Tiểu thuyết - ngôn tình

Sự Cám Dỗ Của Bá Tước

1. THÔNG TIN SÁCH/EBOOK

Tác giả : Julia Quinn

Download sách Sự Cám Dỗ Của Bá Tước ebook PDF/PRC/MOBI/EPUB. Tải miễn phí, đọc online trên điện thoại, máy tính, máy tính bảng.

Danh mục : Tiểu thuyết – Ngôn tình

Đọc thử Xem giá bán

2. DOWNLOAD

Download ebook                      

File ebook hiện chưa có hoặc gặp vấn đề bản quyền, Downloadsach sẽ cập nhật link tải ngay khi tìm kiếm được trên Internet.

Bạn có thể Đọc thử hoặc Xem giá bán.

Bạn không tải được sách ?  Xem hướng dẫn nhé : Hướng dẫn tải sách


3. GIỚI THIỆU / REVIEW SÁCH

 

Lời giới thiệu


LỜI GIỚI THIỆU

Julia Quinn tên thật là Julie Pottinger (tên khai sinh ban đầu năm 1970 là Julie Colter). Bà được vinh danh là một trong những cây bút hàng đầu của dòng văn học lãng mạn Mỹ.

Sách của Julia Quinn được dịch ra hai mươi tám ngôn ngữ trên thế giới và tên tuổi của bà thường xuyên xuất hiện trong danh sách những tác giả ăn khách nhất do tạp chí New York Times bình chọn. Chỉ riêng tại Mỹ đã có đến hơn mười nghìn ấn bản sách được phát hành.

Julia Quinn tốt nghiệp chuyên ngành Lịch sử Nghệ thuật tại Đại học Harvard và sau đó tiếp tục theo học ngành Y tại Đại học Yale.

Trong khoảng thời gian ấy, Julia Quinn – người vốn đam mê văn chương từ nhỏ – bắt đầu viết những cuốn tiểu thuyết lãng mạn về thời nhiếp chính Anh. Sau khi được nhận vào trường Y không lâu, bà khám phá ra một hiện tượng bất thường đối với những tác giả lãng mạn mới vào nghề như mình, đó là hai cuốn tiểu thuyết đầu tay của bà – Splendid và Dancing at Midnight – đang là mục tiêu cạnh tranh của hai nhà xuất bản. Nhờ động lực đó, bà đã viết thêm hai cuốn tiểu thuyết khác sau khi quyết định tạm hoãn sự nghiệp học hành trong hai năm.

Dần dần, Pottinger nhận ra rằng mình thích việc viết lách hơn mổ xẻ, vì thế bà đã quyết định bỏ dở ước mơ trở thành bác sĩ để dành toàn bộ thời gian cho sự nghiệp văn chương.

Julia Quinn luôn phản đối quan niệm hoang đường rằng những người phụ nữ thông minh không đọc (hoặc viết) những điều lãng mạn. Bà tôn trọng chủ nghĩa bình quyền, vì thế các nhân vật của bà luôn là khuôn mẫu điển hình cho quan điểm ấy, cho dù nó không thực sự đúng với thời đại lịch sử được viết trong các tác phẩm của bà.

Văn phong của Julia Quinn rất nhẹ nhàng, tinh tế, với những tình tiết có thể không quá kịch tính, cũng chẳng có các cuộc xung đột cao trào như nhiều tiểu thuyết lãng mạn khác song vẫn vô cùng cuốn hút bởi sự hài hước, thông minh mà cũng không kém phần sâu cay ẩn trong từng câu chữ. Các nhân vật của Julia Quinn đẹp đẽ mà gần gũi. Tình yêu trong truyện của bà thường đến một cách từ tốn, chậm rãi dựa trên sự thấu hiểu và đồng cảm sâu sắc về tâm hồn, cho dù trước đó họ có bị cuốn hút về mặt thể xác với nhau hay không.

Năm 2007 và 2008, bà nhận giải RITA cho các tác phẩm On the Way to the Weddingvà The Secret Diaries of Miss Miranda Cheever. Khi một lần nữa giành được giải thưởng danh giá này cho cuốn tiểu thuyếtWhat Happens in London? vào năm 2010, bà đã trở thành thành viên trẻ nhất trong mười lăm tác giả được vinh danh tại Bảo tàng danh vọng dành cho các nhà văn lãng mạn Mỹ.

Một số tác phẩm tiêu biểu của Julia Quinn:

Series The Splendid Trilogy: Khiêu vũ lúc nửa đêm (Đã được BachvietBooks xuất bản năm 2014); Splendid và Minx (Đã được BachvietBooks mua bản quyền và sẽ xuất bản trong thời gian tới).

Series The Lyndon Sisters: Hẹn ước dưới vầng trăng (Đề cử cho danh mục Best Regency Historical của Tạp chí Romantic Times năm 2007) và Rạng rỡ hơn ánh mặt trời (Cả hai tác phẩm đã được BachvietBooks xuất bản năm 2014).

Series Smythe-Smith Quartet: Sự cám dỗ của bá tước (Đã được BachvietBooks xuất bản năm 2015); Just Like Heaven và The Sum of All Kisses (Đã được BachvietBooks mua bản quyền và sẽ xuất bản trong thời gian tới).

ĐỌC THỬ

MỞ ĐẦU

“Winstead, đồ lừa đảo!”

Daniel Smythe-Smith chớp mắt. Anh có ;hơi say thật, nhưng anh nghĩ có người vừa buộc tội mình ăn gian. Phải mất một lúc anh mới dám chắc chắn về điều đó; anh mới trở thành Bá tước Winstead gần một năm và thỉnh thoảng vẫn quên xoay người lại khi có người gọi mình bằng tước vị.

Nhưng không, anh là Winstead, hay phải nói Winstead là anh, và…

Anh gục xuống rồi lắc đầu. Anh vừa nghĩ cái gì nhỉ?

À, phải. “Không”, anh nói chậm rãi, vẫn còn có chút bối rối trước tình huống này. Anh giơ tay lên để phản đối, vì khá chắc là mình không hề ăn gian. Nói thực, sau chai rượu vừa xong, có lẽ đó là điều duy nhất anh thấy chắc chắn. Nhưng anh chẳng nói được gì thêm nữa. Trên thực tế, anh chỉ kịp né chiếc bàn đang lao về phía mình.

Bàn ư? Quái quỷ, anh say đến mức nào nhỉ?

Không sai, cái bàn đang nằm nghiêng và những lá bài rơi xuống sàn, Hugh Prentice thì hét vào mặt anh như một gã điên.

Hugh chắc cũng say rồi.

“Tôi không lừa đảo”, Daniel nói. Anh nhướng lông mày và chớp mắt, cứ như chuyển động đặc trưng của loài cú đó có thể gạt bỏ lớp màng say xỉn đang che mờ, ừm, mọi thứ. Anh nhìn sang Marcus Holroyd – bạn thân của mình, và nhún vai. “Tớ không lừa đảo.”

Ai chẳng biết anh không lừa đảo.

Nhưng rõ ràng là Hugh đã mất trí và Daniel chỉ biết trố mắt nhìn anh ta nổi điên, vừa vung vẩy tay vừa la toáng lên. Daniel nghĩ một cách hiếu kỳ rằng trông anh ta như con tinh tinh, chỉ thiếu bộ lông.

“Anh ta đang nói gì thế?”, anh hỏi chung chung.

“Anh không thể có con Át được”, Hugh gầm lên, xông về phía anh với một cánh tay run rẩy duỗi ra buộc tội. “Con Át nên ở… ở…” Anh ta vung tay về phía chiếc bàn cũ. “Hừ, nói chung là anh không thể có nó được”, anh ta lầm bầm.

“Nhưng tôi đã có rồi”, Daniel bảo anh ta. Không hề giận dữ, cũng chẳng biện bạch. Chỉ như nói lên sự thật hiển nhiên, kèm một cái nhún vai theo kiểu còn-gì-để-nói-nữa-nào.

“Không thể nào”, Hugh đáp lại. “Tôi biết mọi quân trong bộ bài.”

Đúng thế. Hugh luôn biết rõ mọi quân trong bộ bài. Đầu óc anh ta nhanh nhạy đến quái đản trong lĩnh vực đó. Anh ta cũng giỏi tính nhẩm. Những phép tính phức tạp có nhiều hơn ba chữ số, thêm, bớt và đủ trò mà họ buộc phải luyện tập không ngừng ở trường học.

Nghĩ lại thì có lẽ Daniel không nên thách đấu với anh ta. Nhưng anh đang tìm trò gì đó để giải trí và nói thật, anh cứ đinh ninh mình sẽ thua.

Chưa một ai thắng Hugh Prentice. Rõ ràng là trừ anh.

“Phi thường”, Daniel lầm bầm, nhìn xuống các quân bài. Đúng vậy, giờ chúng đang vương vãi trên sàn, nhưng anh biết chúng là gì. Anh cũng ngạc nhiên như những người khác khi đặt quân bài thắng cuộc xuống. “Tôi thắng rồi”, anh tuyên bố, dù có cảm giác hình như mình đã vừa nói thế. Anh quay lại nhìn Marcus. “Ăn mừng thôi.”

“Cậu có nghe anh ta nói gì không đấy?”, Marcus rít lên. Cậu ta vỗ tay trước mặt Daniel. “Tỉnh lại đi!”

Daniel cau mày, chun mũi trước tiếng ong ong bên tai. Nói thật, điều đó không được hoan nghênh. “Tớ vẫn tỉnh”, anh nói.

“Tôi muốn đòi lại sự công bằng”, Hugh gầm lên.

Daniel nhìn anh ta ngạc nhiên. “Gì cơ?”

“Hãy chỉ định người phụ tá của anh.”

“Anh đang thách đấu với tôi đấy à?” Bởi vì nghe có vẻ giống lắm. Nhưng ngược lại, anh đang say. Và anh thích nghĩ rằng Prentice cũng vậy.

“Daniel”, Marcus gầm lên.

Daniel xoay người lại. “Tớ nghĩ anh ta đang thách đấu với tớ.”

“Daniel, ngậm miệng lại.”

“Xì!” Daniel phẩy tay phớt lờ Marcus. Anh quý cậu ta như anh em trai, nhưng thỉnh thoảng cậu ta lại hết sức tẻ nhạt. “Hugh”, Daniel nói với người đàn ông đang giận dữ trước mặt mình, “đừng có biến thành gã khốn như thế”.

Hugh xông tới.

Daniel tránh đi, nhưng không đủ nhanh khiến cả hai liền ngã vật xuống sàn. Daniel nặng hơn Hugh đến năm cân, nhưng Hugh đang giận dữ trong khi Daniel chỉ thấy mê mụ, và Hugh đã đấm Daniel ít nhất bốn phát trước khi anh tung ra cú đấm đầu tiên.

Thế mà cú đấm ấy cũng chẳng trúng đích vì Marcus cùng vài người khác đã nhảy vào giữa và tách họ ra.

“Mày là một thằng lừa đảo khốn nạn”, Hugh gầm lên, vùng vẫy giữa hai người đàn ông đang ghìm mình lại.

“Mày là một thằng ngu.”

Mặt Hugh tối sầm lại. “Tao muốn đòi sự công bằng.” “Còn lâu”, Daniel nhổ nước bọt. Một lúc nào đó, có lẽ là khi Hugh đấm vào cằm anh, cơn giận dữ đã thế chỗ cho cảm giác mơ hồ trong Daniel. “Tao mới là người muốn đòi sự công bằng.”

Marcus rên lên.

“Patch of Green à?”, Hugh nói lạnh lùng, nhắc đến chỗ kín đáo trong Hyde Park mà các quý ông giải quyết mâu thuẫn.

Mắt Daniel trừng lên nhìn anh ta. “Lúc bình minh.”

Cả phòng chìm vào im lặng khi mọi người chờ một trong hai người lấy lại lý trí.

Nhưng chuyện đó không xảy ra. Tất nhiên là không rồi. Khóe miệng Hugh nhếch lên. “Được thôi.”

“Ôi, khỉ thật”, Daniel rên lên. “Đầu tớ đau quá.”

“Thật à”, Marcus mỉa mai. “Chẳng hiểu sao lại thế nữa.” Daniel nuốt nước bọt và dụi bên mắt không bị Hugh đấm bầm tím vào tối hôm trước. “Mỉa mai không hợp với cậu đâu.”

Marcus lờ anh đi. “Cậu vẫn có thể dừng chuyện này lại.” Daniel liếc nhìn xung quanh về phía những ngọn cây bao quanh khu đất trống, thảm cỏ xanh mướt trải dài trước mặt, Hugh Prentice và người đàn ông đứng cạnh đang kiểm tra súng. Mặt trời mới mọc chưa đầy mười phút, và sương sớm vẫn bao phủ khắp nơi. “Cậu không nghĩ là hơi muộn để làm điều đó rồi à?”

“Daniel, chuyện này thật ngớ ngẩn. Cậu chẳng việc gì phải bắn súng hết. Có lẽ cậu vẫn còn mê mụ sau tối qua.” Marcus nhìn Hugh với vẻ cảnh giác. “Cả anh ta cũng vậy.”

“Anh ta gọi tớ là kẻ lừa đảo.” “Chẳng đáng chết vì nó đâu.”

Daniel đảo tròn mắt. “Ôi, vì Chúa, Marcus. Anh ta sẽ không bắn tớ thật đâu.”

Một lần nữa, Marcus nhìn Hugh với vẻ quan tâm. “Tớ không dám quá chắc chắn về điều đó.”

Daniel gạt bỏ nỗi lo của mình bằng cách đảo tròn mắt. “Anh ta sẽ bắn trượt.”

Marcus lắc đầu và đi tới gặp người phụ tá của Hugh ở chính giữa bãi đất trống. Daniel nhìn họ kiểm tra súng rồi hội ý với bác sĩ phẫu thuật.

Gã chết tiệt nào nghĩ tới việc đưa bác sĩ phẫu thuật tới thế không biết? Chẳng ai thật sự bắn nhau trong những dịp này hết.

Marcus quay lại với vẻ mặt nghiêm trang, đưa Daniel khẩu súng. “Cố đừng tự giết mình nhé”, anh ta lầm bầm. “Hoặc giết anh ta.”

“Được rồi”, Daniel nói, giữ giọng vui vẻ vừa đủ làm

Marcus tức điên. Anh nhìn dấu hiệu, giơ cánh tay và chờ đếm tới ba.

Một.

Hai.

B…

“Chết tiệt, anh đã bắn tôi!”, Daniel hét lên rồi ngước nhìn Hugh, vừa sốc vừa tức giận. Anh nhìn xuống bờ vai đang rỉ máu của mình. Đó chỉ là vết thương phần mềm, nhưng Chúa nhân từ, đau kinh khủng. Và đó còn là cánh tay bắn súng của anh nữa. “Anh đã nghĩ cái quái gì thế hả?”, anh hét.

Hugh đứng đờ người nhìn anh tựa một gã ngốc, cứ như bây giờ mới nhận ra rằng một viên đạn có thể gây đổ máu.

“Đồ ngốc nhà anh”, Daniel lầm bầm, giơ súng bắn trả. Anh nhắm sang bên, nơi có một thân cây to lớn và đẹp đẽ có thể chịu được một viên đạn, nhưng bác sĩ phẫu thuật đã chạy tới rồi luyên thuyên gì đó; tới khi quay về phía ông ta, Daniel giẫm phải một bãi cỏ ướt, ngón tay siết cò và bắn một phát đạn sớm hơn dự định.

Chết tiệt, khẩu súng giật đau điếng. Ngu ngốc. Hugh gào lên.

Da thịt Daniel đông cứng, và anh hãi hùng ngước mắt lên nhìn chỗ Hugh vừa đứng.

“Ôi, Chúa tôi.”

Marcus đã chạy sang bên kia cùng bác sĩ phẫu thuật.

Máu bắn khắp nơi, nhiều đến mức đứng từ bên này mà Daniel cũng có thể thấy nó thấm qua bãi cỏ. Súng tuột khỏi tay anh và anh tiến lên trước như bị thôi miên.

Chúa nhân từ, anh vừa giết người sao?

“Mang túi lại đây cho tôi!”, bác sĩ kêu lên, và Daniel tiến một bước về phía trước. Anh phải làm gì? Giúp đỡ ư? Marcus đang làm việc đó cùng phụ tá của Hugh rồi, thêm nữa, chẳng phải Daniel vừa bắn anh ta sao?

Đó có phải là việc mà một quý ông nên làm không? Giúp đỡ một người đàn ông sau khi bắn anh ta?

“Cố lên, Prentice!”, có người đang van nài, và Daniel tiến lên trước một bước, rồi hai bước, cho tới khi mùi máu trên bãi cỏ xộc thẳng vào mũi anh.

“Buộc chặt vào”, có người nói. “Anh ấy sẽ mất cái chân này mất.” “Còn hơn là mất mạng.”

“Chúng ta phải cầm máu.”

“Ấn mạnh hơn.”

“Tỉnh táo lại đi, Hugh!”

“Anh ấy vẫn chảy máu!”

Daniel lắng nghe. Anh không biết ai đang nói gì nữa, và điều đó cũng chẳng quan trọng. Hugh sắp chết ngay trên bãi cỏ, và chính anh là người gây ra điều đó.

Đó là một tai nạn. Hugh đã bắn anh. Và bãi cỏ ướt đẫm.

Anh bị trượt chân. Chúa nhân từ, họ có biết anh bị trượt chân không?

“Tôi… tôi…”, anh cố nói gì đó nhưng chẳng tìm được lời nào, mà dẫu sao thì cũng chỉ có Marcus nghe thấy anh.

“Tốt nhất là cậu nên tránh xa ra”, Marcus nói nghiêm nghị.

“Anh ta có…”, Daniel cố hỏi câu hỏi quan trọng nhất, nhưng nghẹn lời.

Rồi anh ngất xỉu.

Khi tỉnh lại, Daniel đang nằm trên giường của Marcus, với một tấm gạc được quấn chặt quanh cánh tay. Marcus ngồi trên chiếc ghế cạnh đó, nhìn ra ngoài cửa sổ sáng rực rỡ dưới ánh mặt trời ban trưa. Khi nghe thấy tiếng rên của Daniel, cậu ta quay phắt lại.

“Hugh?”, Daniel khàn giọng hỏi.

“Anh ta còn sống. Ít nhất là thế vào lần cuối tớ nghe tin.” Daniel nhắm mắt lại. “Tớ đã làm gì thế này?”, anh thì thào.

“Chân anh ta tệ lắm”, Marcus nói. “Cậu đã bắn trúng động mạch.”

“Tớ không cố ý.” Nghe có vẻ đáng khinh, nhưng đó là sự thật.

“Tớ biết.” Marcus quay ra cửa sổ. “Cậu ngắm dở tệ.”

“Tớ bị trượt chân. Cỏ ướt đẫm.” Anh không biết vì sao mình nói vậy nữa. Nếu Hugh chết thì điều đó chẳng có gì quan trọng.

Chết tiệt thật, họ là bạn bè. Đó là điều ngu xuẩn nhất trong tất cả. Anh và Hugh là bạn bè. Họ đã quen nhau nhiều năm rồi, từ học kỳ đầu ở Eton.

Nhưng anh say khướt, Hugh cũng thế, và ai cũng vậy trừ Marcus – người chẳng bao giờ uống nhiều hơn một ly.

“Cánh tay cậu thế nào?”, Marcus hỏi.

“Đau.”

Marcus gật đầu.

“Đau là điều đáng mừng”, Daniel nói, nhìn đi chỗ khác. Có lẽ Marcus lại gật đầu.

“Gia đình tớ có biết không?”

“Tớ không rõ”, Marcus đáp lại. “Nếu chưa biết thì họ cũng sẽ sớm biết thôi.”

Daniel nuốt nước bọt. Dù có chuyện gì xảy ra đi nữa thì anh cũng sẽ bị đá khỏi giới thượng lưu, và điều này sẽ ảnh hưởng tới cả gia đình anh. Các chị gái của anh đã kết hôn nhưng Honoria chỉ mới ra mắt. Giờ thì ai sẽ cưới con bé nữa?

Và anh thậm chí còn không muốn nghĩ điều này sẽ khiến mẹ mình thấy ra sao.

“Tớ sẽ phải rời khỏi đất nước”, Daniel nói thẳng.

“Anh ta chưa chết.”

Daniel quay về phía cậu ta, không dám tin vào phát biểu thẳng thắn đó.

“Nếu anh ta sống thì cậu không phải bỏ đi”, Marcus nói. Đúng là vậy, nhưng Daniel không nghĩ Hugh qua được. Anh đã thấy chỗ máu chảy ra lẫn vết thương. Chết tiệt, anh thậm chí còn thấy cả xương trắng lộ ra trước mặt tất cả mọi người.

Chẳng ai sống sót sau một vết thương như thế. Nếu anh ta không chết vì mất máu thì cũng chết vì nhiễm trùng.

“Tớ nên đi gặp anh ta”, cuối cùng Daniel quyết định rồi rời khỏi giường. Anh vắt chân lên thành giường và gần chạm đất thì Marcus đến bên cạnh.

“Đó không phải ý kiến hay đâu”, Marcus cảnh báo. “Tớ cần nói với anh ta rằng mình không cố ý.”

Lông mày Marcus nhướng lên. “Tớ không nghĩ điều đó quan trọng.”

“Nó quan trọng với tớ.”

“Tư pháp viên có lẽ đang ở đó cũng nên.”

“Nếu tư pháp viên muốn bắt tớ thì đã đến đây tìm tớ rồi.”

Marcus cân nhắc điều đó rồi tránh sang một bên và nói,

“Cậu nói đúng”. Cậu ta chìa tay ra và Daniel nắm lấy để giữ thăng bằng.

“Tớ chơi bài”, Daniel nói bằng giọng trống rỗng, “bởi vì các quý ông làm vậy. Và khi anh ta bảo tớ là lừa đảo, tớ liền thách đấu với anh ta vì các quý ông cũng làm như vậy”.

“Đừng tự hành hạ mình nữa”, Marcus nói.

“Không”, Daniel đáp bằng giọng u ám. Anh sẽ nói nốt điều cần được nói. Anh quay lại nhìn Marcus với đôi mắt lóe sáng. “Tớ đã bắn chệch vì các quý ông làm như vậy”, anh nói một cách giận dữ. “Và tớ đã bắn trượt. Bắn trượt nhưng lại trúng anh ta và giờ tớ sẽ làm việc mà một người đàn ôngnên làm, đó là tới chỗ anh ta và nói lời xin lỗi.”

“Tớ sẽ đưa cậu tới đấy”, Marcus cất lời. Đó là tất cả những gì cần nói.

Hugh là con trai thứ hai của Hầu tước Ramsgate và đã được đưa tới sống cùng cha mình ở St.James. Daniel chẳng tốn nhiều thời gian để xác định rằng mình không được chào đón.

“Cậu!”, ngài Ramsgate rống lên, một cánh tay vươn ra chỉ vào Daniel như nhận diện ác quỷ. “Sao cậu dám vác mặt đến đây?”

Daniel đứng thẳng đờ. Ngài Ramsgate có quyền tức giận. Ông ta đang sốc. Ông ta đang đau khổ. “Tôi đến để…”

“Chia buồn?”, ngài Ramsgate ngắt lời một cách chế giễu. “Ta chắc chắn là cậu rất tiếc khi biết làm điều đó bây giờ vẫn còn hơi sớm.”

Daniel cho phép mình lóe lên chút hy vọng. “Vậy là anh ta còn sống?”

“Thoi thóp.”

“Tôi muốn xin lỗi”, Daniel khó khăn nói.

Mắt ngài Ramsgate, vốn đã trợn trừng, giờ mở to đến khó tin.

“Xin lỗi? Thật à? Cậu nghĩ một lời xin lỗi sẽ cứu mình thoát khỏi giá treo cổ nếu con trai ta chết à?”

“Đó không phải là lý do tôi…”

“Ta sẽ khiến cậu bị treo cổ. Đừng nghĩ chuyện đó sẽ không xảy ra.”

Daniel chẳng nghi ngờ lấy một giây.

“Hugh là người thách đấu”, Marcus nói bình thản. “Ta không quan tâm ai thách đấu”, Ramsgate quát. “Con trai ta đã làm việc nên làm. Nó nhắm đi chỗ khác. Nhưng cậu…” Ông ta quay lại phía Daniel, những lời lẽ chua cay và đau khổ tuôn ra. “Cậu đã bắn nó. Sao cậu làm thế chứ?”

“Tôi không cố ý.”

Trong khoảnh khắc, Ramsgate chỉ mở mắt trừng trừng. “Cậu không cố ý. Đó là lời giải thích của cậu đấy hả?”

Daniel không nói gì. Lời biện hộ đó cũng có vẻ ngớ ngẩn khi vang lên bên tai anh. Nhưng đó là sự thực. Thật kinh khủng.

Anh nhìn sang Marcus, hy vọng tìm được một lời khuyên thầm, để xem mình nên nói gì, làm gì. Nhưng trông Marcus cũng có vẻ bối rối và Daniel nghĩ rằng họ nên xin lỗi thêm một lần nữa rồi rời đi, nhưng đúng lúc ấy, quản gia bước vào phòng rồi thông báo rằng bác sĩ vừa từ giường bệnh của Hugh xuống.

“Nó thế nào?”, Ramsgate hỏi.

“Cậu ấy sẽ sống”, bác sĩ xác nhận, “nếu không bị nhiễm trùng”.

“Còn cái chân?”

“Cậu ấy sẽ giữ được nó nếu không bị nhiễm trùng. Nhưng cậu ấy sẽ bị thọt, và rất có thể què hẳn. Xương bị vỡ. Tôi đã cố hết sức chỉnh lại…” Bác sĩ nhún vai. “Tôi chỉ có thể làm đến thế mà thôi.”

“Khi nào thì ông biết cậu ấy không bị nhiễm trùng nữa?”, Daniel hỏi. Anh phải biết.

Bác sĩ quay lại. “Cậu là ai?”

“Tên ác quỷ đã bắn con trai ta”, Ramsgate rít lên.

Bác sĩ lùi lại vì sốc và cũng để tự bảo vệ mình khi Ramsgate xông qua phòng. “Cậu nghe đây”, ông ta nói một cách ác độc, tiến lên cho tới khi gần chạm vào mũi Daniel. “Cậu sẽ phải trả giá cho điều này. Cậu đã hủy hoại con trai ta. Dù còn sống đi nữa thì nó vẫn sẽ bị hủy hoại với một cái chân què và cuộc đời vô vọng.”

Cảm giác bất an lạnh lẽo dâng khắp lồng ngực Daniel.

Anh biết ngài Ramsgate đang buồn bực, ông ta hoàn toàn có quyền như vậy. Nhưng có gì đó nghiêm trọng hơn thế ở đây. Vị hầu tước này trông bất ổn, như bị ma ám.

“Nếu nó chết”, Ramsgate rít lên, “cậu sẽ bị treo cổ. Còn nếu nó không chết và cậu thoát được luật pháp thì ta sẽ giết cậu”.

Họ đứng gần nhau đến mức Daniel có thể cảm giác được khí ẩm thoát ra khỏi miệng Ramsgate theo từng từ. Và khi nhìn vào đôi mắt màu lục lóe sáng của người đàn ông trung niên, anh biết thế nào là sợ hãi.

Ngài Ramsgate sẽ giết anh. Đó chỉ là vấn đề thời gian. “Thưa ngài”, Daniel lên tiếng, vì anh phải nói gì đó.

Anh không thể cứ đứng đờ ra đó chịu trận được. “Tôi phải nói với ngài…”

“Không, ta nói cho anh biết”, Ramsgate phun phì phì. “Ta không quan tâm anh là ai, hay tước vị mà ông bố chết tiệt của anh đã truyền lại cho anh là gì. Anh sẽ phải chết. Anh hiểu ý ta chứ?”

“Tớ nghĩ đến lúc chúng ta nên đi rồi”, Marcus xen vào. Anh ta đặt cánh tay giữa hai người đàn ông và cẩn thận nới rộng khoảng cách giữa họ. “Bác sĩ”, anh ta nói, hất đầu về phía bác sĩ khi kéo Daniel đi qua. “Ngài Ramsgate.”

“Đếm nốt những ngày còn lại của mình đi, Winstead”, ngài Ramsgate cảnh báo. “Hay phải nói là những giờ còn lại.”

“Thưa ngài”, Daniel tiếp tục nói, cố gắng thể hiện sự tôn kính với người đàn ông lớn tuổi. Anh muốn sửa lại sai lầm của mình. Anh cần phải cố gắng hơn. “Tôi phải nói với ngài rằng…”

“Đừng nói chuyện với ta”, Ramsgate ngắt lời. “Lúc này cậu không thể nói điều gì cứu được tính mạng của mình đâu. Cậu cũng chẳng thể trốn đi đâu hết.”

“Nếu ngài giết cậu ấy thì ngài cũng sẽ bị treo cổ”, Marcus nói. “Và nếu Hugh còn sống thì anh ta sẽ cần đến ngài.”

Ramsgate nhìn Marcus như nhìn một thằng ngu. “Cậu nghĩ ta sẽ tự làm à? Thuê sát thủ dễ dàng lắm. Giá mạng sống thật sự rất rẻ.” Ông ta hất đầu về phía Daniel. “Kể cả mạng cậu ta.”

“Tôi nên đi thì hơn”, bác sĩ nói. Và bỏ chạy.

“Nhớ đấy, Winstead”, ngài Ramsgate vừa nói vừa nhìn vào mắt Daniel với vẻ khinh bỉ độc ác. “Cậu có thể chạy trốn hay cố ẩn náu, nhưng người của ta sẽ tìm ra cậu. Và cậu sẽ không biết họ là ai hết. Do đó, cậu sẽ chẳng bao giờ biết lúc nào thì họ đến.”

Đó là những lời săn đuổi Daniel suốt ba năm sau đó. Từ Anh sang Pháp, từ Pháp sang Phổ, và từ Phổ sang Ý. Anh nghe thấy chúng trong giấc ngủ, trong tiếng xào xạc của cây cối, trong mọi bước chân phía sau. Anh đã học cách dán lưng vào tường, không tin tưởng ai, kể cả những người phụ nữ mà thỉnh thoảng anh qua lại. Và anh chấp nhận sự thật rằng mình sẽ chẳng bao giờ đặt chân lên đất Anh hay gặp lại gia đình mình nữa, cho tới một ngày, trước nỗi ngạc nhiên tột độ, Hugh Prentice khập khiễng tiến về phía anh trong một ngôi làng nhỏ ở Ý.

Anh biết Hugh còn sống vì thỉnh thoảng nhận được thư từ nhà, nhưng không nghĩ sẽ gặp lại anh ta, chắc chắn không phải ở đây – nơi ánh nắng vùng Địa Trung Hải đốt cháy quảng trường thị trấn cổ và những bài ca tạm biệt vang trong gió.

“Tôi tìm thấy anh rồi”, Hugh nói. Anh ta chìa tay ra.

“Tôi xin lỗi.”

Sau đó, anh ta thốt ra những từ mà Daniel chẳng bao giờ nghĩ mình sẽ được nghe.

“Giờ anh có thể về nhà rồi. Tôi hứa đấy.”

CHƯƠNG 1

Đối với người phụ nữ đã mất cả tám năm qua để cố gắng không bị chú ý, Anne Wynter đang ở trong tình thế hết sức lúng túng.

Khoảng một phút nữa, cô sẽ bị ép bước lên sân khấu tại gia, nhún gối chào ít nhất tám mươi người nổi trội nhất giới thượng lưu Luân Đôn rồi ngồi xuống trước cây đàn dương cầm và chơi nhạc.

Việc Anne sẽ ở chung sân khấu với ba cô gái trẻ khác an ủi cô đôi chút. Các nghệ sĩ khác – những thành viên của bộ tứ tấu Smythe-Smith khét tiếng – đều chơi nhạc cụ dây và sẽ phải đối diện với khán giả. Ít nhất thì Anne có thể tập trung vào những phím đàn màu ngà trước mặt và cúi gằm xuống. Nếu may mắn, khán giả sẽ quá tập trung vào màn trình diễn âm nhạc dở tệ nên không chú ý đến người phụ nữ tóc đen bị buộc thế chân nghệ sĩ dương cầm vào phút cuối, bởi người nghệ sĩ ban đầu (như mẹ cô ấy tuyên bố cho những người quan tâm) bị ốm nặng khủng khiếp, không, thê thảm mới phải.

Anne không tin rằng tiểu thư Sarah Pleinsworth bị ốm lấy một phút, nhưng cũng chẳng làm gì được nếu muốn giữ vị trí gia sư cho ba cô em gái của tiểu thư Sarah.

Nhưng tiểu thư Sarah đã thuyết phục được mẹ mình – người quyết định sẽ phải tiếp tục buổi trình diễn. Và rồi, sau khi trình bày chi tiết đến mức đáng kinh ngạc về lịch sử mười bảy năm hòa nhạc của nhà Smythe-Smith, bà tuyên bố rằng Anne phải thế chỗ cho con gái mình.

“Cô từng nói mình đã chơi vài đoạn trong bản piano số 1 dành cho tứ tấu của Mozart”, Phu nhân Pleinsworth nhắc nhở cô.

Giờ Anne hối hận về điều đó, một cách sâu sắc.

Dường như chẳng ai để tâm đến việc Anne không còn chơi đoạn nhạc nói trên hơn tám năm rồi, hay cô cũng chưa từng chơi cả bài. Phu nhân Pleinsworth không chấp nhận tranh luận, và Anne bị lôi đến nhà chị dâu của bà – nơi buổi hòa nhạc được tổ chức cùng tám giờ luyện tập.

Đúng là lố bịch.

Điều đáng mừng duy nhất là ba người còn lại chơi tệ đến mức sai lầm của Anne không đáng bận tâm. Thực vậy, mục tiêu duy nhất trong cả tối của cô là không để bị chú ý. Bởi vì cô thật sự không muốn điều đó. Bị chú ý. Vì nhiều lý do. “Gần đến giờ rồi”, Daisy Smythe-Smith thì thầm một cách phấn khởi.

Anne cười khẽ với cô ta. Daisy có vẻ không nhận ra mình chơi nhạc kinh khủng đến mức nào.

“Vui ghê”, giọng nói khổ sở, thẳng thừng của Iris – chị gái Daisy – vang lên. Iris thì nhận ra.

“Đến đây nào”, tiểu thư Honoria Smythe-Smith – chị họ của họ – nói, “Việc này sẽ tuyệt vời lắm. Chúng ta là một gia đình”.

“Không phải cô ấy”, Daisy chỉ ra, hất đầu về phía Anne.

“Tối nay thì phải”, Honoria tuyên bố. “Và cảm ơn cô một lần nữa, cô Wynter. Cô thật sự đã cứu cả ngày hôm nay.”

Anne lầm bầm vài từ vô nghĩa vì không thể nói thành lời rằng chẳng thành vấn đề hoặc đó là vinh dự của cô. Cô khá thích tiểu thư Honoria. Không như Daisy, cô ấy đã nhận ra họ chơi dở đến mức nào, nhưng cũng chẳng giống Iris, cô ấy vẫn muốn biểu diễn. Honoria quả quyết rằng tất cả là vì gia đình. Gia đình và truyền thống. Mười bảy nhóm chị em nhà Smythe-Smith từng biểu diễn trước họ và nếu Honoria có quyền quyết định thì sẽ có mười bảy nhóm nữa sau này. Âm nhạc ra sao không quan trọng.

“À, nó quan trọng đấy”, Iris lầm bầm.

Honoria chọc khẽ cây vĩ vào người cô em họ. “Gia đình và truyền thống”, cô ấy nhắc nhở. “Đó mới là điều quan trọng.”

Gia đình và truyền thống. Anne không ngại những điều đó. Mặc dù nói thật trước đấy, mọi chuyện diễn ra với cô không tốt đẹp cho lắm.

“Chị có nhìn thấy gì không?”, Daisy hỏi. Con bé đang nhảy từ chân này sang chân kia như một con chim ác là bị điên và Anne phải lùi lại hai lần chỉ để giữ an toàn cho ngón chân của mình.

Honoria, người ở gần lối đi lên sân khấu, gật đầu. “Có vài ghế trống, nhưng không nhiều.”

Iris rên lên.

“Năm nào cũng thế này sao?”, Anne không kìm được mà hỏi.

“Như thế nào?”, Honoria đáp lại.

“Ờm, ờ…” Có vài điều mà đơn giản là người ta chẳng thể nói với cháu gái của bà chủ mình. Ví dụ, người ta không được đưa ra bình luận thẳng thừng về tài năng âm nhạc kém cỏi của một tiểu thư trẻ. Hay tự hỏi thành lời rằng có phải các buổi hòa nhạc lúc nào cũng kinh khủng như thế này hay năm nay dở hơn mọi năm. Và nhất định là người ta không được hỏi rằng, nếu các buổi hòa nhạc luôn đáng sợ thế này thì vì sao mọi người vẫn tới?

Đúng lúc ấy, Harriet Pleinsworth mười lăm tuổi lao qua cửa hông. “Cô Wynter!”

Anne quay lại nhưng trước khi cô kịp nói điều gì đó, Harriet đã tuyên bố, “Em ở đây để lật trang cho cô”.

“Cảm ơn em, Harriet. Điều đó sẽ rất hữu ích.”

Harriet cười toét miệng với Daisy còn Daisy thì trừng mắt với vẻ chán ghét.

Anne quay người đi để không ai thấy cô đảo tròn mắt. Hai người họ chưa bao giờ hòa hợp. Daisy quá nghiêm túc còn Harriet thì chẳng coi cái gì là nghiêm túc hết.

“Đến giờ rồi!”, Honoria thông báo.

Họ lên sân khấu, và sau màn giới thiệu ngắn gọn, họ bắt đầu chơi nhạc.

Anne, mặt khác, bắt đầu cầu nguyện.

Chúa nhân từ, cô chưa từng vất vả đến vậy trong đời. Các ngón tay lao đi trên phím đàn, cố gắng đến tuyệt vọng để bắt kịp Daisy – người chơi đàn violin như đang thi chạy.

Thật lố bịch lố bịch lố bịch, Anne hát thầm trong đầu. Kỳ lạ thật, nhưng cách duy nhất để trải qua chuyện này là tự nói chuyện với chính mình. Đó là một bản nhạc khó đến không tin nổi, kể cả với những người chơi đàn thành thạo.

Lố bịch lố bịch… Ặc! Nốt đô! Anne duỗi ngón út phải ra và vừa kịp chạm phím đàn. Cũng tức là muộn hơn hai giây so với bản nhạc gốc.

Cô liếc trộm khán giả. Một phụ nữ ngồi hàng đầu trông có vẻ sắp ốm đến nơi.

Quay lại làm việc, quay lại làm việc nào.Ôi trời, nhầm nốt rồi. Kệ đi. Chẳng ai quan tâm đâu, kể cả Daisy.

Và cô tiếp tục chơi, tự hỏi mình có nên bịa nhạc hay không. Nó chẳng thể làm bản nhạc tệ hơn được nữa. Daisy đang chơi như bay, tiếng nhạc chuyển đổi giữa to và cực kỳ to; Honoria thì chơi chậm rãi, mỗi nốt nhạc như tiếng bước chân quả quyết, còn Iris…

Ừm, Iris thật ra chơi khá hay. Dù rằng điều đó cũng chẳng quan trọng.

Anne hít sâu, duỗi ngón tay ra trong khoảng dừng ngắn ở phần nhạc của piano. Rồi quay lại phím đàn và…

Lật trang đi, Harriet.

Lật trang đi, Harriet.

“Lật trang đi, Harriet!”, cô rít lên. Harriet lật trang.

Anne đánh hợp âm đầu tiên rồi nhận ra rằng Iris và Honoria đã vượt trước hai nhịp. Daisy thì… chao ôi, cô chẳng biết Daisy ở đâu nữa.

Anne lướt đến đoạn mà cô hy vọng mọi người đang chơi. Nếu không sai thì cô sẽ chơi ở giữa.

“Cô đã nhỡ mất vài đoạn”, Harriet thì thầm.

“Không quan trọng.”

Thật sự là nó không quan trọng.

Và rồi cuối cùng, ơn trời, cuối cùng họ cũng tới được đoạn mà Anne không phải chơi suốt ba trang liền. Cô ngồi lùi ra sau, thở ra một hơi mà mình đã nín lại, ừm, cô cảm thấy chắc phải mười phút rồi, và…

Nhìn thấy ai đó.

Cô chết lặng. Có người đang quan sát họ từ hậu trường. Cánh cửa mà họ đi qua để lên sân khấu – cánh cửa mà Anne chắc chắn rằng mình đã đóng lại – giờ hơi hé ra. Và vì là người gần cửa nhất, chưa kể còn là nghệ sĩ duy nhất không quay lưng vào cửa, cô có thể nhìn thấy một phần khuôn mặt của người đàn ông đang nhìn ra.

Hốt hoảng.

Cảm giác ấy bùng nổ trong cô, đè nén hai lá phổi, thiêu cháy làn da cô. Cô biết cảm giác này. Nó không xuất hiện thường xuyên, tạ ơn Chúa, nhưng cũng ở mức vừa đủ. Mỗi lần cô nhìn thấy một người ở nơi mà người đó không nên ở…

Dừng lại.

Cô ép mình hít thở. Cô đang ở trong nhà của Nữ Bá tước

Winstead. Cô an toàn hết mức có thể. Điều cô cần làm là…

“Cô Wynter!”, Harriet rít lên.

Anne tỉnh táo lại.

“Cô bỏ mất đoạn dẫn rồi.”

“Giờ chúng ta ở đâu rồi?”, Anne hỏi một cách lo lắng. “Em không biết. Em có đọc được nhạc đâu.”

Anne ngẩng lên nhìn.

“Nhưng em chơi violin mà.”

“Em biết”, Harriet nói với vẻ đau khổ.

Anne nhìn qua các nốt nhạc trên trang giấy gấp gáp hết mức có thể, mắt nhanh chóng lướt qua các khuông nhạc.

“Daisy đang trừng mắt nhìn chúng ta”, Harriet thì thầm. “Suỵt”, Anne cần tập trung. Cô lật trang, đoán mò, và đặt ngón tay xuống nốt Son. Rồi chuyển qua điệu trưởng. Tốt hơn rồi.

Tốt hơn là một cụm từ có tính tương đối.

Suốt phần còn lại của màn trình diễn, cô cúi gằm xuống. Cô không ngẩng lên nhìn khán giả, cũng chẳng nhìn người đàn ông đang quan sát mình từ hậu trường. Cô nhấn các nốt nhạc với vẻ duyên dáng như các cô gái nhà Smythe-Smiths, và khi họ chơi xong, cô đứng dậy rồi nhún gối chào, đầu vẫn cúi gằm, lầm bầm gì đó với Harriet về việc cần chỉnh trang lại bản thân, sau đó lao đi.

Daniel Smythe-Smith không định trở lại Luân Đôn vào ngày tổ chức buổi hòa nhạc thường niên của gia đình, và thật vậy, đôi tai anh đang ước rằng anh đã không về hôm nay, nhưng trái tim anh… lại là một chuyện khác.

Thật tốt khi được trở về nhà. Kể cả với những tạp âm kia.

Đặc biệt là với những tạp âm kia. Chẳng có gì gợi đến “mái ấm” đối với một người mang họ Smythe-Smith như một bản nhạc chơi dở.

Anh không muốn ai thấy mình trước buổi hòa nhạc, anh đã đi ba năm và biết sự trở lại của mình sẽ đoạt mất sự chú ý dành cho buổi biểu diễn. Khán giả chắc sẽ cảm ơn anh, nhưng điều cuối cùng anh muốn là cảm ơn gia đình mình trước cả nhóm quý ông, quý bà mà phần lớn trong số đó hẳn sẽ nghĩ rằng anh nên tiếp tục bị lưu đày.

Nhưng anh muốn gặp gia đình mình, thế nên ngay khi nghe nói buổi biểu diễn bắt đầu, anh đã lặng lẽ lẻn vào phòng tập, rón rén tới cánh cửa và mở hé ra.

Anh mỉm cười. Kia là Honoria đang nở nụ cười rạng rỡ đặc trưng khi tấn công chiếc violin của mình bằng cây vĩ. Con bé không biết rằng mình chơi dở, bé con tội nghiệp. Các em gái khác của anh cũng hệt như vậy. Nhưng anh yêu chúng vì sự cố gắng của chúng.

Và người chơi violin còn lại, trời ơi, có phải Daisy đó không? Chẳng phải con bé vẫn ở phòng trẻ sao? Không, anh nghĩ giờ con bé hẳn đã mười sáu rồi, chưa ra mắt giới thượng lưu nhưng cũng không còn là bé con nữa.

Và Iris đang chơi cello, trông khốn khổ. Còn chỗ piano…

Anh dừng lại. Người đang chơi piano là ai thế không biết? Anh rướn người lại gần hơn. Đầu cô ta cúi xuống và anh không nhìn rõ mặt cô ta, nhưng cam đoan một điều: Cô ta nhất định không phải là em họ anh.

Hừm, giờ thì đó là một bí ẩn. Anh biết chắc chắn (vì mẹ anh đã nói với anh điều này vô số lần) rằng tứ tấu Smythe – Smith gồm những quý cô trẻ chưa chồng của dòng họ Smythe- Smith, chứ không thêm ai khác. Gia đình họ khá tự hào về việc sinh ra nhiều quý cô trẻ có năng khiếu âm nhạc (lời của mẹ anh chứ không phải của anh) đến vậy. Khi một người kết hôn thì luôn có những người khác chờ thế chỗ. Họ chưa từng cần người ngoài biểu diễn.

Nhưng quan trọng hơn, người ngoài nào lạimuốn biểu diễn chứ?

Một trong các cô em họ của anh hẳn đã bị ốm. Đó có thể là lời giải thích duy nhất. Anh cố nhớ lại người nên ngồi ở chỗ piano là ai. Marigold? Không, giờ con bé đã kết hôn rồi. Viola? Anh nghĩ là mình đã nhận được một bức thư báo rằng con bé cũng đã cưới. Sarah ư? Hẳn là con bé rồi.

Anh lắc đầu. Anh có nhiều cô em họ đến đáng sợ.

Anh quan sát quý cô chơi đàn piano với chút hứng thú. Cô ta đang vất vả để đuổi kịp nhạc. Đầu cô ta không ngừng ngẩng lên cúi xuống khi cô ta nhìn nhạc và thi thoảng cô ta lại nhăn mặt. Harriet ở bên cạnh cô ta, toàn lật trang nhầm thời điểm.

Daniel cười khẽ. Bất kể cô gái tội nghiệp đó là ai thì anh cũng hy vọng gia đình mình trả lương hậu hĩnh cho cô ta.

Cuối cùng, cô ta cũng rời tay khỏi phím đàn khi Daisy bắt đầu màn độc tấu violin kinh khủng. Anh quan sát cô ta thở ra, duỗi tay rồi…

Cô ta ngẩng lên.

Thời gian ngừng lại. Đơn giản là ngừng lại. Đó là cách mô tả ủy mị và cũ rích nhất trần đời, nhưng những giây ngắn ngủi mà mặt cô ta ngẩng về phía anh… kéo dài đến vô tận.

Cô ta đẹp tuyệt trần. Nhưng điều đó chẳng đủ để mô tả. Anh từng gặp nhiều phụ nữ xinh đẹp. Anh thậm chí còn ngủ với rất nhiều người trong số họ. Nhưng lần này… Cô ta… Cô ta…

Đến lưỡi anh cũng xoắn lại.

Mái tóc cô ta đen và dày đầy rực rỡ, cho dù có được búi lại gọn gàng đi nữa. Cô ta không cần uốn xoăn hay buộc ruy băng nhung. Dù có búi gọn tóc như vũ công ba lê hoặc cạo trọc đầu đi nữa thì cô ta vẫn sẽ là tạo vật lộng lẫy nhất mà anh từng gặp.

Nhất định là do khuôn mặt cô ta. Khuôn mặt trái tim và trắng mịn, cặp lông mày cánh cung màu đen yêu kiều nhất trần đời. Dưới ánh sáng mờ ảo, anh không nói rõ được mắt cô ta có màu gì, đúng là thảm kịch. Nhưng môi cô ta…

Anh thật lòng hy vọng người phụ nữ này chưa kết hôn, bởi vì anh sẽ hôn cô ta. Câu hỏi duy nhất là vào lúc nào.

Rồi, anh biết khoảnh khắc cô ta nhìn thấy mình. Khuôn mặt cô đột ngột co rúm với tiếng thở dốc nhỏ, cô ta đông cứng, mắt mở to hốt hoảng. Anh vừa mỉm cười châm biếm vừa lắc đầu. Cô ta nghĩ anh là một kẻ điên lẻn vào dinh thự Winstead để do thám buổi hòa nhạc này sao?

Ừ thì anh nghĩ điều đó cũng dễ hiểu thôi. Anh đã dành quá nhiều thời gian đề phòng người lạ mặt nên có thể nhận ra đặc điểm tương tự ở người khác. Cô ta không biết anh là ai và chắc chắn chẳng có ai ở hậu trường trong buổi hòa nhạc biết hết.

Điều tuyệt diệu là cô ta không ngoảnh đi chỗ khác. Mắt cô ta khóa chặt lấy mắt anh, và anh không cử động, thậm chí còn chẳng thở cho tới khi khoảnh khắc đó bị phá vỡ bởi em họ Harriet của anh. Cô bé chọc tay vào người phụ nữ tóc đen và hẳn là thông báo cho cô ta biết rằng cô ta đã bỏ lỡ phần dạo đầu.

Cô ta không hề ngẩng lên nữa.

Nhưng Daniel vẫn quan sát cô ta. Anh quan sát cô ta qua mỗi lần trang giấy được lật, qua mỗi đoạn nhạc mạnh. Anh quan sát cô ta chăm chú đến mức một lúc nào đó, anh thậm chí còn không nghe được tiếng nhạc nữa. Tâm trí anh tự ngân nga giai điệu riêng, gợi cảm và căng tràn, dẫn anh tới một cao trào hoàn hảo, không thể tránh khỏi.

Nơi nó chẳng bao giờ đến được. Câu thần chú bị phá vỡ khi dàn tứ tấu hạ nốt nhạc cuối cùng và bốn quý cô đứng lên chào. Người đẹp tóc đen nói gì đó với Harriet – người đang cười rạng rỡ trước tràng pháo tay như thể mình cũng là người chơi, rồi cô ta bỏ đi nhanh chóng đến mức Daniel thấy ngạc nhiên vì cô ta không để lại dấu vết trên sàn.

Chẳng quan trọng. Anh sẽ tìm được cô ta.

Anh nhanh chóng di chuyển qua hành lang sau nhà của dinh thự Winstead. Anh từng tự mình lẻn ra ngoài quá nhiều lần khi còn trẻ nên biết chính xác lối người ta sẽ trốn thoát mà không bị phát hiện. Và chẳng sai vào đâu được, anh chặn cô ta lại ngay trước khi cô ta rẽ qua góc nhà cuối cùng để vào lối đi của người hầu. Dù vậy, cô ta không nhận ra anh ngay, cô ta chẳng hề nhìn thấy anh cho tới khi…

“Em đây rồi”, anh nói, mỉm cười như chào một người bạn đã lâu không gặp. Chẳng có gì làm người khác thấy bất an bằng một nụ cười bất ngờ.

Cô ta nhảy dựng lên vì sốc, một tiếng hét giật cục thoát ra khỏi môi.

“Chúa nhân từ”, Daniel vừa nói vừa bịt miệng cô ta. “Đừng làm vậy. Sẽ có người nghe thấy em mất.”

Anh kéo cô ta áp vào người mình, đó là cách duy nhất để bịt miệng cô ta. Cơ thể nhỏ nhắn và mảnh mai đang ép vào anh của cô ta run rẩy như một chiếc lá. Cô ta đang hoảng sợ.

“Tôi sẽ không làm hại em”, anh nói. “Tôi chỉ muốn biết em đang làm gì ở đây.” Anh chờ một lát rồi chỉnh lại vị trí của mình để có thể nhìn thẳng vào mặt cô ta. Cô ta nhìn vào mắt anh, tối sầm, hoảng hốt.

“Nào”, anh nói, “nếu bây giờ tôi thả em ra thì em sẽ im lặng chứ?”.

Cô ta gật đầu.

Anh cân nhắc. “Em đang nói dối.”

Cô ta đảo tròn mắt như muốn nói, Thế anh mong chờ cái gì nào, và anh khẽ cười. “Em là ai?” Anh ngắm cô ta.

Và rồi điều kỳ lạ nhất xảy ra. Cô ta thả lỏng người trong vòng tay anh. Dù chỉ tí xíu. Anh cảm thấy nỗi căng thẳng tan bớt đôi chút, cảm thấy hơi thở của cô ta đang phả vào bàn tay mình.

Thật thú vị. Cô ta không lo lắng vì anh không biết cô ta là ai. Cô ta chỉ lo bị anhbiết.

Hết sức chậm rãi và thận trọng để đảm bảo cô ta nhận ra anh có thể đổi ý bất kỳ lúc nào, anh bỏ tay khỏi miệng cô ta. Dù vậy, anh vẫn chưa bỏ tay khỏi eo cô ta. Anh biết mình ích kỷ, nhưng chưa thể ép mình thả cô ta đi.

“Em là ai?”, anh thì thầm hỏi, nói khẽ vào tai cô ta.

Anh là ai?”, cô ta hỏi lại.

Anh nhếch miệng cười. “Tôi hỏi em trước mà.” “Tôi không nói chuyện với người lạ.”

Anh bật cười trước điều đó rồi xoay cô ta lại để họ đối mặt với nhau. Anh biết mình đang hành xử một cách đáng ghê tởm, gần như đang gạ gẫm cô gái tội nghiệp này. Cô ta không phải một cô gái hư hỏng. Cô ta đã chơi trong tứ tấu của gia đình anh, vì Chúa. Anh nên cảm ơn cô ta mới đúng.

Nhưng anh đang cảm thấy lâng lâng. Có điều gì đó ở người phụ nữ này làm máu anh sôi sục trong huyết quản, vả lại anh cũng đang thấy hơi choáng váng vì cuối cùng cũng về tới dinh thự Winstead sau nhiều tuần lễ rong ruổi trên đường.

Anh đã về nhà. Nhà. Lại còn ôm một người phụ nữ xinh đẹp trong vòng tay mà anh khá chắc chắn là người đó không định giết mình.

Lâu lắm rồi anh mới được tận hưởng cảm giác ấy.

“Tôi nghĩ…”, anh nói với vẻ băn khoăn. “Tôi nghĩ mình có thể cần hôn em.”

Cô ta giật nảy người, trông không hoảng sợ lắm mà khá là bối rối. Hoặc phải nói là quan tâm.

Một người phụ nữ thông minh. Anh cũng giống người điên lắm.

“Chỉ một chút thôi”, anh trấn an cô ta. “Tôi chỉ cần nhắc nhở mình…”

Cô ta im lặng và rồi, dường như không thể kiềm chế bản thân, cô ta hỏi, “Về cái gì?”.

Anh mỉm cười. Anh thích giọng nói của cô ta. Nó dễ chịu và thẳng thắn, như rượu brandy hảo hạng. Hoặc một ngày mùa hè.

“Về nữ thần”, anh nói, rồi chạm vào cằm cô ta, nâng khuôn mặt cô ta về phía mình. Hơi thở của cô ta nghẹn lại, anh có thể nghe thấy tiếng không khí được hít mạnh vào qua môi cô ta, nhưng cô ta không vùng vẫy. Anh chờ đợi, song chỉ trong khoảnh khắc, bởi vì nếu cô ta kháng cự thì anh biết mình sẽ thả cô ta đi. Nhưng cô ta không làm vậy. Mắt cô ta khóa chặt vào mắt anh, cũng bị thời khắc ấy thôi miên hệt như anh.

Vậy nên anh hôn cô ta. Mới đầu còn ngập ngừng, sợ rằng cô ta sẽ biến mất trong vòng tay anh. Nhưng thế chưa đủ. Dục vọng sống dậy trong anh và anh kéo cô ta lại gần hơn, đắm chìm trong cơ thể mềm mại của cô ta.

Cô ta xinh xắn, nhỏ nhắn theo cái cách khiến một người đàn ông muốn hạ gục những con rồng. Nhưng cô ta cũng hệt như một người phụ nữ, ấm áp và đầy đặn. Tay anh khao khát được ép lên ngực cô ta, hoặc ôm lấy đường cong hoàn hảo của mông cô ta. Nhưng đến anh cũng chẳng trơ trẽn như thế, không phải với một người phụ nữ lạ mặt trong nhà của mẹ mình.

Tuy vậy, anh vẫn chưa sẵn sàng thả cô ta đi. Cô ta có mùi Anh quốc, mưa phùn và những bãi cỏ ngập nắng. Và cô ta tựa như thiên đường tuyệt vời nhất. Anh muốn ôm trọn cô ta, vùi mình trong cô ta, và ở lì đó suốt những ngày còn lại của cuộc đời. Anh đã không uống một giọt rượu nào trong vòng ba năm qua, nhưng giờ anh say men, bay bổng với cảm giác nhẹ nhõm mà anh chẳng bao giờ nghĩ mình sẽ lại có được.

Đó là sự điên rồ. Nhất định là vậy.

“Tên em là gì?”, anh thì thầm. Anh muốn biết. Anh muốn biết cô ta.

Nhưng cô ta không đáp lại. Có thể cô ta sẽ trả lời, nếu có thêm thời gian, anh chắc chắn mình có thể dụ cô ta nói ra. Nhưng cả hai đều nghe thấy có người đang đi xuống cầu thang hậu, ngay cuối hành lang nơi họ đang ôm chặt nhau.

Cô ta lắc đầu, mắt mở to cảnh giác. “Tôi không thể bị nhìn thấy trong tình cảnh này”, cô ta thì thầm với vẻ khẩn cấp.

Anh thả cô ta ra, nhưng không phải vì cô ta yêu cầu. Không, anh nhìn thấy những người đang đi xuống cầu thang lẫn việc họ đang làm, và anh quên sạch cô nàng phù thủy tóc đen của mình.

Họng anh phát ra một tiếng kêu giận dữ rồi anh phi vào hành lang như kẻ điên.

Chẳng tìm được chỗ nào để ngồi trừ sàn nhà, cô liền ngồi xuống nền gỗ không trải thảm lạnh ngắt, dựa vào một bức tường trống trơn gần cửa, sẵn sàng chờ cuộc cãi lộn chấm dứt. Bất kể chuyện gì đang diễn ra đi nữa thì cũng chẳng dính dáng gì tới Anne, nhưng quan trọng hơn, cô không muốn ở bất cứ đâu gần nơi người khác phát hiện ra vụ ẩu đả, mà xem xét đến độ ồn ào thì chắc chắn nó sẽ bị phát hiện.

Đàn ông… Phần lớn là bọn ngốc.

CHƯƠNG 2

Mười lăm phút sau, Anne vẫn ở vị trí mình đã ở mười lăm phút trước, sau khi lao vội vào hành lang và phi qua cánh cửa không khóa đầu tiên mà cô với tới. Vận rủi (kinh khủng) vẫn đến với cô như thường lệ, cuối cùng cô bị kẹt trong một nhà kho tối om không cửa sổ. Sau khi quờ quạng trong bóng tối, cô tìm thấy một chiếc đàn cello, ba chiếc clarinet, và có thể có cả một chiếc kèn trombone nữa.

Căn phòng này khá phù hợp với Anne. Cô vừa tới nơi chứa các dụng cụ âm nhạc bị bỏ không của nhà Smythe-Smith. Và cô bị kẹt trong này, ít nhất là cho tới khi tình cảnh điên rồ ngoài hành lang chấm dứt. Cô không rõ về những chuyện đang diễn ra ngoài đó, chỉ biết rằng có rất nhiều tiếng hét, kha khá tiếng gầm gừ, và vài âm thanh khác nghe từa tựa tiếng đấm nhau.

Mặc dù dường như ngoài đó còn có cả một phụ nữ, hẳn là người đang la hét. Anne nghĩ mình nghe thấy cái tên Daniel, rồi có lẽ cả Marcus nữa – người mà cô nhận ra là Bá tước Chatteris mình đã gặp tối nay. Anh ta khá mê tiểu thư Honoria…

Nghĩ đến điều đó thì tiếng hét kia nghe cũng khá giống tiểu thư Honoria.

Anne lắc đầu. Đây chẳng phải việc của cô. Không ai bắt lỗi cô vì tội tránh cãi lộn hết. Chẳng ai cả.

Có người đập vào bức tường sau lưng Anne khiến cô bị đẩy ra vài phân. Cô rên lên và vùi mặt vào bàn tay. Cô sẽ chẳng bao giờ ra khỏi đây được mất. Nhiều năm sau, họ sẽ tìm thấy cơ thể khô quắt của cô, vắt vẻo trên cây đàn tuba, hai ống đàn tạo thành dấu chữ thập.

Cô lắc đầu. Cô phải ngừng ngay việc đọc những vở kịch thống thiết của Harriet trước khi đi ngủ. Học trò nhỏ của cô thích làm nhà viết kịch, và các câu chuyện của cô bé ngày một kinh khủng hơn.

Cuối cùng, tiếng nện nhau trong hành lang cũng dừng lại, rồi hai người đàn ông ngồi bệt xuống sàn (cô cảm nhận được điều này qua bức tường). Một người trong số họ ngồi ngay sau lưng cô, họ hẳn đã tựa vào nhau nếu không có bức tường chắn giữa. Cô có thể nghe thấy tiếng họ thở nặng nhọc, rồi trò chuyện như cái cách cánh đàn ông hay làm với câu cú gọn lỏn. Cô không cố ý nghe lỏm, nhưng chẳng thể tránh khỏi điều đó khi bị kẹt ở đây.

Và đó là lúc cô vỡ lẽ.

Người đàn ông đã hôn cô là anh trai của tiểu thư Honoria, Bá tước Winstead! Cô từng thấy tranh chân dung của anh ta trước kia, đáng nhẽ cô phải nhận ra anh ta chứ. Hoặc có thể là không. Bức tranh khắc họa những nét cơ bản của anh ta – mái tóc nâu cà phê và khuôn miệng hấp dẫn, nhưng cũng chưa mô tả về anh ta một cách chuẩn xác. Anh ta khá điển trai, đó là điều không thể chối cãi, nhưng chẳng có màu sơn hay nét cọ nào có thể truyền tải được vẻ tự tin thoải mái, thanh nhã ở một người đàn ông biết rõ vị trí của mình trong thế giới và cũng thấy khá thỏa mãn về nó.

Ôi trời ơi, cô lún sâu quá rồi. Cô đã hôn Daniel Smythe-Smith khét tiếng. Anne biết mọi thứ về anh ta, ai cũng biết. Vài năm trước, anh ta từng đấu súng và bị cha của đối thủ đuổi khỏi đất nước. Nhưng rõ ràng là họ đã đạt được thỏa thuận nào đó. Phu nhân Pleinsworth từng đề cập tới việc bá tước cuối cùng cũng sắp trở về, và Harriet đã kể cho Anne mọi tin đồn.

Về mặt đó thì Harriet khá hữu ích.

Nhưng nếu Phu nhân Pleinsworth phát hiện ra chuyện xảy ra tối nay… Nó sẽ đặt dấu chấm hết cho sự nghiệp gia sư của Anne, dù là dạy dỗ các cô con gái nhà Pleinsworth hay ai khác. Giành được vị trí này đã đủ khó khăn với Anne rồi, sẽ chẳng có ai thuê cô nếu biết cô qua lại với một bá tước. Các bà mẹ hay lo lắng thường không thuê các nữ gia sư có đạo đức đáng ngờ.

Vả lại đó chẳng phải là lỗi của cô. Lần này thì tuyệt đối không phải.

Cô thở dài. Hành lang đã im ắng trở lại. Cuối cùng thì họ cũng rời đi rồi sao? Cô nghe thấy tiếng bước chân nhưng chẳng phân biệt nổi có tất cả bao nhiêu người. Cô chờ thêm vài phút nữa, khi đã đảm bảo rằng không có ai chào đón mình ngoài sự im lặng, cô mới xoay tay nắm cửa và cẩn thận bước ra ngoài hành lang.

“Em đây rồi”, anh nói. Lần thứ hai trong tối đó.

Cô hẳn đã nhảy dựng lên. Không phải vì ngài Winstead làm cô ngạc nhiên, dù đúng là vậy. Hơn cả thế, cô sững sờ vì anh ở trong hành lang lâu đến thế mà hoàn toàn im lặng. Thật sự, cô chẳng hề nghe thấy gì hết.

Nhưng đó không phải là điều làm cô há hốc miệng. “Trông ngài kinh khủng quá”, cô nói trước khi kịp ngăn mình lại. Anh ngồi một mình trên sàn, đôi chân dài duỗi trên hành lang. Anne không nghĩ có thể có người trông loạng choạng đến thế khi đang ngồi, nhưng khá chắc là bá tước sẽ gục xuống nếu không dựa vào tường.

Anh giơ tay lên chào. “Trông Marcus còn tệ hơn.”

Cô quan sát một viền mắt đang trở nên thâm tím của anh, áo anh dính đầy máu mà chỉ có trời mới biết là từ đâu ra. Hoặc từ ai ra. “Tôi không chắc điều đó có thể nữa.”

Ngài Winstead thở hắt ra. “Cậu ta đã hôn em gái tôi.” Anne chờ thêm, nhưng rõ ràng anh thấy giải thích vậy là đủ rồi. “Ờm…”, cô khựng lại, vì không một quyển sách dạy nghi thức nào viết hướng dẫn cho một buổi tối như thế này. Cuối cùng, cô quyết định tốt nhất là hỏi về kết quả của cuộc vật lộn chứ không phải nguyên nhân khiến nó xảy ra. “Vậy mọi thứ được giải quyết rồi chứ?”

Cằm anh cúi xuống một cách hào hiệp. “Thiệp chúc mừng sẽ sớm được gửi đến.”

“Ờ, thế thì tốt rồi.” Cô mỉm cười rồi gật đầu, sau đó đặt hai bàn tay đang đan vào nhau ra phía trước mặt để cố đứng im. Chuyện này hết sức ngượng nghịu. Người ta nên làm gì với một bá tước bị thương – người vừa trở về sau ba năm đày ải? Và từng có tiếng hư hỏng trước khi rời khỏi đất nước.

Chưa kể đến vụ hôn hít vài phút trước.

“Em có biết em gái tôi không?”, anh hỏi, nghe hết sức mệt mỏi. “À, tất nhiên là có. Em vừa biểu diễn cùng nó.”

“Em gái ngài là tiểu thư Honoria à?” Xác nhận điều đó là hành động khôn ngoan.

Anh gật đầu. “Tôi là Winstead.”

“Phải, tất nhiên. Tôi đã được thông báo về sự trở về của ngài.” Anne nở thêm một nụ cười gượng gạo nữa, nhưng nó cũng giúp cô thư giãn đôi chút. “Tiểu thư Honoria hết sức hòa nhã và tốt bụng. Tôi rất mừng cho cô ấy.”

“Nó là một nhạc công dở tệ.”

“Cô ấy là người chơi violin giỏi nhất trên sân khấu”, Anne nói hoàn toàn thành thật.

Anh ta phá lên cười khi nghe điều đó. “Em sẽ là một nhà ngoại giao giỏi đấy, cô…” Anh dừng lại, chờ đợi, rồi chỉ ra, “Em chưa cho tôi biết tên mình”.

Cô do dự, bởi cô vẫn luôn như vậy khi được hỏi câu này, nhưng rồi lại tự nhắc nhở mình rằng anh là Bá tước Winstead, cũng tức là cháu của bà chủ. Cô chẳng việc gì phải sợ anh. Ít nhất là nếu không có người thấy họ ở cạnh nhau. “Tôi là Wynter”, cô nói. “Gia sư của các em họ ngài.”

“Em họ nào? Các cô con gái nhà Pleinsworth à?” Cô gật đầu.

Anh nhìn thẳng vào mắt cô.

“Ôi, tội nghiệp, tội nghiệp em.”

“Dừng lại! Họ rất đáng yêu!”, cô phản đối. Cô rất quý ba học trò của mình. Harriet, Elizabeth, và Frances có thể sôi nổi hơn phần lớn các cô gái trẻ khác, nhưng họ có trái tim nhân hậu và tử tế. Và họ luôn có ý tốt.

Lông mày anh nhướng lên. “Đáng yêu thì đúng. Nhưng không được ngoan ngoãn lắm.”

Điều đó cũng có phần đúng và Anne không thể không cười khẽ. “Tôi cam đoan rằng họ đã trưởng thành đáng kể từ lần cuối cùng ngài gặp họ”, cô nghiêm nghị nói.

Anh nhìn cô một cách nghi ngờ, rồi hỏi, “Sao em lại phải chơi piano?”.

“Tiểu thư Sarah bị ốm.”

“À.” Có vô số ý nghĩa trong từ “à” đó.

“Cho tôi gửi lời chúc con bé nhanh chóng phục hồi sức khỏe.”

Anne khá chắc chắn rằng tiểu thư Sarah đã bắt đầu thấy khỏe lên ngay từ lúc mẹ cô ta cho phép cô ta thoát được buổi trình diễn, nhưng cô chỉ gật đầu và nói rằng mình nhất định sẽ chuyển lời. Dù cô sẽ không làm vậy. Còn lâu mới có chuyện cô nói cho người khác biết việc mình đã chạm trán Bá tước Winstead.

“Gia đình ngài có biết ngài đã trở lại không?”, cô hỏi. Cô nhìn anh kỹ hơn một chút. Trông anh thật sự giống em gái. Cô tự hỏi có phải đôi mắt anh cũng ấn tượng như thế hay không – sắc xanh da trời rực rỡ, gần giống màu hoa oải hương. Không thể khẳng định điều đó trong ánh sáng mờ ảo ở hành lang. Chưa kể đến việc một trong hai mắt của anh đang nhanh chóng sưng húp lên. “Tất nhiên là trừ tiểu thư Honoria”, cô nói thêm.

“Chưa.” Anh liếc về khu vực dành cho khách của dinh thự và nhăn nhó. “Dù rất ngưỡng mộ những khán giả đến dự buổi hòa nhạc, tôi không thích trở về công khai như vậy.” Anh nhìn xuống tình trạng lộn xộn của mình. “Đặc biệt là không phải như thế này.”

“Tất nhiên là không rồi”, cô nói vội. Cô thậm chí chẳng dám hình dung ra cảnh tượng om sòm nếu anh bước vào buổi tiệc sau hòa nhạc trong tình trạng thâm tím và máu me nữa.

Anh hơi rên lên khi đổi tư thế trên sàn, rồi lầm bầm câu gì đó mà Anne khá chắc chắn rằng mình không nên nghe. “Tôi nên đi thì hơn”, cô thốt ra. “Tôi vô cùng xin lỗi, và… ừm…”

Anne tự nói với chính mình rằng cô phải di chuyển, và cô thật sự nên làm thế. Mọi tế bào não đều gào thét bảo cô tỉnh táo lại và rời khỏi đó trước khi có người đến, nhưng tất cả những gì cô có thể nghĩ đến là… anh vừa bảo vệ em gái mình.

Làm sao cô có thể bỏ mặc một người đàn ông vừa làm điều đó chứ?

“Để tôi giúp ngài”, cô nói, bất chấp lý trí.

Anh mỉm cười yếu ớt. “Nếu em không phiền.”

Cô khom người để nhìn rõ vết thương của anh. Cô từng sơ cứu rất nhiều vết xây xước và vết thương, nhưng chưa bao giờ như thế này. “Ngài đau ở đâu?”, cô hỏi rồi hắng giọng. “Ngoài những chỗ để lộ ra ngoài.”

“Để lộ?”

“Ờm…”, cô ngập ngừng chỉ vào mắt anh. “Ngài hơi bầm ở đó. Và ở kia…”, cô nói thêm, ra hiệu về phía quai hàm bên trái của anh trước khi chuyển tiếp tới vai anh – nơi một vết thương hiện rõ qua chiếc sơ mi rách nát và đẫm máu, “… cả ở kia nữa”.

“Trông Marcus còn tệ hơn”, ngài Winstead nói.

“Phải”, Anne đáp lại, nín cười. “Ngài đã nhắc đến điều đó rồi.”

“Đó là một chi tiết quan trọng.” Anh cười méo xệch, rồi nhăn nhó và đưa tay lên má.

“Răng nữa à?”, cô hỏi với vẻ lo lắng.

“Có vẻ tất cả đều ở nguyên vị trí”, anh lầm bầm. Anh mở miệng như muốn kiểm tra hoạt động của khớp, rồi rên rỉ khép miệng lại. “Tôi nghĩ vậy.”

“Tôi có thể tìm ai đến giúp ngài không?”, cô hỏi.

Lông mày anh nhướng lên.

“Em muốn có người biết rằng em đã ở riêng với tôi sao?”

“Ồ. Tất nhiên là không. Tôi đã không nghĩ thấu đáo.” Anh lại nở một nụ cười nửa miệng khô khan khiến cô thấy lúng túng. “Tôi thường gây ảnh hưởng tới phụ nữ.”

Vài câu châm chọc nảy ra trong đầu cô, nhưng Anne nuốt xuống tất cả. “Tôi có thể giúp ngài đứng dậy”, cô gợi ý.

Anh nghiêng đầu sang một bên. “Hoặc em có thể ngồi xuống và nói chuyện với tôi.”

Cô trừng mắt nhìn anh.

Lại là nụ cười nửa miệng. “Đó chỉ là ý tưởng thôi”, anh nói. Một ý tưởng khờ dại, cô ngay lập tức nghĩ. Vì Chúa, cô vừa hôn anh. Cô không nên ở gần anh, chắc chắn không phải ngồi cạnh anh trên sàn nhà – nơi cô sẽ rất dễ dàng quay sang anh, ngẩng mặt về phía anh…

“Có lẽ tôi nên đi kiếm chút nước”, cô bật thốt, câu nói cất lên nhanh đến mức cô suýt ho. “Ngài có khăn tay không? Tôi nghĩ ngài sẽ muốn lau mặt đấy.”

Anh thò tay vào túi áo và rút ra một miếng vải vuông nhàu nhĩ. “Vải lanh Ý thượng hạng”, anh châm biếm bằng giọng mệt mỏi. Anh cau mày. “Hay ít nhất từng là như thế.”

“Tôi đảm bảo vậy là ổn rồi”, cô vừa nói vừa lấy chiếc khăn từ tay anh rồi gấp lại theo ý mình. Cô vươn tay ra và chấm chiếc khăn lên mặt anh. “Có đau không?”

Anh lắc đầu.

“Tôi ước gì có chút nước ở đây. Máu đã khô rồi.” Cô cau mày. “Ngài có rượu brandy không? Trong chai nhỏ chẳng hạn?” Các quý ông thường mang theo chai rượu nhỏ. Cha cô vẫn làm vậy. Ông hiếm khi rời khỏi nhà mà thiếu nó.

Nhưng ngài Winstead nói, “Tôi không uống đồ có cồn”. Giọng anh có gì đó khiến cô giật mình ngẩng lên. Mắt anh đang nhìn vào mắt cô, và cô nghẹn thở. Cô không nhận ra mình đã dựa gần anh đến mức nào.

Môi cô hé ra. Và cô chờ đợi…

Quá nhiều.

Cô luôn muốn quá nhiều.

Cô lùi lại, thấy bất an vì mình đã nghiêng về phía anh quá dễ dàng. Anh là một người đàn ông hay cười và dễ cười. Chỉ cần ở cạnh anh vài phút là biết được điều này. Đó là lý do tông giọng gay gắt và nghiêm túc của anh làm cô sững sờ.

“Nhưng chắc em sẽ tìm được nó ở cuối hành lang”, đột nhiên anh nói, câu thần chú lạ lùng, mê hoặc bị phá vỡ. “Cửa thứ ba bên tay phải. Hồi trước nó là phòng làm việc của cha tôi.”

“Ở cuối dinh thự sao?” Nó có vẻ không phải là chỗ thích hợp.

“Có hai cửa vào. Cửa còn lại ở sảnh chính. Chắc sẽ không có ai ở đó nhưng em vẫn nên cẩn thận khi vào trong.”

Anne đứng dậy và đi theo hướng dẫn của anh. Ánh sáng tràn qua cửa sổ và cô dễ dàng tìm được bình rượu. Cô mang cả bình theo, cẩn thận đóng cánh cửa lại sau lưng.

“Trên giá sách cạnh cửa sổ?”, ngài Winstead hỏi nhỏ. “Phải.”

Anh mỉm cười. “Có vài thứ chẳng bao giờ thay đổi.” Anne mở nút chai ra và đặt khăn tay lên miệng chai, đổ một lượng lớn brandy lên khăn. Mùi hương của nó lập tức lan tỏa. “Nó có làm ngài khó chịu không?”, cô hỏi với vẻ quan tâm. “Mùi rượu ấy?” Trước khi tới làm cho gia đình Pleinsworth, chú của học sinh cũ của cô uống rượu suốt ngày rồi bỗng dưng ngừng hẳn. Lúc ấy, ở gần ông ta là việc cực kỳ khó chịu. Ông ta còn nóng nảy hơn khi thiếu rượu, và nếu ngửi thấy mùi rượu, ông ta sẽ gần như phát điên.

Anne phải đi thôi. Vì cả điều đó lẫn nhiều lý do khác nữa. Nhưng ngài Winstead chỉ lắc đầu.

“Chẳng phải tôi không thể uống đồ có cồn. Tôi không muốn uống thôi.”

Vẻ bối rối của cô hẳn đã hiện rõ trên khuôn mặt, vì anh nói thêm, “Tôi không thèm mà chỉ chán ghét nó”.

“Tôi hiểu rồi”, cô lầm bầm. Rõ ràng là anh cũng có bí mật riêng. “Có lẽ sẽ đau đấy nhé”, cô cảnh báo anh.

Nhất định là sẽ đa… au!”

“Tôi xin lỗi”, cô lầm bầm, xoa nhẹ khăn tay lên vết thương của anh.

“Tôi hy vọng họ cũng sẽ rót thứ chết tiệt này lên người

Marcus”, anh lầm bầm.

“À, đúng là trông ngài ấy tệ hơn ngài thật”, cô bình luận. Anh ngẩng lên với vẻ bối rối rồi nở một nụ cười chậm rãi. “Đúng là vậy.”

Cô vừa chuyển xuống vết xước trên tay anh vừa lẩm bẩm, “Nguồn đáng tin cậy đấy nhỉ”.

Anh cười khẽ khi nghe câu đó, nhưng không ngẩng lên. Việc cúi xuống và lau vết thương cho anh có vẻ gì đấy rất thân mật. Cô không biết rõ người đàn ông này, vậy nhưng lại chẳng muốn thoát khỏi khoảnh khắc này. Không phải vì anh, cô tự nhủ. Chỉ là… lâu lắm rồi…

Cô cô đơn. Cô biết điều đó. Đó không phải là bí mật lớn lao.

Cô ra hiệu về vết thương trên vai anh rồi chìa khăn tay ra. Mặt và tay anh là một chuyện, cô không thể chạm vào cơ thể anh. “Có lẽ ngài nên…”

“À, không, đừng để tôi ngăn em lại. Tôi khá thích sự chăm sóc dịu dàng của em.”

Cô nhìn anh. “Mỉa mai không hợp với ngài đâu.” “Không”, anh nói với vẻ thích thú. “Chưa từng.” Anh nhìn cô đổ thêm brandy vào khăn tay. “Mà tôi cũng có mỉa mai đâu.”

Đó là phát biểu mà Anne không thể cho phép mình nghĩ ngợi nhiều, nên cô ép miếng vải ướt lên vai anh rồi nói ngắn gọn, “Chắc chắn là đau đấy”.

“Aaaa-aaaaaaaa”, anh hét lên, và cô phải bật cười. Anh có vẻ giống một nữ ca sĩ opera dở tệ, hoặc một người pha trò ở buổi biểu diễn màn múa rối Punch và Judy.

“Em nên làm vậy nhiều hơn”, anh nói. “Ý tôi là cười ấy.”

“Tôi biết.” Nhưng điều đó nghe có vẻ buồn thảm, còn cô không muốn buồn thảm, nên nói thêm, “Nhưng tôi cũng không thường xuyên được tra tấn đàn ông trưởng thành”.

“Thật sao?”, anh làu bàu. “Tôi thì nghĩ em lúc nào cũng tra tấn đàn ông.” Cô nhìn anh.

“Khi em bước vào một căn phòng”, anh nói dịu dàng, “không khí thay đổi”.

Tay cô cứng đờ, lơ lửng trên da anh vài phân. Cô không thể ngăn mình nhìn vào khuôn mặt anh, và thấy nỗi khao khát trong mắt anh. Anh muốn cô. Anh muốn cô cúi xuống và chạm môi vào anh. Việc đó vô cùng dễ dàng, cô chỉ cần khẽ chuyển người là được. Cô có thể nói với bản thân rằng mình không cố ý làm vậy. Cô bị mất thăng bằng, chỉ thế thôi.

Nhưng Anne đủ thông minh. Đây không phải là thời điểm của cô. Đây cũng chẳng phải là thế giới của cô. Anh là một bá tước, còn cô là… Thì, cô là người mà chính cô đã tự biến mình thành như vậy, một người không giao thiệp với các bá tước, đặc biệt là những bá tước có quá khứ đầy tai tiếng.

Vô số sự chú ý sắp đổ lên đầu anh, và Anne không muốn ở gần anh khi điều đó xảy ra.

“Tôi thật sự phải đi đây”, cô bảo anh. “Đi đâu?”

“Về nhà.” Và rồi, bởi vì có vẻ nên nói thêm điều gì đó, cô lên tiếng, “Tôi khá mệt. Hôm nay là một ngày dài”.

“Tôi sẽ hộ tống em về”, anh nói với cô.

“Điều đó không cần thiết.”

Anh liếc nhìn cô rồi chống người vào tường, mặt mày nhăn nhó khi đứng dậy. “Em định về bằng cách nào?” Anh đang thẩm tra đấy à? “Tôi sẽ đi bộ.”

“Tới dinh thự Pleinsworth sao?” “Nó đâu có xa.”

Anh quắc mắt nhìn cô. “Quá xa đối với một quý cô không có người tháp tùng.”

“Tôi là một nữ gia sư.”

Điều này có vẻ làm anh thấy thú vị. “Một nữ gia sư không phải quý cô sao?”

Cô thở dài giận dữ mà không thèm che giấu. “Tôi sẽ hết sức an toàn”, cô trấn an anh. “Cả con đường đều sáng trưng. Chắc xe ngựa sẽ xếp hàng suốt từ nơi này tới đó.”

“Điều đó cũng chẳng làm tôi thấy nhẹ nhõm hơn.”

Ôi, anh thật là cứng đầu. “Rất vinh dự được gặp ngài”, cô nói quả quyết. “Tôi chắc chắn rằng gia đình ngài sẽ vô cùng háo hức muốn gặp lại ngài.”

Tay anh nắm chặt cổ tay cô. “Tôi không thể để em đi bộ về nhà mà không có người tháp tùng.”

Môi Anne hé ra. Da anh thật ấm áp, và giờ ở nơi anh chạm vào, tay cô nóng bừng. Một cảm xúc kỳ lạ và cũng thân quen bập bùng trong cô, rồi choáng váng thay, cô nhận ra đó là niềm phấn khích.

“Chắc chắn em cũng hiểu”, anh khẽ nói, và cô gần như đã đầu hàng. Cô rất muốn, cô của ngày xưa từng muốn điều đó đến tuyệt vọng, và cũng lâu lắm rồi cô mới mở cửa trái tim để người con gái ấy thoát ra.

“Ngài không thể đi đâu với bộ dạng thế kia”, cô nói. Đó là sự thật. Trông anh như vừa trốn tù. Hoặc trốn khỏi địa ngục.

Anh nhún vai. “Không có ai nhận ra thì càng tốt.”

“Thưa ngài…”

“Daniel”, anh sửa.

Mắt cô mở to vì sốc. “Gì cơ?”

“Tên tôi là Daniel.”

“Tôi biết. Nhưng tôi sẽ không gọi cái tên đó.”

“Thế thì thật đáng tiếc. Tuy vậy, thử một lần cũng đáng. Giờ thì…” Anh chìa tay ra, nhưng cô không bắt lấy. “Chúng ta đi nhé?”

“Tôi sẽ không đi với ngài.”

Anh mỉm cười tự mãn. Dù một bên miệng bị sưng phồng và đỏ ửng, trông anh vẫn như ác quỷ. “Thế nghĩa là em sẽ ở lại bên tôi?”

“Anh bị đánh vào đầu”, cô nói. “Đó là lý giải duy nhất.” Anh bật cười khi nghe câu nói ấy rồi lảng đi. “Em có áo khoác chứ?”

“Có, nhưng tôi đã bỏ lại trong phòng diễn tập. Tôi…

Đừng có cố đổi chủ đề!” “Hừm?”

“Tôi đi đây”, cô tuyên bố, giơ một tay lên. “Anh ở lại.” Nhưng anh đã chặn cô lại. Cánh tay vươn ngang của anh cứng như thép với hai bàn tay ép vào tường. “Có thể tôi đã không nói rõ”, anh lên tiếng, và trong khoảnh khắc đó cô nhận ra rằng mình đã đánh giá thấp anh. Anh có thể hài hước thật đấy, nhưng đó không phải là tất cả, và ngay lúc này đây, anh đang nghiêm túc khủng khiếp. Anh nói bằng giọng trầm và kiên quyết, “Có vài điều mà tôi sẽ không thỏa hiệp. Sự an toàn của một quý cô là một trong số đó”.

Thế là xong. Anh sẽ không lay chuyển. Nên sau khi cảnh báo rằng họ phải đi trong những con hẻm tối để không bị ai nhìn thấy, cô cho phép anh tháp tùng mình tới lối vào dành cho gia nhân của dinh thự Pleinsworth. Anh hôn lên tay cô và cô cố vờ như mình không thích cử chỉ đó.

Cô có thể lừa được anh. Song chắc chắn không lừa được chính mình.

“Mai tôi sẽ đến gặp em”, anh nói, vẫn nắm tay cô.

“Gì cơ? Không?” Anne giật tay lại. “Ngài không thể.”

“Sao lại không?”

“Không. Tôi là một nữ gia sư. Đàn ông không thể đến gặp tôi. Tôi sẽ mất vị trí của mình.”

Anh mỉm cười, tựa hồ giải pháp là điều không thể dễ dàng hơn. “Thế thì tôi sẽ đến gặp các em họ của mình vậy.” Anh hoàn toàn lờ tịt quy tắc hành xử đứng đắn sao?

Hay đó chỉ là tính ích kỷ? “Tôi sẽ không ở nhà”, cô đáp lại, giọng kiên quyết.

“Tôi sẽ đến tiếp.”

“Tôi sẽ lại không ở nhà tiếp.”

“Thế là trốn việc. Ai sẽ dạy dỗ các em tôi đây?”

“Nếu ngài cứ lảng vảng ở đây thì không phải tôi. Chắc chắn cô của ngài sẽ kết liễu tôi.”

“Kết liễu?” Anh khẽ cười. “Nghe rùng rợn quá.”

Đúng thế.” Chúa nhân từ, cô phải khiến anh hiểu. Anh là ai hay anh làm cô cảm thấy ra sao không quan trọng. Niềm phấn khích của buổi tối nay… nụ hôn họ đã cùng chia sẻ… chỉ là những thứ thoáng qua.

Điều quan trọng là có một mái nhà. Thức ăn. Bánh mì, phô mai, bơ, đường, và tất cả những thứ đáng yêu mà cô có hằng ngày khi còn nhỏ. Giờ cô cũng có chúng, cùng gia đình Pleinsworth, đi kèm với sự ổn định, địa vị và sự kính trọng.

Cô không coi nhẹ những điều đó.

Cô ngước lên nhìn Bá tước Winstead. Anh đang quan sát cô thật kỹ, cứ như nghĩ mình có thể nhìn thấu linh hồn cô.

Nhưng anh không biết cô. Chẳng ai biết hết. Do đó, lấy nghi lễ ra làm vỏ bọc, Anne rút tay lại và nhún gối. “Cảm ơn vì đã hộ tống tôi. Tôi đánh giá cao sự quan tâm mà ngài dành cho sự an toàn của tôi.” Cô quay lưng về phía anh và đi qua cổng sau.

Lúc đã vào trong, cô phải mất một lát mới sắp xếp mọi thứ rõ ràng trong đầu. Gia đình Pleinsworth chỉ trở về sau cô vài phút, nên cô phải tìm cớ biện hộ, cô liền cầm bút rồi tuyên bố rằng mình sắp sửa gửi thư để giải thích cho việc rời khỏi buổi hòa nhạc. Harriet không thể ngừng nói về niềm phấn khích trong buổi tối, rõ ràng là ngài Chatteris và tiểu thư Honoria đã đính hôn trong một tình huống hết sức cảm động, rồi Elizabeth lẫn Frances cũng chạy xuống gác vì cả hai đều chưa buồn ngủ.

Hai tiếng sau Anne mới có thể về phòng, thay váy ngủ rồi bò vào giường. Và hai tiếng tiếp theo, cô mới có thể cố gắng chợp mắt. Tất cả những gì cô có thể làm là nhìn chằm chằm lên trần nhà, nghĩ ngợi, băn khoăn và thì thào.

“Annelise Sophronia Shawcross”, cuối cùng cô tự nói với chính mình, “ngươi đã vướng vào cái gì vậy?”.


Giang Vi

Tôi là một người yêu sách cuồng nhiệt và đã hơn 20 năm. Tôi dành cả ngày để đọc, viết blog về sách và viết bình luận. Tôi tin rằng sách là công cụ mạnh mẽ nhất trong cuộc sống để mở mang đầu óc cho những ý tưởng và quan điểm mới. Các thể loại yêu thích của tôi bao gồm tiểu thuyết lịch sử, giả tưởng, khoa học viễn tưởng và phi hư cấu. Tôi cũng thích tìm hiểu về các nền văn hóa khác nhau thông qua văn học.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts:

Back to top button