Tiểu thuyết - ngôn tình

Thất Dạ Đàm Tập 1

1. THÔNG TIN SÁCH/EBOOK 

Tác giả : Thập Tứ Khuyết

Download sách Thất Dạ Đàm Tập 1 ebook PDF/PRC/MOBI/EPUB. Tải miễn phí, đọc online trên điện thoại, máy tính, máy tính bảng.

Danh mục : TIỂU THUYẾT

Đọc thử Xem giá bán

2. DOWNLOAD

Định dạng ebook                  

File ebook hiện chưa có hoặc gặp vấn đề bản quyền, Downloadsach sẽ cập nhật link tải ngay khi tìm kiếm được trên Internet.

Bạn có thể Đọc thử hoặc Xem giá bán.

Bạn không tải được sách ? Xem hướng dẫn nhé : Hướng dẫn tải sách


3. GIỚI THIỆU / REVIEW SÁCH

Lời giới thiệu


Thất Dạ Đàm của Thập Tứ Khuyết là một cuốn tiểu thuyết tuyệt vời đến tận những trang cuối cùng. Tên của truyện nghĩa là, nói chuyện bảy đêm.

Bảy đêm là bảy câu chuyện tình kỳ lạ, khắc cốt ghi tâm, đượm màu sắc liêu trai, tất cả đều là những mối tình chung thủy ngàn năm, bảy câu chuyện khác nhau được khéo léo xâu chuỗi bằng một nhân vật siêu thực, để chuyển đến bạn đọc thông điệp của tác giả: “Có lẽ, hạnh phúc cuối cùng mà chúng ta mong đợi nhất, chỉ là cùng với người mình yêu sớm sớm chiều chiều bên nhau, mãi mãi, trọn đời.” Đó là những câu chuyện tình kinh điển mà kỳ lạ, đầy xúc động và bất ngờ.

Đêm thứ nhất: một chàng trai yêu sâu nặng cô em nuôi, nhưng không thể lấy nàng bởi tiểu đệ của mình cũng yêu nàng. Do luôn nghĩ đến món nợ ân tình của mẹ tiểu đệ nên chàng quyết định nhường người yêu cho em. Cô tiểu thư nhà họ Liễu không lấy được người mình yêu nên đã quyên sinh, trước cái chết của nàng, Thẩm Nhược đau đớn và uống rượu cho tới chết để được cùng nàng bầu bạn. Cho dù thời gian có trôi, hai người vẫn sớm sớm chiều chiều bên nhau tại ngôi lầu hoang vắng đó.

Đêm thứ hai: câu chuyện tình của chàng Cung Thất (em trai hoàng hậu) với nàng Châu Hạnh tuy bị mù nhưng lại giỏi cầm ca, hai người vượt qua bao khó khăn để đến với nhau thì trong đêm tân hôn Châu Hạnh mất tích. Sau bảy năm, cô gái đó lại xuất hiện nhưng sự thực lại là một sát thủ xuất sắc nhất Dạ Minh bang lại có dung nhan giống như Châu Hạnh được thuê đến để đầu độc Cung Thất. Nhưng sau cô gái nảy sinh tình cảm đã không cầm lòng hạ độc thủ nên chàng đã cho cô biết sự thật rằng Châu Hạnh đã chết và mọi kế hoạch hạ thủ của cô chàng đều rõ, cô định bỏ cuộc vì cô cho rằng đôi bàn tay mình đã đẫm máu nhưng chính Cung Thất đã kéo cô ra và giúp cô làm lại cuộc đời.

Đêm thứ ba: chuyện xảy ra từ thời Tây quốc, có một mỹ nhân nổi tiếng tên Đồng Đồng, hoàng tử của Thị quốc cầu hôn không thành, nước mất nhà tan cô đã tự vẫn khiến cho hoàng tử Thị quốc ngày đêm thương nhớ rồi lâm trọng bệnh. Lại nói, khi chết hồn cô không xiêu thoát nên vất vưởng chốn nhân gian để báo thù cho cha mẹ, nhưng cuối cùng cô nhận ra tình cảm chân thành mà hoàng tử Thị quốc dành cho mình, cũng như rõ được nguyên nhân tại sao khiến cô lại hành động như vậy. Cuối cùng, cô tiểu thư này đi theo Kinh Trần (đại phu) để cứu giúp những người dân nghèo.

ĐỌC THỬ

Có lẽ, hạnh phúc cuối cùng mà chúng ta mong đợi nhất chỉ là cùng với người mình yêu sớm chiều bên nhau, mãi mãi, trọn đời.

ĐÊM THỨ NHẤT

1.

Triều Tịch

Hãy cho ta ở bên nàng, lúc còn sống không dám nhìn nàng, không dám gọi nàng, không dám yêu nàng, bây giờ xin cho ta đền bù tất cả.

Tên tôi là Tiểu Triều.

A hoàn nhà họ Liễu – dòng họ được mệnh danh là “vua thuyền” trong thiên hạ.

Lão gia thời trẻ từng phải chịu họa tù đầy nên đã giao Liễu Tịch đứa con gái duy nhất cho người bạn chí cốt là Tả tướng đương triều Thẩm Sô nuôi dưỡng.

Tả tướng có hai công tử, đại công tử là Thẩm Nhược và nhị công tử là Thẩm Ngôn.

Mười sáu năm sau, khi lão gia mãn hạn thì tiểu thư đã mười bảy tuổi.

Mối giao tình thâm sâu của hai nhà Thẩm Liễu, qua thử thách thời gian càng sâu nặng, gắn bó hơn. Tả tướng liền xin thánh chỉ của Hoàng thượng chỉ hôn cho trưởng nam Thẩm Nhược của mình thành hôn với Liễu tiểu thư.

Ngày mồng bảy tháng ba, được lựa chọn là ngày đại hỷ.

Hôn sự này lan truyền khắp đường to ngõ nhỏ trong kinh thành và được coi là đại sự thu hút chú ý nhất trong năm.

Tuy nhiên, chưa đến ngày bảy tháng ba ngày kiệu hoa đến đón thì vào đêm mồng sáu tháng ba, một trận đại hỏa hoạn đã thiêu trụi ngôi lầu hồng nơi tiểu thư ở cùng tất cả nữ trang sính lễ và…

Tính mạng tiểu thư.

Phải, tiểu thư tôi tên là Liễu Tịch, vào ngày mồng sáu tháng ba đã dùng một mồi lửa kết thúc tính mệnh khi mới mười bảy tuổi xuân.

Chỉ trong vòng một đêm, toàn Liễu phủ từ màu đỏ đại hỷ biến thành màu trắng tang tóc, từ hôn lễ biến thành tang lễ.

Còn tôi, vận tang phục lặng lẽ đứng giữa đám người ăn kẻ ở, lặng lẽ rơi nước mắt nhìn chiếc quan tài đặt giữa linh đường, toàn thân như rơi vào mộng cảnh.

Lão gia rất mực yêu chiều tiểu thư, cho nên đến chiếc quan tài gỗ hồng đàn cũng được chạm nổi hình chim phượng màu vàng và những hoa văn cây cỏ vô cùng tinh xảo. Lão gia ngồi chết lặng bên quan tài, lòng tan nát trước thảm cảnh người đầu bạc tiễn kẻ đầu xanh, nước mắt chảy ngược vào trong, trái tim già nua rỉ máu, trong nỗi đau đứt ruột không bao giờ nguôi ngoai.

Từng đoàn khách vào viếng, thắp hương, hành lễ, nói lời an ủi chia sẻ cùng gia chủ, nhưng trong mắt tôi, tất cả bọn họ toàn một vẻ giả dối hợm hĩnh giống hệt nhau.

Họ hoàn toàn không quen tiểu thư, thậm chí khi tiểu thư còn sống thì những lời xấu xa nhằm hủy hoại danh tiết tiểu thư đều từ mồm họ mà ra.

Họ nói tiểu thư nhà Liễu gia tư phong thiếu đoan trang…

Họ nói khi lên chùa dâng hương có người nhìn thấy tiểu thư lúng liếng đưa tình với một gã trai phong lưu, người đó lại chính là nhị công tử Thẩm Ngôn…

Họ nói đại công tử lấy Liễu tiểu thư thực ra là đội mũ xanh1 của nhị công tử…

Họ nói nghe đồn Thẩm đại công tử cực kỳ ghét tiểu thư nhưng bị Tả tướng ép cưới, Tả tướng đã thích tiểu thư của Liễu gia như vậy sao không dứt khoát cưới về làm thiếp của mình cho rồi…

Họ nói… họ nói… những lời khốn nạn mà bọn họ nói ra, cuối cùng đã ép chết tiểu thư vậy mà bây giờ họ vẫn mặt dày đến viếng! Lão gia, tại sao lão gia còn cám ơn họ? Chính họ đã ép chết tiểu thư! Họ chỉ nghe phong thanh được điều gì đó vậy là phóng đại tùy tiện vô lối, cố ý bóp méo, cuối cùng đã hại chết cô con gái yêu quý nhất của lão gia.

Lòng tôi như có tảng băng đè lên, nặng trĩu và ớn lạnh.

Chính lúc đó, bỗng thấy có tiếng thì thầm xôn xao, tôi vội ngẩng đầu liền nhìn thấy Thẩm nhị công tử từ cổng lớn đi vào, chàng lê từng bước, mặt trắng nhợt đờ đẫn hồn siêu phách lạc, nhưng dung mạo tuấn mỹ tuyệt vời.

Nhị công tử nhà họ Thẩm mặc dù thể trạng có phần yếu ớt, dung mạo bội phần tuấn tú, nức tiếng gần xa, thậm xứng danh đế đô đệ nhất hào hoa.

Hơn nữa lại tài ba xuất chúng, thư họa đều trác tuyệt so với huynh trưởng vốn bị thiên hạ coi là loạn thế ma vương, quả thực không biết chàng ưu tú hơn bao nhiêu lần.

Nhưng, nhưng… nếu chàng không như vậy sao lại có những lời đồn tai hại kia?

Chàng đi đến trước linh đường, châm hương, vái ba vái cắm vào bát hương. Rồi nán lại rất lâu trước quan tài. Tiếng xì xào bên dưới càng nhiều càng rõ nhưng chàng cũng như không nghe thấy, gương mặt sáng rỡ như ngọc minh châu của chàng lúc này âm u tựa phủ sương mù và chìm trong nỗi tuyệt vọng bi thương khôn tả.

Cuối cùng, chàng quay người quỳ phục trước mặt lão gia.

Lão gia kinh ngạc: “Công tử làm gì vậy?”

“Chính tiểu điệt đã hại chết Tịch Nhi, tiểu điệt đau lòng làm sao sống nổi!”

Lời vừa ra, mọi người xung quanh ồ lên, ánh mặt nhìn nhau như nói: “Quả nhiên hai người có tư tình!”

Còn lão gia càng kinh hoảng giọng run run: “Công… công tử…”

“Bá phụ!” Chàng ngẩng đầu lên, đôi mắt nhuốm sương mù, cặp mày thanh tựa hình bóng núi, ánh mắt như sóng nước hồ thu đẹp mê hồn cũng u uất đau thương, “tại sao cả bá phụ và cha tiểu điệt đều không hề nghĩ đến tiểu điệt khi sắp xếp hôn sự cho Tịch Nhi?”

Đúng, chàng và tiểu thư mới là thanh mai trúc mã đích thực. Chàng khắc hẳn huynh trưởng của mình. Thẩm Nhược ngang tàng ương ngạnh, Thẩm Ngôn nho nhã nhu mì. Thẩm Nhược ăn chơi phóng đãng, rượu, cờ bạc, kỹ nữ không gì không rành. Thẩm Ngôn tinh thông cầm kỳ thi họa. Thẩm Nhược hống hạch cậy thế ức người, phóng đãng nổi tiếng kinh thành. Thẩm Ngôn ôn hòa chính trực, anh tài uyên bác lừng danh thiên hạ.

Điều cốt yếu nhất là từ nhỏ chàng đã yêu chiều chăm sóc bảo vệ tiểu thư, trong khi huynh trưởng và tiểu thư hai ngày cãi lộn, ba ngày đánh nhau, cả hai đều ghét nhau.

Chàng mới là lương duyên của tiểu thư!

Nhưng, lão gia và Tả tướng lại chỉ muốn gả tiểu thư cho Thẩm Nhược.

Mặt lão gia chứa chất đau khổ ân hận, run rẩy đỡ chàng giọng nghẹn ngào: “Bây giờ nói những lời đó có ích gì!”

Đúng, bây giờ nói bao nhiêu, cầu xin bao nhiêu cũng đều đã muộn.

Nhị công tử rút từ trong tay áo một tập thi cảo khẽ nói: “Đây là những bài thơ tiểu điệt và Tịch Nhi cùng vịnh, họa ngày trước, bây giờ đốt cho nàng để nàng không quá cô đơn trên đường xuống cửu tuyền.”

Chàng cầm từng trang thi cảo bỏ vào hỏa bồn châm lửa, ánh lửa nhảy múa, chập chờn ánh lên mặt lúc sáng lúc tối.

Năm xưa, sắc mai trắng xóa dưới trời tuyết lạnh, ánh vào thư phòng bé nhỏ ba nhi đồng cùng học bên nhau.

Thẩm Ngôn văn tài tốt nhất, luôn được phu tử khen cho nên mỗi ánh mắt tiểu thư hướng về chàng đều đầy ngưỡng mộ, tôn sùng. Khi hai người đàm luận văn chương, Thẩm Nhược ngồi bên điềm nhiên gục xuống án thư ngáy o o, thỉnh thoảng trở mình tay quờ quạng làm đổ đài nghiên, tay dính mực cũng không biết, khi tỉnh dậy giơ tay vuốt mặt vậy là mực dính đầy mặt.

Mỗi lần như vậy, tiểu thư đều trêu Thẩm Nhược: “Cả huynh và Ngôn ca ca đều học nhưng mực ở trong đầu Ngôn ca ca còn huynh mực lại ở trên mặt, đúng là mới lạ khác người!”

Thẩm Nhược tức giận, xòe bàn tay: “Nói gì? Vậy cũng phải cho muội một cái mới…”

Tiểu thư hét lên vội trốn vào sau lưng Thẩm Ngôn, hậu quả là “bốp bốp” hai cái trên mặt Thẩm Ngôn in hai dấu tay mực đen sì.

Từ nhỏ nhị công tử đã luôn bảo vệ tiểu thư như thế, dù tiểu thư gây ra họa lớn thế nào chỉ cần trốn vào sau lưng chàng, tiểu thư biết sẽ hoàn toàn yên ổn, tiểu thư tin tưởng chàng như tin huynh đệ ruột.

Nhưng… hai người có duyên không có phận.

Tập thi cảo cháy hết, nhị công tử oằn mình âm thầm khóc, lão gia vội giơ tay đỡ chàng: “Hiền điệt, đứng lên đi, cháu có lòng như thế Tịch Nhi trên trời cũng mát lòng.”

Nhị công tử không chịu đứng dậy bỗng một cánh tay đưa ra nắm chặt vai chàng, chàng ngẩng đầu kêu một tiếng: “Cha!”

Lão gia ở bên cũng nói: “Thẩm huynh!”

Vị khách vừa đến toàn thân vận áo chùng tím, tư phong đường bệ, ngời ngời, đúng bậc quốc sỹ, chính là đương triều Tả tướng Thẩm Sô.

Tả tướng đỡ Thẩm Ngôn, quay nhìn lão gia khẽ nói: “Ta… xin lỗi đệ. Tử Tiên, ta xin lỗi đệ càng xin lỗi Tịch Nhi… Nếu ta không nóng lòng muốn để nó thành con dâu ta, ép nó lấy con trai ta, nó sẽ không…”

Ông cúi đầu nét mặt muôn phần sầu muộn, thê lương.

Vậy mà ông là bậc chính nhân quân tử phong lưu tuyệt thế từng được tiên đế ngợi ca là “Bích ngọc nhân trung”

Tả tướng quân vô cùng yêu quý tiểu thư, cưng chiều hơn cả hai công tử con ruột của mình. Từ nhỏ mỗi lần tiểu thư và Thẩm Nhược cãi nhau chỉ cần tiểu thư đến mách, Tả tướng nhất định trừng phạt Thẩm Nhược.

Có lần, tiểu thư và Thẩm Nhược thi câu cá, tiểu thư câu được ít hơn cảm thấy sắp thua, tiểu thư liền đá thùng cá của Thẩm Nhược, thùng đổ cá nhảy hết xuống hồ, tiểu thư vỗ tay, nói: “Cá đi hết rồi xem huynh có thắng được muội không!”

Thẩm Nhược tức giận, xông ra định đá thùng cá của tiểu thư, tiểu thư đã có chuẩn bị vội giấu ra sau lưng miệng reo: “Huynh đá không trúng, huynh đá không trúng, muội có ba con huynh không có con nào. Thẩm Nhược, huynh thua rồi!”

Hai người giằng co, tiểu thư chân đá tay đấm vừa đấm, cả người lẫn thùng rơi xuống hồ khiến người trong phủ bị một phen hoảng hồn.

Sau khi Tả tướng biết chuyện không nói không rằng đánh Thẩm Nhược một trận, phạt quỳ trước nhà, suốt một ngày một đêm còn bắt nhịn cơm.

Đúng thật, bất luận là ai sai, Tả tướng đều bênh vực tiểu thư bởi dung mạo tiểu thư rất giống người thiếu nữ thời trẻ Tả tướng ái mộ nhưng về sau họ lại không nên duyên.

Chuyện đó trở thành niềm tiếc nuối vĩnh viễn suốt cuộc đời Tả tướng. Cho nên Tả tướng mới cưng chiều tiểu thư như người cha thứ hai của nàng.

Tôi cúi đầu lòng thầm thở than, nghe tiếng Tả tướng nghẹn ngào: “Nếu sớm biết, được sự ái mộ của ta sẽ dẫn tới thảm cảnh thế này, ta thà không nhìn nó, vĩnh viễn, vĩnh viễn không ép nó… Tử Tiên, ta xin lỗi đệ!”

Lão gia lau nước mắt, “là do Tịch Nhi phúc mỏng can hệ gì đến Thẩm huynh? Chỉ do nó bản tính quá cố chấp lại dám dùng cách đó báo thù chúng ta.” Giọng ông bỗng trở nên ai oán rền rĩ, “không, nó báo trả đệ chỉ trả thù một mình đệ!”

Tiểu thư vẫn tưởng mẹ mình chết do sinh khó lúc sinh tiểu thư, đến năm mười lăm tuổi mới biết thực ra phu nhân đã tự vẫn.

Lão gia và Tả tướng là đôi bạn chí cốt, khi được biết, người vợ của mình lại chính là người con gái mà Tả tướng âm thầm ngưỡng mộ, vẫn một lòng tìm kiếm suốt mười năm, lão gia liền muốn trao nàng cho bạn, thậm chí đã viết giấy từ hôn trả tự do cho nàng. Nhưng không ngờ, phu nhân chỉ một lòng yêu lão gia. Trong lúc đau khổ uất ức, phu nhân đã châm lửa tự thiêu, dùng lối quyên sinh thảm khốc như vậy để chứng tỏ lòng trung trinh đối với chồng.

Lúc này, tiểu thư cũng dùng cách đó lại ném thêm nỗi đau vào vết thương bao năm chưa lành trong lòng lão gia.

Lão gia ôm quan tài kêu khóc thảm thiết: “Tịch Nhi là cha đã hại con, cha xin lỗi… Tịch Nhi của cha nếu con sống lại, cha sẽ chiều theo mọi ý nguyện của con… chuộc mọi tội lỗi với con, trùng tu mộ mẹ con, hủy bỏ hôn ước của con với Thẩm Nhược, cha sẽ…”

“Nhạc phụ đại nhân, người vừa nói gì?”

Một giọng âm thầm ai oán như từ chân trời vọng đến lại như từ địa ngục vẳng ra.

Lòng tôi đột nhiên run lên vào lúc xẩm tối, cuối cùng tôi đã chờ được nhân vật chính.

Cổng phủ mở toang, xuất hiện một bóng người toàn thân rực lửa, cơ hồ muốn thiêu trụi vạn vật. Định thần nhìn ra chính là đại công tử Thẩm Nhược, mình vận hỷ bào màu lửa đang từng bước đi đến.

Trên đại hỷ bào đỏ chói thêu nổi đôi long phượng bằng chỉ vàng, ống tay rộng và vạt áo chùng thướt tha như sóng nước, chàng bước đến, mái tóc dài sổ tung trong bộ dạng điên loạn làm mọi người khiếp đảm.

Phải, người vận đại hỷ bào đi vào linh đường chính là công tử Thẩm Nhược.

Vị hôn phu của tiểu thư.

Khắc tinh của tiểu thư.

Người mà sinh thời tiểu thư ghét nhất.

Hơn ba trăm người lớn nhỏ trong phủ, ai nấy sắc mặt tang tóc đau thương, lão gia, Tả tướng và nhị công tử Thẩm Ngôn đang khóc than xé ruột, duy chỉ mình chàng khóe miệng hơi nhếch vẫn đọng nụ cười.

Tại sao đại công tử Thẩm Nhược lại vận hỷ bào mỉm cười đi vào linh đường?

Tả tướng là người đầu tiên kêu lên: “Nhược Nhi, con đến làm gì?”

“Làm gì ư?” Thẩm Nhược cười gằn, dáng đờ đẫn bước chân duyên dáng vẫn không dừng.

“Đương nhiên là đến bái biệt tân nương chưa kịp đón về phủ đã chết thảm của con!”

Lão gia sầm mặt: “Ở đây không hoan nghênh công tử, mời công tử đi cho!”

Thẩm Nhược nhướn mày: “Nực cười cùng là người họ Thẩm, cha đến được, tiểu đệ đến được, cớ gì mình tôi không được?”

“Công tử vẫn còn mặt mũi nói vậy!” Lão gia tức tối giậm chân, giơ tay chỉ mặt chàng, “nếu ngươi không làm nhiều điều bất nghĩa, không dan díu với kỹ nữ lầu xanh thì làm sao Tịch Nhi nhất quyết không chịu lấy ngươi. Nếu không vì không muốn lấy ngươi, nó có dùng cái chết để từ hôn không?”

Ánh mắt Thẩm Nhược dừng lại trên bài vị tiểu thư, sau đó cặp mày thanh khẽ nhướn lên, miệng hơi nhếch lại cười nhạt: “Câu này nghe thú vị làm sao! Tôi làm điều bất nghĩa không phải chuyện ngày một ngày hai, trước đây sao các vị không nói bây giờ lại mang ra chỉ trích? Nhạc phụ đại nhân, hồi đầu người một mực muốn gả con gái cho tôi chính là đại nhân.”

“Ngươi… ngươi… ngươi…”

Thấy lão gia sắp nổi cơn thịnh nộ, Tả tướng nhẹ nhàng khuyên: “Tử Tiên, chớ nóng nảy, xin hãy nể cái mặt già của ta cho Nhược Nhi thắp nén nhang bái biệt Tịch Nhi, bất luận thế nào chúng vẫn còn hôn ước.”

Lão gia nhìn Tả tướng rầu rĩ thở dài.

Gia nhân đi đến đưa hương cho Thẩm Nhược nhưng chàng gạt ra, “cần gì thứ đó, người đâu, mang rượu lại đây cho ta!” Lời vừa dứt, mười hai gã trai trong trang phục màu xanh xếp thành hàng tiến vào trên tay mỗi người đều bưng một bình rượu. Những người này tôi biết đều là tay chân của Thẩm Nhược.

Lão gia hốt hoảng: “Ngươi… ngươi định làm gì?”

Thẩm Nhược bất chấp đi thẳng đến nhấc bình rượu trên tay một người mở nắp ngửa cổ tu một ngụm lớn, đoạn lấy tay áo lau miệng: “Rượu ngon! Không hổ danh Nữ nhi hồng mười bảy năm!”

“Ngươi! Ngươi… ngươi định làm gì?”

Thẩm Nhược vẫn bất chấp, mắt nhìn bài vị tiểu thư nói: “Nha đầu xấu xí, ta biết, nàng vẫn luôn ghét nhất ta uống rượu. Lúc nhỏ ta uống vụng trong hầm rượu, nàng đi mách cha khiến ta bị đánh, ta uống một lần nàng mách một lần, ta bị cha đánh một lần, tổng cộng có không dưới trăm lần. Từ lúc đó ta đã tự nhủ không có gì, nhất định có ngày ta đòi lại từng chiếc roi bị đánh, cũng nhất định có ngày nàng không cấm được ta uống rượu. Hôm nay coi như ngày đó đã tới, ta sẽ uống cho nàng xem, đây là mười hai bình rượu hồi môn của nàng, chúng được chôn dưới đất từ khi nàng ra đời. Ha ha, Liễu Tịch ơi, Liễu Tịch, có bản lĩnh nàng hãy chạy đi mà mách cha ta!”

Nói đoạn, giơ bình bắt đầu tu ừng ực khiến tất thảy mọi người xung quanh trợn tròn mắt.

Tửu lượng của Thẩm đại công tử đã sớm khét tiếng kinh thành “ngàn chén không say”. Chàng uống ngày uống đêm, ngã bệnh liệt giường vẫn uống, mỗi lần tiểu thư nhìn thấy đều khóc lóc, dằn dỗi, “huynh uống cho chết luôn đi!” Cuối cùng, chàng ta không chết mà người chết lại là tiểu thư.

Một lần khác, Thẩm Nhược say rượu từ Hồng Tu lầu về nhà đến vườn hoa nhìn thấy tiểu thư, liền đứng sững lại ngơ ngẩn ngắm nhìn.

Tiểu thư phẫn nộ quát: “Huynh nhìn gì?”

Thẩm Nhược lẩm bẩm: “Đẹp quá… muội đẹp quá, đẹp như Hằng Nga vời vợi, đẹp đến nỗi làm ta nát lòng.”

Tiểu thư và đại thiếu gia từ nhỏ cùng lớn lên, mười năm sớm tối bên nhau, thiếu gia chưa từng khen tiểu thư một câu lại còn gọi là nha đầu xấu xí. Đó là lần đầu tiên khen tiểu thư đẹp làm tiểu thư xấu hổ mặt ửng hồng, đang ngượng ngịu lại thấy Thẩm Nhược nói, “Tiểu Nguyệt Lượng, nàng đúng là Tiểu Nguyệt Lượng!”

Lúc đó tiểu thư mới biết chàng ta coi mình là kỹ nữ Tiểu Nguyệt Lượng, lại thêm chàng lao đến ôm tiểu thư định hôn, sự phẫn nộ càng bùng lên, ngoài hai cái tai chí mạng, tiểu thư còn lao vào đấm đá không thương tiếc cho đến khi chàng bị đạp ngã xấp xuống đất. Sau đó chạy vụt đi tìm khóc với Tả tướng rằng đại công tử uống say đã làm nhục cô, hậu quả đương nhiên đã rõ, Thẩm Nhược bị giam đúng ba tháng mới được ra ngoài.

Hai người thù ghét nhau như vậy, lại bị chỉ nhầm thành uyên ương sao tiểu thư không ôm hận mà tự tìm cái chết?

Bên này Thẩm Nhược vẫn uống say sưa, lát sau bình rượu đã cạn đáy, chàng vung tay đập mạnh xuống nền, chiếc bình vỡ tan, tàn rượu bắn tung tóe, sắc mặt lão gia và Tả tướng đều xám ngoét.

Chàng vừa giơ tay, gia nhân lập tức đưa bình mới, vẫn thong thả mở nắp ngửa cổ tu ừng ực.

Một bình, hai bình, ba bình…

Thẩm công tử nghiện rượu, ngay khách qua đường có người cũng biết nhưng uống bất chấp tính mạng như vậy, đây là lần đầu tôi nhìn thấy. Lúc này đâu phải chàng uống rượu mà là đổ rượu vào người.

Đến khi công tử đã uống đến bình thứ mười một, Tả tướng cuối cùng không chịu nổi bước lên nói: “Đủ rồi, đừng uống nữa!”

Thẩm Nhược vẫn làm ngơ. Tả tướng giật bình rượu trong tay chàng đổ xuống đất, giận dữ quát: “Đã bảo không uống nữa! Có nghe không?”

Thẩm Nhược bị quát, loạng choạng lùi sau hai bước, khi dừng lại ánh mắt đã đã đờ đẫn, có lẽ lần này đã say.

Tả tướng trầm giọng ra lệnh: “Người đâu, đưa đại công tử về nhà!”

Gia nhân bước tới đang định dìu nhưng bị Thẩm Nhược đẩy ra, ánh mắt chàng càng đờ đẫn mê loạn giọng khàn đặc nói: “Đưa bình cuối cùng ra đây!”

Gia nhân không dám trái lời cầm bình rượu ngập ngừng nhìn Tả tướng, lại nhìn chàng đoạn run run dâng lên.

Thẩm Nhược sau khi đón lấy, gạt tay Tả tướng hướng vào quan tài nói: “Nha đầu xấu xí, bình rượu này ta không uống, ta dành cho nàng!”

Chàng từ từ đổ rượu ra đất, sau đó cầm chiếc bình không quay người, toàn thân loạng choạng khó nhọc cất bước nhưng mới được ba bước đột nhiên người khựng lại chỉ thấy “ộc” một tiếng, máu từ miệng ộc ra một đám đỏ tươi trên đất trước mặt chàng.

“Đại công tử thổ huyết!” Một gia nhân hốt hoảng kêu lên, chạy đến đỡ chàng nhưng một lần nữa bị chàng đẩy ra.

Thẩm Nhược một tay bịt miệng, một tay cầm chiếc bình không, quay đầu nhìn bài vị tiểu thư, cười nhạt: “Như nàng nói, ta uống đến chết thật rồi… ta uống đến chết là nàng hài lòng phải không?”

Trong mắt chàng đột nhiên có ánh nước, giơ tay chỉ quan tài mặt như cười, lại như khóc, “nha đầu xấu xí, quả nhiên nàng vẫn là khắc tinh của ta… Ta chết rồi cũng phải…”

Lời vừa dứt, chàng ngã lăn ra đất.

Bộ hỷ bào đỏ xụp xuống thành một đống thảm hại, ánh lên những dải nhiễu đen và hoa trắng muốt trong linh đường đỏ như nhuốm máu.

2.

Tôi tên là Tiểu Triều.

Là a hoàn của nhà họ Liễu – dòng họ được mệnh danh là “vua thuyền” trong thiên hạ.

Sau khi tiểu thư chết, ngôi lầu hồng của nàng ở Tây Viên biến thành hoang phế, Liễu lão gia thấy cảnh hoang tàn nên quá đau lòng, cuối cùng dùng một chiếc khóa lớn khóa chặt cổng Tây Viên. Từ đó, không còn ai lai vãng.

Chỉ có tôi ngày đêm ở đây, sớm chiều nhìn hoa tàn, lá úa hồi nhớ cảnh phồn hoa vui tươi khi tiểu thư còn sống, lòng muôn nỗi ưu thương.

Mưa xuân lại triền miên rơi.

Tiểu thư ngày trước tính tình hiếu động, mỗi độ xuân về nhất định phải ra ngoài du xuân, dự hội đạp thanh. Thông thường đều là Thẩm Ngôn cùng đi với nàng, duy nhất một lần Thẩm Ngôn đột xuất được hoàng thượng truyền kiến, Tả tướng liền gọi Thẩm Nhược lúc đó còn say lúy lúy bên ngoài vừa mới trở về phủ, bảo chàng đưa tiểu thư đi.

Tiểu thư không hài lòng, chưa kịp từ chối thì Thẩm Nhược sặc mùi rượu vừa nấc vừa nói: “Tiểu đệ có việc bận nhờ huynh giúp, nha đầu xấu xí đành phải nghe theo thôi, ai bảo muội đành hanh, tranh trời tranh đất, nhưng vẫn không tranh được với hoàng thượng.”

Nói xong liền đẩy tiểu thư lên xe ngựa.

Trên đường tiểu thư rất bực, cố tình không nói chuyện. Thẩm Nhược lại cười cười nhìn cô bỗng lắc đầu, than thở: “Muội xem, sao muội béo thế, mùa đông năm trước suốt ngày chỉ có ăn hay sao? Béo phệ cả bụng rồi, chà chà xấu chết được!”

Tiểu thư kinh ngạc xấu hổ, vội kéo tấm khăn che bụng.

“Nhìn mặt xem, sao mắt có quầng lớn như vậy. Ôi chà, có cả nếp nhăn rồi, già nhanh thế?”

“Lại còn tay nữa nếu để người ta nhìn thấy có khi còn tưởng muội là nô tỳ của Thẩm gia chuyên làm việc chân tay nặng nhọc.”

Tiểu thư rụt tay giấu vào ống tay áo.

Nhưng vẫn không che hết đang buồn bã bỗng thấy Thẩm Nhược cười ha hả, lúc đó mới biết đã trúng bẫy của chàng. Tiểu thư tức điên cấu tay chàng, Thẩm Nhược vừa cười vừa né tránh, xe ngựa đột nhiên lắc mạnh, hai người ngã vào nhau.

Gần trong gang tấc.

Cả hai đều cảm thấy hơi thở của nhau, bốn mắt giáp nhau như thế, chân tay quấn quýt, chàng đè lên người tiểu thư, ánh mắt chợt tối.

Sau đó cúi đầu, hôn tiểu thư.

Tôi không hiểu tại sao tiểu thư không đẩy ra.

Có lẽ là do ánh mắt của Thẩm Nhược uy hiếp giống như những móc câu cướp mất hồn khiến tiểu thư không thể động đậy!

Cũng có thể do xe ngựa lắc quá mạnh, trời đất quay cuồng tiểu thư không biết mình đang ở đâu.

Cũng có lẽ tại bầu không khí trong xe quá kỳ dị, nặng trĩu đè chặt hơi thở của tiểu thư và cũng đè cả suy nghĩ của tiểu thư.

Tóm lại, tiểu thư không đẩy chàng ra, không né tránh. Thẩm Nhược đang hôn bỗng dừng lại, buông tiểu thư liếm môi cười: “Đúng là… ấu trĩ…”

Sắc mặt tiểu thư bỗng chốc biến thành màu trắng.

Mắt Thẩm Nhược như ánh sao nhưng lại có thể thiêu đốt, “sao nhị đệ không dạy bảo nàng? Còn nói là hai người đến giờ vẫn chưa…”

Chàng không kịp nói hết.

Bởi vì tiểu thư đột nhiên nhảy lên, không nói không rằng giật cửa xe nhảy xuống.

Xe rùng lắc dữ dội.

Thẩm Nhược kinh ngạc vội giơ tay kéo tiểu thư, vậy là hai người cùng lăn xuống theo sườn dốc, hai tay chàng ôm chặt đầu tiểu thư mãi không buông.

Ngoảnh đi ngoảnh lại những tiếng sấm mùa hè đã rền vang.

Tai nạn bất ngờ đó làm tiểu thư bị thương, để lại một vết sẹo nhỏ dài trên trán, nhưng lại khiến Thẩm Nhược gẫy một chân nằm giường đúng bốn tháng.

Tiểu thư nhất định không chịu đi thăm, có lẽ là không chịu nhượng bộ, có thể vẫn chưa hết giận, hoặc là nguyên nhân khác. Tóm lại, tiểu thư nhốt mình trong nhà không chịu ra ngoài.

Cuối cùng, lại là Thẩm Ngôn đến khuyên nhủ rằng: “Ngày hăm mốt tháng năm là sinh nhật Thẩm Nhược, bây giờ huynh ấy nằm giường nhất định rất buồn nên mang chút quà đến thăm và chúc mừng sinh nhật.”

Khuyên giải nửa ngày, tiểu thư cuối cùng động lòng mới lục trong hòm dưới gầm giường lấy ra cái hộp đi cùng Thẩm Ngôn.

Vừa đi đến trước cửa phòng Thẩm Nhược đã nghe thấy trận cười giòn giã và giọng con gái lanh lảnh ồn ào vọng ra.

Qua cửa sổ tiểu thư nhìn thấy một cô gái ngồi bên giường bón cho Thẩm Nhược ăn, sao nam nữ lại có thể thân mật như vậy! Qủa là mới nhìn thoáng đã khiến người ta hồn siêu phách lạc.

Nghe tiếng Thẩm Nhược cười, nói, “may mà nàng đến thăm ta, dạo này bọn họ toàn cho ta ăn cháo hoặc cơm nhạt, chán chết, nghĩ tới món đậu hầm và canh cá của nàng là đã chảy nước miếng…”

Cô gái kia che miệng cười: “Nói vậy là đại công tử của Tả tướng, sơn hào hải vị chẳng thiếu thứ gì bây giờ lại thèm món ăn nhà nghèo chúng tôi.”

“Chớ coi thường món ăn nhà nghèo, món đậu phụ cải trắng nếu làm tốt còn khó hơn nhiều món vây bào ngư. Mà tài nấu ăn của Tiểu Nguyệt Lượng rõ ràng là tuyệt đỉnh.”

Tôi mới biết, thì ra cô gái đó chính là Tiểu Nguyệt Lượng (danh kỹ Tiểu Nguyệt Lượng nức tiếng kinh thành) xưa nay mới chỉ nghe danh chưa từng gặp mặt.

Tiểu thư nghe cái tên đó lại lặng thinh khác thường. Thẩm Ngôn thấy vậy vội vén rèm bước vào, “Nhược huynh, đệ và Tịch Nhi đến thăm huynh.”

Rèm vừa vén lên, thấy Thẩm Nhược bên trong và tiểu thư bên ngoài nhìn thẳng mặt nhau.

Tiểu thư vội nhìn xuống không nói.

Ánh mắt Thẩm Nhược lóe sáng như nhận ra điều gì nhưng cuối cùng cũng không nói.

Còn Tiểu Nguyệt Lượng bên cạnh cũng vội đứng lên bước tới cúi chào hai người, “Nguyệt Lượng kính chào Thẩm nhị công tử và Liễu tiểu thư.”

Thẩm Ngôn nhíu mày: “Sao cô nương lại đến đây?”

Tiểu Nguyệt Lượng còn chưa kịp lên tiếng, Thẩm Nhược đã nói: “Là ta gọi nàng ấy đến. Nhắn bạn cũ đến thăm người ốm thế nào? Cũng không được sao?”

Thẩm Ngôn vội xua tay, “không, không, đệ không có ý đó. Chỉ có điều…” Chàng dừng lại nói: “Bất luận thế nào, kỹ nữ ra vào phủ Tả tướng nếu tin đồn ra ngoài, dù gì cũng không hay.”

Thẩm Nhược liếc hai người rồi quay nhìn Tiểu Nguyệt Lượng, cười cợt nói: “Mặc kệ họ, món cá này rất ngon, ta vẫn muốn ăn nữa!”

Tiểu Nguyệt Lượng vội vàng xúc cá trong bát tiếp tục bón cho chàng, tiểu thư cuối cùng mở miệng, “xương cốt bị tổn thương không nên ăn cay.”

Bát canh cá đỏ ngòn, toàn ớt nhìn đã biết rất cay.

Thẩm Nhược ngước mắt nhìn tiểu thư, cười, ánh mắt liếc đảo sáng lên, “không ngờ, Liễu tiểu thư cũng quan tâm đến tại hạ. Chân tại hạ bị gẫy lâu như vậy cũng không bận tâm. Tại hạ nằm liệt mấy tháng cũng không hỏi han, bây giờ sao lại tỏ ra tốt bụng như thế?”

Mặt tiểu thư đỏ ửng, cả người run lên hình như rất giận, cuối cùng trao cái hộp cho Thẩm Ngôn, “đưa cái này cho người ta, muội về đây!”

Nói xong quay ngoắt bỏ đi, đi rất nhanh Thẩm Ngôn gọi cũng không ngoái lại.

Thẩm Nhược nhìn theo, mắt càng tối thẫm, nét mặt trầm tư, Thẩm Ngôn mở cái hộp mang đến trước mặt chàng nói: “Huynh, huynh giận Tịch Nhi làm gì? Xem này, Tịch Nhi đã chuẩn bị quà mừng sinh nhật huynh.”

Trong hộp là chiếc bình thủy tinh đựng một thứ chất lỏng óng ánh màu xanh đen.

Đó là loại rượu nhất phẩm nổi tiếng cực kỳ quý hiếm.

Lá thu trên cành dần dần vàng úa.

Thẩm Nhược đã khỏi bệnh nhưng tiểu thư lại ốm.

Tiểu thư ho suốt đêm, ho mãi không khỏi, các đại phu đều không tìm ra nguyên nhân, chỉ nói là bị nhiễm cảm phong hàn cần tịnh tâm tĩnh dưỡng.

Tả tướng thương xót nhưng không biết làm thế nào, Thẩm Ngôn luôn trực bên giường, mang trà, bón thuốc cho nàng, chỉ có Thẩm Nhược không hề ghé thăm một lần.

Càng đi sâu vào mùa thu, bệnh của tiểu thư càng nặng, trong đờm đã có máu, người trong phủ đều hoảng sợ. Có người bàn tán sau lưng “Cô con gái của Liễu gia phúc đoản mệnh bạc e khó qua khỏi.”

Tiểu thư chập chờn hôn mê những lời như vậy chỉ nghe câu được câu chăng.

Trong mơ màng lúc tỉnh lúc mê, tiểu thư loáng thoáng nghe thấy có người đi đến bên giường, tưởng là Thẩm Ngôn liền gọi: “Ngôn ca ca, nước!”

Người đó mang nước đến, đỡ đầu tiểu thư lên nhẹ nhàng kề bát nước vào miệng. Trên cơ thể người đó thoảng mùi rượu thơm thơm.

Tiểu thư uống xong nước, môi mấp máy nói, “cảm ơn, Ngôn ca ca!” sau đó ngủ thiếp đi.

Cứ như vậy liền mấy đêm, người đó luôn xuất hiện vào lúc tiểu thư cần, trên người luôn có mùi hương mà tiểu thư quen thuộc, không hiểu sao khi ngửi mùi hương đó lại thấy rất vững lòng.

Vào cái đêm tiểu thư trở bệnh nặng nhất, lúc hé mắt lại lờ mờ nhìn thấy bóng người đó, vậy là tiểu thư gắng gượng thều thào, “Ngôn ca ca, muội sắp nguy rồi, nếu muội chết, huynh nhất định không được khóc, nhắn với bá phụ cũng đừng buồn. Nếu có kiếp sau, muội sẽ đầu thai vào nhà huynh làm con gái thật sự của bá phụ.”

Một giọt nước nóng hổi nhỏ trên trán tiểu thư, cảm giác đó làm cơ thể run lên truyền đến toàn thân, thấm tận vào lòng nóng ran. Tiểu thư vẫn có thể nhận ra đôi tay ấm áp đó, lòng bàn tay mềm mại, các đốt ngón rất dài và ấm nóng nhẹ nhàng ấp vào mặt rồi lại từ từ phủ lên mắt.

“Xin lỗi…” Giọng người đó giống như chìm trong nước khi nổi lên đã khúc xạ biến hình “xin lỗi, xin lỗi!”

Từng chữ rành rọt, âm vang như bị kéo rất dài.

Ánh trăng lọt qua cửa sổ, phủ lên hai người một màu trắng bạc lạnh lẽo thê lương.

Còn tiểu thư cuối cùng thoát khỏi kiếp nạn đó.

Sau cái đêm tồi tệ nhất, tiểu thư bắt đầu dần dần hồi phục. Đến mùa đông khi tuyết rơi, lão gia được ra trước thời hạn, ngay đêm đó sai người đến Tả tướng phủ đón tiểu thư về.

Gia nhân của Liễu phủ đến đột ngột, Tả tướng và nhị công tử đều chưa hề có chuẩn bị tâm lý, tiểu thư sau khi nghe tin đó chỉ nói một câu: “Để tôi thu xếp đồ đạc, sáng sớm mai sẽ khởi hành.”

Tiểu thư về phòng mình đuổi hết người hầu, tự tay xếp đồ, từ giờ dậu đến giờ dần nến mới tắt. Khi tia nắng đầu tiên đậu trên song cửa, tiểu thư mở cửa phòng nói với gia nhân của Liễu gia, “có thể đi được rồi!” Gia nhân định chuyển đồ mới nhận ra, đồ đạc vẫn y nguyên chưa hề động chạm.

Tiểu thư nói: “Chỉ cần đưa ta đi là được!”

Gia nhân nhìn nhau một lát không dám cãi lời dìu tiểu thư lên xe.

Tuyết vỡ vụn dưới bánh xe, xe nhẫn nại lăn bánh trên đường dài, có vẻ cũng nặng nề như nỗi lòng tiểu thư. Phía trước có chiếc xe ngựa đi đến trong xe là Thẩm Nhược đi suốt đêm không về vẫn đang ngủ say tít.

Hai chiếc xe từ từ tiến lại gần như vậy, sau đó đi qua nhau, một chiếc về Liễu gia, một chiếc về Tả phủ.

Còn đêm đó, tiểu thư và Thẩm Nhược vẫn vô duyên không nói một câu tạm biệt.

Đêm giao thừa năm đó, lão gia gọi tiểu thư đến thư phòng, nói, “hai nhà Thẩm Liễu đã quyết định liên hôn” Tiểu thư kinh ngạc hỏi: “Vậy cha gả con cho ai?”

Lão gia trả lời: “Theo luật lệ triều ta, tiểu đệ không được thành hôn trước đại huynh, con đương nhiên gả cho Nhược Nhi.”

Sắc mặt tiểu thư từ trắng chuyển thành xám cuối cùng nhợt nhạt, bật cười: “Ý trời, đúng là ý trời!”

Lão gia hỏi: “Con có bằng lòng không?”

Tiểu thư trả lời: “Bằng lòng, có gì không bằng lòng!”

Vậy là hôn sự rầm rộ của hai nhà đã định đoạt. Tin lan truyền khắp đường to ngõ nhỏ trong kinh thành.

Còn chàng tân lang may mắn đó vẫn đêm đêm chìm trong tửu sắc, cầm ca.

Sau đó là ngày mồng sáu tháng ba, tiểu thư đốt sạch đại hỷ bào tân nương, đốt trụi khuê phòng và… chính mình.


Giang Vi

Tôi là một người yêu sách cuồng nhiệt và đã hơn 20 năm. Tôi dành cả ngày để đọc, viết blog về sách và viết bình luận. Tôi tin rằng sách là công cụ mạnh mẽ nhất trong cuộc sống để mở mang đầu óc cho những ý tưởng và quan điểm mới. Các thể loại yêu thích của tôi bao gồm tiểu thuyết lịch sử, giả tưởng, khoa học viễn tưởng và phi hư cấu. Tôi cũng thích tìm hiểu về các nền văn hóa khác nhau thông qua văn học.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts:

Back to top button