Văn học nước ngoài

22 Tản Mạn

1. THÔNG TIN SÁCH/EBOOK

Tác giả : Võ Chân Cửu

Download sách 22 Tản Mạn ebook PDF/PRC/MOBI/EPUB. Tải miễn phí, đọc online trên điện thoại, máy tính, máy tính bảng.

Danh mục : VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI

Đọc thử Xem giá bán

2. DOWNLOAD

File ebook hiện chưa có hoặc gặp vấn đề bản quyền, Downloadsach sẽ cập nhật link tải ngay khi tìm kiếm được trên Internet.

Bạn có thể Đọc thử hoặc Xem giá bán.

Bạn không tải được sách ? Xem hướng dẫn nhé : Hướng dẫn tải sách


3. GIỚI THIỆU / REVIEW SÁCH

CHẮP TAY DÒNG ĐỜI

“Cho tới bây giờ, ông vẫn chỉ là người chắp tay nhìn dòng đời!”. Câu kết luận của một người bạn lúc tan tiệc cuối năm không hiểu là lời khen hay chê. Nhưng nếu nhận xét ấy đúng thì cũng là điều thú vị!

Đây là chốn nương mây và cậy nguyệt,

Đàng chờ xe, sông nước ước mong thuyền

Tịch dương liễu không biết mình đang biếc

Tương tư trời, tương tư nhạc triền miên…

Đó là đoạn mở đầu bài thơ thi sĩ Yến Lan viết thuở còn rất trẻ về quê hương Bình Định của mình. Người sau, dù căn cứ vào hình tượng và nhạc điệu xếp nó vào loại thơ tượng trưng hay siêu thực trong thời mở đầu của “Thơ mới”, thì cho đến hôm nay đó vẫn là những câu thơ thuộc loại hay nhất.

Thời suy tàn

Đầu thế kỷ 20, khi Nho học suy tàn, chữ Quốc ngữ lên ngôi thì “giỏi làm thơ” không còn là một trong những điều kiện để tiến thân trên đường khoa bảng, quan lại nữa. Nhưng trong chương trình giáo dục ở miền Nam sau 1954, Việt Văn vẫn được coi trọng là một trong các môn học chính. “Văn” có hai thể: văn xuôi và văn vần. Văn vần bao gồm cả thơ, ca, hò vè, hát nói, hát bội, cải lương… Nhưng khi chữ viết ngày càng phát triển, người ta lại gọi người làm văn chương bằng hai tên là nhà văn, hoặc nhà thơ. Sự phân biệt này suy ra là có lý nhưng cũng chỉ có giá trị tương đối vì có không ít “nhà văn” lại có những bài thơ hay để đời, hoặc ngược lại. Chẳng hạn như Thanh Tịnh với “Hôm nay tôi đi học…”!

Ở lớp đệ Lục (về sau là lớp 7), học sinh đã bắt đầu làm quen với phần văn học cổ điển. Bài giảng có phần phân tích, lý giải khá kỹ về các thể loại thơ, từ Đường luật đến song thất lục bát, và tất nhiên là có cả lục bát, cách gieo vần đặc thù của người dân Việt Nam khắp mọi miền. Sự mầu nhiệm của ngôn ngữ thể hiện qua vần điệu. Học sinh giỏi phải thuộc và hiểu cách gieo vần. Tôi bắt đầu hiểu rằng nếu biết diễn đạt theo các quy luật, như “Nhất Tam Ngũ bất định, Nhị Tứ Lục phân minh”, văn vần sẽ tạo ra được sự kỳ diệu của ngôn ngữ.

Thị xã Quy Nhơn được triều đình Huế ra sắc lệnh thành lập năm 1898, cùng một lượt với các đô thị Huế, Hội An, Phan Thiết ở miền Trung. Nằm ở cửa vịnh, Quy Nhơn có hình tam giác, hai cạnh là những dãy núi. Khu trường Cường Để cũ nối liền với công viên trung tâm là những nền cát đầy thực vật hoang dại, nhiều nhất là keo gai và cây tảo nhơn, có trái hấp dẫn với tuổi học trò. Học sinh nam nữ tụ tập chơi từng nhóm riêng. Phổ thông nhất là trò đuổi bắt. Tuổi mới lớn, bọn trai nghịch có màn núp rình, rồi lén chạy đến bịt mắt các bạn gái… và chạy trốn. Tất cả đều hồn nhiên. Tôi và một số học sinh thích môn Quốc văn thì ở một góc riêng. Chúng tôi thách đố nhau xem ai có thể gieo vần được thành những bài thơ thất ngôn, ngũ ngôn hay tứ tuyệt, và cả những câu thơ lục bát “bằng bằng, trắc trắc, bằng bằng…”. Từ năm đệ Ngũ (lớp 8), thầy giáo bắt đầu cho làm quen với thơ văn chữ Nôm với những Nguyễn Trãi, Nguyễn Du…; chuẩn bị cho chương trình văn học chữ Quốc ngữ của những Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương để tới các thế hệ của Tản Đà, Phan Bội Châu và nhóm Thơ mới, Tự lực Văn đoàn sau đó… (Qua chương trình Trung học đệ nhị cấp, các bài học căn bản này sẽ được nâng cao).

Là chốn “nương mây và cậy nguyệt” nên từ chương trình học ấy, nhiều “bút đoàn”, “thi văn đoàn” sơ khai đã ra đời. Thành phố Quy Nhơn từ năm 1965 là đô thị lớn thứ ba ở miền Nam, chỉ sau Sài Gòn, Đà Nẵng nên cũng phát triển về văn hóa, giáo dục. Trường Quốc gia Sư phạm được lập ra, thu nhận giáo sinh suốt dải miền Trung từ Huế trở vào để đào tạo giáo viên bậc tiểu học. Hệ thống trường Kỹ thuật chỉ mở ở các tỉnh lớn, nhận học sinh từ lớp đệ Ngũ. Năm 1966, Nguyễn Lương Vỵ từ Tam Kỳ vào học Kỹ thuật Quy Nhơn, cùng lớp với Hồ Ngạc Ngữ. Anh kết bạn vào nhóm “Thi văn đoàn” Hồn Quê do tôi, Ngữ và Lê Xuân Tiến (lúc này là Lê Phiên Vươn) lập ra… Quy Nhơn lúc này cũng có một số “Bút đoàn” khác nhưng “tiếng tăm” nhất vẫn là nhóm của chúng tôi.

Sau vài tháng chép tay các sáng tác trên vở tập, truyền nhau như một loại “lưu bút”, chúng tôi kháo nhau gửi bản thảo vào đăng các báo, tạp chí ở Sài Gòn. Có đà, “Hồn Quê” gửi thư giao lưu khắp các bút đoàn ở Sài Gòn cũng như các tỉnh. Nguyễn Lương Vỵ ở nhờ nhà người chú. Cô gái em ruột của gia chủ học sau chúng tôi vài năm, nhưng Vỵ phải gọi vai “cô”. Cô này khá xinh xắn, múa hát hay nên cả Ngữ và Tiến kiếm cớ giao lưu, thường hay đến nhà. Những bài thơ tình học trò đầu tiên đã ra đời… Khi lên Trung học đệ nhị cấp, đa phần các “bút đoàn” đều tự giải tán vì ai nấy bắt đầu lớn ngồng, và đã có bài đăng ở các báo, tạp chí Sài Gòn.

Các thi sĩ nổi tiếng trước đó ở đất Quy Nhơn và miền Trung, người thì bị bệnh nan y (Hàn Mặc Tử, Bích Khê), người lãng mạn “quá trớn” hoặc gần hoang tưởng (như Xuân Diệu, Chế Lan Viên…), nên đa phần các bậc cha mẹ lúc này không ai muốn con mình theo nghiệp văn chương. Nên chúng tôi dù đã sáng tác đầy các tập vở, nhưng đều phải giấu đi, để phụ huynh thấy là mình chỉ lo học tập, phải thi đậu lấy mảnh bằng. Nếu không thì sẽ rơi vào cảnh “Rớt tú tài, anh đi trung sĩ…”.

Chiến sự ngày càng lan rộng, quân đội Hoa Kỳ và đồng minh Đại Hàn hiện diện đông hơn. Quê mẹ tôi ở vùng núi sát biển bên kia đầm Thị Nại. Cứ vài ngày, gia đình tôi lại nhận được tin có một người quen đã chết, vì bị Việt Cộng ám sát, hoặc do “quân đội” đi càn. Khi Mỹ tiến hành “Chiến tranh đặc biệt”, những người dân quê chèo thuyền qua thành phố tham gia biểu tình đòi quyền sống. Chính quyền đưa máy bay trực thăng ra quần đảo, bắn xối xả. Máu loang đỏ nhiều vạt đầm Thị Nại. Chiến tranh là loại “tai trời”, khó ai tránh được. Thân phận con người như bèo bọt… Nhưng chẳng hay ho gì cái chuyện giết chóc nhau. Tôi tự nhủ mình không nên dùng ngòi bút để ngợi ca cái ác.

Năm 1968, vừa lên lớp đệ Nhị ban C, tôi gặp phải một sự cố khó xử. Tại cuộc họp Ban đại diện các lớp toàn trường, chính vị giáo sư hướng dẫn lớp đã đứng ra cử tôi làm trưởng Ban báo chí toàn trường. Tôi rất biết ơn vị thầy này, vì trong những năm dạy đệ Nhất cấp đã hướng dẫn học sinh khá kỹ về chương trình văn học sử và niêm, luật các thể thơ. Nhưng làm trưởng Ban báo chí có nghĩa là đứng chân Ban đại diện học sinh, phải biểu lộ thái độ trước các sự kiện chính trị. Nên tôi cương quyết từ chối không nhận chức. Từ đó, vị giáo sư hướng dẫn và một số thầy, bạn nhìn tôi với ánh mắt thiếu thiện cảm, cho rằng tôi tự cao, xem mình “đã nổi tiếng” nên không lo việc cho nhà trường.

ĐỌC THỬ

Hai người thầy

Tuổi sắp vào đời, tâm hồn ai cũng nhiều ước mơ phiêu lãng. Lấy lý do chuyện “trục trặc” ở nhà trường, tôi nài nỉ cha mẹ cho tôi vào Sài Gòn học tiếp. Nhờ sự giới thiệu khá đặc biệt, và có lẽ cũng căn cứ vào học bạ, trường trung học công lập Chu Văn An đồng ý cho tôi vào lớp, trễ một tháng sau khai giảng.

Ở bậc trung học đệ Nhị cấp, trường nào cũng đều có ít học sinh theo học ban C (văn chương-sinh ngữ). Vào học trễ, tôi chọn chỗ ngồi nơi cuối lớp. Tôi dáng to xương, mặt nông dân chữ điền, cung cách khá “quê mùa tỉnh lẻ”. Vậy mà không hiểu vì sao, chỉ sau mấy ngày, nhân vật trưởng Ban báo chí của lớp lại đến làm quen, bảo tôi tham gia viết bài, sáng tác cho tờ nội san của lớp. Tôi lại phải tìm cách từ chối. Sau đó tôi mới biết anh này là người có cảm tình với phía “bên kia”, các sáng tác đều theo hướng “dấn thân”, tranh đấu. Ham làm chính trị, nên cuộc đời anh về sau trải qua nhiều thăng trầm. Sau năm 1975, anh làm đến chức trưởng phòng biên tập tờ báo của Thành Đoàn, nhưng về sau lại vỡ mộng… Năm 2010, anh cùng vài người bạn thân đứng ra sưu tập 108 bài thơ hay về… rượu, in thành tuyển thơ “Cùng một lứa bên trời lận đận”. Sách được nhiều người ái mộ, tìm mua.

Giảng dạy môn Việt văn cho lớp đệ Nhị C trường Chu Văn An chính là thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Thầy đảm nhận công việc ở ngôi trường nổi tiếng này liên tục từ năm 1954, sau khi từ Hà Nội vào. Thầy thường mặc bộ đồ veston màu vàng sữa, thắt cà vạt, tay áo cài măng-sét, đầu đội mũ phớt màu nâu, ung dung ngồi trên xích lô đạp đến trường. Vào lớp, khi tất cả học sinh đã đứng dậy, thầy bỏ mũ lên bàn rồi cầm ngay viên phấn trước khi vẫy tay cho phép học sinh ngồi xuống. Với nét chữ rất bay bướm, thầy chép ngay mấy câu thơ trong chương trình học lên bảng. Chỉ bấy nhiêu đó. Xong, thầy chầm chậm đi lên đi xuống từ đầu đến cuối lớp. Thầy ngẩng mặt lên trời giảng về cái hay của mỗi bài thơ. Cuối giờ, thầy chỉ các bài cần đọc thêm, học sinh phải tự tìm hiểu để biết cái hay, cái đẹp của văn chương. Cách giảng dạy ấy rất khác với kiểu từ chương, “học thuộc làu”. Vậy mà kỳ thi tú tài 1 năm ấy, hơn một phần ba lớp, trong đó có tôi, đã đậu với hạng bình thứ, điều rất hiếm đối với học sinh ban C. Cũng năm này, bút hiệu mới tôi chọn Võ Chân Cửu lần đầu tiên xuất hiện trên tờ Khởi Hành với bài thơ “Chùa cổ bên sông”. Bài thơ “đầu tay” này đến nay được có mặt trong khá nhiều Tuyển tập xuất bản ở trong nước cũng như hải ngoại.

Năm 1969, thi sĩ Vũ Hoàng Chương hoàn chỉnh bản thảo để xuất bản tập “Ta đợi em từ ba mươi năm”. Ông sinh năm 1916, vào năm 1940 xuất bản tập thơ đầu tiên và tiếng tăm vang dội ngay. Người ta nhận ra dù sử dụng các thể thơ cổ điển, nhưng Vũ Hoàng Chương có sự cách tân cả về từ và ý. Chương trình lớp đệ Nhị có phần giảng về thơ mới, nhưng ít khi thầy giảng về thơ mình. Có đôi lần, có lẽ vào giờ “ngoại khóa”, thầy chép mấy câu thơ của mình lên bảng, rồi lại đi tới đi lui. Sau đó, thầy dùng phấn gạch chéo một chữ trong bài rồi thay bằng một từ khác mới nghĩ ra. Thầy nói rằng từng chữ trong câu phải phù hợp với kết cấu của vần điệu từng câu và trọn bài. Có như vậy bài thơ mới hay, khiến người ta nhớ mãi.

Ta đợi em từ ba mươi năm

Uổng hoa phong nhụy, hoài trăng rằm

Heo may chớm đã lên mùa gió

Ngăn ngắt chiêm bao, lạnh chiếu nằm.

Bốn câu trong bài thơ “Chờ đợi hoài công” – một trong những bài thơ chủ lực của tập thơ này cũng được thầy hoàn chỉnh trong tình huống như vậy. Có lần trong giờ nghỉ, ở phút trò chuyện về thơ hiện đại, thầy bộc lộ ý kiến, là hình thức diễn đạt thơ không nên quá khúc mắc. Vì nếu khúc mắc quá thì chỉ có một số người trong nghề và giới trí thức mới hiểu và ưa thích.

Một số học sinh như tôi nhận ra rằng, mặc dù sử dụng các thể thơ cổ điển, nhưng ngôn từ trong thơ của thầy mình luôn sang trọng. Nó chứa đựng hình tượng và âm điệu tài hoa, kể cả khi ông dùng thể lục bát, như trong một bài thơ đượm nét u huyền:


 

Giang Vi

Tôi là một người yêu sách cuồng nhiệt và đã hơn 20 năm. Tôi dành cả ngày để đọc, viết blog về sách và viết bình luận. Tôi tin rằng sách là công cụ mạnh mẽ nhất trong cuộc sống để mở mang đầu óc cho những ý tưởng và quan điểm mới. Các thể loại yêu thích của tôi bao gồm tiểu thuyết lịch sử, giả tưởng, khoa học viễn tưởng và phi hư cấu. Tôi cũng thích tìm hiểu về các nền văn hóa khác nhau thông qua văn học.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts:

Back to top button