Văn học nước ngoài

Thời Thơ Ấu

Thoi tho au - Maxim Gorki1. THÔNG TIN SÁCH/EBOOK

Tác giả : Maxim Gorki

Download sách Thời Thơ Ấu ebook PDF/PRC/EPUB/MOBI. Tải miễn phí, đọc online trên điện thoại, máy tính, máy tính bảng.

Danh mục : SÁCH VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI

Đọc thử Xem giá bán

2. DOWNLOAD

Download ebook                      

File ebook hiện chưa có hoặc gặp vấn đề bản quyền, Downloadsach sẽ cập nhật link tải ngay khi tìm kiếm được trên Internet.

Bạn có thể Đọc thử hoặc Xem giá bán.


Bạn không tải được sách ? Xem hướng dẫn nhé : Hướng dẫn tải sách


3. GIỚI THIỆU / REVIEW SÁCH

Lời giới thiệu


 

Tác giả phác họa chân dung cậu bé Aleksyei một mình, đơn độc bước vào đời mà không có bàn tay cha đưa dắt, không có sự theo dõi theo sát sao của mẹ. Nhưng hành trang mà cậu mang theo thật phong phú: Đó là những ký ức về gia đình, tuy đău buồn nhưng ấm áp tình cảm của bà, của cha cậu, của mẹ và của cả người ông tuy bề ngoài dữ dằn nhưng đã dạy cho cậu tính tự lập…

Macxim Gorki (1868 -1936) là nhà văn lớn của nước Nga, mở đầu trào lưu văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Ông còn là nhà hoạt động văn hoá- xã hội nổi tiếng thế giới. Hy vọng THỜI THƠ ẤU sẽ làm hài lòng bạn đọc không chỉ các bạn nhìn thấy chính mình trong đó, quan trong hơn chính là bút pháp nghệ thuật điêu luyện của tác giả cuốn hút người đọc đến từng con chữ cuối cùng của tác phẩm.

Nhận định

“Đọc Thời thơ ấu các em sẽ thấy rằng tôi hoàn toàn là một con người nhỏ bé như các em, chỉ khác ở chỗ: ngay từ bé tôi đã duy trì được lòng ham muốn học tập và không sợ bất cứ thứ lao động nào.”

(M.Gocki)

“Chưa bao giờ chúng tôi đọc trong văn học Nga một tác phẩm nào hay hơn cuốn THỜI THƠ ẤU của anh…Chưa bao giờ anh khéo sử dụng nghệ thuật của mình một cách thành thạo như thế”

(R.Rolăng – nhà văn Pháp)

ĐỌC THỬ

Chương 1

Gần cửa sổ, trong một gian phòng chật hẹp tranh tối tranh sáng, bố tôi mặc quần áo trắng toát nằm trên sàn. Thân hình bố tôi dài lạ thường, ngón chân xòe ra nom rất kỳ quái; hai bàn tay dịu dàng đặt yên trên ngực, nhưng ngón tay thì co quắp. Hai đồng xu đen tròn bằng đồng che kín cặp mắt tươi vui của bố tôi: khuôn mặt vẫn hiền từ nay tối sầm lại. Hai hàm răng nhe ra làm tôi sợ hãi. Mẹ tôi mặc chiếc váy đỏ, chiếc áo hở ngực, quỳ bên cạnh và lấy chiếc lược đen, mà tôi vẫn thích dùng để cứa vỏ dưa hấu, chải mái tóc dài và mềm mại của bố tôi từ phía trán ra sau gáy. Mẹ tôi nói liên tục, giọng trầm trầm khàn khàn. Cặp mắt xám của mẹ tôi sưng húp và như tan ra thành những giọt nước mắt lớn chảy ròng ròng. Bà tôi giữ lấy tay tôi. Bà tôi người béo tròn có cái đầu lớn, cặp mắt rất to và chiếc mũi xôm xốp nom rất buồn cười; bà tôi mặc toàn đồ đen trông mềm dịu đến hay. Bà tôi cũng khóc, tiếng khóc nức nở lạ lùng, trầm bổng hình như hòa theo những lời than vãn của mẹ tôi. Toàn thân run run, bà tôi kéo tôi và đẩy lại gần chỗ bố tôi. Nhưng tôi cưỡng lại và nấp sau lưng bà; tôi vừa sợ hãi vừa lúng túng. Chưa bao giờ tôi trông thấy người lớn khóc và tôi không sao hiểu được những lời bà tôi nhắc đi nhắc lại:
-Cháu từ biệt bố cháu đi, không bao giờ cháu được thấy bố cháu nữa đâu, tội nghiệp, bố cháu chết sớm quá, chưa phải lúc… Tôi bị ốm nặng, vừa mới dậy. Trong lúc tôi ốm
-tôi còn nhớ rất rõ
-bố tôi nô đùa với tôi rất vui vẻ, sau đó bỗng nhiên bố tôi biến đâu mất, và bà ngoại tôi, con người kỳ lạ ấy, đã thay thế bố tôi.
-Bà đi từ đâu đến thế?
-Tôi hỏi bà tôi. Bà đáp:
-Từ phía trên, từ Nijni đến.
Bà không đi bộ, mà đi tàu thủy đến! Người ta không thể đi bộ trên mặt nước được, ông mãnh ạ! Câu trả lời đó thật là buồn cười và khó hiểu. ở trên nhà này chỉ có mấy người Ba-tư rậm râu và tóc nhuộm; còn ở dưới hầm nhà thì có một ông lão da vàng người Kanmưc làm nghề bán da cừu. Từ trên có thể cưỡi tay vịn cầu thang trượt xuống, hoặc nếu có ngã thì lộn nhào ở cầu thang,
-điều đó tôi biết rất rõ. Nhưng sao lại có chuyện đi trên mặt nước kia chứ? Tất cả câu chuyện của bà tôi đều vô lý, đều lầm lẫn một cách ngộ nghĩnh.
-Thế tại sao cháu lại là ông mãnh?
-Tại cháu hay làm ồn lắm,
-bà tôi vừa nói vừa cười. Tiếng bà tôi nói rất dịu dàng, vui vẻ và trầm bổng. Ngay từ ngày đầu tiên tôi đã thân với bà tôi, và ngay lúc này tôi cũng muốn bà tôi mau mau đưa tôi rời khỏi căn phòng này. Tiếng khóc than và kêu gào của mẹ tôi làm tôi nôn nao và gây cho tôi một cảm giác lo âu mới. Lần đầu tiên tôi trông thấy mẹ tôi như thế. Mẹ tôi vốn rất nghiêm nghị, ít nói, người sạch sẽ, gọn gàng và to lớn như một con ngựa, mẹ tôi có thân hình rắn chắc và đôi cánh tay rất khỏe. Thế mà bây giờ không hiểu sao khắp người mẹ tôi đều sưng phồng lên nom đến khó coi, đầu tóc rối bù, áo quần tơi tả. Mớ tóc thường vẫn vấn gọn trên đầu như một cái mũ lớn vàng óng thì nay xổ xuống một bên vai trần, xõa xuống mặt, còn nửa kia tết thành bím thì cứ lúc la lúc lắc chạm vào khuôn mặt ngủ say của bố tôi. Tôi đứng trong phòng đã lâu, nhưng mẹ tôi không hề nhìn tôi; và vẫn vừa chải đầu cho bố tôi vừa rên rỉ nức nở. Mấy người mujich mặc toàn đồ đen và một tên cảnh sát ló đầu vào cửa phòng. Tên cảnh sát quát tháo, giọng giận dữ:
-Thu dọn nhanh lên! Chiếc khăn san màu đen che cửa sổ phồng lên như một cánh buồm. Tôi bỗng nhớ tới một hôm bố tôi dẫn tôi đi bơi thuyền buồm. Chợt một tiếng sấm nổ vang. Bố tôi cười, kẹp chặt tôi vào hai đầu gối và kêu:
-Không sao cả, đừng sợ, Luc ạ! Đột nhiên mẹ tôi nặng nề đứng lên, rồi lại khuỵu xuống, ngã vật ra; tóc xõa tung ra cả sàn. Khuôn mặt trắng trẻo, mờ lệ tái xanh đi và cũng nhe răng ra như bố tôi, mẹ tôi nói, giọng khiếp sợ:
-Đóng cửa lại… Dẫn thằng Alêcxây ra ngay! Bà tôi đẩy tôi ra rồi nhảy bổ ra cửa, mồm kêu to:
-Bà con thân mến, đừng sợ, cứ để mặc chúng tôi, bà con hãy đi đi, Lạy Chúa tôi! Không phải dịch tả đâu, cháu nó sắp ở cữ đấy. Xin bà con hãy làm phúc làm đức cho! Tôi nấp sau một góc tối, sau cái hòm và nhìn mẹ tôi lăn lộn trên sàn rên siết và nghiến răng ken két. Bà tôi lê vòng quanh, cất giọng dịu dàng và vui vẻ nói:
-Nhân danh Cha và Con! Variusa con hãy cố chịu khó một tí!… Lạy Đức Mẹ Rất Thánh che chở chúng con…
Tôi sợ quá. Mẹ tôi và bà tôi bò lê trên sàn ngay bên cạnh bố tôi, đụng cả vào người bố tôi và rên rỉ, gào thét, còn bố tôi vẫn nằm im không động đậy và dường như đang cười gằn. Cảnh lồng lộn trên sàn ấy Tức Alêcxây, cách gọi tắt thân mật. Tức Vacvara, cách gọi thân mật. kéo dài khá lâu. Mấy lần mẹ tôi gượng đứng dậy, nhưng lại ngã quỵ xuống. Bà tôi lăn ra khỏi phòng giống như một quả bóng lớn màu đen và mềm nhũn. Sau đó đột nhiên trong bóng tối có tiếng trẻ con khóc thét lên.
-Sáng danh Chúa!
-Bà tôi nói.
-Con trai rồi! Và bà châm một ngọn nến. Sau đó chắc tôi ngủ thiếp đi ở góc nhà nên không nhớ gì nữa. ấn tượng thứ hai còn ghi lại trong trí nhớ tôi là một ngày mưa, tại một góc nghĩa địa hoang vắng. Tôi đứng ở một gò đất trơn, nhớp nháp và nhìn xuống cái huyệt trong đó người ta vừa hạ quan tài bố tôi xuống. Dưới đáy huyệt có nhiều nước và có cả ếch nhái nữa; hai con đã leo lên được chiếc nắp quan tài màu vàng. Đứng bên cạnh huyệt có tôi, bà tôi, tên cảnh sát quần áo ướt sũng và hai người mujich vẻ mặt bực tức, tay cầm xẻng. Những hạt mưa ấm và li ti như những hạt thủy tinh nhỏ rắc lên tất cả mọi người.
-Lấp huyệt lại!
-Tên cảnh sát vừa ra lệnh vừa bỏ đi. Bà tôi khóc òa lên, giấu mặt vào một góc khăn vuông. Hai người mujich gò lưng trên chiếc xẻng bắt đầu vội vã hất đất vào huyệt, nước dưới huyệt kêu lõm bõm. Hai con nhái nhảy khỏi nắp quan tài và lao lên thành huyệt, nhưng những hòn đất lại gạt chúng ngã xuống dưới đáy.
-Đi thôi, Liônáa,
-bà tôi vừa nói vừa nắm lấy vai tôi. Tôi vùng ra khỏi tay bà và không muốn rời khỏi nơi đây.
-Lạy Chúa, rõ thật là…
-Bà tôi rền rĩ, không hiểu nói với tôi hay với Chúa. Bà tôi đứng im lặng rất lâu, đầu cúi gằm. Huyệt đã đầy đất, song bà tôi vẫn còn đứng đó. Hai người mujich lấy xẻng đập thình thình vào mặt đất. Một luồng gió thổi tới xua tan và cuốn mưa đi. Bà tôi cầm tay tôi và dẫn tôi đến ngôi nhà thờ ở phía xa giữa vô số thánh giá đen sẫm.
-Tại sao cháu không khóc?
-Bà tôi hỏi, khi chúng tôi bước ra khỏi bờ rào.
-Giá cháu khóc một chút mới phải!
-Cháu không muốn khóc.- Tôi đáp.
-Thôi được, không muốn thì thôi cháu ạ,
-bà tôi khẽ nói. Tất cả chuyện đó thật kỳ lạ: tôi rất ít khóc và chỉ khóc khi nào bực tức, chứ không bao giờ vì đau. Bố tôi luôn luôn chế nhạo những giọt nước mắt của tôi, và mẹ tôi thường quát:
-Cấm không được khóc! Sau cùng bà cháu tôi ngồi trên một chiếc xe ngựa nhỏ và đi dọc theo một đường phố rộng, nhưng rất bẩn, hai bên toàn những ngôi nhà đỏ sẫm. Tôi hỏi bà tôi:
-Thế lũ nhái ấy có bò ra được không hở bà?
-Không, bây giờ thì chúng không bò ra được,
-bà tôi đáp.
-Chúa khắc phù hộ chúng nó! Cả bố tôi lẫn mẹ tôi đều không hay nhắc đến tên Chúa một cách tin tưởng thân mật như vậy.

Mấy ngày sau, tôi, bà tôi và mẹ tôi đi tàu thủy, chúng tôi ngồi trong một buồng nhỏ. Đứa em mới đẻ của tôi là Macxim đã chết, nằm trên chiếc bàn trong góc phòng, xác bọc trong một mảnh vải trắng có thắt dây băng đỏ. Tôi ngồi chót vót trên đống tay nải và hòm xiểng, nhìn qua chiếc cửa sổ lồi và tròn như mắt ngựa. ở phía ngoài cửa kính ướt đẫm dòng nước sùi bọt đục ngầu chảy cuồn cuộn không ngớt. Thỉnh thoảng, một làn sóng lại chồm lên và liếm vào mặt kính. Tôi bất giác nhảy xuống sàn tàu.
-Đừng sợ,
-bà tôi nói và đưa đôi cánh tay mềm mại khẽ nhấc tôi lên đống tay nải như cũ. Làn sương mù màu xám và ẩm ướt bao phủ mặt nước. Xa xa, dải đất sẫm hiện ra rồi lại biến mất trong đám sương mù và nước. Mọi vật xung quanh tôi đều rung chuyển. Chỉ có mẹ tôi đứng yên không động đậy, hai tay để sau gáy, lưng tựa vào thành tàu. Khuôn mặt mẹ tôi sa sầm và đanh lại, cặp mắt nhắm nghiền. Mẹ tôi cứ đứng yên như vậy, không nói không rằng, dường như đã thay đổi hẳn, ngay cả chiếc áo dài mẹ tôi đang mặc cũng xa lạ đối với tôi. Bà tôi nhiều lần khẽ bảo mẹ tôi:
-Varya, con cố ăn một chút gì đi chứ? Mẹ tôi không trả lời và vẫn đứng yên không nhúc nhích. Bà tôi chỉ nói thì thầm với tôi; họa hoằn nói với mẹ tôi thì to hơn, nhưng có phần nào thận trọng, dụt dè. Tôi thấy hình như bà tôi sợ mẹ tôi. Tôi hiểu điều đó, nhờ thế mà hai bà cháu càng gần gũi nhau hơn.
-Xaratôp kia rồi!
-Đột nhiên mẹ tôi nói to, giọng bực tức.
-Thủy thủ đâu rồi? Đấy, những lời nói của mẹ tôi cũng kỳ lạ khó hiểu thế đấy: Xaratôp, thủy thủ. Một người đàn ông to lớn, tóc bạc, mặc quần áo xanh, bước vào, tay bưng một chiếc hòm con. Bà tôi đỡ lấy chiếc hòm và đặt xác em tôi vào đó. Rồi bà tôi giơ thẳng tay bê chiếc hòm ra cửa, nhưng người bà to béo quá, chỉ lách nghiêng mới có thể lọt qua được chiếc cửa hẹp của căn buồng nhỏ bé, nên bà cứ lúng ta lúng túng mãi trước cửa nom đến buồn cười.
-ôi, mẹ,
-mẹ tôi kêu lên, đỡ lấy chiếc quan tài ở tay bà tôi, rồi cả hai người cùng biến mất. Tôi ở lại trong buồng một mình, chăm chú nhìn người đàn ông mặc quần áo xanh. Tức Vacvara, cách gọi tắt.
-Thế nào, em cháu đi mất rồi ư?
-Người mặc quần áo xanh cúi xuống nhìn tôi và nói.
-Bác là ai?
-Thủy thủ.
-Còn Xaratôp là ai?
-Là một thành phố. Nhìn qua cửa sổ mà xem, nó kia kìa! Qua tấm cửa kính tôi nhìn thấy một dải đất dường như đang di động. Dải đất màu sẫm và dốc tuột. Làn sương nhẹ tỏa lên, giống một khoanh bánh mì lớn vừa mới cắt từ một ổ bánh ra.
-Bà cháu đi đâu thế bác?
-Đi chôn em cháu.
-Đem chôn nó xuống đất hở bác?
-Chứ sao? Phải chôn đi. Tôi kể cho bác thủy thủ nghe câu chuyện người ta đã chôn sống lũ nhái như thế nào lúc chôn cất bố tôi. Bác bế xốc tôi lên, ghì chặt vào người và hôn tôi:
-Chà, cháu chưa hiểu gì cả!
-Bác nói.
-Không nên thương hại lũ nhái ấy làm gì. Chúa khắc phù hộ chúng! Cháu hãy thương lấy mẹ cháu. Cháu thấy đấy, đau khổ đã làm cho mẹ cháu héo hon đi như thế đấy! Tiếng còi tàu rúc, rít lên trên đầu chúng tôi. Tôi đã biết đây là chiếc tàu thủy nên không sợ. Bác thủy thủ vội đặt tôi xuống sàn và vừa chạy ra ngoài vừa nói:
-Bác phải chạy đi đằng này một tí! Tôi cũng muốn chạy theo. Tôi bước ra ngoài cửa. Ngoài hành lang hẹp tranh tối tranh sáng không có qua một bóng người. Gần cửa buồng có những bậc cầu thang nẹp đồng bóng nhoáng. Nhìn lên trên, tôi thấy một đám người xách bị và tay nải. Rõ ràng là tất cả mọi người sắp lên bờ, tôi cũng phải lên thôi. Nhưng khi tôi len vào giữa đám đông ở cạnh thành tàu trước chiếc cầu bắc lên bờ, mọi người đều nhìn tôi kêu lên:
-Con cái nhà ai thế này? Mày con ai?
-Cháu không biết. Người ta xô đẩy tôi, lay tôi, sờ mó tôi hồi lâu. Cuối cùng bác thủy thủ tóc bạc chạy đến, túm lấy tôi và phân trần:
-Thằng bé này ở Axtrakhan, nó ở trong buồng tàu chạy ra… Bác bế tôi bước nhanh vào buồng, đặt tôi vào giữa đống tay nải rồi vừa đi ra, vừa giơ ngón tay ra dọa tôi:
-Liệu hồn đấy! Tiếng ồn ào trên đầu mỗi lúc một nhỏ dần, chiếc tàu không lắc lư mạnh và không khuấy động trên mắt nước nữa. Cửa sổ căn buồng bị một bức thành ướt chắn lấp. Trong buồng tối om, ngột ngạt, đống tay nải như phồng ra, ép lấy người tôi. Tất cả đều làm cho tôi khó chịu. Có lẽ người ta sẽ để một mình tôi ở lại vĩnh viễn trong chiếc tàu vắng ngắt này chăng? Tôi lại gần cửa buồng. Cửa không mở được, tôi không làm cách nào xoay được quả đấm bằng đồng.
Tôi cầm chai sữa đập thật mạnh vào quả đấm. Chiếc chai vỡ toang, sữa đổ tung tóe xuống chân tôi chảy đầy cả vào đôi ủng. Buồn rầu vì thất bại, tôi lên nằm trên đống tay nải, khóc ti tỉ và ngủ thiếp đi, mắt vẫn ướt lệ. Khi tôi tỉnh dậy, chiếc tàu thủy lại khuấy động và lắc lư mạnh, cửa sổ căn buồng sáng rực như mặt trời. Bà tôi ngồi cạnh tôi, chải đầu và nhăn nhó, nói thì thầm cái gì nghe không rõ. Tóc bà tôi đen nhánh, ánh xanh, dày kỳ lạ, phủ kín cả hai vai, xõa xuống ngực, xuống đầu gối và rải cả ra sàn. Một tay khẽ nâng mớ tóc trên sàn lên và ướm trên tay, bà tôi đưa một cách khó khăn chiếc lược thưa bằng gỗ vào mớ tóc dày. Bà tôi bĩu môi, cặp mắt đen long lên đầy tức giận, và trong mớ tóc dày ấy khuôn mặt bà tôi trở nên bé nhỏ và buồn cười lạ. Hôm nay bà tôi có vẻ dữ tợn, nhưng khi tôi hỏi tại sao tóc bà lại dày như vậy, bà tôi trả lời, giọng cũng dịu dàng ấm áp như hôm qua:
-Có lẽ Chúa trừng phạt bà đấy. Tóc với tai chết tiệt ở đâu ấy, cứ thử chải nó mà xem! Hồi còn trẻ bà thích khoe khoang về cái bờm này, nhưng nay về già bà lại nguyền rủa nó! Cháu ngủ đi! Hãy còn sớm, mặt trời vừa mới mọc thôi…
-Cháu không buồn ngủ nữa!
-Thì thôi vậy,
-bà tôi bằng lòng ngay; và vừa tết tóc vừa nhìn về phía chiếc đi-văng, nơi mẹ tôi đang nằm ngủ, ngửa mặt lên, người duỗi thẳng.
-Hôm qua cháu đập vỡ chai sữa như thế nào? Kể khẽ cho bà nghe! Lời nói của bà tôi đặc biệt trầm bổng nghe như tiếng hát, nó khắc sâu vào trí nhớ tôi dễ dàng, như những đóa hoa, và cũng dịu dàng, rực rỡ đầy nhựa sống. Khi bà tôi mỉm cười, hai con ngươi đen sẫm như quả anh đào, nở ra, long lanh tia sáng dịu hiền khôn tả. Nụ cười để lộ ra hai hàm răng trắng ngần chắc chắn, và mặc dù trên đôi má ngăm ngăm đen đã có vô số nếp nhăn, khuôn mặt của bà tôi hình như vẫn tươi trẻ. Nhưng cái mũi xôm xốp có hai lỗ mũi phồng lên và cái chóp mũi đỏ đã làm cho khuôn mặt xấu đi khá nhiều. Bà tôi hít thuốc lá đựng trong cái hộp đen khảm bạc. Toàn thân bà tôi đen sẫm, nhưng từ bên trong -qua đôi mắt -ánh lên những tia sáng ấm áp, tươi vui và không bao giờ tắt. Tuy lưng còng, gần như gù, và thân hình rất to béo, nhưng bà tôi đi lại nhẹ nhàng, nhanh nhẹn như một con mèo to, và cũng có vẻ dịu dàng mềm mại giống hệt như con vật dễ thương ấy. Trước kia gặp bà tôi; tôi như người ngủ say, đắm chìm trong bóng tối; nhưng bà tôi xuất hiện, đã đánh thức tôi dậy và đưa tôi ra ngoài ánh sáng. Với một sợi dây vô tận bà tôi nối tất cả mọi vật xung quanh tôi lại, đan thành một tấm đăng-ten nhiều màu sắc, và lập tức trở thành người bạn thân thiết suốt đời tôi, một người gần gũi nhất với lòng tôi, một con người dễ hiểu nhất và yêu quý nhất. Tấm lòng yêu mến vô tư của bà tôi đối với mọi người đã làm cho tâm hồn tôi thêm phong phú, đã truyền sức mạnh không gì khuất phục nổi để đương đầu với những ngày tháng gieo neo.

Bốn mươi năm về trước tàu thủy chạy rất chậm, chúng tôi phải đi khá lâu mới tới Nijni. Tôi còn nhớ rất rõ những ngày đầu tiên vô cùng đẹp đẽ ấy. Trời rất đẹp, suốt từ sáng đến tối, tôi với bà tôi đứng trên boong tàu dưới bầu trời trong sáng, giữa đôi bờ sông Vonga được mùa thu thêu lên một màu vàng óng, trông như hai dải lụa. Con tàu màu gạch tươi đi ngược dòng sông, bánh lái uể oải khuấy động mặt nước xanh sẫm. Con tàu kéo theo ở đầu sợi dây cáp dài một chiếc sà-lan xám trông giống như con bọ đất. Mặt trời lững lờ di chuyển trên sông Vonga; cảnh vật xung quanh đổi mới từng giờ từng phút. Những ngọn đồi xanh giống như những nếp gấp lộng lẫy trên bộ y phục sang trọng của mặt đất; hai bên bờ sông, các thành phố và làng mạc nom xa xa như những chiếc bánh; thỉnh thoảng có chiếc lá thu vàng bập bềnh trên mặt nước.
-Cháu nhìn xem, đẹp chưa kìa!
-Chốc chốc bà tôi lại nhắc lại và đi từ thành tàu bên này sang thành bên kia. Bà tôi rạng rỡ hẳn lên, đôi mắt mở to vì vui sướng. Bà tôi mải nhìn lên bờ, nhiều lúc quên cả tôi. Bà tôi đứng cạnh thành tàu, khoanh tay trước ngực, mỉm cười, im lặng, nước mắt rưng rưng. Tôi giật giật chiếc váy sẫm màu có thêu hoa của bà tôi.
-Gì thế? -Bà tôi giật mình.
-Bà tưởng như đang thiu thiu ngủ và nằm mơ ấy.
-Sao bà lại khóc?
-Bà vui sướng đấy cháu ạ, mà cũng vì tuổi già nữa! -Bà tôi vừa nói vừa mỉm cười.
-Bà đã già rồi, bà đã trải qua sáu mươi xuân rồi còn gì nữa! Sau khi hít thuốc lá, bà tôi bắt đầu kể cho tôi nghe những câu chuyện kỳ quái về bọn cướp phúc đức, về các vị thánh, về những loài dã thú và lũ ác quỷ.
Những chuyện thần thoại được bà tôi kể bằng một giọng khe khẽ, đầy bí ẩn. Bà tôi cúi xuống, nhìn thẳng vào mắt tôi, hai con ngươi mở rộng như muốn truyền vào lòng tôi một sức mạnh lôi cuốn tôi lên. Bà tôi nói y như hát, và càng nói lời bà tôi càng vang lên nhịp nhàng. Nghe bà tôi nói thật thú vị không thể tả được. Tôi lắng nghe và vòi thêm:
-Kể nữa đi bà!
-ừ, thì kể nữa: ngày xưa có một vị gia thần ngồi ở phía dưới lò sưởi, bị mì ống cắm vào chân. Lão vừa lắc la lắc lư vừa rên rỉ và khóc tỉ ti: “ôi, chuột con ơi, đau quá, ôi chuột con ơi, ta không thể chịu nổi!” Bà tôi nhấc một chân lên, hai tay ôm lấy và nhăn mặt lại giãy giãy nom đến buồn cười, y như chính bà tôi đau vậy. Các bác thuỷ thủ rậm râu và hiền lành đứng xung quanh lắng nghe, cười khúc khích, khen ngợi bà tôi và cũng yêu cầu:
-Bà kể chuyện nữa đi! Sau đó họ bảo:
-Mời bà cùng đi ăn tối với chúng tôi! Khi ăn, họ mời bà tôi uống rượu vôtka, còn tôi thì được ăn dưa hấu, dưa bở. Việc này phải làm giấu, vì trên tàu có một người cấm ăn hoa quả, lão ta tịch thu tất cả hoa quả và đem quẳng xuống sông.
Lão ăn mặc giống hệt một viên cảnh sát, cũng có những cúc áo bằng đồng, và lúc nào cũng say mềm. Mọi người thấy lão đều lẩn tránh. Mẹ tôi rất ít khi ra boong tàu và thường đứng lặng lẽ một mình, riêng ra một chỗ. Thân hình mẹ tôi to lớn, cân đối, khuôn mặt tối sầm và đanh lại, mái tóc vàng hoe, tết bím, vấn trên đầu thành một vòng nặng trĩu -toàn thân mẹ tôi trông thật lực lưỡng và rắn chắc. Giờ đây hình ảnh mẹ tôi hiện lên trong óc tôi như qua một lớp sương mù hoặc qua một đám mây trong vắt, trong đó lộ ra đôi mắt xám xa lạ và lạnh lùng cũng to như đôi mắt bà tôi. Có một lần mẹ tôi nói, giọng nghiêm nghị:
-Người ta cười mẹ đấy, mẹ ạ!
-Mặc họ!
-Bà tôi đáp vẻ vô tư.
-Cho họ cười, kệ họ. Tôi còn nhớ vẻ vui mừng như trẻ con của bà tôi khi nhìn thấy Nijni. Bà tôi kéo tay tôi, đẩy tôi về phía thành tàu và kêu lên:
-Cháu trông kìa, cháu trông kìa, đẹp không! Nijni đấy, cháu ạ! Nhờ ơn Chúa, thành phố mới đẹp làm sao! Cháu trông kìa, nhà thờ như bay là là trên mặt đất ấy! Rồi bà tôi yêu cầu mẹ tôi, giọng gần như khóc:
-Variusa, con nhìn đi chứ! Có lẽ con quên cả rồi cũng nên! Hãy vui lên con! Mẹ tôi mỉm cười, ủ rũ. Con tàu dừng lại trước một thành phố mỹ lệ, giữa dòng sông chật ních thuyền bè, tua tủa hàng trăm cột buồm nhọn hoắt. Một chiếc thuyền lớn đầy ắp người bơi lại gần thành tàu và ngoắc cái sào có móc vào chiếc thang người ta thả xuống. Những người trên thuyền lần lượt leo lên boong tàu. Một ông già bé nhỏ, gầy đét, leo lên rất nhanh, trước tất cả mọi người. ông cụ mặc bộ quần áo dài đen, râu màu hung và óng ánh như kim tuyến, mũi giống như mỏ chim và có đôi mắt xanh lục. Vì dịch tả đang hoành hành lúc bấy giờ nên phải làm như vậy.
-Bố!
-Mẹ tôi kêu tướng lên, giọng khàn khàn. Mẹ tôi nghiêng người về phía ông cụ. ông ôm lấy đầu mẹ tôi và đưa đôi bàn tay bé nhỏ, đỏ tía, vuốt nhanh vào má mẹ tôi. Rồi ông kêu lên, giọng the thé:
-Thế nào! Cô ả ngốc? A, a! Con thấy đấy… Chao ôi, lũ chúng bay… y… y thật là… Bà tôi hình như ôm hôn tất cả mọi người một lúc, cứ xoay tít như một chiếc chong chóng. Bà tôi vừa đẩy tôi đến trước mặt mọi người vừa nói vội vã với tôi:
-Nào, nhanh nhanh lên! Đây là cậu Mikhailô, đây là cậu Iakôp… mợ Nataláa, đây là các em cháu, cả hai cùng tên là Xasa, em gái Katêrina, tất cả đều là họ hàng nhà ta đấy. Cháu xem có đông không! ông tôi hỏi bà tôi:
-Bà nó có khỏe không? ông bà tôi ôm nhau ba lần. Rồi ông tôi kéo tôi ra khỏi đám người chen chúc, ôm lấy đầu và hỏi:
-Còn thằng này, mày là con cái nhà ai hả?
-Một thằng bé ở Axtrakhan, từ trong buồng tàu chạy ra…
-Nó nói cái gì thế?
-ông tôi hỏi mẹ tôi, và không chờ trả lời, đẩy tôi ra và nói:
-Đôi gò má giống bố như đúc… Thôi xuống thuyền đi! Tới bờ, chúng tôi cả tốp leo lên dốc, theo con đường rải đá cuội to, giữa hai bờ dốc cao phủ một lớp cỏ vàng hoe đã bị xéo nát. ông tôi và mẹ tôi đi đầu. ông tôi chỉ thấp đến ngang vai mẹ tôi, bước ngắn, nhưng đi rất nhanh. Mẹ tôi nhìn ông tôi từ trên xuống và bước đi như không chấm đất. Hai cậu tôi lặng lẽ bước theo sau: cậu Mikhain tóc đen mượt, người gầy đét giống ông tôi; cậu Iakôp tóc quăn và vàng hoe; có cả mấy người đàn bà to béo mặc áo dài lòe loẹt và năm sáu đứa trẻ con, đứa nào cũng lớn hơn tôi và đứa nào cũng im lặng. Tôi đi cùng với bà tôi và mợ Nataláa thấp nhỏ. Sắc mặt xanh xao, cặp mắt xanh biếc, bụng to tướng, mợ tôi thường phải dừng lại luôn và nói thì thầm hổn hển:
-ối, tôi không sao đi được nữa!
-Chúng nó bắt tội mày đi làm gì cơ chứ!
-Bà tôi càu nhàu vẻ tức giận.
-Cả nòi cả ổ đều ngu ngốc! Cả người lớn lẫn trẻ con, tôi không thích một ai cả. Tôi cảm thấy mình xa lạ giữa họ, ngay cả bà tôi hình như cũng mờ nhạt đi và trở nên xa cách đối với tôi. Đặc biệt tôi không thích ông tôi tí nào. Tôi cảm thấy ngay ông tôi là kẻ thù, ông làm cho tôi phải đặc biệt chú ý tới ông và gây cho tôi một mối hiếu kỳ lo sợ. Chúng tôi đi đến đỉnh dốc. ở tít trên cao, dựa lưng vào bờ dốc bên phải, bắt đầu phố, có một ngôi nhà thấp một tầng, sơn màu hồng nhem nhuốc, mái lụp sụp và cửa sổ nhô ra ngoài. Đứng ngoài đường nhìn vào, tôi tưởng ngôi nhà cũng khá rộng rãi, nhưng bên trong lại phân thành những buồng nhỏ, tranh tối tranh sáng, rất chật chội. Chỗ nào cũng thấy những người bực tức chạy ngược chạy xuôi như trên một con tàu cập bến và một lũ trẻ con lồng lộn như đàn chim sẻ hay cướp phá. Chỗ nào cũng có mùi hăng hăng là lạ. Tôi đi ra sân. Cái sân cũng đáng ghét: khắp sân treo đầy những tấm vải lớn ướt đẫm, để ngổn ngang những thùng nước đặc nhiều màu. Trong thùng cũng ngâm vải. ở một góc tường, trong trái nhà thấp lè tè đã xiêu vẹo, củi cháy rừng rực trong bếp lò. Có cái gì sôi lên sùng sục, và một người mà tôi không trông thấy nói to những tiếng kỳ lạ:
-Xantan
-fucxin
-cupơrôx…

Chương 2

Một cuộc sống sôi nổi nhiều màu sắc, kỳ quặc đến khó tả bắt đầu và trôi qua nhanh chóng lạ thường. Tôi nhớ lại cuộc sống đó như nhớ lại một chuyện cổ tích hãi hùng do một thiên tài tốt bụng nhưng chân thật một cách tàn nhẫn đã khéo kể lại. Giờ đây khi hồi tưởng lại quá khứ, chính tôi đôi khi cũng khó tin được rằng tất cả thực sự là như vậy. Có nhiều điều tôi muốn tranh cãi, muốn phủ nhận, chính vì cuộc sống tối tăm của “cái nòi ngu ngốc” ấy có quá nhiều những điều tàn nhẫn. Nhưng sự thật vẫn hơn lòng thương hại, vả lại câu chuyện tôi kể đây đâu có phải nói về bản thân tôi, mà nói về cuộc sống chật hẹp, ngột ngạt, đầy những ấn tượng khủng khiếp mà người thường dân Nga đã sống và hiện đang sống. Nhà ông tôi đầy một không khí thù hằn giữa người nọ với người kia như đám sương mù dày đặc; sự thù hằn đó đã đầu độc người lớn, và thậm chí đến cả trẻ con cũng góp phần tích cực vào đó. Sau này, qua những câu chuyện bà tôi kể, tôi được biết rằng mẹ tôi trở về đúng vào lúc các cậu tôi đang nằng nặc đòi ông tôi phải chia gia tài. Việc mẹ tôi đột nhiên trở về càng làm tăng thêm ý muốn ra ở riêng của họ. Họ sợ rằng mẹ tôi sẽ đòi lại số của hồi môn thuộc phần mẹ tôi nhưng bị ông tôi giữ lại vì mẹ tôi đã “tự ý” đi lấy chồng, không được ông tôi ưng thuận. Các cậu tôi cho rằng số của hồi môn đó phải được đem chia cho họ. Từ lâu họ cũng đã cãi nhau kịch liệt xem ai là người được mở xưởng ở trong thành phố và ai sẽ ở khu ngoại ô Kunavinô, bên kia sông ska. ít ngày sau, khi chúng tôi tới, một vụ cãi cọ đã nổ ra ở nhà bếp giữa bữa ăn trưa: các cậu tôi đột nhiên chồm dậy, nhoài người qua mặt bà và bắt đầu gầm rít, la hét vào mặt ông tôi, răng nhe ra, gầm gừ nhau như một bầy chó. ông tôi đỏ mặt tía tai, lấy chiếc thìa nện xuống mặt bàn và thét váng lên như tiếng gà trống:
-ông sẽ cho chúng mày đi ăn mày cả nút! Bà tôi mặt nhăn nhó một cách đau đớn, nói:
-Cứ đem chia tuốt cho chúng nó, ông ơi! ông sẽ được yên thân. Cho tất chúng nó đi!
-Xì, bà lại định về hùa với chúng nó phải không? ông tôi thét lên, hai mắt long lanh. Và thật là lạ, một người bé nhỏ như ông tôi mà lại có thể thét to đến thế. Mẹ tôi rời khỏi bàn, đứng dậy và từ từ đi lại phía cửa sổ, đứng xoay lưng về phía mọi người. Bỗng cậu Mikhain vung tay đấm vào mặt người em, cậu này thét lên, lăn xả vào anh và cả hai người lăn trên sàn, vừa thở, vừa rên, vừa chửi rủa.
Lũ trẻ con òa lên khóc. Mợ Nataláa đang có mang kêu than một cách tuyệt vọng. Mẹ tôi kéo mợ đi ra chỗ khác. Epgênáa, mụ vú nuôi mặt rỗ, vui tính, đuổi lũ trẻ ra khỏi nhà bếp. Ghế đổ lổng chổng; anh thợ học nghề Txưganôc, một thanh niên có đôi vai rộng, cưỡi lên lưng cậu Mikhain, còn bác thợ cả Grigôri Ivanôvitạ hói đầu, rậm râu và đeo kính râm thì bình tĩnh lấy một chiếc khăn mặt trói hai tay cậu ấy lại. Cậu Mikhain vươn cổ về phía sau, bộ râu đen và thưa cọ xuống mặt sàn, miệng thở khò khè một cách khủng khiếp. ông tôi thì vừa chạy xung quanh bàn vừa kêu la thảm thiết:
-Anh em, máu mủ với nhau mà thế đấy! Chao ôi, lũ chúng bay… y… y thật là… Ngay từ đầu cuộc cãi nhau, tôi sợ quá, đã leo phóc lên lò sưởi. Từ trên đó tôi kinh ngạc nhìn Bà tôi đang lấy nước ở chậu thau bằng đồng và rửa những vết máu trên mặt cậu Iakôp. Cậu vừa khóc vừa giậm chân xuống mặt sàn, còn bà tôi thì nói bằng một giọng khó nhọc:
-Quân đáng nguyền rủa, đồ mọi rợ, phải tu tỉnh lại chứ! ông tôi vắt chiếc áo bị rách toạc lên vai và thét bà tôi:
-Này, mụ phù thủy! Mụ đã đẻ ra một lũ súc sinh đấy! Khi cậu Iakôp đã đi khỏi, bà tôi chạy lại góc nhà, kêu gào thảm thiết:
-Lạy Đức Bà Marya, Mẹ của Chúa Lời, xin Đức Bà đừng để con cái chúng con sa vào sự dữ. ông tôi đứng lên, ngoảnh về phía bà tôi, đưa mắt nhìn chiếc bàn trên đó mọi thứ còn đổ ngổn ngang, lênh láng và nói nhỏ:
-Bà liệu mà theo dõi chúng nó, kẻo chúng nó sẽ hành tội con Vacvara cho mà xem, chưa biết chừng…
-Thôi đi, đừng nghĩ nhảm nữa! Cởi áo ra, đưa đây tôi vá cho… Rồi bà tôi ôm lấy đầu ông tôi hôn vào trán. ông tôi trông thật bé nhỏ bên cạnh bà tôi và cứ úp mặt vào vai bà tôi:
-Có lẽ phải chia thôi, bà nó ạ…
-Phải, phải chia đi, ông ạ! Hai người nói chuyện với nhau hồi lâu, lúc đầu còn thân mật, sau ông tôi giậm chân xuống sàn như con gà trống trước lúc chọi nhau, giơ ngón tay ra dọa bà tôi và thều thào nói to:
-Tôi biết bà lắm, bà chiều chúng nó lắm! Thằng Miska của bà chỉ là đứa gian giảo, còn thằng Iaska thì là một tên vô lại! Rồi chúng nó sẽ nốc đến hết nhẵn của cải của tôi cho mà xem, chúng sẽ đem phung phí hết. Ngồi trên mặt lò sưởi, tôi trở mình không khéo, làm rơi chiếc bàn là. Chiếc bàn là lăn ầm ầm trên bậc lò sưởi rồi rơi tõm vào thùng nước rác. ông tôi nhảy lên bậc, kéo cổ tôi xuống, nhìn chằm chằm vào mặt tôi, dường như mới trông thấy tôi lần đầu.
-Ai đặt mày ngồi lên lò sưởi? Mẹ mày phải không?
-Cháu tự leo lên lấy.
-Nói láo.
-Không, cháu tự leo lên một mình thật mà. Vì cháu sợ. ông tôi đẩy tôi sang bên và khẽ bớp vào trán tôi.
-Y hệt như cái thằng bố mày! Thôi, cút đi! Được chuồn khỏi bếp, tôi mừng quýnh.

Tôi thấy rõ ông tôi thường đưa cặp mắt xanh thông minh và tinh nhanh theo dõi tôi, và tôi sợ ông tôi lắm. Tôi còn nhớ là tôi luôn luôn muốn lẩn tránh cặp mắt nẩy lửa đó. Tôi cảm thấy ông tôi là một người độc ác, nói với ai cũng bằng một giọng giễu cợt, châm chọc để gây sự và chọc tức mọi người.
-Chao ôi, lũ chúng bay… y… y thật là!
-ông thường la như vậy; tiếng “y” kéo dài của ông luôn gây cho tôi một cảm giác buồn rầu hoặc sợ hãi. Vào giờ nghỉ, lúc uống trà buổi tối, khi ông tôi, các cậu tôi và những người làm từ xưởng bước vào bếp, vẻ mệt mỏi, tay đầy xantan và cháy sém vì cupơrôx, tóc buộc băng vải, tất cả nom giống như những bức tượng thánh đen sạm đặt ở góc bếp. Vào giờ phút hãi hùng đó, ông tôi thường ngồi đối diện với tôi và chuyện trò với tôi nhiều hơn những đứa cháu khác, khiến chúng phải ghen tị. ông tôi dáng người cân đối, mảnh khảnh, tư thế ung dung. Chiếc gi-lê bằng vải xa-tanh thêu đã cũ sờn, áo sơ-mi vải hoa thì nhàu nát và trên hai đầu gối quần lộ ra những miếng vá lớn. Tuy vậy trông ông tôi ăn mặc vẫn có vẻ sạch sẽ và chỉnh tề hơn các cậu tôi mặc vét-tông, sơ-mi ngực hồ cứng và quàng khăn lụa.
Tôi đến được vài hôm thì ông tôi bắt tôi học cầu kinh. Tất cả những đứa trẻ khác ở trong nhà đều lớn tuổi hơn tôi và chúng đã học đọc, học viết do một thầy phụ lễ của nhà thờ Đức Mẹ lên Trời dạy; qua cửa sổ của ngôi nhà có thể nhìn thấy những nóc nhà thờ tròn vàng chói. Mợ Nataláa dạy tôi học. Mợ là một người trầm lặng, sợ sệt, mặt trông rất trẻ con và có cặp mắt trong suốt khiến tôi có cảm tưởng rằng qua cặp mắt đó có thể nhìn thấy tất cả những gì ở phía sau mợ. Tôi thích nhìn vào mắt mợ thật lâu, không chớp. Mợ lim dim mắt, quay đầu tứ phía và khe khẽ năn nỉ tôi, giọng gần như thì thầm:
-Nào, cháu nói đi: “Lạy Cha chúng tôi ở trên trời…” Và nếu tôi có hỏi “Iakô jê là cái gì?” thì mợ sợ hãi nhìn xung quanh khuyên tôi:
-Cháu đừng hỏi, như thế không tốt! Cháu chỉ việc nói theo mợ: “Lạy Cha chúng tôi…” Nghe không? Tôi băn khoăn: tại sao hỏi lại không tốt? Tiếng “Iakô jê” như có nghĩa gì bí ẩn, và tôi cố tình tìm mọi cách xuyên tạc đi:
-“Iakôp jê”, “Ia vơ kôjê”… Nhưng mợ tôi cứ kiên nhẫn chữa lại. Mặt mợ nhợt nhạt như sắp tan ra thành nước, giọng nói luôn luôn đứt quãng:
-Đừng, cháu chỉ việc nói: “Iakô jê” thôi… Nhưng bản thân mợ và cả những lời nói đều không tự nhiên. Điều đó khiến tôi bực mình và làm cho tôi không thể nào thuộc được bài kinh. Một hôm ông tôi hỏi:
-Thế nào, Aliôska, hôm nay mày làm gì? Lại đi chơi rồi! Cứ nhìn thấy cái bướu trên trán mày là đủ biết. Chơi mà bươu đầu bươu trán lên như thế thì không phải là khôn đâu! Thế còn bài kinh “Lạy Cha” đã thuộc chưa? Mợ tôi đáp khẽ:
-Nó tối dạ lắm. ông tôi cười khẩy, cặp lông mày màu hung khẽ rướn lên:
-Nếu vậy thì phải nện cho nó một trận! Và ông lại hỏi tôi:
-Bố mày đã nện cho mày bao giờ chưa? Không hiểu ông tôi nói gì, tôi lặng im. Mẹ tôi nói:
-Không, Macxim không đánh nó bao giờ, còn cấm cả con nữa.
-Sao vậy?
-Bố nó bảo không thể dạy bằng roi vọt được.
-Rõ đồ ngốc, khốn khổ mồ ma cái thằng Macxim ấy. Lạy Chúa tha thứ cho con!
-ông tôi nói rành rọt, giọng giận dữ.
Những lời nói đó làm tôi bực mình. ông tôi nhận ra điều đó.
-Mày làm gì mà bĩu môi bĩu mỏ thế? Thật là thằng… Rồi, vuốt mái tóc hung bạc trên đầu, ông tôi nói thêm:
-Được, đến thứ bảy này tao sẽ tẩn cho thằng Xasa một mẻ về chuyện chiếc đê cho mà xem!
-Tẩn là thế nào?
-Tôi hỏi. Tất cả mọi người cười phá lên, ông tôi nói:
-Được, rồi khắc biết… Tôi nấp vào một chỗ và tưởng tượng: “tẩn” tức là thêu viền những áo dài người ta đưa nhuộm, còn “nện” và “đánh” thì chỉ là một, có lẽ thế. Người ta thường đánh ngựa, đánh chó, đánh mèo. ở Axtrakhan bọn cảnh sát đánh người Ba-tư, cảnh đó tôi đã thấy. Nhưng tôi chưa thấy người ta đánh trẻ con như vậy bao giờ, và ở đây tuy các cậu tôi cũng có khi cốc vào trán, khi thì bợp vào gáy lũ em họ tôi, nhưng lũ trẻ đối với việc đó có vẻ xem thường. Bị đánh, chúng chỉ xoa qua loa chỗ đau rồi thôi. Nhiều lần tôi hỏi chúng:
-Có đau không? Và bao giờ chúng cũng trả lời một cách can đảm:
-Không, chẳng đau gì cả! Câu chuyện lôi thôi về chiếc đê tôi có được biết. Chiều chiều, khoảng từ lúc uống trà cho đến bữa ăn tối, các cậu tôi và bác thợ cả thường can những mảnh vải nhuộm lại với nhau thành một “tấm” và gắn vào đó những cái nhãn bằng bìa. Để đùa bác Grigôri mắt đã gần mù, cậu Mikhain sai một đứa cháu lên chín tuổi lấy chiếc đê của bác Grigôri hơ lên ngọn nến. Thằng Xasa lấy chiếc kẹp vẫn dùng để gạt tàn nến cặp chiếc đê, hơ thật nóng, rồi lừa đặt xuống phía dưới tay bác Grigôri, và nấp đằng sau lò sưởi. Vừa lúc đó, ông tôi đi vào, ngồi xuống làm việc và đút ngay ngón tay vào chiếc đê nóng bỏng. Tôi còn nhớ, khi tôi nghe tiếng ồn ào chạy vào bếp thì ông tôi đang giơ những ngón tay bị bỏng lên nắm lấy tai, nhảy choi choi và la lớn:
-Đứa nào nghịch thế này? Đồ dã man! Cậu Mikhain cúi xuống bàn, lấy ngón tay búng chiếc đê thổi cho nguội. Bác thợ cả vẫn điềm nhiên ngồi khâu, những hình bóng nhảy nhót trên chiếc đầu hói lớn của bác. Cậu Iakôp chạy vào, nấp sau góc lò sưởi và cười khúc khích. Bà tôi thì đang xát khoai sống bằng một chiếc bàn xát.
-Thằng Xaska Iakôvôp nghịch đấy!- Cậu Mikhain bỗng nhiên nói.
-Nói láo!
-Cậu Iakôp từ phía sau lò sưởi nhảy ra, la lên. Trong một góc bếp, thằng con cậu Iakôp vừa khóc mếu vừa kêu:
-Không phải đâu bố ạ! Chính bác ấy xui con đấy! Bao ngón tay dùng khi khâu vá.
Hai cậu tôi bắt đầu cãi nhau. Còn ông tôi thì bỗng nguôi ngay. ông tôi lấy bột khoai đắp vào ngón tay rồi im lặng bước ra, kéo theo cả tôi ra ngoài. Tất cả mọi người đều nói rằng cậu Mikhain có lỗi. Cho nên đến lúc uống trà tôi hỏi xem cậu ấy có bị “tẩn” và bị “nện” không?
-Đáng lắm.
-ông tôi vừa càu nhàu vừa liếc nhìn tôi. Cậu Mikhain đấm tay xuống mặt bàn, thét mẹ tôi:
-Chị Vacvara, có bảo thằng chó con ấy câm đi không! Tôi thì vặn cổ nó đi bây giờ! Mẹ tôi nói:
-Cứ thử đụng vào nó mà xem… Thế là tất cả mọi người đều im lặng. Mẹ tôi có lối nói cộc lốc, những lời nói ấy như có sức mạnh đánh lui địch thủ, và làm cho họ phải hạ mình. Tôi thấy rõ là tất cả mọi người đều sợ mẹ tôi. Ngay cả ông tôi cũng nói với mẹ tôi nhẹ nhàng, không giống như nói với những người khác. Thấy vậy tôi rất thích thú, và thường khoe với lũ em họ với vẻ tự hào:
-Mẹ tớ mạnh nhất! Chúng cũng chẳng phản đối. Nhưng rồi câu chuyện xảy ra hôm thứ bảy sau đã làm lay chuyển lòng tin của tôi đối với mẹ tôi.

Trước hôm thứ bảy, tôi cũng phạm phải một lỗi nặng. Tôi rất thích xem người lớn làm thay đổi màu vải, thật là tài tình: chẳng hạn người ta lấy vải vàng nhúng vào nước màu đen, thế là vải hóa thành màu xanh thẫm, “màu chàm”; cho màu xám vào nước màu gạch thì trở thành đo đỏ, màu “boócđô”. Thật là dễ dàng, nhưng khó hiểu. Tôi cũng muốn tự mình nhuộm một vật gì, tôi liền nói chuyện đó với thằng Xasa Iakôvôp. Nó là một thằng bé rất đứng đắn, muốn được người lớn không coi thường, đối với ai cũng dịu dàng, sẵn sàng giúp đỡ tất cả mọi người trong mọi trường hợp. Người lớn khen nó dễ bảo, thông minh, nhưng ông tôi thường lườm nó và nói:
-Đồ nịnh hót! Thằng Xasa Iakôvôp người gầy khẳng, đen thui, hai mắt lồi như hai mắt tôm. Nó thường nói vội vã, lí nhí, hay nuốt tiếng và lúc nào cũng lấm lét nhìn quanh như định chạy trốn đi đâu. Hai con ngươi màu nâu sẫm của nó thường không động đậy, nhưng mỗi khi nó bị kích động lại rung lên cùng với lòng trắng. Tôi không ưa nó. Tôi thích thằng Xasa Mikhailôp hơn. Nó là một thằng bé chẳng có gì đáng để ý, thầm lặng, chậm chạp, có cặp mắt buồn và nụ cười hiền lành, rất giống người mẹ dịu dàng của nó. Bộ răng nó không được đẹp, chìa cả ra ngoài miệng và ở hàm trên lại mọc thành hai hàng. Bộ răng này làm nó bận tâm lắm; lúc nào nó cũng cho tay vào mồm lay những chiếc răng mọc ở hàng sau để định nhổ đi và ai muốn sờ vào hàm răng của nó cũng được. Ngoài ra, tôi không thấy nó có cái gì hay hơn. Trong nhà chật ních người nhưng nó sống lẻ loi. Nó thích ngồi trong những xó tranh tối tranh sáng, và buổi chiều thì ngồi bên cửa sổ. Thật thú vị khi cùng ngồi với nó im lặng bên cửa sổ, và cứ ngồi sát bên nhau im lặng như thế hàng tiếng đồng hồ, nhìn những con quạ đen bay lượn trên bầu trời đỏ ối trong buổi hoàng hôn, quanh những chiếc tháp tròn vàng rực của ngôi nhà thờ Đức Mẹ lên Trời. Chúng bay tít lên cao, rồi lao vút xuống. Và bỗng như một tấm lưới đen, chúng phủ kín bầu trời đang tắt, rồi chúng biến đi đâu mất, để lại sau chúng một khoảng không trống rỗng. Nhìn cảnh tượng đó người ta không muốn nói gì nữa, và một nỗi buồn man mác xâm chiếm lấy tâm hồn.
Thằng Xasa, con cậu Iakôp, thì chuyện gì cũng có thể nói thao thao bất tuyệt, và chững chạc như người lớn. Biết tôi muốn học nhuộm, nó khuyên tôi vào trong tủ lấy ra chiếc khăn trải bàn màu trắng tinh vẫn dùng trong những ngày lễ và đem nhuộm thành màu xanh.
-Màu trắng là dễ nhuộm nhất, tớ biết!
-Nó nói giọng rất nghiêm trang. Tôi lôi ra chiếc khăn trải bàn lớn và chạy ra sân. Nhưng khi tôi vừa nhúng một đầu khăn vào thùng nước “chàm” thì anh Txưganôc bỗng từ đâu lao tới. Anh giật lấy chiếc khăn, rồi dùng hai bàn tay to lớn vắt nước và thét thằng em họ tôi đang nấp ở phòng ngoài để theo dõi việc làm của tôi:
-Gọi bà ra mau lên! Rồi anh lắc cái đầu tóc đen bù xù như cáo trước điềm chẳng lành, và bảo tôi:
-Hừ, chuyến này thế nào mày cũng bị một trận đòn nên thân! Bà tôi chạy tới, vừa rên rỉ và khóc lóc, vừa chửi tôi bằng những câu nghe đến buồn cười:
-ôi, thằng trời đánh thánh vật kia, sao quỉ thần không đem mà quật chết mày đi! Rồi bà tôi nói với anh Txưganôc:
-Này, Vanáa, đừng nói gì với ông nhé! Tao sẽ giấu kín chuyện này, may ra có thể thoát được… Anh Vanka chùi hai tay ướt vào chiếc tạp-dề nhem nhuốc, nói với vẻ lo lắng:
-Cái đó thì việc gì đến con? Con không nói đâu, song coi chừng thằng Xasa nó mách đấy!
-Tao sẽ cho nó hai kôpêch,
-bà tôi nói và dẫn tôi vào trong nhà. Đến thứ bảy, trước giờ cầu nguyện, có người dẫn tôi vào bếp. Trong bếp tối om om và im lặng. Tôi còn nhớ cửa vào phòng ngoài và các phòng lúc đó đều đóng chặt, và bên ngoài cửa sổ là ánh sáng u ám của một buổi chiều thu, tiếng mưa rơi tí tách vào cửa kính. Trước cửa lò sưởi đen kịt, anh Txưganôc đang ngồi trên một chiếc ghế dài lớn. Trông anh giận dữ, Tức Ivan, cách gọi tắt, Ivan là tên. Txưganốc là biệt hiệu. Tức Ivan, cách gọi tắt thân mật. khác hẳn ngày thường. ông tôi đứng trong góc cạnh một thùng gỗ, chọn ở trong thùng ra những chiếc roi dài, lấy tay đo từng chiếc rồi xếp lại với nhau và quất vun vút vào không khí. Bà tôi đứng ở một chỗ tối hít thuốc rít lên và càu nhàu:
-Sướng lắm đấy… đồ tàn bạo!… Thằng Xasa Iakôvôp ngồi trên chiếc ghế ở giữa bếp hai tay dụi mắt, nói giọng kéo dài nghe rất lạ, giống như một ông lão hành khất:
-Xin ông hãy vì Chúa mà tha cho cháu. Đằng sau chiếc ghế, hai đứa con cậu Mikhain, một trai một gái, đứng tựa vai vào nhau, im thin thít như những khúc gỗ.
-Tao quật xong rồi tao tha,
-ông tôi nói, tay vuốt một chiếc roi dài và ướt,
-nào, tụt quần ra!… ông tôi nói rất thản nhiên. Và cả tiếng nói của ông, của tiếng thằng bé giãy giụa trên chiếc ghế ken két, cả tiếng giậm chân của bà tôi
-tất cả đều không thể nào làm khuấy động được cái không khí trầm lặng đang bao trùm lên căn bếp nhá nhem tối, dưới chiếc mái thấp lè tè đầy bồ hóng. Thằng Xasa đứng lên, cởi quần, tụt xuống đến đầu gối và hai tay giữ quần, nó cúi lom khom, lập cập bước đến chiếc ghế dài. Nhìn nó thật là thương tâm, hai chân tôi cũng run lên. Tệ hơn nữa là khi thấy nó ngoan ngoãn nằm úp mặt xuống chiếc ghế dài, còn anh Vanka thì lấy một chiếc khăn lớn trói nó vào ghế qua nách và cổ. Anh cúi xuống và dùng hai cánh tay đen thui giữ chặt lấy cổ chân nó.
-Lêcxây,
-ông tôi gọi,
-lại gần đây!… Kìa, có nghe tao nói gì không?… Đây, hãy trông tao quật nó đây này… Một! ông vung tay lên không cao và vụt chiếc roi vào tấm thân trần truồng. Xasa kêu thét lên.
-Nói láo,
-ông tôi nói,
-có đau đâu! Cái này mới đau hơn này! ông tôi đánh đến nỗi da giộp ngay lên, trên lưng hằn những vệt đỏ. Thằng em họ tôi rú lên một tiếng dài.
-Không dễ chịu à?
-ông tôi hỏi, tay vẫn đều đặn đưa lên đưa xuống.
-Không thích hả? Roi này là về tội chiếc đê này! Mỗi khi ông tôi vung tay lên, tất cả mọi thứ trong ngực tôi đều dâng lên theo, và khi cánh tay hạ xuống thì dường như cả người tôi cũng rơi xuống. Xasa rít lên the thé, nghe thật khó chịu:
-Cháu chừa rồi… ì… ì… Cháu chẳng mách chuyện chiếc khăn bàn là gì… Cháu đã mách… ông tôi nói giọng bình thản như đọc Thánh thi:
-Tố cáo không phải là đã hết tội! Đứa tố cáo phải được ăn đòn trước tiên. Này đây, về chiếc khăn bàn! Tức Alêcxây.
Bà tôi lao về phía tôi, nắm lấy tay tôi và thét lên:
-Tôi không đưa thằng Lêcxây cho ông đâu! Không đưa đâu! Đồ quỷ sứ! Bà lấy chân đạp vào cửa và gọi:
-Varáa, Vacvara!… ông tôi bổ nhào về phía bà tôi, đẩy bà tôi ngã, giằng lấy tôi và đem lại chiếc ghế dài. Tôi giãy giụa trong tay ông tôi, giật bộ râu màu hung và cắn vào ngón tay ông. ông tôi kêu thét lên, ghì chặt lấy tôi và cuối cùng ném tôi xuống chiếc ghế dài, làm tôi sây sát cả mặt mũi. Tôi còn nhớ tiếng thét man rợ của ông tôi.
-Trói nó lại! Tao sẽ giết nó! Tôi còn nhớ bộ mặt trắng bệch và cặp mắt mở to của mẹ tôi. Mẹ tôi vừa chạy dọc theo chiếc ghế vừa thở hổn hển:
-Đừng, bố ơi! … Trả nó cho con…

ông tôi đánh cho đến khi tôi ngất đi. Mấy ngày liền tôi ốm, phải nằm sấp trên một chiếc giường rộng nóng bức, trong một căn phòng nhỏ chỉ có một cửa sổ với một ngọn đèn đỏ tù mù suốt ngày đêm ở góc phòng, trước mặt chiếc tủ có bày rất nhiều tượng thánh. Những ngày đau ốm là những ngày đáng ghi nhớ của đời tôi. Trong những ngày đó chắc tôi đã lớn lên rất nhiều và cảm thấy như có cái gì khác thường. Từ đó trở đi, tôi đâm ra quan tâm lo lắng đối với mọi người; và hệt như người ta đã lột mất lớp da ở trái tim tôi đi nên nó trở nên hết sức nhạY bén đối với mọi nỗi đau đớn và sỉ nhục, dù là tôi hay người khác phải chịu. Trước hết, cuộc cãi nhau giữa bà tôi và mẹ tôi đã làm cho tôi hết sức ngạc nhiên: trong căn phòng chật hẹp, bà tôi, người to lớn và vận đồ đen, tiến về phía mẹ tôi, dồn mẹ tôi vào góc phòng, chỗ để các tượng thánh, và rít lên:
-Sao mày không lại mà giằng nó ra, hả?
-Con sợ.
-ôi, mày khỏe như vâm mà còn sợ! Thật xấu hổ, Vacvara! Tao già thế này mà tao không sợ! Thật xấu hổ!…
-Để cho con yên mẹ ơi, con đau lòng lắm…
-Không, mày không yêu nó, mày không thương thằng bé mồ côi! Mẹ tôi nói lớn, giọng mệt nhọc:
-Chính tôi cũng như một đứa mồ côi suốt đời! Rồi cả hai người ngồi trên chiếc hòm ở góc phòng khóc rất lâu. Mẹ tôi nói:
-Nếu không có thằng Alêcxây thì tôi đã đi khỏi nơi này rồi! Tôi không thể sống trong cái địa ngục này được nữa, không thể sống được, mẹ ơi! Không còn hơi sức nữa…
-Con là dòng máu của mẹ, trái tim của mẹ!
-Bà tôi thì thào nói. Tôi hiểu ra mẹ tôi không phải là kẻ mạnh, mẹ tôi cũng sợ ông tôi như mọi người. Tôi đã cản trở mẹ tôi đi khỏi cái nhà này, nơi mẹ tôi không thể sống nổi. Điều đó thật đáng buồn. ít lâu sau mẹ tôi biến khỏi nhà thật, không hiểu là đi đâu, thăm ai. Một hôm ông tôi bỗng xuất hiện, hệt như từ trần nhà rơi xuống. ông tôi ngồi xuống giường, đưa bàn tay lạnh như băng sờ vào đầu tôi:
-Chào cậu cả… Cháu trả lời đi, đừng giận ông!… thế nào?
Tôi chỉ muốn đá cho ông tôi một cái, nhưng tôi đau không cựa quậy được. Tóc ông tôi trông càng đỏ hơn mọi khi, đầu luôn luôn lắc lư, hai con mắt long lanh như đang tìm kiếm vật gì trên tường. ông tôi lấy trong túi ra một chiếc bánh bích qui hình con dê, hai chiếc kẹo bọc đường hình chiếc kèn, một quả táo và một chùm nho khô màu xanh rồi đặt tất cả lên trên gối, ngay trước mặt tôi.
-Cháu thấy không, ông đem quà cho cháu đấy! ông tôi cúi xuống và hôn vào trán tôi. Sau đó ông tôi bắt đầu vừa nói vừa khe khẽ xoa đầu tôi với bàn tay bé nhỏ, cứng quèo và vàng khè, nhất là những móng tay cong như móng chim.
-Hôm trước ông đánh cháu đau quá phải không? ông nóng quá! Tại cháu cào và cắn ông nên ông giận. Nhưng không sao, cháu có bị đòn quá mức thì rồi đâu cũng vào đấy cả! Cháu phải biết, mỗi khi người thân thích đánh cháu thì đó không phải là điều sỉ nhục, mà là một bài học! Không nên để cho người ngoài đánh mình, nhưng đối với người trong nhà thì chẳng sao. Cháu tưởng trước kia ông không bị đánh ư? Aliôsa, ông bị đánh đến nỗi ngay cả trong giấc mơ khủng khiếp cháu cũng không thấy được. ông bị sỉ nhục đến nỗi giá Chúa trông thấy chắc Chúa cũng phải khóc! Kết quả là thế nào? Từ một đứa trẻ mồ côi, con một người đàn bà nghèo, ông đã có địa vị như bây giờ. ông đứng đầu một phường nhuộm, ông điều khiển mọi người. Với thân hình gầy và cân đối nằm xuống bên cạnh tôi, ông tôi bắt đầu kể về những ngày thơ ấu của mình bằng những lời lẽ rắn rỏi và mạnh mẽ, lời nọ nối tiếp lời kia một cách dễ dàng và khéo léo. Hai con mắt xanh của ông tôi rực sáng lên. ông tôi vui vẻ vò rối bù mớ tóc vàng óng, rồi cất giọng the thé như quát vào mặt tôi:
-Cháu đến đây bằng tàu thủy phải không? Hơi nước đưa cháu đến đấy! Còn ông, khi còn trẻ, chính ông đã phải dùng sức kéo các sà-lan đi ngược sông Vonga. Sà-lan thì ở dưới nước, ông thì đi trên bờ. ông đi chân đất trên đá nhọn, trên những chỗ đất sụt, và cứ đi như thế suốt từ lúc mặt trời mọc cho đến tối mịt. Nắng xiên vào gáy, đầu nóng bỏng như than, người cúi gập thành ba khúc, xương kêu răng rắc… Vậy mà vẫn phải đi, đến đường đi cũng không trông thấy, hai mắt nhòa lệ và mồ hôi, lòng đau đớn ê chề…
Ôi chà, Aliôsa, cháu cứ im ông kể cho mà nghe! Cứ thế đi, đi mãi, cho đến lúc tuột khỏi dây, ngã giúi xuống đất. ấy thế nhưng lại mừng, bởi vì tất cả sức lực đã cạn rồi: miễn sao được nghỉ ngơi, hay chết quách! Đó, người ta đã sống dưới mắt Chúa Giêsu nhân từ như thế đó!… Đã ba lần ông đếm bước trên dòng sông Cái Vonga: từ Ximbiêc đến Rưbinxkơ, từ Xaratôp đến đây và từ Axtrakhan đến hội chợ Makariep. Hàng bao nhiêu nghìn dặm đường! Cho đến năm thứ tư thì ông trở thành phu trưởng của anh em phu kéo thuyền, vì ông đã cho lão chủ biết được tài của ông!… ông tôi nói, và bỗng vụt lớn lên trước mắt tôi như một đám mây, từ một ông già bé nhỏ và quắt queo biến thành một người có sức mạnh phi thường, một mình kéo cả một chiếc sà-lan khổng lồ đi ngược dòng sông… Thỉnh thoảng ông tôi lại nhảy từ trên giường xuống đất và vung tay làm điệu bộ cho tôi thấy những người kéo thuyền đi như thế nào, tát nước ở trên thuyền ra sao. ông tôi hát giọng trầm những bài gì đó, xong lại nhảy lên giường, nhanh nhẹn như một thanh niên, trông thật kỳ lạ. Rồi ông lại nói, giọng càng say sưa hơn:
-Nhưng Aliôsa ạ, những lúc nghỉ, vào những buổi chiều hè ở Jiguli, dưới chân ngọn đồi xanh rì có khi bọn ông đốt lửa lên rồi nấu cháo. Và khi một người kéo thuyền đáng thương cất tiếng hát một bài hát thoát ra từ đáy lòng thì lập tức cả đoàn phu ầm ầm cất giọng hòa theo. Người như sởn gai ốc lên, và sông Vonga dường như lại càng chảy xiết. Nó lồng lộn như con ngựa bất kham, như muốn cất mình lên tận mây xanh! Lúc đó mọi nỗi đau khổ đều tiêu tan như làn bụi trước gió. Mọi người hát đến nỗi có khi để cháo trào cả ra ngoài; khi ấy cần phải nện cho anh chàng đầu bếp một muôi vào trán: “Chơi nhưng chớ bỏ lơi công việc!” Đã mấy lần có người ngó vào cửa gọi ông tôi, nhưng tôi van nài:
-ông đừng đi ông ạ! ông tôi mỉm cười và giơ tay đuổi mọi người:
-Đợi tí đã… ông tôi kể chuyện mãi cho đến tận chiều tối. Và khi đi ra còn âu yếm từ biệt tôi. Tôi biết ông tôi không phải là người dữ tợn và đáng sợ. Tôi ứa nước mắt khi nhớ lại rằng chính ông tôi đã đánh tôi tàn nhẫn như vậy. Tuy nhiên tôi vẫn không thể nào quên được chuyện đó. Việc ông tôi đến thăm đã mở rộng cửa cho tất cả mọi người, và từ sáng đến tối luôn luôn có người ngồi bên giường tôi, cố tìm mọi cách làm cho tôi khuây khỏa. Tôi còn nhớ điều đó không phải lúc nào cũng vui vẻ và thú vị. Bà tôi thường đến với tôi hơn Những tên cũ của thành phố Ulianôp và Tsecbakôp trên sông Vonga. Những ngọn núi rất đẹp ở khúc giữa sông Vonga. cả và cùng ngủ với tôi một giường nữa. Nhưng trong những ngày đó, người đã để lại cho tôi ấn tượng tươi sáng nhất là anh Txưganôc. Vai anh vuông, ngực nở, đầu rất to với bộ tóc xoăn tít. Anh đến vào lúc chiều tối và ăn vận như ngày hội: áo lụa vàng, quần nhung bông và đi đôi ủng gập nếp kêu ken két. Tóc anh bóng láng, cặp mắt lấp lánh dưới đôi lông mày rậm, hàm răng trắng ẩn dưới bộ ria mép đen mới mọc. Chiếc áo vàng rực phản chiếu ánh lửa đỏ của ngọn đèn thờ không bao giờ tắt
-Này em, trông đây này,
-anh nói và vén tay áo lên, chìa cho tôi xem cánh tay trần đầy những vết đỏ đến tận khuỷu.
-Em xem nó sưng thế đấy! Mấy hôm nọ còn tệ hơn nữa, hôm nay đã bắt đầu bớt nhiều rồi! Em có biết không, thấy ông nổi giận và bắt đầu đánh em, anh liền giơ ngay cánh tay này ra đỡ. Anh định chờ khi nào roi gẫy, ông đi lấy chiếc khác thì bà hoặc mẹ sẽ bế em chạy đi! Nhưng chiếc roi lại không gẫy, vì ngâm nước nên dẻo quá! Nhưng dù sao em cũng đỡ bị đòn có phải không? Đấy em xem, anh cũng láu cá đấy chứ… Anh cười vẻ âu yếm, dịu dàng và lại ngắm nghía cánh tay sưng phồng, rồi vừa cười vừa nói:
-Anh thương em quá, đến nỗi cổ họng anh cứ nghẹn lại. Tội nghiệp! Thế mà ông cứ vụt mãi… Anh thở phì phì như ngựa và lắc đầu, rồi anh bắt đầu nói chuyện về ông tôi. Trong chốc lát anh đã trở nên gần gũi đối với tôi và giản dị như một đứa trẻ. Tôi bảo anh rằng tôi yêu anh lắm. Anh trả lời thật chất phác khó mà quên được:
-Anh cũng yêu em lắm, chính vì yêu em nên anh mới chịu đau thay cho em! Đứa khác thì đừng hòng, mặc xác chúng nó… Sau đó anh bắt đầu khuyên bảo tôi, anh nói khẽ, thỉnh thoảng lại nhìn ra cửa:
-Lần sau nếu em có bị đánh thì phải cẩn thận đấy, đừng có co rúm người lại hiểu không? Co dúm như thế sẽ đau gấp đôi; em cứ thả người cho thoải mái, sao cho người thật mềm, mềm nhũn ra ấy! Và đừng có nhịn thở, cứ thở thật mạnh và kêu tướng lên, nhớ đấy! Như thế rất tốt. Tôi hỏi:
-Thế ra còn bị đánh nữa à?
-Chứ sao?
-Anh Txưganôc nói vẻ thản nhiên.
-Tất nhiên, còn bị đánh nữa chứ! Rồi xem, em sẽ bị đánh luôn đấy…
-Vì sao?
-Ông mà đã muốn kiếm cớ thì… Và anh lại lo lắng khuyên tôi:
-Nếu ông đánh từ trên cao, chỉ quất roi từ trên xuống thôi thì em cứ việc nằm yên, người thật mềm; còn nếu ông đánh giật quất xuống rồi lại giật về để rứt thịt ra thì em phải rướn người theo chiều chiếc roi, hiểu không? Như thế đỡ đau hơn!
Anh nháy một bên mắt đen láy rồi nói:
-Về mặt này anh còn giỏi hơn cả cảnh sát đấy! Da của anh có lẽ đem khâu được bao tay em ạ! Tôi ngắm nét mặt vui tươi của anh và nhớ lại những chuyện cổ tích mà bà tôi đã kể về Hoàng tử Ivan và chàng ngốc Ivanuska.


Giang Vi

Tôi là một người yêu sách cuồng nhiệt và đã hơn 20 năm. Tôi dành cả ngày để đọc, viết blog về sách và viết bình luận. Tôi tin rằng sách là công cụ mạnh mẽ nhất trong cuộc sống để mở mang đầu óc cho những ý tưởng và quan điểm mới. Các thể loại yêu thích của tôi bao gồm tiểu thuyết lịch sử, giả tưởng, khoa học viễn tưởng và phi hư cấu. Tôi cũng thích tìm hiểu về các nền văn hóa khác nhau thông qua văn học.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts:

Back to top button