Hồi ký - danh nhân

Bay đến Hà Nội và thoát về

bay den ha noi va thoat ve1. THÔNG TIN SÁCH/EBOOK

Tác giả : Wayne Thompson

Download sách Bay đến Hà Nội và thoát về ebook PDF/PRC/MOBI/EPUB. Tải miễn phí, đọc online trên điện thoại, máy tính, máy tính bảng.

Danh mục : SÁCH HỒI KÝ – DANH NHÂN

Đọc thử Xem giá bán

2. DOWNLOAD

Định dạng PDF                   Download

Định dạng MOBI                 Download

Định dạng EPUB                Download

Bạn không tải được sách ?  Xem hướng dẫn nhé : Hướng dẫn tải sách


3. GIỚI THIỆU / REVIEW SÁCH

Chẳng có kinh nghiệm nào ngấm vào suy nghĩ của giới không quân Mỹ hơn chiến dịch không kích Bắc Việt Nam. Nhờ đó, hai thập kỷ sau tại những sa mạc Tây Nam Á, Không quân Mỹ có thể tránh được chủ nghĩa leo thang đã từng phải trả bằng nhiều sinh mạng và phi cơ ở các khu rừng rậm của Đông Nam Á. Từ cuốn sách này, bạn đọc sẽ thông cảm với những người từng ném bom Bắc Việt Nam, họ đã làm được việc khó mà kết quả cuối cùng là có thể biến không quân Mỹ thành một công cụ hữu hiệu trong chiến tranh vùng Vịnh.

Cuốn sách này là phần tiếp theo của cuốn Leo thang thất bại: Không chiến trên bầu trời Bắc Việt, 1965-1966 (Gradual Failure: The Air War over North Vietnam, 1965-1966) do tác giả Jacob Van Staaveren viết mà chúng tôi cũng sẽ công bố và xuất bản. Tấc giả Wayne Thompson kể lại việc dùng bài học thất bại để phát triển sức chiến đấu của quân chủng – một quân chủng có cơ hội tốt hơn để thể hiện sức mạnh không quân tiềm tàng năm 1972.

Tiến sĩ Thompson bắt đầu nghiên cứu đề tài của mình khi làm quân dịch tại Trạm tình báo không quân ở Đài Loan trong chiến tranh Việt Nam. Ông dành thời gian để viết cuốn “Bay đến Hà Nội và thoát về” (To Hanoi và Back) trong khi làm tại nhóm “Checkmate”, cơ quan tham gia xây dựng kế hoạch không quân của chiến dịch chống Iraq mang tên Bão táp sa mạc. Sau đó, ông đã gặp các phi công và tư lệnh không quân ở Italy ngay sau khi Operation Deliberate Force không kích Bosnia. Trong chiến dịch của lực lượng Liên quân vào Serbia và tỉnh Kosovo, ông trở lại Checkmate vì vậy, ông có thể có cái nhìn sắc sảo về thay đổi của không quân trên từng lĩnh vực. Mặc dù nội dung bao gồm nhiều lĩnh vực nhưng cuốn sách này là cuốn sách về không quân. Tác giả đã cho ra đời một cuốn sách sống động và sâu sắc.

Trích dẫn :

Khi tôi bắt đầu nghiên cứu những sự kiện này, tôi nghĩ sẽ viết về một trong những phần đáng buồn nhất của lịch sử không lực Hoa Kỳ. Tôi có lẽ làm như vậy, nhưng dần dần (leo thang giống như chiến dịch Sấm Rền năm 1965-68 ở Bắc Việt) tôi có cái nhìn tích cực hơn về kinh nghiệm của không quân Mỹ ở Đông Nam Á. Chắc chắn đau thương và chết chóc chúng ta thường gắn với chiến tranh gây ra nhiều đau khổ. Rõ ràng không quân Mỹ phải hoạt động dưới sức nặng cực kỳ o ép khiến tự thất bại. Rõ ràng tai tiếng về ném bom kém hiệu quả ở Bắc Việt và làm cho không lực Mỹ dường như trở nên một công cụ ít hứa hẹn. Nhưng sau nhiều năm tìn kiếm cách sử dụng có ích hơn của một không lực yếu kém, chiến dịch Linebacker ném bom Bắc Việt năm 1972 kết hợp thả thuỷ lôi khu vực các cảng biển và những chiến dịch không kích đồng thời ở Nam Việt đã làm nên thay đổi đáng kể, dẫu cho chiến dịch này muộn và ngắn hạn.

Sự phục hồi của không lực Mỹ bắt đầu trước khi Bắc Việt nam xâm lược Nam Việt nam năm 1972 và tiếp tục sau khi kết thúc chiến tranh năm 1975. Cuộc chiến đấu vì Đông Nam Á đã biến không quân Mỹ từ hầu như chỉ trú trọng vào một cuộc chiến hạt nhân tiềm tàng với Liên Xô thành một lực lượng đa năng và linh hoạt trong sử dụng vũ khí thông thường. Nhưng suy nghĩ về không lực Mỹ và Đông Nam Á đã bị bỏ lại sau những tiến bộ về kỹ thuật. Khi mà thất bại cuối cùng thuộc về Nam Việt Nam và Đồng minh Mỹ của họ, những chiến thắng thuyết phục của không lực mới có độ chính xác cao của Mỹ vẫn đang trong tương lai.

Mặc dù chiến dịch ném bom Bắc Việt Nam dùng một số lượng bom ít hơn các chiến dịch đồng thời ở Nam Việt nam và Lào nhưng đầu tư trí tuệ và cảm xúc lại nhiều hơn. Ở đó, lực lượng phòng không tập trung kết hợp với khoảng cách lớn hơn từ các căn cứ ở Thái Lan và Nam Việt nam đã làm những chiến dịch không kích trở nên nguy hiểm và khó khăn hơn. Ban đầu, không quân Mỹ tự xác định mình là lực lượng có khả năng cao nhất trong tấn công những mục tiêu từ các chiến trường trên bộ và trên biển. Ở nhưng nơi bộ binh tác chiến trên chiến trường Nam Việt nam, không quân Mỹ chỉ đảm bảo một phần hoả lực và vận tải hiệp đồng giữa máy bay ném bom hạng nặng và tiếp dầu trên không cho phép không quân Mỹ không kích những mục tiêu xa – một khả năng chưa được sử dụng ở Bắc Việt Nam cho đến gần cuối cuộc chiến. Mặc dù ưu điểm tiến công tầm xa của máy bay ném bom được chia sẻ với tên lửa hạt nhân xuyên lục địa và tên lửa hạt nhân phóng từ tầu ngầm của hải quân, nhưng trong tiến công tầm xa quy ước thì không quân vẫn là phương án được lựa chọn cao nhất. Khi bỏ máy bay ném bom ra khỏi bài toán, sự đóng góp của Không quân mất đi tính độc đáo. Bắc Việt nam bé nhỏ ở xa Vịnh Bắc Bộ, nơi máy bay hải quân có thể xuất phát từ các tàu sân bay và hoạt động không cần tiếp dầu trên tất cả không phận.

Máy bay của hải quân và thuỷ quân lục hiệp đồng để đảm nhiệm toàn bộ việc ném bom Bắc Việt Nam. Vì vậy người Mỹ với nỗi lo can thiệp của Trung Quốc đã hạn chế sử dụng máy bay ném bom hạng nặng B-52 của không quân ở Bắc Việt Nam trong suốt cuộc chiến. Mặt khác, vì không quân Mỹ tập trung chuẩn bị chiến tranh hạt nhân, thậm chí chính họ còn sử dụng một số máy bay chiến đấu và vũ khí do hải quân phát triển.

B-52 với radar và khoang chứa bom lớn có thể thổi bay nhiều mục tiêu Bắc Việt Nam không những vào ban ngày thời tiết trong trẻo mà còn về ban đêm hoặc trong thời tiết xấu thường xuyên trong năm ở Bắc Việt Nam. Trở ngại chính trị đối với việc phát huy toàn diện khả năng ném bom trải thảm của B-52 khiến không quân phải tìm kiếm khí tài ném bom chính xác, trong mọi điều kiện thời tiết và liên tục cho máy bay tiêm kích. Trước khi chiến tranh kết thúc, bom dẫn bằng laser đã đạt tiêu chuẩn chính xác trên thực tế nhưng bóng đêm và thời tiết xấu vẫn hạn chế hiệu quả của không lực Mỹ.

Giai đoạn cuối Mỹ can thiệp vào chiến tranh đem lại vị thế chính trị, quân sự (cũng như công nghệ) thuận lợi hơn cho không lực Mỹ. Câu chuyện không quân ở Đông Nam Á theo hướng tiến bộ mặc dù họ phải chia sẻ trách nhiệm khiến cuộc chiến thất bại.

Sự thất bại của Nam Việt Nam trước Cộng sản Bắc Việt Nam năm 1975 chắc chắn mang là thất bại quân sự của Mỹ (cả không quân cũng như lục quân), dù trên thực tế nó đã rút quân khỏi cuộc chiến trước khi Bắc Việt Nam xâm lược thành công . Lào và Campuchia cũng rơi vào kiểm soát của cộng sản và hậu quả là hơn một triệu người Campuchia đã chết. Trải qua thời gian, Cold War (tính cả chiến tranh Việt nam) đã xoá đi thất bại, khi Thái Lan và các nước không cộng sản ở Đông Nam Á trở nên thịnh vượng. Nhưng việc ném bom Bắc Việt nam có thể vẫn còn khuấy động tranh luận nảy lửa trong số người Mỹ đứng tuổi, nhiều người đã lên lên án vì nó quá tàn nhẫn hoặc quá yếu hoặc đơn giản là không thích đáng.

Những người này đã tranh luận vai trò không lực Mỹ trong chiến tranh khi đó và kể từ đó tình cảm và sự trừu tượng thường rất lớn. Độc giả những trang này sẽ có cảm giác cụ thể về những chiến dịch không kích và người Mỹ tham gia – từ các phi công đã mạo hiểm với cuộc sống đến các tướng lĩnh chỉ huy họ và cả các chính khách đã đưa họ đến. Bức chân dung do người Bắc Việt vẽ hiển nhiên là rất mờ nhạt vì vậy việc đánh giá tác động của việc ném bom cần rất thận trọng.

Cuốn Leo thang thất bại: Không chiến trên bầu trời Bắc Việt, 1965-1966 (Jacob Van Staaveren) đưa câu chuyện của chúng ta qua nhưng cố gắng muộn màng nhằm phá huỷ các kho nhiên liệu cảu Bắc Việt Nam vào mùa hè năm 1966. Trước đó Bắc Việt đã sơ tán xăng dầu từ khu bồn sang các thùng phuy đặt rải rác khắp cả nước. Đây là bài học nữa về sự yếu kém của chiến dịch ném bom leo thang kiểu Sấm Rền. Sau mười tám tháng ném bom, hầu hết các sân bay Bắc Việt Nam vẫn còn nguyên vẹn, không kể cảng chính ở Hải Phòng và thành phố Hà Nội. Không quân Mỹ đề nghị ném bom các mục tiêu owr các khu vực trên bằng B-52, nhưng tổng thống Lyndon Johnson hạn chế những cuộc tấn công vào các thành phố lớn suốt nhiều tháng và cuối cùng chỉ cho phép máy bay chiến đấu tấn công những mục tiêu gần đó. Chẳng có tổng thống nào trước đây lại nhúng tay vào lựa chọn mục tiêu chi tiết và chiến thuật như vậy.
Cho đến 1972, khi tổng thống Richard Nixon đã rút lực lượng Mỹ ra khỏi khu vực Đông Nam Á, B-52 vẫn chưa thả bom gần Hà Nội và Hải Phòng. Lúc đó, những thành phố này vẫn được coi là để dành, chiến dịch Linebacker tương phản với Sấm Rền. Không phải là vai trò lớn hơn của B-52, mà là các công nghệ mới của bom laser, cho phép máy bay chiến đấu tiêu diệt cầu và các mục tiêu một cách nhanh chóng với ít bom thay vì liều mạng tập kích bằng nhiều máy bay chiến đấu. Kinh nghiệm đáng khích lệ sau nhiều năm thất bại cay đắng của không quân và sau những năm tái thiết của Bắc Việt Nam. Khoảng thời gian 1968 (nhiệm kỳ thời tổng thống Johnson) và 1972 (Bắc Việt nam xâm lược Nam Việt Nam) Bắc Việt Nam bị ném bom rất ít. Thật ra, tướng John Lavelle bị chỉ trích khi làm tư lệnh Tập đoàn không quân số 7 sau khi một nhân viên làm báo cáo giả giấu một số những cuộc tập kích nhỏ vào sự chuẩn bị Bắc Việt Nam.


Giang Vi

Tôi là một người yêu sách cuồng nhiệt và đã hơn 20 năm. Tôi dành cả ngày để đọc, viết blog về sách và viết bình luận. Tôi tin rằng sách là công cụ mạnh mẽ nhất trong cuộc sống để mở mang đầu óc cho những ý tưởng và quan điểm mới. Các thể loại yêu thích của tôi bao gồm tiểu thuyết lịch sử, giả tưởng, khoa học viễn tưởng và phi hư cấu. Tôi cũng thích tìm hiểu về các nền văn hóa khác nhau thông qua văn học.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts:

Back to top button