Tiểu thuyết - ngôn tình

Trọn Đời Bên Em

tron-doi-ben-em-thichtruyen.vn1. THÔNG TIN SÁCH/EBOOK

Tác giả : LaVyrle Spencer

Download sách Trọn Đời Bên Em ebook PDF/PRC/MOBI/EPUB. Tải miễn phí, đọc online trên điện thoại, máy tính, máy tính bảng.

Danh mục : TIỂU THUYẾT

Đọc thử Xem giá bán

2. DOWNLOAD

Định dạng ebook             

File ebook hiện chưa có hoặc gặp vấn đề bản quyền, Downloadsach sẽ cập nhật link tải ngay khi tìm kiếm được trên Internet.

Bạn có thể Đọc thử hoặc Xem giá bán.

Bạn không tải được sách ? Xem hướng dẫn nhé : Hướng dẫn tải sách


3. GIỚI THIỆU / REVIEW SÁCH

Lời giới thiệu


LaVyrle Spencer sinh năm 1943 tại Browerville, Minnesota. Bà có năng khiếu văn chương từ thời trung học, nhưng chỉ thực sự viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên lúc bước sang tuổi ba mươi, khi đó bà đang làm công việc trợ giảng tại trường Trung học Cơ sở Osseo.

Ý tưởng cho tác phẩm đầu tay được nhen nhóm từ một giấc mơ kỳ lạ về cuộc sống ở trang trại của bà ngoại LaVyrle. Ngay sau khi tỉnh giấc, bà đã bắt tay vào viết và cho ra đời cuốn tiểu thuyết The Fulfillment, xuất bản năm 1979.

Trong những năm đầu sáng tác, LaVyrle đã viết bốn tác phẩm lãng mạn. Nhưng cảm thấy thất vọng trước vòng đời ngắn ngủi của chúng, bà quyết định chuyển sang thể loại tiểu thuyết ngắn. Các tác phẩm của bà đều rất thành công, trong số đó, mười hai tác phẩm đã lọt vào danh sách bán chạy nhất của tạp chí New York Times và một số tiểu thuyết đã được dựng thành phim. Sách của bà còn được bán cho các câu lạc bộ sách và xuất bản trên toàn thế giới. Phiên bản đặc biệt của nhiều tác phẩm cũng xuất hiện trên tạp chí Reader’s Digest và Good Housekeeping.

Nhân vật trong tiểu thuyết của bà đều rất chân thực, họ là những người đàn ông hết sức bình thường, dung dị và những người phụ nữ ấm áp nhưng cũng dễ bị tổn thương. Đặc biệt, nhân vật nữ chính là sự kết hợp giữa lửa, sức mạnh, hiểu biết và trái tim mềm yếu; những con người khốn khổ oằn mình trước nghịch cảnh như đang mang thai, ly dị hay mất người thân. Từ hình tượng trung tâm đó, cốt truyện chủ yếu xoay quanh những mối quan hệ trong gia đình, không đơn thuần chỉ quan hệ tình cảm nam nữ, và từ đó khẳng định sự vĩnh cửu của tình yêu cũng như sức mạnh tình thân trong những thời điểm khó khăn.

Năm 1982, LaVyrle Spencer viết cuốn tiểu thuyết thứ ba, The Endearment, tác phẩm đã mang lại cho bà giải thưởng RITA cho Tiểu thuyết lịch sử có nhan đề một chữ hay nhất. Cuốn sách được Bách Việt mua bản quyền và xuất bản với nhan đề Đắm say.

Năm 1997, LaVyrle Spencer phát hành cuốn tiểu thuyết thứ hai mươi ba và cũng là tác phẩm cuối cùng, Then Came Heaven, trước khi quyết định giã từ sự nghiệp để đi du lịch và dành thời gian cho gia đình. Bà đã năm lần nhận được giải thưởng RITA dành cho Nhà văn Lãng mạn Mỹ và năm giải RITA khác cho các tác phẩm của mình.

ĐỌC THỬ

CHƯƠNG 1

Năm 1917

LINNEA BRANDONBERG không buồn ngủ cũng chẳng quá tỉnh táo, thế nhưng cô lại rơi vào trạng thái mơ hồ, lần này là do tiếng vang ngày càng lớn của tiếng động từ sàn tàu. Chân cô khép lại nghiêm chỉnh, thường thì cô sẽ nhìn xuống để chiêm ngưỡng đôi giày đẹp nhất đời mình.

Đó là đôi giày cao gót da trơn tinh xảo, ngón chân cô được phủ trong hai mũi giày màu đen mềm mại, ôm lấy không chỉ bàn chân mà còn lên tới tận mắt cá.

Kỳ diệu biết bao khi dù chẳng hề có cúc bấm hay dây buộc, chúng vẫn có thể đi một cách vững chãi chỉ với một miếng đệm đàn hồi cứng, chạy từ giữa gót lên tới xương mắt cá chân ở hai bên. Nhưng điều tuyệt nhất trong tất cả mọi thứ thì đây chính là đôi giày cao gót đầu tiên mà cô sở hữu. Cho dù gót giày chỉ thêm vào chiều cao của cô vỏn vẹn ba phân nhưng lại khiến cô trưởng thành hơn nhiều.

Cô hy vọng thế.

Anh, người hiệu trưởng bảnh bao của các trường học, điều khiển cỗ xe hai người Stanhope chất lừ được kéo bởi những con ngựa chiến máu lửa bóng bẩy… sẽ đứng đó – nơi nhà ga – khi cô đến nơi.

“Cô Brandonberg?” Giọng anh nghe thật vui tươi và đậm chất văn hoa, nụ cười rạng rỡ vỡ òa trên khuôn mặt điển trai khi anh tháo chiếc mũ làm từ lông hải ly khỏi đầu, để lộ mái tóc màu lúa mạch đen bóng dưới ánh hoàng hôn.

“Ngài Dahl phải không?”

“Đúng thế. Chúng tôi rất vui khi cuối cùng cô cũng đã có mặt ở nơi đây. Ồ, cho phép tôi… để tôi giúp cô xách va li!” Khi anh cất va li vào ngăn để hành lý của cỗ xe ngựa, cô để ý tới bộ trang phục màu đen bóng bẩy anh đang mặc, những đường cắt may đẹp đẽ, tinh tế ôm sát vai, khi anh xoay người giúp cô lên xe, cô cũng nhận ra lớp hồ dán trên cổ áo anh còn mới cứng, tinh tươm và chỉ để dành cho dịp này. “Giờ thì cẩn thận nào!” Anh sở hữu đôi tay tuyệt vời, những ngón tay dài và xanh xao bồn chồn nắm lấy tay cô khi giúp cô lên xe.

Chiếc roi sậy mỏng manh quất lên đầu lũ ngựa, chúng bắt đầu tăng tốc, khuỷu tay anh khẽ chạm vào khuỷu tay cô.

“Cô Brandonberg, cô sẽ thấy nhà hát opera phía bên trái, đó là công trình mới nhất của chúng tôi, và với cơ hội đầu tiên này, tôi hy vọng chúng ta có thể cùng nhau tới xem một buổi trình diễn.”

“Ôi, nhà hát ư!” Cô há hốc miệng với vẻ ngạc nhiên đầy nữ tính. Cô cũng không quên tế nhị đặt một bàn tay lên ngực trái. “Ôi, tôi không ngờ nơi này cũng có nhà hát đấy!”

“Quý cô trẻ tuổi nhan sắc như cô sẽ khiến mọi diễn viên phải xấu hổ mất thôi.” Nụ cười của anh như nhòa đi dưới ánh mặt trời trong lúc anh quét ánh mắt tán dương lên đôi giày nhỏ, bộ đồ len sợi mới tinh và chiếc mũ đầu tiên cô sở hữu – chiếc duy nhất không có vành rộng kiểu trẻ con. “Tôi hy vọng cô sẽ không nghĩ tôi thật mạo muội nếu nói rằng cô có gu thời trang thật tinh tế, cô Brandonberg…”

“Cô Brandonberg?” Giọng nói trong trí tưởng tượng của cô mờ dần khi người soát vé làm cô bừng tỉnh, ông ta đang nghiêng hẳn người qua chiếc ghế trống để chạm vào vai cô. “Trạm kế tiếp là Alamo, Bắc Dakota.”

Cô ngồi thẳng người dậy, tặng cho người đàn ông lớn tuổi một nụ cười. “Ồ, cảm ơn!”

Ông ta giơ tay chạm vào vành chiếc mũ xanh trên đầu trước khi gật đầu chào cô và rời đi.

Bên ngoài, những đồng cỏ lướt qua bằng phẳng và vô tận. Cô chăm chú nhìn ra cửa sổ nhưng chẳng thấy bất cứ dấu hiệu nào của thị trấn. Con tàu bắt đầu giảm tốc khi tiếng còi hú lên, sau đó dần chìm vào yên lặng, chỉ còn lại tiếng xình xịch của những bánh xe đang chuẩn bị chuyển sang ray nối bằng thép.

Tim cô đập thình thịch đầy chờ đợi, lần này, khi cô đặt tay lên ngực trái, chẳng có chút giả vờ nào hết. Cô sẽ thấy nơi đó sớm thôi, nơi chỉ có một từ duy nhất trên bản đồ; Cô cũng sẽ gặp họ sớm thôi, những người sẽ trở thành một phần trong cuộc sống thường nhật của cô, những học sinh, những người bạn, thậm chí còn có thể là người mà cô dốc bầu tâm sự. Nhưng mỗi khuôn mặt mới cô gặp đều là của người xa lạ. Cô ước cả trăm lần mình quen biết dù chỉ một người ở Alamo. Chỉ một.

Có gì phải sợ. Chỉ là chút hồi hộp mà thôi.

Cô đưa tay ra sau gáy để kiểm tra lại mái tóc mà mình vẫn chưa tạo kiểu thành thạo, mối buộc dường như đã trở nên lỏng lẻo. Những ngón tay đang run rẩy của cô cố định lại mớ kẹp tóc, rồi cô vuốt phẳng váy, liếc nhìn đôi giày mới để lấy thêm chút tự tin khi con tàu gắt gỏng rít lên đầy mệt mỏi, rồi lắc lư trước khi dừng hẳn.

Brandonberg thân mến, ta nào thấy thị trấn đâu?

Đặt va li xuống lối đi, cô liếc mắt qua khung cửa sổ, tất cả những gì cô thấy chỉ là một nhà ga nhỏ của thị trấn, khu nhà bằng gỗ được sơn màu trắng củ cải với cửa sổ kiểu sáu ô. Cửa sổ ở cạnh hông cửa chính đối diện với nhà chờ có mái che được cố định trên bốn cột trụ.

Cô nhìn nó thêm lần nữa rồi vội vã thoát khỏi khoang hành khách để bước ra cái nắng chói chang của tháng Chín, tiếng gót giày bước nhanh của cô nện trên các bậc xuống bằng kim loại của đoàn tàu.

Cô đảo mắt nhìn xung quanh để tìm kiếm hình dáng trông giống của hiệu trưởng nhà trường. Cô mất hết tinh thần khi chỉ thấy một người duy nhất xuất hiện trong tầm mắt: Người đàn ông đang đứng dưới bóng râm của mái hiên nhà ga. Nhưng xét về trang phục thì hẳn là anh ta không phải người cô cần tìm. Tuy nhiên, rất có thể anh ta là phụ huynh của một trong những học sinh của cô. Cô nặn ra một nụ cười khẽ với anh ta. Nhưng anh ta vẫn duy trì tư thế cũ, hai bàn tay móc vào yếm quần kẻ sọc, chiếc mũ rơm dính đầy mồ hôi che khuất đôi mắt.

Hít một hơi thật sâu đầy tự tin, cô băng qua nhà ga để tiến vào bên trong, nhưng chỉ nhìn thấy người bán vé đang bận bịu gõ lách cách bức điện báo sau ô cửa sổ ở quầy hàng của mình.

“Xin lỗi, thưa ngài?”

Ông ta quay lại, đẩy tấm nhựa che màu xanh lá cây lên quá đầu rồi mỉm cười. “Vâng?”

“Tôi đến gặp Ngài Frederic Dahl. Ngài có biết ngài ấy không?”

“Tôi biết. Nhưng không thấy ông ta xuất hiện quanh đây. Ngồi chờ một chút, có lẽ ông ta sẽ xuất hiện sớm thôi.”

Dạ dày cô bắt đầu thắt lại. Cô nên làm gì đây?

Quá lo lắng để có thể ngồi yên một chỗ, cô quyết định đứng chờ bên ngoài. Cô chọn cho mình trạm tiếp theo là phía hành lang đối diện với nơi người nông dân đang đứng, đặt va li xuống và đợi.

Nhiều phút cứ thế trôi qua. Cô liếc mắt về phía người lạ mặt, bắt quả tang anh ta cũng đang soi mói cô, cô xấu hổ chuyển sự chú ý sang chiếc xe lửa. Nó gắt gỏng rít lên, phun những làn hơi nước qua ống khói, có vẻ như nó phải tốn khá nhiều thời gian mới có thể trở lại con đường của mình.

Cô lại cố tình liếc về phía người đàn ông, nhưng khoảnh khắc cô quay sang anh ta, anh ta nhanh chóng dán mắt trở lại cửa tàu.

Theodore Westgaard mải mê nghiên cứu các bậc lên xuống của con tàu, chờ đợi vị giáo viên mới xuất hiện, nhưng đã ba phút trôi qua và người duy nhất bước xuống chỉ là một cô gái gầy nhom đang chơi trò trưởng thành với chiếc mũ và đôi giày của mẹ cô ta. Anh nhìn sang cô lần thứ hai, nhưng lần này bị cô bắt gặp, anh cảm thấy xấu hổ và đưa mắt trở lại cửa tàu.

Cứ nhìn đi, Brandonberg, nhìn tiếp đi. Mình vẫn phải khai thác anh ta thêm chút nữa.

Anh ta lôi đồng hồ trong túi quần ra để kiểm tra thời gian, rê chân một cách thiếu kiên nhẫn. Cô vẫn tiếp tục quan sát anh, nhưng ánh mắt họ gần như không giao nhau thêm lần nào trước khi cô khoanh tay và hướng sự chú ý về phía đường ray.

Anh cũng bí mật nghiên cứu cô.

Mười sáu tuổi, hoặc khoảng đó, anh đoán, kẻ đang sợ hãi cái bóng của chính mình và lo lắng rằng ai đó có thể đọc được điều này. Một tạo vật nhỏ dễ thương, dù chiếc mũ gắn lông vũ trông thật nực cười. Cô vẫn nên cột bím tóc và đi giày bệt thì hơn.

Trước vẻ ngạc nhiên của Westgaard, trước khi có bất kỳ ai đó kịp bước khỏi tàu, người soát vé đã nhấc chiếc bục cầm tay và quẳng nó vào khoang, vẫy tay ra hiệu cho người lái. Con tàu ầm ầm lăn bánh, bỏ lại sự im lặng tuyệt đối – thứ chỉ bị phá vỡ bởi tiếng vo ve của một con ruồi bay quanh mũi cô.

Cô đuổi con ruồi đi, vờ như Westgaard không hề có mặt, anh bắt đầu bực bội vì đã phải đi một chuyến tới thị trấn mà chẳng thu được lợi ích gì. Anh cởi mũ, gãi đầu, rồi lại đội nó lên, kéo vành mũ thấp qua mắt, lầm bầm nguyền rủa.

Thằng nhãi thành thị chắc chắn là không hề biết giá trị trong từng giờ làm việc của một nông dân là bao nhiêu vào thời điểm này trong năm.

Anh điên tiết giẫm mạnh gót giày, trở vào trong.

“Cleavon, nếu thằng bé ngỗ nghịch đó xuất hiện trong chuyến kế tiếp, hãy nói với nó rằng… ôi, chết tiệt, thôi quên đi. Tôi nghĩ mình sẽ phải chờ thôi.” Alamo không có phường ngựa, cũng chẳng có ngựa thuê. Làm sao gã giáo viên mới có thể rời khỏi nhà ga để tới trang trại khi anh ta tới nơi cơ chứ?

Lúc Theodore giậm chân bước khỏi cửa, cô gái đối diện đã trưng ra đôi vai cứng ngắc và vẻ mặt sợ hãi. Tay vẫn nắm chặt áo khoác, miệng há ra như định nói gì, rồi lại khép vào, nuốt ực xuống và quay đi.

Mặc dù anh không thuộc tuýp người thích nói chuyện với các cô gái lạ, nhưng ánh mắt cô chẳng khác gì chú chim lạc mẹ đang chuẩn bị òa khóc, nên anh đành dừng lại và hỏi, “Cô đang chờ ai sao?”.

Cô quay lại nhìn anh với vẻ gần như tuyệt vọng. “Vâng, nhưng có vẻ ông ấy đã bị mắc kẹt.”

“Chà, giống anh bạn đồng nghiệp hôm nay tôi tới đón đây, tên L.I. Brandonberg.”

“Ôi, tạ ơn trời!” Cô thở ra, đột nhiên nở nụ cười. “Tôi chính là Brandonberg.”

“Là cô!” Nụ cười của cô đối diện với một cái chau mày. “Nhưng cô không thể là người đó! L.I. Brandonberg là đàn ông cơ mà!”

“Anh ta không phải… ý tôi là, tôi không phải đàn ông.” Cô lo lắng nở một nụ cười, sau đó chợt ý thức về cách cư xử của mình và chìa tay ra. “Tên tôi là Linnea Irene Brandonberg, và như anh thấy đấy, tôi chắc chắn mình là phụ nữ.”

Thời điểm liếc nhanh qua mái tóc và cái mũ trên đầu cô, anh liền buông tiếng khịt mũi đầy khinh bỉ.

Cô thấy toàn bộ máu trong cơ thể đang dồn hết lên mặt, nhưng vẫn cứng đầu chìa tay về phía anh và hỏi, “Tôi đang có vinh dự được gặp ai đây?”.

Anh lờ tịt tay cô, thô lỗ đáp, “Tôi là Westgaard, tôi không thích phụ lữ sống trong nhà mình! Nhà trường tuyển L.I Brandonberg vì cứ tưởn’1 là đàn ông.”

1 Các nhân vật trong truyện thỉnh thoảng mắc lỗi phát âm, thêm/lược chữ cuối (g, h…) trong một từ.

Vậy đây hẳn là Theodore Westgaard, người sở hữu ngôi nhà mà cô sẽ có một phòng để trú ngụ. Đầy chán nản, cô hạ cánh tay bị anh ta lờ tịt xuống. “Tôi xin lỗi nếu anh có ấn tượng như thế, anh Westgaard, nhưng tôi đảm bảo mình không hề có ý định lừa dối anh.”

“Hừm! Loại phụ lữ nào lại đi loanh quanh và gọi mìn’ là L.I cơ chứ!”

“Chúng ta có luật chống lại việc phụ nữ sử dụng chữ cái viết tắt trong chữ ký của họ sao?”, cô hỏi một cách quả quyết.

“Không, nhưng lẽ ra phải thế! Con gái thành thị non nớt như cô đây hẳn đã nghĩ rằng nhà trường sẽ ưu tiên thuê đàn ông, sau đó bày ra trò này để cố tình lừa gạt họ.”

“Tôi chẳng làm bất cứ trò nào kiểu đó cả! Tất cả giấy tờ tôi ký…”

Nhưng anh đã thô lỗ ngắt lời cô, “Dạy học ở nơi này không phải chỉ có mỗi việc khắc số lên bảng, thưa cô! Đó là một con đườn’ dài, là đốt lửa và xúc tuyết. Và kẻ thắng cuộc đều cần sự mạn’ mẽ! Tôi không có thời gian đưa đón bông hoa nhỏ bé trong nhà kính đây tới trường trong thời tiết âm ba mươi độ, còn tuyết thì kéo đến từ tây bắc!”

“Tôi không bắt anh phải làm thế!” Giờ thì cô trở nên tức giận, vẻ mặt đanh lại vì bị ghét bỏ. Sao họ dám để gã ba hoa này đến đón cô chứ! “Và tôi cũng không phải hoa trong nhà kính!”

“Ồ, cô không phải hử?”

Anh thô lỗ nhìn cô, tự hỏi tạo vật nhỏ bé như cô có thể tồn tại được bao lâu khi cơn bão tuyết vùng Alaska đổ xuống từ tây bắc và bị táp điên cuồng vào mặt, mạnh đến mức chẳng ai còn cảm giác gì trên trán. “Chàaaa”, anh kéo dài giọng bằng vẻ bất mãn trông thấy. “Sự thật vẫn là: Không phụ lữ nào được sống tron’ nhà tôi cả.”

Anh có thể phát âm từ phụ nữ theo cái cách mà một gã cao bồi thường phát âm từ rắn đuôi truông.

“Vậy tôi sẽ ở nhà người khác.”

“Ai có thể trở thành người đó đây?”

“Tôi… Tôi không biết, nhưng tôi sẽ nói với Ngài Dahl về chuyện đó.”

Lại một lần nữa anh buông điệu hừm gắt gỏng và khinh miệt, điều khiến cô chỉ muốn thọc một cái gậy vào mũi anh để thông nó. “Chẳng còn ai đâu. Giáo viên nuôn ở nhà chúng tôi. Đó chính là cách mà mọi việc diễn ra, vì nhà tôi gần trường nhất, trừ nơi ở của John, anh trai tôi; anh ấy sống một mìn’, vì thế không phù hợp.”

“Vậy anh tính làm gì với tôi đây, anh Westgaard? Cứ mặc kệ tôi đứng chờ nơi này sao?”

Môi anh bặm lại như một trái dâu khô, lông mày nhíu chặt khi buông lời quở trách nghiêm khắc và ánh mắt nhìn cô chằm chằm từ dưới chiếc mũ rơm.

“Tôi không thích phụ lữ ở trong nhà”, anh tuyên bố và bướng bỉnh khoanh tay lại.

“Có lẽ là không, nhưng nếu chẳng phải là nhà anh thì tốt nhất anh nên đưa tôi đi gặp ai đó ít nhảm nhí hơn anh, người mà tôi sẽ cảm thấy hạnh phúc hơn khi cùng sống dưới một mái nhà, trừ khi anh muốn đơn khởi kiện đổ ụp lên đầu.” Chà, ý tưởng này xuất hiện từ chỗ quái nào thế nhỉ? Cô thậm chí còn chẳng biết điều cơ bản nhất khi đâm đơn kiện ai đó là gì, nhưng cô phải nghĩ ra cách nào đó để trả con bò thô kệch này trở về đúng vị trí của mình mới được.

“À, kiện cơ đấy!” Westgaard thả tay xuống. Anh không bỏ lỡ cụm từ nhảm nhí, nhưng cô nàng ranh con này lại đang tung ra những lời đe dọa và cả những cái tên nhanh đến mức anh phải xử lý tất cả thông tin cùng lúc.

Linnea đứng thẳng, cố khiến anh nghĩ rằng cô là kẻ bạo gan và từng trải. “Tôi đã ký hợp đồng, thưa ngài Westgaard, và trong đó ghi rõ nơi ăn chốn ở là phần tôi được chi trả trong mức lương hằng năm. Hơn nữa, cha tôi là luật sư ở Fargo, vì vậy chi phí pháp luật có thể sẽ cực kỳ hợp lý nếu tôi quyết định khởi kiện hội đồng nhà trường Alamo vì đã vi phạm hợp đồng, và tên anh sẽ được ghi vào đó như là…”

“Được rồi, được rồi!” Anh giơ hai bàn tay to lớn và chai sạn của mình lên. “Cô có thể ngừng nải nhải được rồi đấy, thưa cô. Tôi sẽ quẳng cô cho Oscar Knutson để lão muốn làm gì thì làm. Lão muốn trở thành lãnh đạo, thì cứ để lão kiếm tiền thôi!”

“Tên tôi là Brandonberg, không phải Cô!” Cô bực tức hất váy.

“Chà, thật là thời điểm không tồi để cho tôi biết điều đó.” Anh quay người tiến về phía những con ngựa và toa xe đang đứng chờ, bỏ lại cô lặng lẽ cằn nhằn. Thật sao, quẳng tôi cho Oscar Knutson sao?

Thực tế lại tiếp tục nhạo báng trí tưởng tượng mơ mộng hão huyền của Linnea. Không có cỗ xe Stanhope xinh đẹp và sang trọng nào, cũng chẳng có chú ngựa chiến bóng bẩy hừng hực sức sống nào. Thay vào đó, Westgaard dẫn cô tới chiếc xe ngựa chở hàng được kéo bởi cặp ngựa lực lưỡng không rõ chủng loại. Anh trèo lên xe mà chẳng buồn chìa tay giúp đỡ, khiến cô chẳng còn lựa chọn nhỏ nhoi nào khác ngoài tự mình nhấc váy, vật lộn để trèo lên chiếc ghế cao quá vai mà không hề có trợ giúp.

Và về phía quý ngài đội chiếc mũ hải ly, ha! Cái tên vụng về, thô lỗ này sẽ không biết làm gì với chiếc mũ trên đầu nếu nó nảy lên và rơi xuống, đập vào chiếc mũi bị cháy nắng to quá khổ của gã đâu! Cái tên thần kinh đối xử với cô như thể cô là… như thể cô là… một kẻ bỏ đi! Cô, người sở hữu tấm bằng sư phạm khó nhằn của trường Fargo Normal! Cô, cô gái có trình độ học vấn cao trong khi hầu như mọi lúc, gã chẳng tài nào nói hai từ liền nhau mà nghe giọng lại không giống một tên khốn thất học đần độn!

Linnea tiếp tục vỡ mộng khi anh giật dây cương và hô “Hây hồ”. Những con ngựa dáng vẻ cồng kềnh đưa họ băng qua một trong những quả đồi nhỏ buồn tẻ nhất mà cô từng thấy trong đời. Nhà hát ư? Cô đã thực mơ mộng về nhà hát sao? Có vẻ như công trình văn minh nhất trong thị trấn này chính là bưu điện hoặc những cửa hàng, thứ mà chẳng nghi ngờ gì đã mang sự mở mang đến cho Alamo thông qua chuỗi cửa hàng Sears Roebuck.

Thứ ấn tượng nhất trong thị trấn chính là những ruộng ngũ cốc bậc thang nằm cạnh đường ray xe lửa. Còn lại là các căn buồng vệ sinh nhỏ. Cô đếm được hai đại lý, hai quán bar, một nhà hàng, một tiệm bách hóa, một khách sạn, một ngân hàng và một hiệu thuốc kết hợp với tiệm cắt tóc.

Tim cô chùng xuống.

Westgaard chăm chú nhìn thẳng về phía trước, cầm dây cương trong các ngón tay có kích cỡ những chiếc xúc xích Ba Lan, làn da chả khác gì da của một gã Ấn Độ già nua cao tuổi, khác xa những ngón tay thon dài và xanh xao trong tưởng tượng của cô.

Anh không buồn nhìn cô. Cô cũng chẳng buồn nhìn anh.

Nhưng cô quan sát bàn tay màu nâu rắn rỏi của anh.

Còn anh hướng ánh mắt về phía đôi giầy cao gót của cô.

Và cô cảm nhận được qua cái cách anh gập người về phía trước lẫn ánh mắt gắt gao dưới chiếc mũ có hình dáng kinh khủng kia.

Còn anh cảm nhận được cái cách cô ngồi cứng đơ như một khúc gỗ, trông hợm hĩnh như thế nào dưới chiếc mũ gắn lông vũ nực cười.

Và cô nghĩ thật tồi tệ làm sao khi con người già đi, bề ngoài của họ buộc phải trở nên quái gở như thế.

Còn anh nghĩ rằng người trẻ thật ngu ngốc làm sao khi lúc nào cũng cố gắng hết sức để khiến mình già trước tuổi.

Và chẳng ai trong số họ buồn nói nửa lời.

Họ đi thêm vài dặm về hướng tây rồi chuyển sang hướng nam. Khi đi được nửa canh giờ, Westgaard điều khiển ngựa hướng vào một nông trang giống hệt những nơi họ đã đi qua. Ngôi nhà có ván che với thứ duy nhất có vẻ ngoài thân thiện hơn tất cả là chiếc cối xay gió đang chậm rãi quay guồng.

Người phụ nữ bước tới ngưỡng cửa, nở nụ cười và giơ tay chào.

“Theodore!”, bà cất tiếng, bước hai bậc một xuống cầu thang bằng gỗ, băng qua bãi cỏ cũng vàng xuộm như những cánh đồng xung quanh họ. “Xin chào! Cậu đưa ai tới đây thế này? Tôi tưởng cậu xuống thị trấn đón giáo viên cơ mà.”

“Chính là anh ta đấy, Hilda. Anh chàng đây còn đang xỏ một đôi giầy cao gót và đội mũ gắn lông vũ cơ.”

Linnea nổi giận. Gã dám cười cợt trang phục của cô!

Hilda dừng lại cạnh cỗ xe, cau mày nhìn Westgaard, sau đó tới Linnea. “Đây là cậu ta sao?” Bà dùng tay che mắt để tránh ánh mặt trời chói chang, và nhìn thêm lần nữa. Rồi bà đập bốp hai tay vào nhau, bật cười như thể đang la mắng một cách hài hước, “Ồ Theodore, cậu đùa hử?”.

Westgaard chĩa ngón cái về phía vị khách của mình. “Không, cô ta mới là người đang đùa đấy. Cô ta là L.I. Brandonberg.”

Trước khi Hilda Knutson có thể phản ứng, Linnea đã cúi xuống và chìa tay ra, tức giận với sự thô lỗ của Westgaard vì đã giới thiệu sai về cô. “Hân hạnh được gặp bác. Cháu là Linnea Irene Brandonberg.”

Người phụ nữ bắt tay cô như thể không thực sự nhận ra mình đang làm gì. “Là phụ nữ sao”, bà nói đầy vẻ kinh hoàng. “Oscar đã thuê một phụ nữ ư?”

Bên cạnh cô, Westgaard bật ra thứ âm thanh nhạo báng khàn khàn. “Tôi nghĩ thứ mà Oscar đã thuê cho chúng ta là một bé gái thích mặc trang phục của mẹ cô ta, vờ như mình là phụ nữ. Và cô ta sẽ khôn’ ở nhà tôi.”

Hilda lấy lại vẻ tỉnh táo. “Sao nào Theodore, nhà cậu lúc nào chẳng cho giáo viên ở nhờ. Còn ai có thể cho cô ấy ở được đây?”

“Tôi không biết, nhưng không phải nhà tôi. Đó là những gì tôi tới để nói với Oscar. Ông ấy đang ở đâu?” Mắt Westgaard quét ngang một đường.

“Tôi không biết. Ông ấy từ phía tây cánh đồng rời đi vào sán’ nay, song giờ rất khó nói ông ấy đang ở đâu. Nhưng chắc cậu sẽ gặp trên đường nếu đi tiếp về hướng đó.”

“Được, tôi sẽ đi theo hướng đó. Nhưng tôi phải để cô ta ở nại đây. Cô ta sẽ không đi cùng đến nhà tôi, mà sẽ ở lại đây với bà cho đến khi bà tìm được chỗ ở mới cho cô ta.”

“Ở đây sao!” Hilda ép cả hai tay lên ngực. “Nhưng nhà tôi làm gì còn phòng trống, cậu biết mà. Sẽ không phải phép chút nào nếu để cô giáo ở cùng lũ trẻ. Cậu đưa cô ấy theo đi, Theodore.”

“Đừng hòng, Hilda. Tôi khôn’ muốn phụ lữ ở nhà mình.”

Linnea tức giận. Hai kẻ thần kinh này đang đối xử với cô như thể cô là cái bô đi tiểu chẳng ai muốn dọn vậy.

“Thôi ngay!”, cô hét, mắt nhắm nghiền và hai tay giơ lên. “Đưa tôi trở lại thị trấn. Nếu như tôi không được chào đón ở đây, tôi sẽ hạnh phúc hơn tất thảy khi được bắt chuyến tàu kế…”

“Không thể làm thế!”

“Cậu thấy mình đã gây ra chuyện gì chưa, Theodore. Cậu khiến cô ấy tổn thương mất rồi.”

“Tôi sao! Oscar đã thuê cô ta! Oscar là người nói với chúng ta rằng cô ta là đàn ông!”

“Chà, vậy thì đến mà nói với Oscar điều đó!” Bà vung tay lên ra vẻ ghê tởm, sau đó muộn màng nhớ ra cách cư xử của mình, liền xua tay với Linnea lần nữa và vỗ nhẹ lên mu bàn tay cô. “Đừng để ý đến Theodore làm gì. Cậu ta sẽ tìm một nơi cho cô. Cậu ta chỉ là đang thất vọng vì đã lãn’ phí thời gian ngoài đồng khi tất cả lúa mì đều đã chín. Giờ thì Theodore”, bà ra lệnh, quay về phía căn nhà, “Hãy chăm sóc cô gái trẻ này như những gì cậu đã đồng ý với nhà trường!”.

Và cùng lúc đó, bà biến mất vào trong.

Bị đánh bại hoàn toàn, Westgaard chỉ có thể hướng ánh mắt tìm Oscar để đổ lỗi cho lão về cái trách nhiệm ngoài ý muốn đang ngồi cạnh anh lúc này.

Giống như hầu hết những trang trại ở Dakota, trang trại của Knutson cũng rộng lớn không kém. Đi dọc những con đường đầy sỏi, họ quét mắt qua các cánh đồng lúa mì và yến mạch nhà Knutson nhưng chẳng thấy bất cứ dấu hiệu nào của ông ta, thậm chí là của một chiếc máy xén. Westgaard ngồi thẳng người, cau mày nhìn vùng màu vàng mênh mông, tập trung tìm kiếm, nhưng thứ duy nhất di chuyển chỉ là những cây ngũ cốc, và đàn chim két bay lượn trên không trung liên tục đổi hướng trước khi hạ cánh ở đâu đó giữa đồng để tìm thức ăn.

Cỗ xe của họ đi qua một cánh đồng đã thu hoạch trải dài xa tít tận chân trời. Chỉ với một cú chuyển cương, Westgaard đã quay ngựa rời khỏi con đường đầy sỏi chạy dọc trảng cỏ khô cháy. Chiếc xe đột nhiên chao đảo, Linnea tóm lấy chiếc mũ cao nghêu của mình khi nó đối mặt với nguy cơ tuột khỏi vị trí vốn có.

Westgaard lặng lẽ liếc về phía cô, trong khoảnh khắc, khóe môi anh khẽ nhếch lên. Nhưng lúc này, cô đang bận cúi xuống chỉnh chiếc trâm cài. Cỗ xe xóc nẩy và rung lắc loạn xạ trên con đường gồ ghề. Khi đến nơi, Westgaard xướng to, “Họoo”.

Những con ngựa ngoan ngoãn dừng bước, bỏ lại hai người đi xe nhìn chằm chằm về phía những cánh đồng đã được thu hoạch trải dài vô tận của Oscar Knutson, chẳng hề thấy bóng dáng ông ta đâu.

Westgaard giữ dây cương bằng một tay, tay còn lại cởi mũ rồi vò tung mái tóc, lầm bầm điều gì đó trong miệng, sau đó đội lại mũ kèm theo cái tặc lưỡi đầy bất mãn.

Lần này đến phiên Linnea mỉm cười. Đáng đời gã thô lỗ! Gã đã đồng ý cho cô ở lại, giờ thì gã sẽ phải chịu đựng dù có thích hay không.

“Cô sẽ phải tới chỗ tôi cho đến khi tôi xử lý xong công việc”, Westgaard than thở, giật dây cương điều khiển con ngựa đạp lên những gốc rạ chỏng chơ.

“Hẳn là thế rồi.”

Anh lườm cô một cái sắc lẹm và biến mất trong nháy mắt, còn cô chỉ ngồi nghiêm nghị trong xe, mắt nhìn thẳng. Thế nhưng chiếc mũ nực cười của cô lại hơi lệch sang hướng khác.

Theodore cười thầm.

Họ tiếp tục lên đường tiến về phía nam, rồi lại qua phía tây. Linnea và Theodore chỉ mở miệng với nhau đúng ba lần. Khi họ đã đi được khoảng một tiếng đồng hồ, Linnea hỏi, “Nhà anh cách Alamo bao xa?”.

“Mười hai dặm”, anh trả lời.

Sau đó, tất cả lại im lặng, ngoại trừ những chú chim và nhịp điệu ổn định của tiếng vó ngựa nhộn nhịp trên đường.

Cô lại phá vỡ sự im lặng lúc ngôi nhà màu trắng nhỏ xíu có tháp chuông thấp thoáng xuất hiện. Ánh mắt cô háo hức quan sát từng chi tiết nhỏ – những khung cửa sổ hẹp và dài, những bậc thang bằng đá, khoảnh sân bằng phẳng và rừng gỗ gòn bên rìa. Nhưng Westgaard vẫn tiếp tục đánh xe với tốc độ không đổi, khiến cô phải ngoái lại nhìn ngôi nhà đang trôi về phía sau quá nhanh để có thể chiêm ngưỡng tất cả những gì mình muốn. Cô quay ngoắt lại đối mặt với anh và hỏi, “Đó là trường học ư?”.

Không rời mắt khỏi đôi tai của những con ngựa, anh càu nhàu, “Ừ”.

Đồ óc bã đậu, đồ cứng đầu! Cô cuộn những ngón tay thành nắm đấm, giận sôi máu.

“Lẽ ra anh nên cho tôi biết trước!”

Anh đảo mắt về phía cô. Miệng anh cong lên thành điệu cười mỉa mai và kéo dài giọng, “Tôi không phải hướng dẫn viên du lịch”.

Dù cơn giận đang dâng lên như núi lửa sắp phun trào, cô vẫn khép chặt miệng và tự trấn an mình.

Họ phi ngựa xa hơn một chút dọc theo con đường, băng qua một nông trang ở phía bên trái, Theodore quyết định chọc tức cô thêm tý chút. “Đây là nơi ở của anh trai tôi, John.”

“Thật tuyệt làm sao”, cô mỉa mai, sau đó nhất quyết không nhìn nó.

Chưa đầy mười phút sau khi băng qua trường học, họ tiến vào con đường dài và quanh co, cô đoán đây chính là nơi ở của Westgaard, dù không phải do anh ta chịu bớt chút thời gian để xác nhận với cô. Phía bắc được hàng cây chắn gió lâu năm bao bọc, song song là dãy tử đinh hương dày tạo thành bức tường xanh kiên cố. Khi họ vòng qua đám cây chắn gió, sân trang trại hiện ra trước mắt. Nhà chính nằm phía trái đường xe chạy, công trình phụ nằm bên phải, cối xay gió và bể chứa đặt giữa nhà kho bị thời tiết tàn phá cùng một cụm công trình khác mà cô cho là kho chứa thóc và chuồng gà.

Nhà chính bằng gỗ cao hai tầng và không hề được trang hoàng, giống như tất cả những ngôi nhà trong thị trấn họ đã đi qua. Nó chắc hẳn từng được sơn trắng, nhưng giờ đã nhuốm màu khói bụi và tro tàn. Ngôi nhà chẳng có bất kỳ mái hiên nào để che cửa sổ khỏi ánh mặt trời.

“Đến rồi”, Westgaard tuyên bố, nghiêng người về phía trước để chuẩn bị nhảy vọt sang một bên, tính để cô tự làm điều tương tự, nhưng vào thời điểm đó, một giọng nói hống hách hét lên từ phía cửa nhà. “Teddy! Phong thái đàn ông của mày đâu rồi! Mày phải giúp cô gái nhỏ xuống xe đã chứ!”

Teddy ư? Linnea nghĩ, cảm thấy thích thú. Teddy sao?

Một người phụ nữ đang hối hả bước xuống từ cửa bếp, mái tóc xoăn màu xám buộc túm dưới gáy, đôi kính mắt hình ô van có dây nối luồn ra sau gáy. Lắc một ngón tay quở trách.

Theodore Westgaard ra vẻ có trách nhiệm, quay lại xe, chìa bàn tay tỏ ra giúp đỡ, nhưng trông vẻ mặt chẳng khác gì phải bước xuống địa ngục.

Đặt tay mình vào tay anh và nhảy xuống, Linnea không thể cưỡng lại việc buông một câu nhạo báng ngọt ngào, “Cảm ơn anh Westgaard, anh thật tốt bụng”.

Anh lập tức thả tay cô ra lúc người phụ nữ ồn ào tới chỗ họ. Bà khiến cho Linnea, cô gái chỉ cao hơn mét rưỡi chút xíu, cảm thấy bà như người khổng lồ. Bà có cái mũi to, đôi mắt màu nâu nhạt như chẳng bỏ sót thứ gì, đôi môi mỏng như lá liễu. Khoảnh khắc bà mở miệng, Linnea nhận ra bà không phải người có khả năng ăn nói một cách lịch sự. “Vậy đây là giáo viên mới của chúng ta phải không? Chẳng giống cậu chàng cho lắm!” Bà tóm lấy Linnea bằng cả hai cánh tay, giữ cô đứng yên và kiểm tra kỹ lưỡng từ trên xuống dưới, rồi lại gật đầu. “Hẳn là phụ nữ.” Nói rồi bà quay về phía Westgaard và hỏi, “Chuyện gì đã xảy ra với anh bạn kia vậy?”.

“Cô ta chính là cậu ấy đấy”, Westgaard trả lời cộc lốc.

Người phụ nữ cười khanh khách và kết luận, “Chà, vậy ta phải chuyển cách gọi thôi”. Rồi đột ngột, bà nghiêm túc chìa tay bắt lấy tay Linnea. “Đây chính là điều mà nơi này cần. Đừng quan tâm đến thằng con ta, lẽ ra ta phải dạy nó nhiều phép tắc hơn mới phải. Vì nó chẳng thèm giới thiệu chúng ta với nhau, ta đành tự làm vậy. Ta là mẹ nó, bà Westgaard. Cháu có thể gọi ta là Nissa.” Tay bà dù chỉ toàn da bọc xương nhưng rất khỏe khoắn.

“Cháu là Linnea Brandonberg. Bác có thể gọi cháu là Linnea.”

“Chà, Lin-nay-uh”, bà lặp lại tên cô theo lối phát âm cổ. “Một cái tên Na Uy hoàn hảo.”

Họ mỉm cười với nhau, nhưng không lâu. Rõ ràng Nissa Westgaard không bao giờ làm gì lâu la. Bà chuyển động như một con chim sẻ, mỗi hành động đều đột ngột và nhanh chóng. “Vào nhà đi!” Bà vừa hối hả bước đi vừa càu nhàu với con trai, “Đừng có đứng trơ ở đấy Teddy, mang đồ của cô ấy vào!”.

“Cô ta sẽ khôn’ ở đây.”

Linnea đảo mắt lên trời và nghĩ, lại nữa rồi! Nhưng cô không ngạc nhiên chút nào. Nissa Westgaard xoay người lại, vươn tay lên ghì cổ con trai xuống bằng một lực đáng kinh ngạc. “Mày có ý gì hả con, cô ấy sẽ khôn’ ở lại. Cô ấy đan’ ở đây rồi, vì thế mày chỉ cần quăng mấy cái ý tưởng đó ra khỏi đầu thôi. Mẹ biết mày đan’ nghĩ gì, nhưng cô gái nhỏ bé này là giáo viên mới, và tốt hơn hết là mày nên bắt đầu coi chừn’ cách cư xử của mình! Mẹ có thể sẽ tới sống với John, mày biết đấy!”

Linnea dùng tay che miệng để giấu đi nụ cười. Cảnh tượng này chẳng khác gì đứng xem gà mẹ hiếu chiến đàn áp một con gấu. Đỉnh đầu của Nissa cao không quá nách con trai, nhưng khi bà chỉ trích, anh chẳng dám cãi nửa lời. Mặt anh đỏ bừng. Dù vậy, trước khi Linnea được phép chứng kiến anh bối rối lâu hơn, gà mẹ hiếu chiến đã quay lại và tóm lấy cánh tay cô để kéo cô theo sau. “Đồ đầu bò, đồ khó bảo!”, bà lẩm bẩm. “Lâu khôn’ có phụ nữ bên cạnh khiến nó chẳng giống đàn ông nữa rồi.”

Linnea định buột miệng nói, “Cháu hoàn toàn đồng ý”, nhưng đã khôn ngoan ngậm miệng lại. Linnea nhận thức rõ ràng rằng Nissa cũng là phụ nữ. Nhưng hiển nhiên là định nghĩa “phụ nữ” trong nhà gã không bao hàm việc gã sống cùng mẹ.

Nissa đẩy Linnea bước tới cánh cửa dẫn vào căn bếp phảng phất mùi dấm chua. “Nhà không rộng, nhưng ấm áp và khô ráo, chỉ có ba người nhà Westgaard ở đây, và cháu sẽ có phòng riêng.”

Linnea kinh ngạc quay lại. “Ba người ạ?”

“Thằng bé chưa nói với cháu về Kristian sao?”

Mất phương hướng với tốc độ chuyển đề tài không ngừng của người phụ nữ với chất giọng đầy quyền uy này, Linnea chỉ lắc đầu.

“Có chuyện gì với thằng đó thế nhỉ! Kristian là con trai nó, cháu nội ta. Thằng bé đang gặt lúa ngoài đồng. Nó sẽ trở về vào bữa tối.”

Linnea nhìn quanh nhà để tìm kiếm mắt xích còn thiếu – người vợ, người mẹ – nhưng có vẻ chẳng thấy người nào như thế trong ngôi nhà này. Cũng rõ ràng là cô sẽ không được cung cấp dù chỉ một lý do.

“Đây là bếp. Xin lỗi cháu về mớ lộn xộn này. Ta đang bận dọn dẹp đống dưa hấu lên men kia.” Trên chiếc bàn gỗ sồi với những vòng vân to chất một núi hoa quả, nhưng Linnea không có cơ hội ngắm nghía lâu la vì Nissa liên tục dẫn cô từ phòng nọ sang phòng kia. “Đây là gian trước, ta ngủ ở chỗ này.” Bà chỉ tay vào cửa. “Kia là phòng của Teddy. Phòng của cháu và Kristian ở trên lầu.”

Bà dẫn đường trở lại bếp rồi lướt qua cửa dẫn lên lầu, Linnea thoáng thấy Theodore tiến vào cùng đồ đạc của cô. Cô quay lưng về phía anh rồi nối gót theo sau Nissa để bước lên cầu thang hẹp dẫn tới lầu hai. Nơi này được sắp xếp trật tự với hai cửa chớp lớn dẫn sang hai bên. Phòng của cô nằm ở bên phải.

Nissa dẫn đường vào phòng.

Đó là căn phòng thô nhất mà Linnea từng đặt chân tới. Chẳng có bất cứ đồ đạc nào được đặt sát vào tường, vì nơi này chẳng có nổi một bức tường, chỉ có lớp mái dốc mạnh từ chóp nhà xuống các cạnh bên ngoài căn phòng. Cửa sổ hướng về phía tây được che rèm ren trắng. Lúc này, dưới ánh chiều tà muộn màng, những luồng ánh sáng chiếu xuyên qua chúng, mờ nhạt và thưa dần, nhưng vẫn sưởi ấm cho căn phòng.

Sàn nhà được lát đá hoa cương với họa tiết hoa hồng màu nhạt lớn, nền xanh lá cây đậm. Ở phía cửa bên phải, chen chúc dưới góc mái, là chiếc giường đơn có khung sắt sơn trắng phủ ga trải giường hồng nhạt. Cạnh cửa sổ là chiếc kệ thấp đặt bình và bát, có cánh cửa bên dưới, thứ chẳng nghi ngờ gì là để che giấu “những đồ vật ác mộng”. Bên cạnh cửa sổ tí hon là chiếc ghế võng khổng lồ làm từ gỗ sồi, được trang trí đệm vải hoa màu xanh lá pha hồng ở chỗ ngồi và lưng ghế.

Cô nhìn lên gác mái tối tăm và nguyên sơ rồi tới tấm thảm thủ công chắp vá, trong khi đó bên cạnh cô, Nissa đang chờ dấu hiệu của sự tán đồng.

“Thật… thật rộng!”

“Chà, hẳn rồi, nhưng cháu cũng sẽ cụn’ đầu vào những cái kèo nhà thôi.”

“Còn rộng hơn phòng của cháu ở nhà, cháu ở chung với hai cô em gái.” Nếu như có lúc nào đó trong đời, mày muốn trở thành diễn viên, Linnea, thì đây chính là khoảnh khắc đó. Để che giấu sự thất vọng của mình, cô đi dọc căn phòng, nhìn qua vai. “Bác có bận tâm nếu cháu thử cái này không?” Nissa bắt chéo tay lên bụng, vẻ mặt đầy hài lòng lúc ngồi lên ghế và lắc lư, thả lỏng hai chân. Cô còn bật cười nho nhỏ, xoa xoa những viền cong trên thành ghế, và nói đủ chân thành, “Ở nhà, cháu với ba người chen chúc nhau một phòng, bọn cháu còn chẳng có chút không gian nào để đặt ghế võng.” Cô nghiêng cằm nhìn về phía những cánh cửa sổ tí hon, như thể mình đang vui mừng khôn xiết. “Cháu sẽ không biết phải làm gì với tất cả sự riêng tư này mất!” và dang rộng cánh tay.

Trước khi họ trở lại lầu dưới, Nissa nở nụ cười đầy tự hào.

Gian bếp dù trống không, nhưng Theodore lại để hành lý của cô ngoài cửa. Liếc mắt nhìn nó, Linnea cảm thấy cơn thất vọng lại ùa về. Anh thậm chí chẳng thèm lịch sự đề nghị mang chúng lên lầu cho cô, như cách mà bất cứ một quý ông lịch thiệp nào sẽ làm.

Nissa thì cực kỳ chu đáo đề nghị điều đó với cô, nhưng Linnea bỗng dưng thấy xuống tinh thần trước sự chào đón nhiệt tình của bà dành cho cô ở nơi này.

“Nissa, cháu không muốn trở thành nguyên nhân gây ra xích mích giữa bác và con trai bác. Tốt hơn là…”

“Vớ vẩn, con gái! Cứ để thằng con kia cho ta!”, và bà suýt nữa đích thân khiêng đồ đạc lên lầu nếu Linnea không nhanh chân làm việc đó.

Lần đầu tiên được ở một mình trong căn phòng áp mái, cô đặt hành lý lên tấm thảm chắp vá và xếp từng thứ ra giường. Cổ họng đột nhiên thắt lại, mắt bỗng dưng đau nhức.

Gã là tên duy nhất như thế trên đời này. Một lão già gắt gỏng và cay nghiệt. Cô là giáo viên có trình độ, là người mà toàn bộ hội đồng nhà trường đều công nhận. Chẳng lẽ điều đó không ý nghĩa hơn cái quan điểm mù quáng của gã sao?

Nhưng dù thế thì vẫn rất tổn thương.

Cô đã mơ đến những điều sẽ diễn ra khi tới đây. Những nụ cười cởi mở, những cái bắt tay chào đón, sự tôn trọng, à, đó là những gì cô mong muốn nhất. Ở tuổi mười tám, cô cảm thấy mình thực sự có quyền được yêu cầu sự tôn trọng không phải chỉ trên cương vị giáo viên mà còn là một người trưởng thành. Giờ thì sao chứ, cô đang ngồi đây, khóc sưng mắt như một con ngốc chỉ bởi sự chào đón mà cô nhận được chẳng hề giống như mong đợi. Chà, đó là thứ bạn sẽ nhận được khi thả trôi bản thân theo trí tưởng tượng ngu xuẩn của mình. Nước mắt làm mọi thứ mờ đi.

Anh cứ phải phá vỡ những giấc mơ của tôi, phải không, Theodore Westgaard?

Nhưng tôi sẽ cho anh thấy!

Tôi sẽ cho anh thấy!

CHƯƠNG 2

QUÝ CÔ NHỎ vẫn ở trên lầu lúc Theodore ra khỏi nhà để trở lại cánh đồng. Đồ đàn bà! Anh nghĩ. Anh tức giận trước cách đối xử của mẹ với mình trước mặt cô gái đó, nhưng anh đâu còn lựa chọn nào khác trừ việc đứng yên chịu trận? Anh tự hỏi mình còn phải chịu đựng bao lâu nữa cái cảnh bà đứng đó và chỉ tay năm ngón, bắt anh phải làm cái nọ cái kia?

Mặt anh vẫn đỏ bừng vì xấu hổ.

Bà không có quyền làm anh bẽ mặt như thế! Anh là một gã đàn ông ba mươi tư tuổi hoàn toàn trưởng thành. Về lời đe dọa chuyển tới nhà John, anh thầm ước với trời cao rằng bà sẽ làm thế! Nhưng ở nhà John, bà sẽ chẳng có ai để cốc đầu, và bà biết rõ điều đó.

Theodore vẫn bất mãn cho đến tận khi tới nơi mà từ xa, anh đã có thể thấy hai bóng người đang dẫn hai đội gặt lúa mì. Anh dừng lại và chờ ở cuối một luống lúa. Từ đây, rất dễ quan sát cảnh John và Kristian đang làm việc. Những đường cắt như múa của chiếc lưỡi cắt gọn gàng sạt qua các bó lúa mì to dày và vàng óng. Những đường lia của John dẫn đầu và Kristian theo sau, tạo thành các bậc thang ở rìa cắt khi họ không ngừng len lỏi trên cánh đồng.

Vào lúc chỉ còn là những chấm nhỏ phía chân trời, cặp đôi cũng lập tức quay trở lại, hướng về phía Theodore, hình dáng họ dần trở nên rõ hơn theo từng bước chân mệt mỏi mà lũ ngựa để lại. Anh nhìn những thân lúa mì đổ xuống, và hít vào một hơi thật sâu, chẳng gì ngọt ngào hơn những cây lúa mì đang khô đi dưới ánh mặt trời.

Ngọt ngào, cũng là giá trị mà lúa mì sẽ mang đến cho họ trong mùa thu năm nay. Cuộc chiến tranh ở châu Âu biến mỗi hạt lúa mì thành hạt vàng nguyên chất, chứ không đơn thuần chỉ là màu sắc của chúng nữa. Đứng dưới tia nắng mặt trời, dõi theo những chiếc máy gặt đang đốn ngã từng cây lúa, Theodore triết lý về những thứ đẹp đẽ có lẽ đều kết thúc bằng những điều tồi tệ, cũng giống như chiến tranh.

Mọi người nói rằng ngày ấy sẽ tới khi lúa mì có thể nuôi sống các binh sĩ Hoa Kỳ, nhưng đó không phải cái cách mà mọi thứ đang diễn ra. Kể cả khi những trại huấn luyện của chính phủ Mỹ vẫn tuyển dụng tân binh không ngừng nghỉ, người ta cũng đồn rằng họ thậm chí còn chẳng có đồng phục hay súng. Thay vào đó, họ khoác lên người những bộ quần áo dân sự và trang bị cho mình các cán chổi. Và khi tất cả mọi người trên đất nước đều đang ca những lời đại loại như “Tôi không nuôi con mình lớn lên chỉ để trở thành binh sĩ”, thì dường như cuộc chiến duy nhất mà Theodore phải lo lắng chính là cuộc chiến của riêng anh với vị giáo viên thích tỏ ra người lớn kia.

Theodore vẫn mải mê suy nghĩ khi anh trai anh tiến đến.

John ghìm cương và hô lớn “Hầy hồ, các cô nàng”, sau đó chậm chạp bước xuống từ chiếc yên sắt. Những con ngựa lúc lắc đầu, những tiếng leng keng phát ra trên chiếc yên cương vang vọng khắp trời chiều.

“Về rồi à”, John nói, cởi mũ rồi giơ tay lau mồ hôi trên trán.

“Ừ, về rồi.”

“Đón được anh ta không?”

“Được.”

John gật đầu chấp nhận với Theodore theo lối đặc trưng của mình. Anh ấy là người sống vô tư, không quá nhanh nhẹn và cũng chẳng quá để tâm đến mọi chuyện. Ba mươi tám tuổi, vai rộng hơn vai Theodore một chút, đầu nhỏ hơn đầu Theodore một chút, và chậm chạp hơn em trai trong tất cả mọi việc: Từ hoàn thành những thứ vặt vãnh cho đến khi nổi cơn thịnh nộ. Dù có vóc dáng to lớn và mạnh mẽ, nhưng tác phong của anh ấy lại thiếu nhanh nhẹn và uyển chuyển. Thân hình anh ấy vừa khít trong chiếc quần yếm, đôi bốt cao cổ và sơ mi nỉ dày. Vào những ngày nóng nực nhất, anh ấy vẫn đóng kín cúc cổ lẫn ngực, và chưa bao giờ phàn nàn về cái nóng hay về bất cứ thứ gì trong đời mình. Sở thích của anh ấy chỉ quanh quẩn ở những cánh đồng, và miễn là còn có khả năng để làm việc đó, anh ấy chẳng đòi hỏi nhiều hơn ở cuộc sống.

“Gặt hái tốt nắm”, anh ấy quan sát một lượt. “Ba chúng ta phải hoàn thành khu này trước khi đêm xuống”, John ngồi xổm, giữ thăng bằng trên nửa trước của hai bàn chân và quét mắt khắp cánh đồng, miệng nhai một cây lúa mì.

Như thường lệ, Theodore cảm thấy lúng túng khi anh trai chẳng hề tò mò về những gì đang diễn ra xung quanh. Anh ấy thực sự là thế. Sự vô tư của John đã đạt đến cảnh giới khiến anh ấy chẳng khi nào bận tâm đặt ra câu hỏi hay thách thức. Có lẽ chính sự mù mờ này đã khiến Theodore dành cho anh ấy sự bảo vệ và tình yêu vô tư lự.

Tâm trí anh đang nghĩ gì, John, khi anh ngồi đó, bất động, và nhìn chằm chằm về phía chân trời?

“Cậu hóa ra lại là cô”, Theodore thông báo cho anh trai mình.

John nhướng mắt không hiểu, nhưng vẫn chẳng buồn hé nửa lời.

“Nghĩa là phụ lữ”, Theodore giải thích.

“Ai là phụ lữ?” Câu hỏi tới từ Kristian, người nhảy khỏi chỗ ngồi trên chiếc máy cắt của mình bằng sự nhanh nhẹn trái ngược hẳn với bác cậu. Cũng giống hai người còn lại, cậu mặc một chiếc quầm yếm kẻ sọc, nhưng lại để lưng trần và đầu không đội mũ. Cậu có đôi tay với làn da nâu sẫm dẻo dai, cuồn cuộn cơ bắp, thứ mới chỉ thực sự rõ ràng trong nửa năm trở lại đây. Cậu có chiếc cổ dài, khuôn mặt góc cạnh mỗi ngày lại mang vẻ trưởng thành của một người đàn ông. Cậu có đôi mắt nâu của cha, dù chúng thiếu đi vẻ hoài nghi và cánh môi dưới đầy đặn, gợi cảm của mẹ. Khi cậu lên tiếng, phát âm Anh ngữ có xen chút âm giọng của người Na Uy.

“Giáo viên mới”, cha cậu dùng âm điệu rõ hơn để trả lời. Theodore ngừng lại để cân nhắc trước khi tiếp tục, “Cũng khôn’ hẳn là phụ lữ. Trông giống con bé đang giả vờ là phụ lữ hơn. Trông con bé chẳng lớn hơn mày chút nào”.

Mắt Kristian mở lớn. “Thật ạ?” Cậu nuốt nước miếng, liếc về phía ngôi nhà, và hỏi, “Cô ấy đan’ ở nhà sao?”. Cậu hiểu, mà không cần phải dùng quá nhiều lời để thông báo, rằng cha cậu có ác cảm với phụ nữ. Cậu đã nghe lỏm họ hàng nói về điều này cả tỷ lần rồi.

“Bà nội mày dẫn cô ta lên lầu và chỉ phòng cho cô ta, cứ như thể đấy là phòng của cô ta ấy.”

Kristian hiểu rõ nếu bà nội đã tuyên bố cô ấy sẽ ở lại… vậy thì cô ấy sẽ ở lại!

“Cô ấy thế nào?”

Cằm Theodore bạnh ra đầy bất mãn. “Miệng hôi sữa và háu đá như ngựa non.”

Kristian cười khúc khích. “Ngoại hình thì sao?”

Theodore cau mày. “Mày quan tâm gì đến ngoại hình của cô ta chứ?”

Mặt Kristian ửng đỏ. “Con chỉ hỏi thế thôi.”

Theodore càng cau có hơn. “Tí hon và nhút nhát”, anh cắm cảu trả lời, “Giống những gì mày thường mong được thấy ở một vị giáo viên. Giờ thì quay lại công việc đi”.

Trong suốt vụ thu hoạch, bữa tối bắt đầu khá muộn vì đàn ông trong gia đình sẽ ở ngoài đồng cho đến khi tia nắng cuối cùng trong ngày vụt tắt. Giữa khoảng thời gian đó, họ sẽ tạm dừng công việc lúc chiều muộn để quay về vắt sữa bò và ăn bánh mì cầm hơi, sau đó sẽ tiếp tục công việc cho đến khi trở về dùng bữa tối.

Dù Linnea đã lịch sự đề nghị được giúp một tay chuẩn bị bữa tối, nhưng Nissa chẳng thèm nghe, không những thế còn xua cô ra khỏi bếp với câu tuyên bố ngắn gọn, “Nơi ăn chốn ở dành cho giáo viên đều ở đây cả. Đó là một phần trong lương tháng của cháu, đúng chứ?”.

Vì thế Linnea quyết định dành thời gian khám phá nơi này, dù hẳn là chẳng có gì nhiều nhặn cho cô chiêm ngưỡng. Cô phát hiện ra một chuồng lợn khuất sau ngôi nhà. Chuồng gà, giàn phơi ngô và hầm ủ thức ăn chẳng có gì thu hút cô cho đến khi cô bước vào nhà kho, nơi mà cô phát hiện ra mọi thứ đều rất thú vị.

Nhà kho của gia đình không lớn, không gian chật hẹp như giam giữ cô, nhưng đó lại là một cái xưởng ngựa. Kể cả chuồng ngựa ở Fargo mà cô từng thấy cũng chẳng có nhiều đồ da như ở đây! Như thể đủ để cung cấp cho cả một trung đoàn kỵ binh. Cộng thêm hàng trăm cái móc và dây cương được treo trên tường, rồi giá cưa và kệ để đồ, nhà kho chẳng khác gì một mạng nhện.

Tráng lệ làm sao!

Nó có nét đặc sắc riêng. Và vô cùng ngăn nắp – điều khiến cô bị tò mò về người đã giữ nơi này gọn gàng và tôn nghiêm đến thế. Dây cương không được treo lên những chiếc đinh nhỏ bằng kim loại đã bị thời gian uốn cong hoặc làm gãy. Thay vào đó, chúng được treo lên miếng gỗ dày được đính chắc vào tường. Những chiếc dây da riêng lẻ nhỏ hơn cuộn lại cũng gọn gàng như thừng ngựa, không một nút rối hay mẩu thừa lộ ra. Chiếc kệ dài và thô đặt những can dầu cùng xà phòng dành cho yên ngựa. Các dụng cụ tỉa móng, kéo, bàn chải được treo gọn trên đinh. Gần cửa số ở bức tường phía tây là chiếc ghế cũ với nhiều vết xước, những vệt dơ lỗ chỗ ở phía lưng ghế và tay cầm. Trên tay ghế treo một miếng giẻ bẩn được gấp đôi thật chuẩn xác và gọn gàng, chẳng kém gì một người phụ nữ cẩn thận treo chiếc khăn lau bát đĩa lên thanh treo đồ.

Một con người nhỏ mọn, cô kết luận. Toàn bộ đều là công việc, không có chơi đùa ở đây, cô nghĩ.

Chẳng hiểu sao cô cảm thấy khó chịu khi phát hiện ra sự cầu toàn ở gã đàn ông nóng tính này. Trong khi chờ đợi anh và con trai anh trở về dùng bữa, dạ dày cô bắt đầu nhộn nhạo, Linnea tưởng tượng đến ngày cô bắt được anh phải trở về đúng vị trí của mình.

Với suy nghĩ đó, cô quay về phòng, tắm rửa và sửa sang lại đầu tóc trước bữa tối. Cầm bàn chải trong tay, cô thì thầm với chiếc gương bầu dục, và như thể đang nói chuyện với ai đó hơn là với cái bóng phản chiếu của chính mình.

“Anh đối xử với mấy con ngựa còn tử tế hơn với phụ nữ. Thực tế là anh đối xử với những chiếc yên ngựa còn tử tế hơn là với phụ nữ!”

Linnea bất bình trước câu trả lời tưởng tượng của mình, sau đó cô chỉ tay lên ngực trái. “Anh nên biết rằng từng có một diễn viên nổi tiếng trên sân khấu Luân Đôn và một phi công người Anh tán tỉnh tôi. Tôi cũng từng từ chối bảy… hay là tám nhỉ…?”. Trong khoảnh khắc đó, trán cô nhăn lại, sau đó nở nụ cười. “Ồ, chà”, cô duyên dáng kết thúc. “Bảy hay tám thì có gì khác biệt gì cơ chứ?” Cô bật cười trong tiếng thì thầm và tiếp tục chải tóc buông xuống bờ vai. Nhưng người phụ nữ lớn tuổi đã xuất hiện mà chẳng có một câu thông báo, đặt lên tay cô đống khăn sạch trước khi lại quay bước đi. “Nhanh sửa sang lại tóc tai, con gái, và xuống nhà trong vòng năm phút nữa. Các chàng trai không thích chờ đợi đâu.”

Thật không may, Linnea chẳng có nhiều kinh nghiệm với việc dùng cả hai tay để buộc tóc theo kiểu lệch một bên mới mẻ này, thế nên với một bàn tay đang bị băng bó, cô lại càng bất lực. Cô đã cố gắng hết sức nhưng cho đến tận khi Nissa thông báo bữa tối đã sẵn sàng, chúng vẫn còn rối bù. Linnea liếc xuống váy, đầu gối và gấu váy đều ướt, nhưng cô chẳng còn thời gian để thay.

“Cô Brandonberg! Xuống ăn tối!”

Các chàng trai không thích đợi.

Từ bỏ công việc sửa sang tóc tai quần áo, Linnea hướng ra phía cầu thang, hy vọng tiếng bước chân của cô nghe không quá vội vã. Khoảnh khắc từ trong bóng tối cầu thang tiến vào bếp, cô ngạc nhiên khi thấy ba người đàn ông vạm vỡ và cao lớn đang trố mắt nhìn mình.

Các chàng trai sao?

Theodore, dĩ nhiên, là người mà cô đã có bất hạnh được gặp. Anh liếc nhìn khuôn mặt đỏ gay và mái tóc rối bù của cô, cộng thêm chiếc váy dính ướt, khóe miệng nhếch lên liền phảng phất nụ cười. Cô lờ anh đi như thể anh là một gã vụng về, thô kệch để chuyển sự chú ý của mình tới những người còn lại.

“Em hẳn là Kristian.” Cậu cao hơn cô nửa cái đầu và cực kỳ đẹp trai, sở hữu khuôn miệng đáng yêu và tốt bụng hơn cha cậu, tuy nhiên đôi mắt nâu sâu thẳm của cậu lại y hệt anh. Tóc cậu vẫn còn ướt, khuôn mặt sáng sủa vì đã được rửa sạch sẽ, trong ba người thì cậu là người duy nhất không mặc áo hay rẽ ngôi giữa. Cô chìa tay và nói, “Xin chào. Chị là Brandonberg”.

Kristian Westgaard trố mắt nhìn khuôn mặt giáo viên mới. Nhút nhát và yếu đuối ư? Trời ạ, cha cậu đang nghĩ cái quỷ gì vậy? Cậu cảm thấy bộ ngực trần của mình đang đỏ dần. Tim cậu đập điên cuồng, mồ hôi tay bắt đầu túa ra.

Linnea nhìn cậu bé đang đỏ bừng mặt như quả mâm xôi chín, lo lắng chùi tay lên đùi. Cuối cùng cậu siết nhẹ tay cô, nói ngắn gọn một tiếng “Oa”, cậu thì thào. “Theo ý chị, chị là giáo viên mới?”

Nissa đi ngang qua họ trên đường mang đĩa thịt tới bàn, khuyên nhủ, “Coi chừng cách cư xử của cháu nào, cậu bé!” khiến Kristian khẽ đỏ mặt.

Linnea bật cười. “Chị e là thế.”

Nissa xen vào, “Còn đây là con trai ta, John. Sống cách đây vài quãng đồng về phía bên kia, nhưng bữa nào cũng ăn cùng mọi người”. Bà hất đầu về phía đông, rồi quay lại kệ bếp.

Linnea nhìn khuôn mặt trông khá giống Theodore, dù già hơn một chút và tóc hớt ra sau. Anh ta có đôi mắt nâu nhút nhát, sống mũi thẳng tắp đầy hấp dẫn, cặp môi dày, chẳng giống với làn môi mỏng trong suy nghĩ của cô về Nissa chút nào. Dường như anh ta không có khả năng nhìn thẳng vào mắt cô hay giữ cho đôi chân thôi đảo qua đảo lại vì lo lắng. Mặt anh ta ửng đỏ. Đôi mắt liên tục hấp háy nhìn khắp mọi nơi, trừ cô. Khi Nissa giới thiệu họ với nhau, anh ta gật đầu nhát gừng rồi mới quyết định giơ tay ra, sau đó rụt lại giữa chừng và gật thêm hai cái nữa. Cuối cùng anh ta cũng bắt tay cô.

“Xin chào”, cô đơn giản nói.

Anh ta lúng túng gật đầu, nhìn xuống giày. “Chào!” Giọng anh ta cộc cằn và rất trầm, giống như tiếng sấm từ vùng đất kế bên.

Anh ta mặc chiếc quần yếm đen bạc màu có hai quai đỏ. Cổ áo sơ mi kẻ sọc cài nút gọn gàng lên đến tận cổ, khiến anh ta có vẻ bề ngoài khá trẻ con và buồn tẻ so với một người đàn ông to lớn như thế này. Cảm giác ấm áp và an toàn chạm vào tim cô ngay tức khắc khi bàn tay to lớn khổng lồ của anh ta bao gọn tay cô.

Người duy nhất không mở miệng nói chuyện là Theodore. Nhưng cô cảm nhận được anh đang thận trọng dõi theo mình và cô quyết định sẽ không dễ dàng buông tha cho anh. Nếu anh nghĩ người lớn tuổi không cần thiết phải cư xử đúng mực, cô sẽ cho anh thấy ai đó không bao giờ quá già để tỏ ra lịch sự.

“Và lại chào anh, anh Westgaard.” Cô quay người đối mặt với anh, khiến anh không còn cách nào khác là phải thừa nhận sự hiện diện của cô.

“Ừ”, là tất cả những gì anh nói, anh khoanh tay áp vào chiếc sơ mi denim màu xanh với quai áo màu đen.

Để làm phiền anh nhiều hơn nữa, cô nở một nụ cười ngọt ngào khi thêm vào, “Mẹ anh đã chỉ phòng cho tôi và cũng đã sắp xếp ổn định cho tôi ở đó. Một căn phòng hết sức dễ thương”.

Vì mọi người đều đang nhìn, anh buộc phải nuốt xuống lời vặn vẹo sắc sảo. Thay vào đó, anh chỉ gầm gừ, “Hừm, chúng ta định đứng càm ràm mãi hay là sẽ dùng bữa tối đây?”.

“Thức ăn đã sẵn sàng. Ngồi xuống đi”, Nissa sắp xếp và đặt chiếc bát cuối cùng lên chiếc bàn tròn phủ khăn lanh trắng như tuyết. “Đây là ghế của cháu.” Nissa chỉ chiếc ghế đặt giữa mình và John, có lẽ bà hy vọng chút khoảng cách giữa Linnea và Theodore có thể giảm bớt thái độ phản kháng của con trai. Không may mắn, vị trí này lại khiến họ ngồi đối diện nhau, và thậm chí trước khi ngồi xuống, Linnea đã cảm nhận được ánh mắt bất mãn của anh đang dán lên cô.

Lúc mọi người đã yên vị, Theodore lên tiếng, “Cầu nguyện nào”. Và anh siết hai tay lại, tì khuỷu tay lên cạnh đĩa, áp trán lên những đầu ngón tay. Mọi người nhất loạt làm theo, do đó Linnea cũng không ngoại lệ. Nhưng khi giọng nói trầm thấp của Theodore bắt đầu vang lên lời thỉnh nguyện, cô liền mở mắt kinh ngạc. Lời cầu nguyện được đọc bằng tiếng Na Uy.

Cô ấn ngón cái lên trán, theo dõi khóe môi anh cử động sau đôi tay đang chắp lại. Trước sự ngỡ ngàng của cô, anh lén ngước mắt nhìn cô! Mắt họ giao nhau chỉ vài giây, nhưng chỉ cần một khắc ngắn ngủi đó cũng đủ để họ giật mình trước khi ánh mắt anh chuyển đến cánh tay băng bó của cô. Cô nhắm tịt mắt lại với cảm giác tội lỗi. Cô thêm lời cầu nguyện của mình vào cùng mọi người, và trước khi cô có thể dịch khuỷu tay ra khỏi khăn trải bàn thì hành động đáng kinh ngạc nhất diễn ra. Như thể lời cầu nguyện cuối cùng báo hiệu cho sự khởi đầu của cuộc chạy đua, những cánh tay bắt đầu vươn ra để chụp lấy bốn cái bát, bốn bộ thìa nĩa loảng xoảng rơi lên những cái đĩa. Loảng xoảng!

Giống như mũi khoan chính xác, khi những chiếc bát đã được chuyển qua bên trái thì mỗi một người nhà Westgaard lại tóm lấy một cái đang tới từ bên phải. Linnea há hốc miệng nhìn. Rõ ràng sự chậm trễ của cô trong việc nhận bát ngô từ phía John đã khiến quá trình bị khựng lại, khiến mọi ánh mắt đều đột ngột dừng lại trên người cô còn cô thì vẫn ngồi yên bất động với đôi tay trống rỗng, John thì giữ hai chiếc bát trong hai bàn tay to lớn của mình. Anh ta lặng lẽ dùng bát ngô huých vào vai cô, và khi cô nhận nó, mắt Theodore lại đáp lên bàn tay băng bó lần nữa.

“Chuyện gì xảy ra với cô ta thế?”, anh hỏi Nissa.

Nissa xúc một thìa khoai tây vào đĩa mình. “Cô bé đánh vỡ chiếc bình trên lầu trong lúc dọn dẹp và tự cắt vào tay.”

Sao gã dám hỏi người khác và làm như cô không thể tự trả lời câu hỏi của gã chứ! Linnea đỏ bừng mặt khi cả bốn cặp mắt quay về phía cô, săm soi bàn tay trái bị băng đang cầm bát ngô. Rồi gánh xiếc lại tiếp tục khởi động, những cái bát và thìa liên tục luân chuyển cho đến khi kết thúc đột ngột như lúc mới bắt đầu: Bốn đôi bàn tay hạ xuống bát, bốn cái đầu cắm cúi xuống đĩa, bốn người Na Uy ăn uống thô lỗ đến mức Linnea chỉ có thể trợn mắt nhìn trừng trừng.

Cô là người cuối cùng cầm bát, và đột nhiên thấy mình giống như một cô hề. Chà, lề thói là lề thói! Cô sẽ trưng ra những lề thói đã ăn sâu vào mình trong suốt cuộc đời và xem liệu tấm gương tốt như thế có khiến bốn người này phiền lòng hay không.

Cô gắp đầy thức ăn vào đĩa và ngồi thẳng lưng, ăn uống nghiêm trang, sử dụng dao và nĩa cho miếng bò bít tết ngon mắt, thứ được nấu trong nồi súp ngấm đầy gia vị. Khi chưa đụng tới dao, cô đặt nó chính xác trên rìa đĩa. Khoai tây, ngô, xà lách trộn, bánh mì, bơ, và một loạt các gia vị được để xung quanh.

Toàn bộ gia đình Westgaard vẫn ăn ngấu nghiến!

Cũng như phát ra những âm thanh thật khủng khiếp.

Không ai nói một lời, chỉ xúc, xúc và xúc sâu xuống, cho tới khi đĩa của họ bắt đầu trống trơn, và từng người từng người một yêu cầu được chuyển đĩa cho mình thêm lần nữa. Nhưng họ đã làm điều đó theo cung cách của những người tiền sử!

“Khoai tây!”, Theodore yêu cầu, Linnea nhìn bằng ánh mắt ghê tởm khi “khoai tây” được John chuyển qua, người mà hiếm khi ngước mắt nhìn lên trong khi tay vẫn đang quét nước sốt thịt bằng một miếng bánh mì, sau đó nhét vào miệng.

Một khoảnh khắc sau, Kristian tiếp tục, “Thịt!”.

Bà nội cậu đẩy bát thịt qua. Không ai ngoài Linnea cảm thấy có điều gì bất ổn. Nhiều phút tiếp tục trôi qua với những tiếng nhồm nhoàm và ngấu nghiến.

“Ngô!”

Linnea không nhận thức được hành động của mọi người bị trì hoãn cho đến khi sự im lặng đột ngột khiến cô phải rời mắt khỏi đĩa của mình. Mọi người đều đang chằm chằm nhìn cô.

“Em nói ngô”, Kristian lặp lại.

“À, ngô!” Cô tóm lấy bát đựng ngô và đẩy nó qua bàn cho cậu, quá lúng túng để có thể bắt đầu chủ đề về phong thái ăn uống trong đêm đầu tiên ở ngôi nhà mới.

Chúa ơi, lúc nào họ cũng ăn uống như vậy sao?

Họ bắt đầu khẩu phần ăn thứ hai, cho cô thời gian để nghiên cứu từng người một.

Nissa. Với cặp kính ô van nhỏ bé và mái tóc hoa râm, bà cũng cúi xuống đĩa. Là người mẹ, bà đã cẩu thả trong việc dạy con mình cách ăn uống, nhưng không nghi ngờ chút nào là bà có toàn bộ quyền kiểm soát với những “cậu bé” của mình. Nếu không phải Nissa mà là Theodore, người quyết định rằng Linnea không được chào đón ở đây, thì cô đã không thể ngồi bên bàn ăn lúc này, Linnea hoàn toàn chắc chắn về điều đó.

John. Ngồi cạnh anh ta, cô cảm thấy mình như một chú lùn. Bờ vai rộng đang cúi về phía trước giống một chiếc đòn gánh. Cô nhớ lại vẻ do dự của anh ta khi bắt tay mình, nhớ lại khuôn mặt đỏ bừng khi anh ta lịch sự chào cô. Có lẽ cô sẽ không bao giờ được nghe giọng John mất.

Kristian. Cô không bỏ lỡ những cái liếc trộm của cậu trong suốt bữa ăn! Cậu to lớn! Hoàn toàn trưởng thành! Cô cảm thấy thực khó xử khi trở thành giáo viên của cậu, người cao hơn cô nửa cái đầu và bờ vai rộng như ngựa cày. Nissa đã đề cập tới cậu bằng cụm từ “thằng bé của Theodore”, nhưng cậu chẳng nhỏ hơn cha và bác mình chút nào, và rõ ràng Kristian đã si mê cô ngay từ cái nhìn đầu tiên. Cô phải cẩn thận để không khuyến khích cậu đi theo chiều hướng này mới được.

Theodore. Điều gì đã khiến người đàn ông này trở nên khó tính và khó gần đến thế? Cô hẳn phải là một kẻ nói dối nếu phủ nhận việc mình sợ người này. Nhưng anh sẽ không bao giờ biết điều đó, không, nếu cô chỉ sống ở nhà anh năm năm và chiến đấu với nanh vuốt của anh suốt thời gian đó. Bên trong mỗi con người hà khắc đều ẩn sâu một góc mềm mại, chỉ cần hiểu con người anh ta, bạn cũng có thể hiểu tâm hồn thật sự của anh ấy. Đối với Theodore, điều này không nghi ngờ gì là một nhiệm vụ khó nhằn dành cho cô, nhưng cô sẽ thử.

Anh bất ngờ ngước nhìn thẳng vào mắt cô, cô giật mình phát hiện Theodore không phải là gã già nua như cô vẫn nghĩ. Đôi mắt nâu của anh tinh anh và chẳng có lấy một vết nhăn, ngoại trừ đường màu trắng duy nhất ở đuôi mắt. Trong đôi mắt đó, cô trông thấy sự thông minh và hiếu chiến. Mái tóc anh không phải màu của hoàng hôn trên những cánh đồng lúa mạch đen chín mọng gợn sóng, như cô có thể tưởng tượng, mà có màu nâu và dày dặn với những lọn tóc bướng bỉnh. Anh cũng chẳng có chiếc mũi bị cháy nắng to quá khổ nào. Sống mũi anh thẳng, quyến rũ và sạm lại, giống như phần còn lại trên khuôn mặt anh.

Không giống John, cổ áo anh để mở. Phía sau là chiếc cổ mạnh mẽ, bên trên cũng chẳng có chiếc cằm nào xệ xuống. Khi anh cứng đầu nhất quyết không phá vỡ ánh nhìn, cô tự giác nhìn xuống cánh tay anh. Không giống John, cổ tay anh nhỏ và hẹp khiến bàn tay và cánh tay trở nên to lớn. Gã bốn mươi ư? Chắc không? Ba mươi? Hẳn là thế. Gã hẳn là đã có con ở độ tuổi của Kristian.

Và rồi với một tiếng thở dài lặng lẽ, Linnea quyết định rằng rốt cuộc cô cũng đã đúng: Độ tuổi của gã hẳn là giữa ba và bốn mươi.

Cô lại lén nhìn anh lần nữa, lần này anh đang cúi thấp đầu, tiếp tục ăn, nhưng ánh mắt vẫn ghim lên người cô. Cô bối rối liếc nhìn quanh bàn và thấy Kristian đang quan sát hai người họ. Cô nở nụ cười với cậu và nói ra điều đầu tiên xuất hiện trong tâm trí. “Vậy em hẳn sẽ là một trong số những học sinh của chị, Kristian.”

Mọi người trên bàn đều ngừng xúc và nhai khiến sự im lặng bao trùm. Họ đều nhìn cô như thể cô vừa mới mọc những chiếc răng nanh. Cô cảm thấy chính mình bắt đầu đỏ mặt, nhưng không biết tại sao. “Tôi đã nói điều gì sai sao?”

Sự im lặng lại kéo dài, cuối cùng Kristian trả lời, “Đúng… ý em là, sai, chị khôn’ nói gì sai cả, và đúng là chị sẽ trở thành giáo viên của em”.

Họ trở lại với việc ăn uống, dán mắt xuống đĩa, còn Linnea lại băn khoăn tự hỏi về sự im lặng vừa rồi. Cô liền phá vỡ điều đó.

“Em học lớp mấy, Kristian?”

Thêm lần nữa mọi người ngừng lại, giật mình trước sự gián đoạn. Kristian lén nhìn quanh bàn rồi trả lời, “Tám”.

“Tám?” Cậu ít nhất phải trên mười sáu tuổi rồi chứ. “Em có ở lại vài lớp… ý chị là, em đã từng bị bệnh hay gì đó không?”

Mắt cậu mở trừng trừng và không chớp lấy một cái khi nhìn chằm chằm vào cô, màu hồng lan dần xuống tận cằm. “Khôn’, khôn’ bỏ lỡ năm học nào.”

“Không bỏ lỡ.”

“Sao cơ?”

“Em không bỏ lỡ năm học nào cả”, cô sửa lại lời cậu.

Trong khoảnh khắc, trông cậu đầy bối rối, sau đó mắt cậu sáng lên khi nói, “Ồ! Vâng, em cũng thế”.

Sau đó, cô có thể cảm thấy tất cả đều nhìn mình, nhưng không thể đoán nổi họ đang quá ngạc nhiên về điều gì. Cô chỉ là đang đối thoại một cách lịch sự trên bàn ăn. Nhưng không ai trong số họ chịu tán đồng. Thay vào đó, tất cả chỉ im thin thít và tiếp tục nhét thức ăn vào miệng, âm thanh duy nhất mà họ đáp trả chỉ là tiếng nhồm nhoàm.

Theodore chỉ mở miệng khi đĩa của anh đã trống trơn. Anh tựa người vào lưng ghế, ưỡn ngực. “Tráng miệng có gì, mẹ?”

Nissa nghĩ đến bánh pudding. Linnea sững sờ quan sát cảnh mọi người im lặng chờ đợi bữa ăn tiếp theo của mình, sau đó lại tiếp tục vục mặt vào đó với vẻ thích thú mãnh liệt hơn. Liếc một vòng quan sát và tìm hiểu họ, cuối cùng cô cũng ngộ ra: Ở đây ăn uống là công việc nghiêm túc. Không ai có quyền xúc phạm kiểu ăn ngấu nghiến bằng những lời tán gẫu nhàm chán, và chúng là bất khả xâm phạm!

Trong đời, cô chưa từng bị đối xử thô lỗ đến thế trên bàn ăn. Khi bữa tối xong xuôi, cô lại bị vây quanh bởi điệp khúc của những tiếng ợ lớn trước khi tất cả ngồi trở lại ghế và uống cà phê.

Chẳng ai trong số họ xin thứ lỗi! Thậm chí là Nissa!

Linnea tự hỏi Nissa sẽ phản ứng thế nào nếu như từ giờ trở đi, cô yêu cầu được phục vụ một chiếc khay riêng trong phòng mình. Cô gần như chắc chắn mình không hề có hứng thú tham gia ăn uống cùng họ ở đây, chỉ để lắng nghe những tiếng ăn uống khiếm nhã.

Nhưng giờ có vẻ như nghi thức bất khả xâm phạm đó đã hoàn thành. Theodore đẩy ghế ra và trực tiếp nói với Linnea, “Ngày mai cô sẽ đi xem trường học”.

Điều cô thực sự muốn nhìn thấy ngày mai là bên trong con tàu đưa cô về căn nhà ở Fargo. Giấu đi nỗi thất vọng, cô trả lời bằng tất cả sự nhiệt tình mình có thể gom được, “Được, tôi rất muốn xem thử mình sẽ phải dùng đến những quyển sách nào, và phải yêu cầu thêm sự trợ giúp gì”.

“Công việc vắt sữa bắt đầu lúc năm giờ và dùng bữa sán’ ngay sau đó. Cô hãy sẵn sàng lên đường ngay khi ăn xong. Tôi không muốn lãng phí thời gian ra đồng vào giữa sán’ để chở cô đến đó và đưa cô đi du lịch đâu.”

“Tôi sẵn lòng đi bộ. Tôi biết trường học ở đâu.”

Anh nhấp một ngụm cà phê, nuốt ực một cái, và nói, “Đó là một phần trong tiền công nhà trườn’ trả cho tôi, giới thiệu trườn’ học cho giáo viên mới và cho anh ta biết nhiệm vụ của mình ngay sau khi anh ta đến nơi”.

Cô cảm thấy mặt mình đỏ bừng. Và dù cô biết sẽ tốt hơn cho chính bản thân nếu mặc kệ sự kèm cặp của anh, cô vẫn không thể làm thế.

“Anh ta ư?”, cô lặp lại thẳng thừng.

“À…” Mắt Theodore xấc xược lướt trên kiểu tóc rũ rượi của cô. “Cô ta chứ nhỉ. Tôi quên mất.”

“Điều này nghĩa là tôi sẽ ở lại đây à? Hay anh vẫn muốn quăng tôi cho Oscar Knutson khi tìm ra ông ta?”

Anh ngồi ườn ra lười biếng, bắt chân chữ ngũ, miệng ngậm tăm, một bên khóe môi nhếch lên, chăm chú nhìn cô – người đang chẳng buồn hé lấy nửa nụ cười.

Cuối cùng anh nói, “Oscar không có phòong cho cô”.

“Không có phòng cho tôi”, cô bật thốt trước khi kiểm soát được thôi thúc hạ thấp anh xuống một bậc.

Anh chậm rãi lấy chiếc tăm trong miệng ra, bờ môi trở về vị trí cũ rồi lập tức mím lại vì tức giận, và cô cũng rất thỏa mãn mà quan sát quầng đỏ bắt đầu lan trên mặt anh. Dù biết anh hoàn toàn hiểu cô đang chỉnh đốn ngữ pháp trong câu nói của anh, cô không thể cưỡng lại nổi việc “xát thêm muối vào vết thương”. “Đừng có gấp đôi âm ‘o’ trong từ ‘phòng’, anh phải nói là ‘Oscar không có phòng chứ không phải phòong cho tôi’.”

Anh giậm chân lao về phía trước, chiếc ghế đổ kềnh lên lớp gỗ mộc trên sàn nhà khi anh chĩa ngón tay dài và mập mạp của mình vào mũi cô. “Hẳn là ông ta không có, thế nên giờ tôi mới mắc kẹt với cô thế này! Nhưng hãy tránh xa tôi ra, cô… rõ… chưa!”

“Theodore!”, mẹ anh quát, nhưng cánh cửa đã đóng sầm lại sau lưng anh. Sau khi anh bỏ đi, sự im lặng chết chóc bao trùm quanh bàn, Linnea có thể cảm thấy những giọt nước mắt tủi nhục bắt đầu nhức nhối. Cô liếc nhìn những gương mặt xung quanh. Mặt Kristian và John đỏ gay như những cây củ cải đỏ. Nissa thì trắng bệch vì giận, chằm chằm nhìn về phía cửa. “Thằng bé thật khôn’ biết cư xử gì cả, dám ăn nói với cháu kiểu đó!”, bà khoa trương.

“Cháu… cháu xin lỗi. Lẽ ra cháu không nên khích bác anh ấy như thế. Là lỗi của cháu.”

“Không, không phải lỗi của cháu”, Nissa tuyên bố, rồi đứng dậy và bắt đầu dọn dẹp đĩa trên bàn bằng cử chỉ giận dữ. “Lòng dạ thằng bé chỉ trở nên xấu xa như thế từ khi…”, bà đột ngột dừng lại, liếc nhìn Kristian, người đang mải mê nhìn tấm khăn trải bàn. “À, thật vô ích khi cứ cố uốn nắn nó.” Bà kết thúc nốt câu nói rồi quay người rời đi.

Trước vẻ kinh ngạc của Linnea, John tiến đến để hòa giải. Anh ta giơ tay chạm vào cánh tay cô như thể muốn an ủi cô, nhưng đúng lúc chạm vào cô, anh ta liền rụt tay lại rồi nói với cô bằng giọng trầm ấm và chậm rãi, “Cậu ấy khôn’ có ý gì đâu, cô giáo”.

Cô ngước lên nhìn vào đôi mắt thân thiện và rụt rè của John, bằng cách nào đó, cô nhận ra sự trấn an ngắn gọn của anh ta, chẳng khác gì một bài diễn văn cả. Cô vươn tay khẽ chạm vào cánh tay anh ta. “Em sẽ cố nhớ trong lượt đấu khẩu tiếp theo với anh ấy. Cảm ơn anh.”

Ánh mắt John đáp xuống ngón tay cô, mặt anh ta bỗng đỏ bừng. Cô lập tức rút tay lại, quay sang Kristian. “Em có phiền nếu phải đưa chị tới trường sáng mai không, Kristian? Như thế chị sẽ không phải làm phiền cha em.”

Môi cậu khẽ hé ra, nhưng không nói được lời nào. Cậu liếc nhanh sang bác mình, nhưng cũng chẳng tìm được bất cứ sự trợ giúp nào về những thứ khiến John phiền lòng, nên cuối cùng cậu đành nuốt nước bọt và toét miệng cười, má ửng hồng. “Vâng, thưa cô giáo.”

Linnea thở phào một hơi nhẹ nhõm mà cô không nhận ra mình đang nín lại. “Cảm ơn Kristian. Chị sẽ sẵn sàng ngay sau bữa sáng.”

Cậu gật đầu, nhìn cô đứng đậy và bê một chồng đĩa trên tay. “Tốt hơn là phải mượn bà nội một tay để dọn dẹp thôi.”

Nhưng trước cả khi kịp đứng thẳng dậy, cô đã được miễn nhiệm vụ này.

“Giáo viên không cần phải rửa bát!”, Nissa thông báo. “Buổi tối là của riên’ cháu. Cháu sẽ cần thời gian chấm bài, đại loại thế.”

“Nhưng giờ cháu vẫn chưa có bài vở để chấm.”

“Tránh đường nào!” Nissa khoát tay như thể đuổi ruồi. “Tránh ra khỏi đây. Ta thích dọn dẹp, và luôn luôn làm công việc này.”

Linnea do dự dừng lại. “Bác chắc chứ?”

Nissa chăm chú nhìn cô qua cặp kính, trong khi vẫn không quên với tay thu những chiếc cốc và đĩa đã trống trơn. “Cháu thấy trông ta có lúc nào thiếu chắc chắn về chuyện nào đó chưa?”

Câu hỏi của bà làm Linnea toét miệng cười. “Vậy thì tốt, cháu đã hứa với mẹ sẽ viết thư cho bà ngay khi cháu đến nơi, để cho bà biết cháu đã hoàn thành mọi việc một cách thuận lợi.”

“Được! Được! Đi đi, và viết thư cho mẹ cháu ngay đi.”

Lên lầu, cô thắp đèn dầu và bắt đầu nghiên cứu lại căn phòng, nhưng nó vẫn khiến cô thất vọng chẳng kém gì lúc đầu. Cô không hẳn chỉ thất vọng với căn phòng gia đình Westgaard dành cho mình, mà còn với chính bản thân. Cô muốn mình sẽ cư xử như những người trưởng thành, cô đã tự hứa với bản thân cả trăm lần sẽ từ bỏ cái tính thích thay đổi cùng tâm hồn bay bổng trẻ con, thứ vĩnh viễn chỉ khiến cô chuốc lấy mọi rắc rối. Vậy mà thực tế, cô vẫn ở đây chưa nổi ba mươi phút, nhưng nhìn xem cô đã làm được những gì nào. Linnea nuốt nước mắt vào trong.

Với ba mươi đô la trong tháng đầu tiên xa nhà, cô đã phải dùng để bồi thường cho một cái bình và một cái bát mới. Nhưng tệ hơn nữa là cô đã tự biến mình thành con hề. Điều này đã đủ khó khăn, chưa nói tới việc phải đối mặt với sự phản đối gay gắt của Theodore mỗi khi họ gặp nhau.

Gã đàn ông đó thật đê tiện!

Quên hắn đi. Người ta nói rằng khi trưởng thành, mọi thứ sẽ không còn đơn giản như hồi bé nữa, giờ cô đang dần ngộ ra điều đó.

Để xua Theodore ra khỏi tâm trí, cô nhặt chiếc hộp gỗ đựng đồ văn phòng phẩm lên rồi ngồi xuống giường.

Gửi cha mẹ, Carrie và Pudge thân yêu,

Con đã tới Alamo an toàn. Chuyến đi tuy dài nhưng rất êm xuôi. Khi tới nơi, con đã kinh hoàng phát hiện ra ba cái thang máy cuốn và một vài tòa nhà đáng thương mà hầu như không thể xếp vào mục “thị trấn” được. Đúng thế đó, cha ơi, cha đã cảnh báo con rằng đó có thể là một nơi nhỏ bé. Nhưng con thực sự không hề ngờ tới điều này!

Con đã gặp Ngài Westgaard và được anh ta đưa tới trang trại, nơi xét về kích cỡ chắc cũng tương đương với mọi thứ ở đây, rất lớn, đến nỗi con và anh ta thử tìm một trong số những người hàng xóm đang làm việc ngoài đồng mà không thể tìm nổi. Ngài Westgaard tên là Theodore, sống cùng với mẹ, tên bác ấy là Nissa (một người nóng tính có đôi chân vòng kiềng và con đã lập tức thích bác ấy ngay khi mới gặp), và con trai anh ta, tên là Kristian (người sẽ trở thành học sinh lớp Tám của con, nhưng lại cao hơn con tới nửa cái đầu), và anh trai Theodore, John (người thường tới đây vào bữa ăn, nhưng thời gian còn lại, anh ta sống ở nông trang riêng của mình, chỗ tiếp giáp nơi này nếu men theo con đường về phía đông).

Chúng con đã có bữa tối thật ngon miệng đầu tiên cùng nhau với thịt nướng và nước sốt, khoai tây, ngô, bánh mì, bơ và bánh pudding, cùng nhiều gia vị hơn những gì con từng biết, sau đó bác Nissa không cho phép con nhấc dù chỉ một ngón tay lên để giúp bác ấy dọn dẹp. Carrie và Pudge, chị biết mặt hai người sẽ xanh như tàu lá vì ghen tỵ khi chị không phải rửa bát thêm lần nào nữa! Và giờ thì chị đã yên ấm trong căn phòng cực kỳ riêng tư, sẽ không có ai ra lệnh cho chị phải tắt đèn khi chị muốn đọc thêm chút nữa trước khi đi ngủ. Tưởng tượng mà xem, lần đầu tiên trong đời chị đã có căn phòng của riêng mình rồi đấy.

Nhưng khi liếc một lượt quanh phòng, cô nhớ lại sự lạc quan thuần túy của mình trong khoảnh khắc nghĩ về ngôi nhà mới mình sẽ ở, để rồi lập tức vỡ mộng lúc Theodore Westgaard mở miệng tuyên bố, “Tôi khôn’ thích phụ lữ ở trong nhà mình!”.

Cô lại nhìn bức thư, và đột nhiên, thế giới trong cô dường như sụp đổ trong gang tấc.

Cô cuộn tròn người lại như quả bóng, khóc dữ dội.

Mẹ ơi, cha ơi, con nhớ mọi người. Con ước gì mình có thể trở về nhà với cha mẹ, nơi bữa tối đầy ắp niềm vui và tràn ngập những nụ cười thương yêu. Con ước mình có thể nhận chiếc khăn lau đĩa rồi lớn tiếng phàn nàn về việc phải giúp Carrie và Pudge trước khi được miễn công việc trong bếp. Con ước ba chị em lại được đoàn tụ cùng nhau, vui vầy trong phòng ngủ nhỏ bé, xinh đẹp trồng đầy hoa, dù là hai em sẽ cùng hùa về một phía chống lại con khi con muốn để đèn sáng thêm chút nữa.

Con đang làm gì ở đây thế này, giữa đồng cỏ hoang vắng này, với gia đình kỳ lạ này, với những người đầy giận dữ và dè dặt, cùng thái độ khinh thị trong cách hành xử thế này?

Con ước gì mình đã nghe lời cha khi cha nói với con rằng con nên ở gần gia đình trong năm đầu tiên, cho đến khi con biết chắc mình thích tự lập. Ngay lúc này đây nếu ở bên cha mẹ, con sẽ tâm sự tất cả những điều này với hai người ngay lập tức thay vì phải chôn chặt nỗi đau và khóc nức nở trong căn phòng áp mái buồn tẻ nhỏ xíu này.

Nhưng cô quá yêu gia đình mình để có thể kể sự thật với họ, và khiến cha mẹ lo lắng khi mà họ còn có thể làm gì khác cho cô ngoài việc an ủi và vỗ về.

Và vì thế, đến tận tối muộn đêm đó, khi phát hiện ra nước mắt đã làm nhòe những dòng chữ, cô liền kiên quyết lau khô chúng và bắt đầu viết lại lá thư.

CHƯƠNG 3

THEO THÔNG LỆ, năm học mới chính thức bắt đầu vào ngày thứ Hai đầu tiên của tháng Chín. Linnea đến Alamo vào ngày thứ Sáu tuần trước đó. Sáng thứ Bảy, khi trời chưa thực sự bình minh, vài âm thanh từ xa vọng lại đã khiến cô thức giấc.

Trong khoảnh khắc, cô hoàn toàn mất phương hướng về nơi mình đang ở. Cô rên rỉ rồi lăn lộn. Ôi, thật, đây là nhà mới của cô ở Alamo. Nằm trên chiếc giường lạ lẫm, giấc ngủ của cô không được sâu. Cô bị cám dỗ trước việc nhắm mắt và thưởng thức thêm vài giây quý giá, nhưng ngay sau đó, cô nghe thấy tiếng động ở nhà dưới, lập tức nhớ lại toàn bộ sự kiện xảy ra ngày hôm qua.

Chà, Brandonberg, nhấc mình ra khỏi đây thôi, cho họ thấy mày kiên cường thế nào đi!

Nước trong bồn rửa rất lạnh, cô tự hỏi liệu mình có tình cờ đâm sầm vào Theodore hoặc Kristian nếu lẻn xuống nhà để đun nước không. Hẳn là giờ này vẫn chưa có ai nhóm lửa vì khi liếc mắt ra cửa sổ, cô biết trời vẫn còn rất sớm. Cô choàng chiếc áo màu xanh lông xù, cài cúc lên tận cổ họng, thắt lại dây lưng và mang chậu rửa mặt xuống dưới.

Cô cố đi thật khẽ nhưng vẫn làm cầu thang kêu kẽo kẹt.

Nissa thò đầu qua ngưỡng cửa. Bà đang đeo chiếc tạp dề trắng dài đến mắt cá chân. “Dậy rồi à?”

“Cháu… cháu không muốn làm mất thời gian của mọi người.”

“Bữa sáng sẽ không xong trong một giờ tới đâu. Mấy cậu bé phải vắt sữa mười con bò cơ.”

“Mọi người…” Cô nhìn lên và ép chiếc chậu sát hơn vào sườn. “Ra ngoài rồi ạ?”

“Không có gì nguy hiểm đâu. Xuống đây nào!” Nissa nhìn xuống những ngón chân trần đang bấu trên sàn theo mỗi bước đi của cô. “Cháu không có dép đi trong nhà thay vì đi chân trần như thế này sao?”

“Cháu e là không.” Cô không muốn đề cập đến việc ở nhà, cô chỉ cần chạy ra hành lang là có thể đến được nhà vệ sinh.

“Chà, đây hẳn là cơ hội đầu tiên ta có thể sử dụng kim đan đây. Xuống nhanh nào trước khi cháu chết vì lạnh. Nước trong bình đủ nóng rồi.”

Mặc dù cách nói của Nissa thường lỗ mãng và độc đoán, nhưng Linnea thích bà. Căn bếp khi có sự xuất hiện của bà trở nên ấm cúng.

Bà nhấc nắp đậy chiếc lò gang khổng lồ thống trị căn phòng ra, tống xẻng than xúc từ chiếc hốc bên cạnh vào, đậy nắp trở lại và quay về phía tủ đựng thức ăn, tất cả hoàn thành chỉ trong một cử động. Nhìn bà làm việc, Linnea suýt nữa thấy chóng mặt.

Cô trở lại lầu để tắm rửa, tháo băng tay, buộc lại tóc cho gọn gàng rồi quay về với sự lạc quan vốn có của mình.

Linnea mang theo những bộ đồ quá nghiêm túc để mặc vào ngày Chủ nhật. Chiếc váy thủy thủ khiến cô trông trẻ con quá thể. Bộ quần áo Manchester lại dường như quá nóng, và cứng như bìa sách. Và cô muốn để dành chiếc váy mới màu xanh cho ngày đầu tiên ở trường vì đó là món quà mà cha mẹ dành cho cô, cũng là bộ váy người lớn nhất trong tất cả. Vì thế cô chọn chiếc váy xám cùng chiếc áo trắng đơn giản. Khi đã chỉn chu trở lại, cô tự đánh giá chính mình.

Tóc hoàn hảo. Váy khô. Băng tay đã không còn. Quần áo khá phù hợp, thậm chí còn đoan trang. Anh ta có thể tìm thấy lỗi gì ở cô nữa nhỉ?

Đột nhiên cô ý thức được những gì mình đang nghĩ, lắc mạnh đầu. Tại sao cô lại phải lo lắng tới việc làm hài lòng cái tên Theodore già nua thích cằn nhằn ấy nhỉ? Gã là chủ nhà của mình, không phải Chúa tể của mình!

Cô xuống lầu lần thứ hai, thấy bữa sáng và bàn ăn đã sẵn sàng, nhưng những người đàn ông vẫn chưa trở về.

“Chà, nhìn cháu kìa! Thật xinh đẹp!”

“Thật sao?” Linnea vuốt nhẹ thân ngực và do dự nhìn Nissa. “Trông cháu đủ người lớn chưa?”

Nissa ngừng cười, quét ánh mắt lên Linnea để quan sát tổng thể qua gọng kính kim loại có dây. “Chà, đủ rồi, thế được chưa. Ôi, dù sao, ta muốn nói là trông cháu ít nhất đã… ờ… mười chín tuổi.”

“Cháu thật sự đã mười chín tuổi!”

Nissa hết sức nỗ lực để không bật ra tiếng cười khúc khích trước vẻ hài lòng của cô, rồi cô hạ thấp giọng thành tiếng thì thào ra vẻ bí mật. “Cháu sẽ cho bác biết điều này, bác Nissa. Từ lúc gặp Kristian, cháu đã rất lo trông mình sẽ nhỏ hơn vài học sinh trong lớp.”

“Thôi nào”, Nissa gầm gừ, hạ thấp cằm. “Trông cháu thậm chí còn như hai mươi tuổi trong chiếc váy tinh tế này ấy chứ. Quay một vòng nào. Để ta ngắm cháu từ phía sau.” Linnea quay chậm một vòng khi Nissa xoa cằm tư lự. “Ồ! Chắc chắn là hai mươi!”, bà nói dối.

Linnea cười tươi rói, nhưng theo sau là vẻ mặt nghiêm nghị trở lại khi trông cô như thể sắp thú nhận một tội ác khủng khiếp. “Cháu đôi khi cũng gặp… chút rắc rối. Ý cháu là, trong việc cư xử như người lớn ý. Cha cháu thường mắng cháu vì suốt ngày cứ mơ mộng rồi quên béng mất việc mình sẽ trở thành giáo viên. Nhưng từ khi học ở trường Normal, cháu đã cố gắng hết sức để tỏ ra trưởng thành, và nhớ rằng mình là một quý cô. Cháu nghĩ chiếc váy này đã giúp mình khá nhiều.”

Trái tim Nissa trở nên ấm áp trước lời thú nhận của cô gái trẻ. Con bé đang đứng đó, mặc thứ trang phục người lớn, cố tỏ ra mình đã sẵn sàng để đối mặt với thế giới, khi vẫn vô cùng sợ hãi.

“Ta nghĩ cháu sẽ nhớ gia đình lắm. Chúng ta là một đám kỳ lạ và có rất nhiều thứ mới mẻ để cháu làm quen.”

“Ôi, không đâu! Ý cháu là… vâng, cháu chắc chắn là nhớ bọn họ, nhưng..”

“Nhớ thì cứ nói là nhớ”, Nissa ngắt lời. “Chẳng có gì trên đời này cứng đầu cứng cổ hơn một đám Na Uy cứng đầu. Và đó là tất cả những thứ quanh đây. Nhưng cháu là giáo viên! Cháu có tấm bằng cho thấy cháu thông minh hơn tất cả mọi người trong số chúng ta, vì thế khi ai đó bắt đầu tỏ ra ngỗ nghịch, cháu cần hiên ngang đứng dậy rồi nhìn thẳng vào mắt chúng, chúng sẽ tôn trọng điều đó!”

Ngỗ nghịch với cô ư? Linnea câm lặng nản lòng. Chẳng lẽ tất cả đều giống Theodore sao? Như thể đọc được ý nghĩ của cô, Theodore bước qua ngưỡng cửa, theo sau là Kristian.

Thấy cô, Theodore hơi khựng lại trước khi đến bên chiếc chậu rửa mặt. Kristian thì ngược lại, cậu dừng hẳn và chăm chú nhìn cô một cách công khai.

“Chào buổi sáng, Kristian.”

“C… hào buổi sáng, chị Brandonberg.”

“Trời, em dậy sớm thật đấy!”

Kristian có cảm tưởng cậu đã nuốt phải cả một nắm bông. Trong suốt quá trình đứng như trời trồng, cậu chẳng thốt ra được nửa lời, chỉ ngưỡng mộ những đường nét trẻ trung, tươi sáng cùng mái tóc màu nâu xinh đẹp của cô giáo mới. Cô gọn gàng và tươm tất trong bộ váy tôn lên vòng eo thon thả.

“Bữa sáng đã sẵn sàng”, Nissa nhắc, đi vòng qua cháu trai. “Đừng có lề mề nữa.”

Từ chỗ bồn rửa, Theodore thấy con trai đang đứng như trời trồng, trố mắt nhìn cô gái bé nhỏ mà sáng nay, lại một lần nữa, trông chả khác gì mười ba tuổi. Dáng đứng thậm chí còn hệt một bé gái, hai chiếc giày nghiêm trang đặt cạnh nhau.

Theodore giấu kín suy nghĩ của mình khi nói, “Bồn rửa thuộc về mày rồi đấy, Kristian”, rồi lại quay lưng về phía cô.

“Chào buổi sáng, Theodore”, cô nói, chẳng hiểu sao cô đã thành công trong việc khiến anh cảm thấy mình như gã ngốc vì không chào trước.

Anh quay lại nhìn cô. “Chào buổi sáng. Cô có vẻ đã sửa soạn xong xuôi rồi.”

“Chắc chắn là thế. Đúng giờ là phép lịch sự tối thiểu của những vị vua”, cô vừa nói vừa tiến đến bàn ăn.

Chắc… cái gì? Anh nghĩ thầm, nhận ra sự dốt nát của mình khi thấy cô ngồi xuống ghế.

“Sáng nay John không qua giúp anh sao?”, cô hỏi, buộc anh phải mở miệng nói chuyện khi anh không hề muốn. Anh ngồi phịch xuống chiếc ghế tối qua, vẻ mặt cáu kỉnh.

“John cũng nuôi gia súc. Tôi và Kristian vắt sữa những con bò của chúng tôi, anh ấy vắt sữa những con bò của anh ấy.”

“Tôi tưởng bữa nào anh ấy cũng ăn bên này chứ.”

“Một phút nữa anh ấy sẽ đến nơi.”

Họ bắt đầu dùng bữa sáng, chẳng bao lâu, John bước vào. Dù tất cả đều trao đổi những lời chào buổi sáng tốt lành, nhưng Linnea là người duy nhất ngừng lại quá trình ăn uống, và còn thêm cả một nụ cười đi kèm. Mặt John lập tức đỏ bừng, ngồi vào ghế và không dám mạo hiểm nhìn cô thêm bất cứ lần nào nữa.

Giống tối hôm trước, bữa ăn vang lên những tiếng nhồm nhoàm, sụp soạt, cũng không có bất cứ lời trao đổi nào. Để kiểm tra lý thuyết mà mình mới ngộ ra, Linnea phát biểu thật to và rõ ràng, “Món này ngon quá!”.

Mọi người nhất loạt trở nên căng thẳng, và chiếc thìa trên tay họ dừng lại giữa chừng. Không ai lẩm bẩm bất cứ lời nào. Khi họ chuẩn bị quay lại với công việc ăn uống, cô liền hỏi lớn, “Món này tên là gì ạ?”.

Mọi người đều nhìn cô cứ như thể cô là đứa khờ. Theodore cười khùng khục rồi lại xúc một muỗng đầy.

“Ý cháu là gì, món này là món gì ư?”, Nissa hỏi vặn cô. “Đây là romograut.”

Linnea nghiêng đầu về một phía, nhìn Nissa. “Là gì ạ?”

Lần này, Theodore là người trả lời, “Romograut”. Anh dùng thìa ra hiệu về phía bát của cô. “Cô không biết romograut là gì ư?”

“Nếu biết thì tôi có hỏi không?”

“Chẳng có người Na Uy nào lại hỏi romograut là gì.”

“Có tôi đang hỏi đây. Và tôi chỉ mang trong người nửa dòng máu Na Uy của cha. Từ khi mẹ tôi trở thành đầu bếp chính trong nhà, chúng tôi đã chuyển qua ăn đồ Thụy Điển.”

“Đồ Thụy Điển sao?”, ba người còn lại nhất loạt đồng thanh. “Nếu có bất cứ người Na Uy nào khi sinh ra lại không nghĩ rằng mình luôn khôn ngoan hơn những người Thụy Điển một bậc, chắc chắn chẳng phải những người có mặt trong căn phòng này.”

“Là bột ngũ cốc!”, mọi người nói với Linnea.

Họ vội vã kết thúc bữa ăn để bắt đầu công việc đồng áng. Ngay khi bát đĩa trống trơn, Theodore liền đẩy ghế ra, tuyên bố chắc nịch, “Tôi sẽ đưa cô tới trường. Nhớ mang theo cái mũ gắn lông vũ của cô nếu cần”.

Cơn tức giận của cô ngùn ngụt dâng lên như những con diều trong tiết trời tháng Ba. Điều gì khiến người đàn ông này vui đến thế mỗi khi làm khó cô? Lần này, cô đã tìm được đáp án khiến mình phấn chấn khi trả lời anh, “Anh không cần bận tâm nữa. Tôi đã nhờ Kristian đưa đi rồi”.

Lông mày Theodore nhướng lên tư lự, ánh mắt chuyển qua chuyển lại giữa hai người bọn họ. “Kristian sao?”

Mặt Kristian sáng bừng như ngọn hải đăng và cậu bắt đầu nhấp nhổm. “Cũng không mất thời gian lắm, con sẽ nhanh chóng trở lại đồng ngay khi đưa chị ấy đến nơi.”

“Vậy làm thế đi. Đỡ khiến tao rắc rối.” Không nói thêm bất cứ lời nào, anh ra khỏi nhà.

Ánh mắt Linnea dõi theo anh tới cửa, sau đó cô quay lại và thấy Nissa đang nhìn mình. Nhưng tất cả những gì bà nói chỉ là, “Cháu sẽ cần một ít xô chậu, giẻ lau và một cái thang để trèo lên cửa sổ. Ta đã chuẩn bị bữa trưa cho cháu. Chờ chút, ta sẽ mang tới ngay”.

Kristian đưa cô tới trường bằng xe chở hàng đã đưa cô tới đây ngày hôm trước. Họ đi chưa được sáu mét thì Linnea đã nhanh chóng quên béng Theodore. Hôm đó là một buổi sáng thiên đường. Không khí tràn ngập hương ngũ cốc. Tiếng hót của những con chim nơi đồng cỏ vang vọng tới chỗ họ với âm điệu du dương. Trên cánh đồng phía bên trái, vài đóa hướng dương vàng rực vươn mình về phía mặt trời.

“Trông kìa!”, cô chỉ. “Hoa hướng dương. Chúng thật xinh đẹp đúng không?”

Kristian đưa ánh mắt ngờ vực nhìn cô. Vì là giáo viên nên cô không biết nhiều về hoa hướng dương. “Cha em lúc nào cũng nguyền rủa chúng.”

Cô giật mình quay sang cậu. “Vì sao? Nhìn xem, chúng cao hơn tất cả những cây còn lại, và còn hướng mặt về phía mặt trời nữa.”

“Đó là loài gây hại ở nơi này. Chị thử trồng một cây trên đồng thì cả đời này sẽ không đời nào thoát được chúng.”

“Ồ!”

Họ tiếp tục đi. Sau một phút, cô lại mở lời, “Chị đoán mình sẽ phải học rất nhiều về nông trang và những thứ tương tự. Chắc sẽ phải nhờ em đấy”.

“Em sao?” Cậu chuyển ánh mắt màu nâu đang mở lớn vì kinh ngạc sang cô.

“Em có phiền không?”

“Nhưng chị là giáo viên cơ mà.”

“Ở trường thôi. Khi không ở đó, chị cho là mình sẽ học được nhiều điều ở em. Kia là cây gì?”

“Cây kế Nga1”, cậu trả lời, ánh mắt hướng theo ngón tay cô chỉ đến khóm hoa nhạt màu xanh lục.

1 Một loại cây dại, lá có gai, hoa đỏ thắm, trắng hoặc vàng, thường có trên quốc huy của Scotland.

“À.” Cô mất chút thời gian để hiểu điều đó trước khi thêm vào, “Đừng có nói với chị là Theodore cũng nguyền rủa chúng đấy nhé?”.

“Chúng còn đáng sợ hơn cả hướng dương”, cậu xác nhận.

“Nhưng vẻ đẹp có thể được tìm thấy trong rất nhiều thứ, kể cả khi chúng là những thực vật có hại. Chúng ta phải nhìn chúng kỹ hơn. Có lẽ chị sẽ cho các em học vẽ những bức tranh về cây kế Nga trước khi mùa đông tới.”

Thực sự thì cậu không biết phải làm gì với cô gái hay là người phụ nữ này nhỉ? Người cho rằng kế Nga là loài cây xinh đẹp. Cậu luôn nghe thấy những lời nguyền rủa chúng trong suốt cuộc đời mình. Lạ lùng thay, cậu phát hiện ra chính mình đang quay lại nhìn chúng. Khi bắt gặp cậu đang làm điều đó, cô mỉm cười rạng rỡ khiến cậu trở nên bối rối. “Bên kia là đất của John”, cậu giới thiệu khi họ đi qua nó.

“Chị có nghe nói.”

“Họ hàng của em sống rải rác quanh vùng”, cậu tự nguyện chia sẻ, kinh ngạc với chính mình vì trước đây cậu luôn im thin thít trước mặt con gái. Nhưng cậu nhận ra mình rất thích trò chuyện cùng cô. “Khoảng hai mươi người gì đó, chưa kể đến các ông bà.”

“Ông bà ư?”

“Ông cậu và bà dì. Cũng có vài người.”

“Thật không thể tin được!”, cô thốt lên. “Những hai mươi người sao?”

Đầu cậu ngoẹo sang bên vì kinh ngạc, sau đó cậu cười lớn. Cậu chưa từng tưởng tượng nổi một giáo viên lại có thể thốt lên câu “Thật không thể tin nổi” như thế.

Khoảnh khắc đó, Kristian cũng quên mất từ trước tới giờ, cô là cô gái duy nhất mà cậu muốn giúp cô xuống xe lúc họ dừng lại ở sân trường. Ý tưởng chìa tay cho Brandonberg khiến cậu đỏ bừng mặt và nhộn nhạo trong bụng.

Cuối cùng, chỉ vì cậu đã cân nhắc quá lâu mà cô đã nhảy khỏi xe bằng một cú tung người hoạt bát, thầm hứa sẽ làm điều gì đó để chỉnh đốn lại phong thái của những người đàn ông nhà Westgaard, dù cho đó là thành tựu duy nhất của cô ở chốn này.

Từ sau xe, Kristian nhấc thang và theo cô băng qua sân trường, còn cô mang theo xô và giẻ lau.

Tới cửa, cô quay lại nhìn cậu. “Chúng ta quên chìa khóa rồi!”

Cậu ngạc nhiên nhìn cô. “Cửa không khóa. Ở đây chẳng ai khóa cửa cả.” Nói xong, cậu liền đặt chiếc thang xuống nền nhà.

“Không ư?”, cô lại nhìn về phía cánh cửa. Ở thành phố, cửa luôn luôn phải khóa.

“Đây, giờ thì nó đã mở. Chị có thể vào rồi.”

Khi tay chạm vào núm cửa, tim cô đập loạn xa, đầy hy vọng. Cô đã chờ đợi khoảnh khắc này rất nhiều năm rồi. Cô đã biết điều đó kể từ năm tám tuổi, rằng cô muốn trở thành giáo viên. Và không phải giáo viên ở một ngôi trường thành phố. Mà là một ngôi trường giống thế này, nơi dành riêng cho cô và chỉ mình cô chịu trách nhiệm cho sự dạy dỗ mà cô được trả lương.

Cô mở cửa và bước vào phòng chứa đồ hẹp rồi chậm rãi đặt thùng xuống. Sau đó, bằng tốc độ tương tự, cô mở cánh cửa tiếp theo để vào phòng học chính, cô đứng sững lại và say mê ngắm nhìn. Nó mộc mạc và tĩnh lặng như tờ. Trong không gian phảng phất mùi bụi phấn lẫn mùi của sự thách thức, thứ nếu như Linnea Brandonberg từng có những suy nghĩ của một cô bé quan tâm đến mọi thứ quanh mình, thì lúc này cô đã chấp nhận thách thức bằng trách nhiệm của một người đã thực sự trưởng thành.

“Ôi, Kristian, nhìn xem này…”

Cậu đã nhìn lớp học này cả nghìn lần trước đây. Giờ thứ mà cậu đang chiêm ngưỡng chính là cô giáo mới với ánh mắt mở to, háo hức nhìn khắp căn phòng.

Tim cô đập mạnh vì phấn khích. Phòng học này chẳng có gì đặc biệt so với hàng ngàn phòng học ở những ngôi trường khác. Nhưng nơi này thuộc về cô!

Quý cô Brandonberg.

Suy nghĩ này khiến cô choáng váng, cô đi dọc căn phòng rồi rụt chân lại khi một chú chuột chạy về phía mình, sau đó chuyển hướng phóng nhanh theo hướng ngược lại.

Cô ngạc nhiên dừng lại rồi hít nhanh một hơi, “Nhìn kìa! Hình như chúng ta có bạn”.

Kristian chưa từng quen cô gái nào không hét lên vì sợ hãi khi thấy chuột. “Về nhà, em sẽ kiếm một cái bẫy chuột và đặt giúp chị.”

“Cảm ơn, Kristian. Chị e là nếu chúng ta không làm thế, anh chàng đó sẽ ngốn hết toàn bộ số sách ở đây mất thôi, đấy là trong trường hợp nó vẫn chưa kịp làm thế.”

Cô chọn bừa một quyển sách từ trên giá, mở một trang bất kỳ rồi đứng đối mặt với Kristian và đọc to nội dung trên đó. Kristian chằm chằm nhìn cô, tự hỏi bằng cách nào một người lại có thể học được cách đọc như thế và ít nhiều hiểu được những gì người ta viết. Cậu nghĩ trong đời mình, cậu chưa từng quen cô gái nào thông minh hay xinh đẹp hơn cô, và lúc này đây, cậu cảm thấy nhẹ nhõm đi nhiều sau khi được cô truyền cảm hứng.

“Chị bắt đầu yêu thích nơi này rồi.” Giọng cô khẽ hơn, ghim ánh mắt sáng ngời, đầy quyết tâm vào Kristian.

“Vâng, cô giáo”, Kristian trả lời và chẳng nghĩ ra điều gì khác để nói. “Em sẽ chỉ cho chị những thứ còn lại, sau đó phải ra đồng.”

“Phần còn lại ư?”

“Ở ngoài. Đi thôi!” Cậu xoay người dẫn đường.

“Kristian.” Cậu dừng bước và quay lại khi nghe cô gọi tên mình.

“Dạy học không bao giờ là quá sớm, đúng không?”

“Đúng thế, chị Brandonberg, em cho là không.”

“Vậy ta sẽ bắt đầu từ những quy tắc lâu đời nhất trong tất cả các quy tắc. Đó là quy tắc phụ nữ luôn được ưu tiên.”

Mặt cậu ửng lên màu hoa hồng dại, móc ngón tay cái vào túi quần sau, rồi lùi bước, chờ cô đi qua. Khi đã ra khỏi cửa, cô lịch sự nói, “Cảm ơn Kristian. Em có thể cứ để cửa mở như thế. Bên trong hơi ngột ngạt”.

Ở bên ngoài, cậu chỉ cho cô vị trí những chiếc bơm và kho than trống ở phía tây. Những đồng lúa mì chen chúc nhau ở phần đất phía bắc và phía đông. Phía tây là một hàng gỗ gòn sừng sững, bên dưới là nhà vệ sinh nhỏ bằng gỗ với những hàng rào bằng lưới bảo vệ lối vào. Sân chơi có hai chiếc xích đu và một dải cỏ phẳng, trông như thể được sử dụng để làm sân bóng chày.

Khi họ đã khám phá xong toàn bộ sân trường, Linnea hướng ánh mắt lên đỉnh vòm, bốc đồng lên tiếng, “Chúng ta rung chuông đi, Kristian, để xem nghe thế nào”.

“Em sẽ không làm thế đâu, chị Brandonberg. Rung nó nghĩa là chị sẽ gọi toàn bộ nông dân ở đây rời khỏi giàn khoan để chạy đến giúp đỡ chị đấy.”

“Ồ. Đó là một tín hiệu cứu hộ sao?”

“Đúng thế. Cũng giống chuông nhà thờ, nhưng nó nằm cách đây ba dặm về hướng ngược lại.” Cậu chĩa ngón cái về hướng tây.

Cô lại cảm thấy mình thật trẻ con nên đề nghị, “Vậy chị chỉ cần chờ đến thứ Hai thôi nhỉ. Chúng ta có bao nhiêu học sinh ở đây?”.

“Khó nói lắm. Khoảng một tá. Cũng có thể là mười bốn. Đa số đều là anh em họ của em.”

“Cuộc sống của em khác quá, em có rất nhiều họ hàng sống quanh mình. Còn ông bà chị mất hết rồi, chị cũng không có cô dì chú bác nào ở trong nước, vì thế, chủ yếu chị sống với cha mẹ và hai cô em gái thôi.”

“Chị có em gái ư?”, cậu hỏi. Cảm thấy tự hào vì đã được cô kể cho nghe điều gì đó riêng tư.

“Hai người. Một đứa bằng tuổi em, tên Carrie. Một đứa kém em bốn tuổi. Tên thật là Paulie nhưng vì con bé đang ở độ tuổi phát triển…” Cô đột nhiên mô phỏng lại tư thế mím môi phồng má, bụng phình ra. “Thế nên cả nhà gọi nó là Bé Mập.”

Kristian bật cười, cô cũng thế.

Không, cậu thực sự không biết nhiều về sự thay đổi của những cô gái. Cậu chưa từng để ý đến chúng trước đây. Ngoại trừ đôi khi cậu phải để ý để tránh đụng mặt với chúng.

Cho tới giờ phút này.

Brandonberg lấy lại nghiêm túc và tiếp tục, “Con bé không thích cả nhà trêu chọc nó, và chị cho là thi thoảng cả nhà đùa hơi quá, nhưng cả Carrie lẫn chị cũng đều phải trải qua quãng thời gian chịu đựng sự trêu chọc như vậy, và chẳng ai bị tổn thương cả”.

Thật khó để cậu tưởng tượng ra hình ảnh béo lùn của cô. Cô gái trước mặt cậu lúc này mảnh mai và nhỏ bé, là một trong số những phụ nữ hoàn hảo nhất mà cậu từng gặp.

“Chị nàm sao mà béo và lùn được chứ.”

“Làm, không phải nàm”, cô vô thức sửa, sau đó thêm vào, “Ồ, thế mà có đấy. Chị rất vui vì em đã không nhìn thấy chị lúc đó!”.

Đột nhiên cậu nhận ra mình đã tốn bao nhiêu thời gian để la cà với cô ở nơi này. Cậu liếc mắt nhìn về phía cánh đồng, móc ngón tay cái lên túi quần sau, nuốt nước bọt. “Nếu chị không cần gì nữa thì em… em phải trở lại để giúp cha và bác John.”

Cô nhanh chóng quay một vòng rồi ra hiệu cho cậu rời đi. “Dĩ nhiên rồi, Kristian. Chị có thể tự lo liệu được. Chị có hàng tá thứ phải làm để giữ cho mình bận rộn. Cảm ơn em đã đưa chị tới đây và chỉ cho chị mọi thứ.”

Khi Kristian đã rời đi, cô trở lại phòng học, háo hức chuẩn bị làm việc. Cô dành cả buổi sáng để quét dọn và lau chùi. Đến giữa trưa, cô nghỉ ngơi một chút và ngồi trên những bậc thềm để thưởng thức bữa trưa mà Nissa đã chuẩn bị cho mình trong một chiếc hộp nhỏ bằng thiếc. Linnea thư giãn dưới ánh mặt trời và mơ mộng tới thứ Hai sẽ thú vị thế nào khi cô gặp nhóm học sinh đầu tiên trong đời. Cô tưởng tượng rằng một vài đứa có thể sẽ háo hức, tiếp thu những gì cô dạy, trong khi vài đứa khác sẽ rụt rè và cần được khuyến khích, động viên, rồi vẫn có những đứa cứng đầu và cần được dạy bảo cũng như bị cấm đoán vài thứ.

Suy nghĩ của cô chuyển sang John và Theodore, hai anh em họ có tính cách trái ngược hoàn toàn. Đừng phá hỏng một ngày tươi đẹp của mày với những suy nghĩ về Theodore, cô tự mắng bản thân. Nhưng khi bắt đầu lang thang xuống khu vực bơm nước để lấy một ly nước mát và rửa tay, cô phát hiện ra mình đang chăm chú nhìn về hướng tây. Toàn bộ những cánh đồng phía xa mà cô có thể thấy đều thuộc về hai người họ. Đâu đó ngoài kia, họ đang thu hoạch lúa với sự giúp đỡ của Kristian.

Đất đai nơi này rất rộng, phần lớn không có cây cối. Có thể với một số người, ở đây thật hoang vắng, nhưng với Linnea, khi nhìn lên bầu trời trong xanh và quan sát những cánh đồng thẳng tắp xa tít chân trời, cô chỉ nhìn thấy một vẻ đẹp không biên giới.

Mẹ cô luôn nói với cô rằng cô đã được Thượng Đế trao tặng cho một món quà là sự lạc quan, vì cô luôn luôn tìm ra điểm tốt ở mọi thứ. Vào giai đoạn tăm tối nhất cuộc đời, cô cũng có thể tìm được lối thoát và nắm gọn nó trong lòng bàn tay. Sau này, mẹ cô cũng phải đồng ý với cha cô rằng đã đến lúc cô phải từ bỏ trò trẻ con như thế. Nhưng trí tưởng tượng là thứ rất kỳ diệu. Nó mang cô đến những nơi mà cô sẽ không bao giờ thấy và cho cô những cảm giác mà cô sẽ chẳng thể được trải nghiệm theo bất cứ cách nào. Và nó khiến cô hạnh phúc.

Cô ngồi lên xích đu, đung đưa và để chính mình trượt vào thế giới kỳ ảo của riêng cô.

“Xin chào Lawrence. Em không nghĩ được gặp lại anh sớm thế này.”

Hôm nay, Lawrence mặc bộ trang phục như một công tử thực thụ, đội chiếc mũ rơm gọn gàng, mặc sơ mi kẻ sọc đỏ trắng và quần yếm đỏ tươi.

“Anh đến để đưa em đi dã ngoại.”

“Đừng ngốc thế, em không thể băng qua một cánh đồng chỉ để đi dã ngoại cùng anh. Giờ em đã có một ngôi trường để dạy, ngoài ra thì lần gần đây nhất, anh đã bỏ em lại với một đống hỗn độn. Em không hài lòng chút nào với anh.” Cô bĩu môi theo cách duyên dáng nhất có thể.

Lawrence bước ra sau chiếc xích đu, giữ nó ngừng lại, đặt tay lên eo cô như thể muốn cô bước xuống khỏi ghế ngồi bằng gỗ.

“Anh biết một nơi mà không ai có thể tìm thấy chúng ta”, anh khẽ nói, khuyến khích và mời mọc.

Cô bám vào dây thừng, cười trêu chọc, những âm thanh du dương trải dài trên bãi cỏ…

Hiệu trưởng nhà trường, Frederic Dahl, đánh chiếc xe ngựa vào con đường dẫn đến trường học số 28 và chứng kiến cảnh tượng bắt mắt nhất trên đời đang chờ đợi để chào đón ông. Một cô gái trẻ trung và uyển chuyển trong chiếc váy màu xám cùng sơ mi trắng, bám vào sợi dây thừng của một chiếc xích đu và xoắn nó vào giống một cái bánh vòng, về bên trái, sau đó về bên phải.

Băng qua bãi cỏ, ông nghĩ mình đã nghe thấy tiếng cười, nhưng kiểm tra một lượt khu vực xung quanh, ông biết chẳng có ai quanh đây cả. Chiếc xích đu dừng lại, cô co gối và tiếp tục đung đưa.

Cô bé đang nói chuyện với ai đó, nhưng ai mới được chứ?

Ông dừng ngựa, thắng dây cương và xuống xe.

“Xin chào!”, ông lên tiếng.

Linnea khựng lại và nhìn qua vai. Trời ơi, lại bị bắt quả tang rồi!

Cô nhảy xuống, vuốt lại váy, mặt ửng đỏ.

“Tôi đang tìm cậu Brandonberg.”

“Vâng, có vẻ như ai cũng có thể là anh ta quanh khu vực này, nhưng ngài sẽ cần phải dừng ở tôi thôi. Tôi chính là Brandonberg.”

Khuôn mặt ông hiện rõ vẻ ngạc nhiên, nhưng không hề phật ý. “Còn tôi là Hiệu trưởng Dahl. Tôi đã sai lầm vì không làm rõ điều này trong lúc trao đổi thư từ. Chà, thực là một bất ngờ thú vị!”

Hiệu trưởng Dahl ư! Cô cảm thấy mặt mình ngày càng nóng hơn. “Ôi, Ngài Dahl! Tôi xin lỗi. Tôi không nhận ra ngài!”

“Tôi đến để mang cho cô một số vật dụng cần thiết và đảm bảo cô đã có chỗ ở ổn định.”

“Vâng, dĩ nhiên rồi. Mời ngài vào trong. Tôi…” Cô bật cười lo lắng và ra hiệu về phía chiếc váy lấm bẩn của mình. “Tôi đang dọn dẹp, thứ lỗi cho diện mạo của tôi lúc này.”

Dọn dẹp sao? Ông nghĩ, liếc qua vai nhìn lại khi họ tiến về phía phòng học. Nhưng ông vẫn không phát hiện ra ai khác quanh đây. Bên trong là một chiếc thang đang dựa vào tường, sàn nhà bằng gỗ thô vẫn ẩm ướt. Cô quay ngoắt lại đối diện với ông, siết chặt tay và thốt lên, “Tôi yêu nơi này! Trường học đầu tiên của tôi, và tôi cũng rất phấn khởi! Tôi muốn gửi lời cảm ơn ông vì đã giới thiệu tôi tới hội đồng nhà trường nơi đây”.

“Cô đã có bằng tốt nghiệp. Vì thế đừng cảm ơn tôi. Cô hài lòng với chỗ ở hiện tại ở nhà Westgaard chứ?”

“Tôi… tôi…” Không muốn để Dahl có ấn tượng rằng ông đã thuê phải một kẻ thích phàn nàn nên cô nói, “Vâng, rất tốt. Mọi thứ đều ổn cả!”.

“Tốt lắm. Tôi được yêu cầu phải điều tra tài sản thường niên hằng năm vào thời gian này, vì thế cô cứ tiếp tục công việc của mình, tôi sẽ phụ một tay khi xong việc.”

Cô nhìn bóng ông rời đi, mỉm cười với Ngài Dahl thực thụ, người mà chẳng có chút bảnh bao nào như trí tưởng tượng của cô. Ông cao không quá mét rưỡi, to như một cái thùng chứa nước mưa, và cái đầu hói như thể bị cạo.

Lúc bóng ông khuất dạng, cô đặt một tay lên bụng, tay còn lại che đi nụ cười.

Những hiệp sĩ chỉ tỏa sáng trong bộ giáp khi người ta mơ về họ, Brandonberg. Đầu tiên là Theodore Westgaard, giờ là người này.

Ông kiểm tra bên ngoài tòa nhà, trong kho, và thậm chí cả nhà vệ sinh trước khi quay trở lại vào bên trong để làm điều tương tự. Khi xong việc, ông hỏi, “Anh Westgaard đã đề cập về vấn đề than đốt với cô rồi chứ?”.

“Than đốt sao?”, cô ngây ra hỏi.

“Kể từ trận bão tuyết năm 1888 khi một vài trường học bị kẹt cứng vì không chuẩn bị gì, tiểu bang đã ra luật rằng trường học phải trữ đủ số gỗ hoặc than trước ngày mùng Một tháng Mười, để học sinh và giáo viên có thể cầm cự cho tới mùa xuân.”

Cô không hề có bất cứ khái niệm nào về chất đốt. “Tôi xin lỗi. Tôi đã không biết điều đó. Vậy Ngài Westgaard có cung cấp than cho chúng tôi không?”

“Từ trước tới giờ, cậu ấy đều làm điều này. Đây là thỏa thuận giữa cậu ấy và nhà trường. Họ có thể trả cho bất cứ ai họ muốn để người đó mang than tới đây, nhưng công việc của tôi là kiểm tra xem việc này đã được thực hiện hay chưa.”

“Ngài Westgaard đang làm việc ngoài đồng. Ông có thể đi tìm ngài ấy và hỏi xem.”

Ông đánh dấu vào cuốn sổ mang theo và trả lời, “Không, điều đó không cần thiết. Tôi sẽ kiểm tra một lần nữa trong vòng hai tuần tới, và sẽ ghi chú lại chỗ này để nhắc mình kiểm tra lại. Trong thời gian đó, tôi sẽ đánh giá cao nếu như cô nhắc nhở cậu ấy về việc này”.

Cô thực sự chẳng muốn phải nhắc Theodore Westgaard về bất cứ điều gì, nhưng chỉ gật đầu và đảm bảo với Hiệu trưởng Dahl rằng mình sẽ để mắt đến chuyện này.

Ông mang cho cô những vật dụng cần thiết như phấn viết, mực và một quyển sổ dành riêng cho giáo viên. Cô cung kính nhận chúng, miết lòng bàn tay lên lớp bìa cứng màu đỏ. Khi quan sát cô, ông nhận thấy ở cô nhiều điều hơn chỉ là một đứa trẻ phù phiếm, mơ mộng trên chiếc xích đu khi ông tới nơi. Ông có linh cảm rằng cô chính là người được chọn.

“Như cô đã biết, cô Brandonberg, lớp học sẽ bắt đầu từ chín giờ sáng đến bốn giờ chiều, và nhiệm vụ của cô bao gồm cả việc nhóm lửa đủ sớm để có thể sưởi ấm lớp học khi lũ trẻ tới nơi, đồng thời giữ cho nơi này luôn luôn sạch sẽ, xúc than nếu cần thiết, và trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống cộng đồng xung quanh cô, từ đó, cô sẽ biết về gia đình của những đứa trẻ mà mình dạy dỗ. Cô sẽ thấy điều cuối cùng chính là điều dễ thực hiện nhất trong tất cả. Họ đều là người tốt. Những người trung thực và làm việc chăm chỉ. Tôi tin cô sẽ nhận được sự hợp tác và giúp đỡ từ họ. Nếu cần thêm bất cứ điều gì và không thể tìm được tôi nhanh đủ để đáp ứng, thì cô hãy hỏi họ. Tôi cho rằng cô chắc chắn sẽ nhận ra chẳng có ai ở nơi này nhận được nhiều tôn trọng hơn một giáo viên.”

Miễn đó là đàn ông, cô nghĩ. Nhưng, dĩ nhiên, cô không nói ra điều đó. Sau khi nói lời tạm biệt, cô dõi theo Dahl quay trở lại xe. Nhưng trước khi ông tới nơi, cô dùng một tay che mắt và gọi lớn, “À, Ngài Dahl này!”.

“Sao vậy?” Ông tạm dừng và quay lại.

“Chuyện gì đã xảy ra với giáo viên và học sinh ở đây khi họ chẳng còn chút nhiên liệu nào trong cơn bão tuyết năm 1888?”

Ông nhìn chằm chằm cô dưới ánh nắng ấm áp của tháng Chín. “Cô không biết ư? Rất nhiều người đã chết cứng vì lạnh trước khi họ kịp nhận được giúp đỡ.”

Một cơn rùng mình xuyên qua người cô, cô nhớ tới lời khuyên của Theodore khi họ đối mặt với nhau ở bến tàu. “Trường học không phải chỉ là nơi khắc những con số lên bảng, cô gái nhỏ! Mà còn phải đi bộ hàng nhiều dặm, và mùa đông nơi đây rất khắc nghiệt!”

Vậy ra không phải anh cố tình hù dọa cô. Lời cảnh báo của anh đáng được trân trọng. Cô nhìn ra xa, tít tắp về phía những cánh đồng trong gió, tưởng tượng tới cảnh đồng bằng trơ trọi chẳng có gì ngoài tuyết, gió Bắc Cực, và cuộc sống của mười bốn đứa trẻ phụ thuộc vào cô trong lúc chờ đợi sự giúp đỡ.

Cô không thể tìm thấy bất cứ sự an ủi nào trong tưởng tượng. Cô cần phải giữ tỉnh táo và kiên quyết khi điều đó xảy ra.

Dù thế thì cũng thật khó có thể hình dung nổi điều đó khi cô đang đứng đây, trên bậc thềm, dưới ánh nắng ấm áp chiếu trên mái tóc, khi những con rắn sọc đen đang chơi trò ẩn náu trong những cái hốc, những chú chiền chiện miền Tây hót líu lo, chim sẻ thưởng thức hạt giống cây kế, và những cây lúa thì chậm rãi vui đùa trong gió.

Tuy nhiên, cô quyết định sẽ lập tức nói chuyện với Theodore về chất đốt, và đồng thời nói Nissa tích trữ một số khẩu phần ăn khẩn cấp cho nhà trường…

Chỉ để đề phòng trường hợp đó.


Giang Vi

Tôi là một người yêu sách cuồng nhiệt và đã hơn 20 năm. Tôi dành cả ngày để đọc, viết blog về sách và viết bình luận. Tôi tin rằng sách là công cụ mạnh mẽ nhất trong cuộc sống để mở mang đầu óc cho những ý tưởng và quan điểm mới. Các thể loại yêu thích của tôi bao gồm tiểu thuyết lịch sử, giả tưởng, khoa học viễn tưởng và phi hư cấu. Tôi cũng thích tìm hiểu về các nền văn hóa khác nhau thông qua văn học.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts:

Back to top button