bởi nhiều thành phần xã hội, bằng nhiều phương cách khác nhau. Dầu nghe có vẻ lạ, nhưng những người hoàn toàn có lý trí và những kẻ bảo thủ đều cho rằng niềm tin và thái độ của mình đều từ một nguồn gốc mà ra. Rõ ràng là người ta đã khá dễ dãi với các lời dạy nguyên thủy của Đức Phật.

Đó là lý do khiến tôi rất hoan nghênh sự ra đời của quyển sách này, do Tỳ kheo, Tiến sĩ Basnagoda Rahula viết, nhằm mục đích khám phá trở lại những nguyên tắc và giá trị của Phật giáo đã bị nhiều thế kỷ của văn hóa và lịch sử che mờ.

Nhiều năm trước đây, tôi vinh dự được quen biết với Tiến sĩ Walpola Rahula quá cố, một trong những người thật sự uyên bác mà tôi đã được gặp. Ngài đã tranh đấu cam go và dài lâu để loại bỏ các nghi lễ không cần thiết và những hoang đường trong Phật giáo. Tôi hy vọng rằng Tỳ kheo Rahula đương thời sẽ tiếp tục nhiệm vụ cao quý đó, vì vẫn còn rất nhiều việc phải làm.

ARTHUR C. CLARKE

Đại học Cộng Đồng King , London

ĐỌC THỬ

DẪN NHẬP

Với quyết tâm đem lại lợi ích và hạnh phúc cho chúng sinh, Đức Phật đã vạch ra một xã hội có tổ chức chặt chẽ. Phong trào xã hội này đã cuốn hút được hàng trăm ngàn nam nữ đệ tử, thuộc nhiều thành phần xã hội.

Cộng đồng xã hội tân tiến của Đức Phật bao gồm hai thành phần, các đệ tử xuất gia và hàng đệ tử tại gia. Cả hai hạng đệ tử này, đối với Đức Phật, đều quan trọng như nhau. Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công , trí tuệ và nội tâm an bình. Tuy nhiên, lịch sử dường như đã chôn vùi phần lớn những lời dạy này của Ngài!

Khoảng thời gian của 26 thế kỷ đã che mờ những lời dạy của Đức Phật dành cho cộng đồng cư sĩ – mà dẫu có tìm được chứng cứ gì, chúng cũng dường như không quan trọng hay được diễn giải theo những cách khiến chúng dễ bị hiểu lầm.

Quyển sách này nhằm phục hồi tầm quan trọng của chúng, bằng văn bản và bằng sự trong sáng , rõ ràng. Vượt qua các rào cản lịch sử và văn hóa, chúng tôi cố gắng tìm ra những gì Đức Phật thực sự đã giảng dạy vì lợi ích của hàng đệ tử tại gia của Ngài, cũng như phân loại lại và làm sáng tỏ giáo lý của Đức Phật về đời sống tại gia.

Nhiều đề nghị từ nhiều thành phần xã hội khác nhau, nhất là từ các vị thính giả tại các buổi nói chuyện của tôi, đã gieo mầm cho quyển sách này, nói về triết lý và hướng dẫn của Đức Phật cho hàng đệ tử tại gia. Biết rằng có rất ít những tác phẩm tương tự về đề tài này, cũng như lợi ích của một quyển sách như vậy trong xã hội, tôi đã mạo muội thực hiện Phật sự này. Và kết quả là sự có mặt của quyển sách.

SỰ HÌNH THÀNH CÁC CHƯƠNG TRONG SÁCH

Chương 1 xem xét các lý do tại sao những lời dạy của Đức Phật về đời sống của người cư sĩ không được làm cho rõ ràng hay làm cho sai lệch. Tại sao những lời dạy về cuộc sống đời thường ít được quan tâm đến? Tại sao chúng bị quên lãng quá lâu? Chương 1 sẽ trả lời những câu hỏi này.

Chương 2 nhấn mạnh đến sự tự do mà Đức Phật dành cho người cư sĩ trong việc được thành công , phát đạt, và phủ nhận các quan niệm phổ biến nhưng sai lệch rằng Đức Phật không khuyến khích hàng cư sĩ cố gắng để đạt được thành công ở đời. Dựa trên quan điểm sai lầm này, nhiều người lầm lạc tin rằng giàu sang , sung túc là đi ngược lại với giáo lý của Đức Phật –một sự hiểu lầm khiến giáo lý của Đức Phật dường như không quan trọng đối với người sống tại gia. Chương 2 sẽ mổ xẻ vấn đề này một cách chi tiết.

Các chương kế tiếp xác lập những điều kiện tiên quyết để có được một cuộc sống thành đạt. Qua đó, ta thấy Đức Phật dường như khẳng định rõ ràng tất cả những điều kiện để cuộc sống của người cư sĩ tại gia được thành công , có ý nghĩa và an lạc.

Chương 3 giới thiệu các phương cách để đạt được sự thành công vật chất, và hướng dẫn rõ bằng cách nào để người cư sĩ khởi bước trên cuộc hành trình đó.

Chương 4 đến chương 13 thảo luận về những đề tài khác nhau mà Đức Phật khẳng định là quan trọng đối với sự thành công của người cư sĩ tại gia, kể cả những mối liên hệ cá nhân và xã hội, sự quyết định và sự phát triển nhân cách của họ.

Chương cuối cùng thảo luận về đề tài quan trọng nhất: đạt được nội tâm an lạc và hạnh phúc dài lâu. Đức Phật nhấn mạnh, đó phải là mục đích tối hậu trong cuộc sống. Để đạt được mục đích cao siêu, nhưng khả thi này, Đức Phật đã chỉ bày cho chúng ta những phương cách thật hữu hiệu. Đối với những người còn chưa rõ làm sao để đạt được an lạc nội tâm và hạnh phúc dài lâu, các phương cách này sẽ là kim chỉ nam cho họ.

Mục đích của quyển sách này là để giới thiệu đến người đọc những lời dạy thực tiễn, hữu ích trong cuộc sống đời thường. Nội dung của sách đã được chọn lọc, phối hợp và sắp xếp vì mục đích này. Các lý thuyết trừu tượng đã được lược bỏ vì chúng thuộc về những phạm trù hoàn toàn khác. Bất cứ ai muốn tìm một phương cách thực tiễn để đạt được thành công và hạnh phúc bền vững sẽ nhận thấy quyển sách này đặc biệt ích lợi.

Tỳ kheo Tiến sĩ Basnagoda Rahula

CHƯƠNG 1

KHO BÁU ẨN TÀNG

Mặt trăng, mặt trời và giáo Pháp của ta…

Tất cả đều chiếu sáng rực rỡ khi được khám phá ra.[1]

(Tăng Chi Bộ Kinh)

[1] Câu trích từ: Tăng Chi Bộ Kinh III: Phẩm Bharandu: Kinh Paticchanna.

Đối với một số người, sự hướng dẫn của Đức Phật dành cho người cư sĩ để họ có được cuộc sống thế tục tốt lành, có vẻ là một đề tài hoàn toàn mới và lạ lẫm. Đa số có nhận định chung rằng Đức Phật chỉ dạy về khổ, vô thường , và sự diệt dục. Do ảnh hưởng của niềm tin này, chúng ta có thể cho rằng Đức Phật đã không quan tâm đến hạnh phúc trong đời sống thế tục và không khuyến khích hàng đệ tử tại gia đạt được thành công vật chất trong cuộc sống. Hơn thế nữa, chúng ta có thể nghĩ rằng Đức Phật khuyên tất cả những người lắng nghe giáo lý của Ngài từ bỏ mọi niềm vui thế tục và chỉ tìm kiếm hạnh phúc trong đời sống xuất gia.

Tuy nhiên, khi tìm hiểu sâu hơn về giáo lý của Đức Phật, chúng ta sẽ thấy rằng sự diễn giải đó hoàn toàn không chính xác. Rõ ràng là Đức Phật công nhận và tán thán hạnh phúc trong cuộc sống thế tục. Ngài không những khuyến khích ta tìm kiếm hạnh phúc, tạo ra tài sản, mà còn dạy ta làm thế nào để tiết kiệm, đầu tư và quản lý tài sản nữa. Ngài cũng có những lời khuyên đối với cộng đồng cư sĩ về sự tương giao, các mối liên hệ xã hội, việc chọn lựa các quyết định sáng suốt và sự phát triển nhân cách lành mạnh.

Tóm lại, trái với những gì người đương thời suy nghĩ, giáo lý của Đức Phật bao gồm cả những lời dạy vô giá giúp người cư sĩ đạt được thành công và hạnh phúc trong cuộc sống.

XÃ HỘI ĐẶC BIỆT, TÔN GIÁO ĐẶC TRƯNG

Người đọc tò mò sẽ tự hỏi tại sao Đức Phật lại quan tâm đến đời sống thế tục? Họ có thể cho rằng tôn giáo phải là một hệ thống niềm tin vượt lên trên những điều liên quan đến đời sống thế tục, chứ không phải là một hệ thống tư tưởng nhằm hướng dẫn cuộc sống thế tục. Tuy nhiên, giáo pháp của Đức

Phật mang đến cho ta một cách tiếp cận tôn giáo hoàn toàn khác với phần lớn các tôn giáo khác.

Triết lý cơ bản của Đức Phật và các yếu tố xã hội đặc trưng ở Ấn Độ vào thể kỷ thứ VI trước Công nguyên, là hai nguyên nhân đưa đến việc Đức Phật không chỉ giúp các đệ tử của Ngài đạt đến sự tiến bộ tâm linh mà cũng giúp họ có cuộc sống đời thường hoàn hảo. Đức Phật chẳng bao giờ tự cho mình hay các đệ tử của mình là những vị sứ giả hay đại diện cho một quyền lực thần bí nào. Do đó, tầm quan trọng và giá trị của giáo lý của Ngài đối với xã hội phải thể hiện chủ yếu về mặt những ích lợi xã hội một cách cụ thể, rõ ràng.

Trong khi một vị Bà-la-môn có thể hướng dẫn đệ tử mình dâng lễ vật cho một vị thần thánh nào đó để xua đuổi một tai họa đang đe dọa, thì Đức Phật không chủ trương cần có các nghi lễ và niềm tin như thế. Trái lại, Đức Phật nhấn mạnh đến sự nỗ lực và trách nhiệm cá nhân, coi đó là chìa khóa để giải quyết những hoàn cảnh khó khăn. Bất cứ khi nào người thính Pháp đặt ra câu hỏi về đời sống cá nhân của mình, Đức Phật cũng sẽ phân tích vấn đề và đưa ra các giải pháp dựa trên trách nhiệm, bổn phận và khả năng của con người. V ì Đức Phật và các đệ tử xuất gia của Ngài luôn đưa ra những giải pháp hợp lý cho các đệ tử tại gia, nên “đời sống tại gia” trở thành một đề tài thường xuyên được nhắc đến trong giáo lý của Đức Phật.

Sự kỳ vọng của xã hội cũng khuyến khích ta quan tâm đến đời sống hàng ngày sâu sắc hơn. Đức Phật sống ở một thời đại trong đó hàng trăm nhà truyền giáo và lãnh đạo tư tưởng tranh giành nhau kêu gọi tín đồ tin theo tông phái của mình. Một số diễn giả này đã công khai chống lại các vấn đề tâm linh, và thuyết phục con người rằng những tư duy như giác ngộ, sự hiện hữu sau khi chết và tái sinh đều là ảo tưởng. Kết quả là xã hội đó trở nên bài xích tôn giáo, quá thiên về thế tục đến nỗi hầu hết mọi người đều thấy rằng cuộc sống hiện tại của họ hấp dẫn hơn những gì đang chờ đợi họ ở phía trước – và họ hướng về những vị thầy có thể giúp đỡ họ trong cuộc sống hằng ngày hơn là những vị thuyết giảng về cuộc sống sau khi chết.

Thính giả của Đức Phật cũng mang theo những kỳ vọng này đến với Phật. Họ mong đợi Đức Phật có thể chỉ dạy cho họ phương cách để đạt được thành công trong đời sống thế tục. Điều thú vị là giáo lý của Đức Phật rất phù hợp với một xã hội như thế. Đức Phật không ngừng ứng dụng triết lý của Ngài để đem lại lợi ích cho cộng đồng cư sĩ, và điều đó đã làm cho các đề tài về cuộc sống thế tục được thêm phong phú. V ì lẽ đó, sự phồn vinh của xã hội, thể hiện trong cuộc sống thế tục, trở thành là một đề tài lớn và sâu sắc trong giáo lý của Đức Phật.

Thế kỷ thứ VI trước Công nguyên là thời đại phục hưng ở Ấn Độ. Các doanh nhân nhộn nhịp trao đổi, buôn bán với Ba Tư và Hy Lạp qua đường bộ và đường biển. Với việc kinh doanh phát triển và tài sản tăng trưởng , các cộng đồng dân cư khá giả bành trướng ra Magadha và Kosala – hai bang mà Đức Phật thường xuyên viếng thăm. Do đó, việc quản trị kinh doanh, việc có những quyết định khôn ngoan – cùng với việc sắp xếp đời sống gia đình, làm chủ các mối liên hệ xã hội – được xem là những khía cạnh quan trọng trong cuộc sống đời thường. Uy lực và sự nổi tiếng , cũng như với các cách tiếp cận hợp lý đối với những vấn đề này đã khiến Đức Phật nổi lên trong xã hội thời đó như là một nhà tư vấn lỗi lạc nhất đối với cộng đồng cư sĩ.

Hơn thế nữa, Đức Phật phải đóng một vai trò đặc biệt linh động trong việc dung dưỡng cộng đồng cư sĩ giàu có, vì tăng đoàn của Ngài không thể tồn tại nếu không có các vị thí chủ giàu có này. Cả Đức Phật lẫn các đệ tử xuất gia của Ngài đều không phải là các vị đạo sĩ tu hành khổ hạnh. Họ là những nhà vận động xã hội, những người sống trung đạo, tránh cả hai thái cực tự hành xác hay tự đắm mình trong dục lạc. V ì lợi ích của hàng đệ tử xuất gia, Đức Phật hoàn toàn thoải mái khi nhận đất đai, tài sản do các vị thí chủ giàu có cúng dường và Ngài cũng thường nhận lời mời đến các lâu đài hay dinh thự của họ để thọ trai, thường là cùng với hàng trăm tỳ kheo khác. V ì sự tồn tại của tăng đoàn của Đức Phật tùy thuộc vào sự phát đạt của các vị thí chủ cư sĩ, nên Đức

Phật cần hướng dẫn họ đến sự thành công vật chất.

Quan điểm của Đức Phật đối với nhiều khía cạnh của đời sống thế tục dường như là do ảnh hưởng của chính những sự liên hệ của Ngài với tầng lớp thượng lưu. Một số đệ tử và thí chủ trung thành nhất của Đức Phật là các vị vua, hoàng tử, các doanh nhân, là những người luôn cố gắng làm tăng trưởng thêm của cải, tài sản và thỏa mãn dục lạc của họ. Thí dụ vua Kosala thường hỏi Đức Phật những câu như là “Giác quan nào cần được thỏa mãn nhất?”[2] Nhiều người khác lại hỏi về việc làm sao để đời sống của họ hạnh phúc hơn. Do nền tảng xã hội đặc biệt này, “sự thành công và hạnh phúc trong đời sống thế tục” đã trở thành một đề tài quan trọng trong giáo lý của Đức Phật. Đức Phật bằng nhiều cách, cũng tích cực giúp các đệ tử tại gia trong đời sống gia đình của họ, và Ngài cũng khuyên các đệ tử xuất gia của Ngài nên làm như thế.

[2] Tương Ưng Bộ Kinh I: Kosala Samyutta: Kinh Pancaraja, 175-176

HAI QUAN ĐIỂM VỀ HẠNH PHÚC

Đức Phật quan niệm về hạnh phúc một cách rất thực tế: như là một điều gì đó thực sự hiện hữu. Để khuyến khích các đệ tử xuất gia của mình đi tìm hạnh phúc trong đời sống xuất thế, Đức Phật dạy rằng :

• Có hai loại hạnh phúc: một là trong đời sống thế tục (gihi sukha), và một là trong đời sống xuất gia (pabbajja sukha). Trong hai loại hạnh phúc này, hạnh phúc trong đời sống xuất gia là tốt hơn cả.

• Có hai loại hạnh phúc: một phát xuất từ sự thỏa mãn dục lạc (kama sukha), và một phát xuất từ việc từ bỏ thỏa mãn các dục lạc (nekkhamma sukha). Trong hai loại này, hạnh phúc phát xuất từ việc từ bỏ sự thỏa mãn dục lạc là tốt hơn.[3] [3] Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikaya II): Phẩm Sukha: 1-2; 1283-1285

Hai mệnh đề này bộc lộ cho ta thấy quan điểm của Đức Phật về hạnh phúc. Như thế, Đức Phật đã nói rõ rằng hạnh phúc có mặt trong đời sống tại gia, và trong việc thỏa mãn các dục lạc. Ngay cả khi có sự hiện diện của các vị tỳ kheo, là những người rất cần được nhắc nhở về những điều bất như ý trong đời sống thế tục, Đức Phật cũng không bao giờ chối bỏ sự thật là hạnh phúc có mặt trong thế giới vật chất và dục lạc. Tuy nhiên, Đức Phật khẳng định rằng hạnh phúc trong đời sống xuất gia thì cao quý hơn.

Nhiều chứng cứ khác có thể được tìm thấy trong các kinh tạng cũng xác định lập trường này. Thật vậy, Đức Phật đã định nghĩa hạnh phúc như sau:

“Hạnh phúc có mặt trong đời sống thế tục… Hạnh phúc đó là gì? Đó là sự thỏa mãn có được qua năm giác quan (kamaguna). Các đối tượng giác quan liên quan đến cái thấy, cái nghe, đến hương, đến vị và sự xúc chạm, là thật sự có mặt. Các đối tượng này quyến rũ, dễ chịu, hấp dẫn, mời gọi và đáng hưởng thụ. Những trải nghiệm có được qua năm giác quan là năm dục lạc mà người ta có thể đạt được trong cuộc sống tại gia. Hạnh phúc mà người ta có được từ sự trải nghiệm năm loại dục lạc này được gọi là hạnh phúc trong đời sống thế tục”.[4]

[4] Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikaya IV): Vedana Samyutta: Kinh Niramisa

Như thế, quan điểm của Đức Phật về hạnh phúc trong đời sống thế tục rất rõ ràng và đầy đủ. Người cư sĩ luôn trải nghiệm những sự thỏa mãn giác quan, hay kamaguna, và năm điều lợi ích của chúng : cảnh đẹp, âm thanh êm tai, mùi hương quyến rũ, vị ngon và những xúc chạm dễ chịu. Những lợi ích này được gắn liền với đời sống thế tục, và con người có quyền hưởng thụ chúng.

TRÂN TRỌNG NHỮNG LỢI ÍCH CỦA ĐỜI SỐNG THẾ TỤC

Đức Phật không chỉ chấp nhận sự có mặt của hạnh phúc trong đời sống thế tục, mà Ngài còn khuyến khích điều đó. Mặc dầu Đức Phật nhấn mạnh (nhất là với sự hiện diện của các tỳ kheo) rằng hạnh phúc trong đời sống thế tục thì thứ yếu so với hạnh phúc của đời sống xuất gia, sự khẳng định này không nhằm làm giảm đi giá trị của đời sống thế tục. Nó chỉ đơn giản có nghĩa là có một thứ hạnh phúc sâu lắng hơn đang chờ đợi những ai sẵn lòng buông bỏ các dục lạc thế gian.

V ì sự xả ly đem đến một trạng thái hạnh phúc vững bền hơn, “hạnh phúc trong sự xả ly” này, hay vimutti sukha, được cho là “tốt hơn”. Đây là loại hạnh phúc đã được chính Đức Phật cũng như các đệ tử xuất gia của Ngài chứng nghiệm. Những người xuất gia từ bỏ cuộc sống thế gian, do có ít bổn phận hơn người tại gia, sẽ đối mặt với ít chướng ngại hơn trên đường tìm kiếm bình an nội tâm. Trái lại, hạnh phúc trong đời sống tại gia, luôn biến đổi tùy theo hoàn cảnh, với những mối lo toan luôn tiềm ẩn trong cuộc sống đó. Tuy nhiên ngoài điều so sánh duy nhất này, rằng hạnh phúc tâm linh vượt trội hơn hạnh phúc thế tục, không có chứng cứ gì để kết luận rằng Đức Phật chê trách đời sống thế tục hay hạnh phúc trong đời sống đó.

Do Đức Phật không chê trách đời sống thế tục, nên Ngài luôn sẵn sàng khuyên nhủ, “tư vấn” cho những ai muốn biết làm thế nào để cho cuộc sống tại gia của họ được hạnh phúc và thành đạt hơn. Rất nhiều người đến đảnh lễ Đức Phật và thỉnh ý Ngài để được thành công và hạnh phúc. Điều thỉnh cầu sau đây thường xuất hiện trong nhiều bản kinh, phản ảnh nguyện vọng của cộng đồng cư sĩ đối với Đức Phật:

“Bạch Thế Tôn, chúng con là những người tại gia, sống với gia đình, còn ăn mặc đẹp, còn dùng dầu thơm, vòng hoa, và còn chấp nhận vàng bạc. Xin Thế tôn hãy hướng dẫn để chúng con có thể làm cho sự hiện hữu của kiếp sống này và kiếp sống kế tiếp được hạnh phúc”.[5]

[5] Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikaya XI): Sotapatti Samyutta: Kinh Ve- ludvareyya; 1796-1799

Để đáp lại những lời thỉnh cầu này, Đức Phật không bao giờ tỏ ra bất cứ sự coi thường nào, dù nhỏ nhặt, đối với cách sống của những người tại gia và Ngài thường dành cho họ những lời dạy đầy đủ chi tiết về cách làm thế nào cho cuộc sống của họ được tốt đẹp hơn. Đức Phật xem những lời hướng dẫn này như là sampada, những yếu tố đem lại lợi ích cho đời sống thế tục. Bốn mươi lăm năm tích cực trong việc chuyển hóa xã hội, Đức Phật đã để lại những lời dạy vô cùng giá trị trong các kinh tạng – và đó là những điều ta sẽ bàn kỹ trong quyển sách này.

CÁC ĐỐI TƯỢNG THÍNH GIẢ

Dầu Đức Phật có sự quan tâm đáng kể đến hạnh phúc và sự thành công vật chất của hàng cư sĩ, trong kinh tạng rõ ràng cũng có những đoạn với những quan điểm dường như đối nghịch. Các bản kinh đó cho ta cảm giác là cuộc sống thế tục, thế giới vật chất không được tán thán, với khuynh hướng tránh xa các dục lạc thế gian. Tuy quan điểm có vẻ mâu thuẫn này có mặt rải rác trong nhiều bản kinh, chúng ta cần phải xem xét các đoạn kinh này từ cái nhìn về xã hội và lịch sử thời đó để khám phá ra mục đích và đối tượng thính giả nào các bản kinh này nhằm hướng tới.

Nhiều diễn giải sai lạc về giáo lý của Đức Phật đã phát sinh, cụ thể là do không phân biệt được một bản kinh nào đó được nói cho đối tượng thính giả nào.

Như đã trình bày ở trên, Đức Phật đã dành khá nhiều thời gian để phản biện lại những quan niệm mà các nhà truyền thống và những nhóm cực đoan khác chủ trương. V ì lý do đó Đức Phật cần một cộng đồng dấn thân và chứng đạo. Giáo phái Vệ Đà có các nhà Bà-la-môn, là những nhà đạo hạnh có học, với chủ trương bảo vệ truyền thống một cách quyết liệt. Giáo phái Jain thì huấn luyện nam nữ đệ tử của họ tu khổ hạnh để xây dựng một hệ thống xã hội khắt khe. Ảnh hưởng bởi cả hai truyền thống này, Đức Phật đã thành lập nên khái niệm tăng đoàn (Sangha). Cộng đồng xuất gia này đáp ứng được một nhu cầu quan trọng : là sự thành lập một cộng đồng hoàn toàn tự nguyện và có khả năng truyền bá những lời Phật dạy đến với xã hội. Những khái niệm về vô thường , khổ và sự xuất ly khỏi đời sống thế tục được sử dụng chính là để rèn luyện và duy trì cộng đồng xuất gia này.

Điều này không có nghĩa rằng Niết Bàn, một trạng thái an lành mà người ta có thể đạt được bằng cách từ bỏ tâm bám víu vào dục lạc thế gian, chỉ là một phương tiện dùng để huấn luyện tăng đoàn. Chúng ta khó mà bỏ qua sự khẳng định liên tục của Đức Phật và các đệ tử của Ngài rằng cuộc sống xả ly, không bám víu của họ tuyệt đối hạnh phúc – một thứ hạnh phúc mà ta có thể trải nghiệm được bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, khi ta đã có thể tách mình ra khỏi những cuộc chạy đuổi theo dục lạc thế gian.

Tuy nhiên, không bám víu vào dục lạc thế gian cũng là một phương cách hữu hiệu để rèn luyện, tổ chức và phát triển cộng đồng tăng ni, là nền tảng xã hội của Đức Phật. Khi những sự bất như ý (khổ) trong cuộc sống thế tục được nhấn mạnh, lặp đi lặp lại cho tăng đoàn và cho bất cứ ai có ý muốn bước vào con đường xuất gia, thì những lời dạy này không phù hợp đối với cộng đồng cư sĩ của Đức Phật.

Rèn luyện tâm xả ly khỏi các dục lạc giác quan cũng là cách để cộng đồng tu sĩ có thể sống xả ly. Trong khi một vị tu sĩ thuộc tông phái khác có thể chọn lựa đời sống tâm linh để phục vụ tốt hơn cho một quyền lực tối thượng nào, thì những động lực tôn giáo như thế không có mặt trong giáo lý của Đức

Phật. Đức Phật khuyến khích nam nữ đệ tử của Ngài gia nhập tăng đoàn vì Ngài biết rằng một đời sống xả ly sẽ mang đến cho họ nhiều an lành nội tâm hơn là ở đời sống thế tục. Do đó, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài không ngừng quán tưởng về vô thường và sự bất như ý (khổ) của đời sống thế tục. Sự chuyển đổi thái độ đối với đời sống thế tục khiến cho các đệ tử xuất gia của Ngài trở nên tự tại hơn, và trở thành những vị tăng ni dấn thân; điều này có thể tạo nên những hiệu ứng xã hội tốt đẹp như Đức Phật đã chủ định.

Không phải mọi lời dạy trong kinh tạng là dành cho tất cả mọi người. Để tránh khỏi những kết luận sai trái này, chúng ta cần phải xác định các đối tượng thính chúng khác nhau cho những bài kinh khác nhau. Không thể chỉ vì Đức Phật luôn nhắn nhủ các đệ tử xuất gia của Ngài quán tưởng về vô thường và khổ, mà ta kết luận rằng Ngài đòi hỏi tất cả các đệ tử (tu sĩ cũng như cư sĩ) đều phải tuân theo lời dạy này.

Thực ra, không có chứng cứ gì trong các kinh tạng – nơi tập hợp những lời giảng trung thực nhất của Đức Phật – rằng Ngài kêu gọi các đệ tử cư sĩ phải quán tưởng về vô thường hay khổ. Dĩ nhiên là Đức Phật cũng đề ra các phương pháp hành thiền hữu ích cho cộng đồng cư sĩ, nhưng các phương pháp này không nhằm cản trở hạnh phúc của đời sống thế tục. Trái lại, qua các bản kinh nguyên thủy, ta thấy rằng các đệ tử tại gia được khuyên phải sống an lạc và có ý nghĩa.

Để tiện cho việc thảo luận, chúng ta có thể chia các đối tượng thính giả và tiêu chí của các kinh ra thành ba loại:

• Các pháp hướng dẫn dành cho các vị sắp hay đã xuất gia.

• Các pháp lý luận, phân tích để phản biện lại với những quan điểm đối nghịch.

• Các pháp hướng dẫn và phân tích dành cho cộng đồng cư sĩ.

Trong ba loại này, những bài kinh dành cho cộng đồng xuất gia rõ ràng là nhiều hơn các loại khác. Điều này có thể đưa đến kết luận sai lạc rằng Đức Phật chỉ chú tâm rèn luyện các tỳ kheo của Ngài hơn là giúp đỡ các hàng cư sĩ. Tuy nhiên, dường như có nhiều lý do khác hơn là việc Đức Phật chỉ hướng đến hàng đệ tử xuất gia.

TẠI SAO ĐỜI SỐNG TẠI GIA CÓ VẺ ÍT QUAN TRỌNG HƠN

Tại sao những lời dạy của Đức Phật đối với người cư sĩ dường như không có vị trí quan trọng trong các kinh tạng ? Để có thể đưa ra một lời giải thích rõ ràng cho câu hỏi này, chúng ta phải nhìn lại lịch sử thời đó. Điều quan trọng là phải xem ai, trong gần 26 thế kỷ, đã lưu truyền những lời dạy của Đức Phật – và bằng cách nào.

Trước tiên, giáo lý của Đức Phật được lưu truyền bởi các vị tỳ kheo. Dầu Đức Phật đã đi hoằng pháp không ngừng nghỉ trong suốt 45 năm và đã thuyết giảng cho biết bao đối tượng , chỉ một số rất ít giáo lý hay thuyết giảng của Ngài được ghi chép lại. Hơn 80% các kinh trong kinh tạng là dành cho các vị tỳ kheo sống trong các tu viện. Dường như các vị tỳ kheo chỉ quan tâm gìn giữ những gì liên quan đến họ, chứ không phải tất cả những điều Đức Phật đã giáo hóa đám đông quần chúng.

Từ quan điểm của các vị tỳ kheo, ta có thể hiểu được tại sao sự lưu truyền các giáo lý của Đức Phật có phần thiếu sót. Ngay sau khi Đức Phật nhập diệt, các vị trưởng lão tăng cảm thấy nhu cầu bức thiết nhất của họ là duy trì sự thống nhất và kỷ luật trong tăng đoàn. Với cộng đồng tăng đoàn ngày càng phát triển, nhiều quan điểm, phương cách thực hành dị biệt đã len lỏi vào nội bộ tăng đoàn; việc này đòi hỏi phải được giải quyết. Cuộc kết tập kinh điển lần đầu tiên, được thiết lập chỉ ba tháng sau khi Đức Phật nhập diệt, được phát khởi một phần cũng bởi những cách hành xử sai lệch của một số vị tỳ kheo. Trong hoàn cảnh này, việc kết hợp, khẳng định mạnh mẽ lại giáo lý của Đức Phật đối với các vị tỳ kheo là cấp thiết. Và các vị tỳ kheo học thuộc lòng các kinh tạng Pali nhằm lưu truyền chúng , dường như đã thêm vào, sửa đổi và loại bỏ nhiều kinh để chỉ nhấn mạnh về giới luật trong tăng đoàn của họ.

Tuy nhiên, phương cách này vô tình đã thay đổi cái nhìn tổng quan về giáo lý của Đức Phật. Trong các kinh tạng được lưu truyền, giáo lý dành cho hàng đệ tử xuất gia có vẻ nổi trội hơn và giáo lý dành hàng cư sĩ tại gia thì không rõ ràng. Do đó, người đọc có thể kết luận một cách sai lệch rằng Đức Phật không quan tâm đến hàng đệ tử tại gia của Ngài.

Việc phân nhóm các kinh cũng khiến cho giáo lý của Đức Phật dành cho hàng đệ tử tại gia có vẻ kém quan trọng. Ở lần kết tập kinh điển thứ nhất, nhiều kinh được xếp loại tùy theo độ dài, ngắn. Những bài kinh dài của Đức Phật được xếp vào nhóm Trường Bộ Kinh (Digha Nikaya). Hàng trăm các bài kinh ngắn hơn được đặt trong Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikaya). Hàng ngàn các bài kinh khác được xếp đặt tùy theo số thứ tự trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikaya). Thí dụ, bất cứ bài pháp nào giải thích về hai nhân, hai quả, hai loại người, vân vân, được nhóm lại dưới các bài kinh “Số Hai”. Các tiểu tựa cũng được đánh số để phân loại chi tiết hơn. Lần nữa, sự xếp đặt này khiến cho phần giáo lý dành cho cuộc sống thế tục dường như không quan trọng , hoặc mâu thuẫn. Đối với người đương thời, triết thuyết về khổ của Đức Phật vẫn còn là đề tài nổi trội, dành cho tất cả mọi người.

NHỮNG SỰ SUY DIỄN SAI LỆCH MỚI

Một số nhà văn và dịch giả trong lịch sử cận đại đã bị kẹt trong sự lầm lẫn này. Họ nghĩ một cách sai lệch rằng con đường mà Đức Phật vạch ra cho hàng đệ tử xuất gia của Ngài, là giáo pháp dành cho tất cả mọi người. Một trong những hậu quả của việc hiểu lầm đó là quan điểm cho rằng “Phật giáo bi quan”.

Arthur Schopenhauer, một nhà tư tưởng Đức nổi tiếng , đã thiết lập lý thuyết về bi quan sau khi đọc qua một vài bản kinh Phật giáo đã được dịch. Qua sự trình bày những hiểu biết của ông về Đức Phật, ông muốn gợi ý cho các nhà phê bình so sánh triết lý của ông với giáo lý của Đức Phật. Kết quả là, quan niệm “Phật giáo bi quan” đã được thế giới Tây phương chấp nhận cùng với lý thuyết về bi quan của Schopenhauer.

Hơn thế nữa, gần như tất cả mọi dịch giả của các kinh tạng đều xem thuật ngữ dukkha, được lặp đi lặp lại trong kinh như là “khổ”, khiến cho người đọc nghĩ rằng Đức Phật xem đời sống thế tục như là khổ đau. Tuy nhiên, dukkha ám chỉ tính chất không thỏa mãn của tâm con người, chứ không chỉ những gì được coi là khổ. Đức Phật sử dụng thuật ngữ này với mục đích hướng các vị tỳ kheo đến Niết Bàn – chứ không phải để hướng dẫn hàng đệ tử tại gia.

Tệ hơn nữa, hàng trăm sách viết về giáo lý của Đức Phật xem những lời dạy của Ngài đối với hàng đệ tử xuất gia là giáo lý chung cho toàn thể cộng đồng Phật tử. Quan niệm sai lầm này đã dẫn đến một kết luận chung rằng Đức Phật không chấp nhận đời sống thế tục và chê trách hạnh phúc trong đời sống đó.

KHÁM PHÁ CHÂN LÝ

Nghiên cứu các kinh tạng kỹ hơn sẽ cho chúng ta thấy rõ rằng giáo lý của Đức Phật dành cho hàng cư sĩ rất gần gũi với đời sống thế tục hơn là chúng ta nghĩ. Chúng tôi tìm thấy trong kinh tạng có hơn cả trăm bài pháp, từ những bài dài đến những bài ngắn chỉ có vài câu pháp thoại, đặc biệt nói về đời sống tại gia. Các chương sắp tới trong sách này sẽ đặt trọng tâm vào các bài kinh đó để làm rõ hơn quan điểm của Đức Phật về đời sống thế tục cũng như sự hướng dẫn của Ngài đối với hàng cư sĩ về sự thành công và hạnh phúc.


Giang Vi

Tôi là một người yêu sách cuồng nhiệt và đã hơn 20 năm. Tôi dành cả ngày để đọc, viết blog về sách và viết bình luận. Tôi tin rằng sách là công cụ mạnh mẽ nhất trong cuộc sống để mở mang đầu óc cho những ý tưởng và quan điểm mới. Các thể loại yêu thích của tôi bao gồm tiểu thuyết lịch sử, giả tưởng, khoa học viễn tưởng và phi hư cấu. Tôi cũng thích tìm hiểu về các nền văn hóa khác nhau thông qua văn học.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts:

Back to top button