Tiểu thuyết - ngôn tình

Ngoảnh Lại Hóa Tro Tàn

cover1. THÔNG TIN SÁCH/EBOOK

Tác giả : Tân Di Ổ

Download sách Ngoảnh Lại Hóa Tro Tàn ebook PDF/PRC/EPUB/MOBI. Tải miễn phí, đọc online trên điện thoại, máy tính, máy tính bảng.

Danh mục : TIỂU THUYẾT

Đọc thử Xem giá bán

2. DOWNLOAD

Download Ebook         

File ebook hiện chưa có hoặc gặp vấn đề bản quyền, Downloadsach sẽ cập nhật link tải ngay khi tìm kiếm được trên Internet.

Bạn có thể Đọc thử hoặc Xem giá bán.

Bạn không tải được sách ? Xem hướng dẫn nhé : Hướng dẫn tải sách


3. GIỚI THIỆU / REVIEW SÁCH

Lời giới thiệu


Mỗi câu chuyện của Tân Di Ổ là một nỗi buồn đối với bạn đọc và Ngoảnh Lại Hóa Tro Tàn cũng không phải là ngoại lệ. Buồn không phải bởi văn phong của tác giả, mà buồn vì câu chuyện quá chân thực, số phận nhân vật quá chân thực, khiến bạn không thể không chìm đắm trong câu chuyện ấy.

Trong tim mỗi người đều có một mặt trời. Ta coi nó là Thánh kinh của đời mình, hễ bước một bước liền ngẩng đầu ngưỡng vọng. Trong thế giới của cô thiếu nữ Phương Đăng chẳng hề có mặt trời. Phó Kính Thù chính là tia sáng xanh xao duy nhất trong thế giới ấy. Mặc dù không thể sánh với ánh mặt trời, nhưng vừa đủ để cô nhìn rõ con đường trước mặt.

Có điều Phương Đăng biết, thế giới của Phó Kính Thù thật ra không có ánh sáng. Cô quyết định phải giúp anh. Nếu anh là kính, vậy cô sẽ làm đèn, cô sẽ chiếu rọi anh, rồi soi sáng con đường của mình bằng chính những phản quang lóe lên từ đó. Được dõi theo người mình yêu, được biết rằng trong tim người ấy có chỗ dành cho mình, thì dù bản thân phải bước đi trong bóng tối, cũng vẫn là hạnh phúc.

Đáng tiếc Phó Kính Thù rốt cuộc chẳng thể cưỡng lại những cám dỗ trần tục, để đạt đến mục đích, anh chẳng quan tâm Phương Đăng nghĩ gì. Khi mọi điều quý giá nhất đều bị Phó Kính Thù tận tay hủy hoại, cũng là lúc mặt trời trong tim Phương Đăng hoàn toàn lịm tắt. Rốt cuộc phải dùng cách nào gìn giữ, thứ ánh sáng xanh xao ấy mới không tan biến? Rốt cuộc trong chuyện này, ai đã làm tan nát trái tim ai?

ĐỌC THỬ

Chương 1BÍ MẬT ĐẢO QUA ÂM

Đảo Qua Âm trong ấn tượng của Phương Đăng giống như một miếng gấm Tô Hàng cũ kỹ, đẹpđấy, nhưng bị bao phủ bởi một lớp bụi thời gian. Bạn cảm thấy thứ ấy chắc rất tuyệt vời, nhưng lại không chịu để tâm xem kỹ. Có lẽ miếng gấm đã bị ướt, bốc mùi khó chịu, nhưng dẫu sao vẫn là thứ mùi mốc man mát là lạ mà không phải ở đâu cũng có. Một tuần trước Phương Đăng chỉ dám nghĩ về đảo Qua Âm trong đầu như vậy. Nó sinh ra ở khu vực phía Nam tỉnh lị, mười lăm năm sống trên đời chưa từng đặt chân tới hòn đảo ấy, nơi mà cha ông nó đã từng vật lộn với cuộc mưu sinh. Cũng giống như gấm Tô Châu, con bé chỉ được biết qua những miêu tả của cô Chu Nhan mỗi khi thần trí minh mẫn.

Tám tháng trước, cô khuất núi, chỉ còn lại hai bố con Phương Đăng. Bởi nợ nần, bị đám chủ nợ truy đuổi gắt gao quá, cha nó cùng đường bí lối, đành mang theo con gái trở về nơi đây. Về chuyện món nợ là của ai, của cô hay của cha, Phương Đăng không biết và cũng không hỏi. Con bé đã quen với việc chuyển từ căn nhà mái bằng này tới gian phòng lợp gỗ tạm khác. Lần này, chỉ duy một điều khác lạ, rằng đây là đảo Qua Âm, một chốn nó hoàn toàn lạ lẫm nhưng lại đọc ra được tên của biết bao ngõ hẻm. Đâm đầu tới một vùng đất mới, lại không phải “ra đi”, mà là “trở lại”. Phương Đăng phát hiện, mình không hề ghét cảm giác kỳ thú này.

Trước lúc chuyển tới, Phương Đăng vừa hoàn thành xong học kỳ một lớp Mười. Bởi cha Phương Đăng ngại thủ tục chuyển trường lằng nhằng, ông định không cho con bé đi học nữa. Dù vẫn có thể miễn cưỡng chi trả được khoản tiền học phí khiêm tốn, nhưng ông thấy có học thêm chữ nghĩa cũng vô dụng, thà để chút tiền ấy mua rượu cho xong. Phương Đăng cũng chẳng tranh biện gì. Cho dù xét về thời gian, sức lực bỏ ra trước đó, cộng thêm thành tích học tập không xoàng, nó cũng chưa từng nghĩ phải học hành chăm chỉ để mai sau trở thành ông nọ bà kia. Cuối cùng may nhờ tổ dân phố và trường trung học cử người đến với những lý do nào là “Đất nước có chủ trương động viên các em gái học lên cao”, “Dù sao cũng học được nửa kỳ rồi, phải giành lấy tấm bằng tốt nghiệp mới khỏi phí”… hết lời khuyên nhủ, cha nó mới gật đầu. Chỉ khi rượu vào hay trước mặt con gái mới thấy người đàn ông này lộ vẻ ngang tàng, còn với đa số mọi người, ông ta chỉ vâng vâng dạ dạ. Đặc biệt đã dính dáng đến “Nhà nước” hay “Quốc gia”, ông quyết không dám thốt nửa câu từ chối. Phương Đăng trông bố mình khom lưng tiễn những người kia đi, chỉ thấy ngộ nghĩnh làm sao. Chiều hôm ấy nó đội mưa đến trường làm một lèo xong xuôi thủ tục nhập học.

Đảo Qua Âm chỉ có một trường trung học, bao gồm cả cấp Hai lẫn cấp Ba. Quá nửa số học sinh theo học trường là con em dân trên đảo, thầy trò tất cả cộng lại không quá ba trăm con người. Tiền thân của ngôi trường này là trụ sở giáo hội, sau giải thể trở thành trường học. Đến nay vẫn còn vài “chị em” già cả phục vụ trong căng tin hay thư viện của trường. Những người già ấy như các tiêu bản sống, cùng với loạt kiến trúc đổ nát đây đó chính là lời tuyên ngôn ngầm về quá khứ của hòn đảo nhỏ.

Nửa thế kỷ trước, Qua Âm chỉ là một trong những hòn đảo vô danh bên rìa thành phố, vì trên đảo trồng nhiều dưa mà lấy tên Qua Âm. Người thời ấy gần biển mưu sinh nhờ biển, đa phần làm ngư nghiệp. Gặp lúc chiến loạn, kiếm sống khó khăn, nơi đây lại là cửa biển, không biết bao người sa vào cảnh “Trư tử[1]“, bị nửa lừa nửa bán sang nước lạ lao dịch. Một bộ phận nhỏ khác không chịu nổi cảnh khốn cùng, dong buồm vượt biển tới trời Nam. Những kẻ phiêu dạt ấy nhiều người lưu vong đất khách, tiệt đường trở về, nhưng không ít người liều mạng thoát chết, phát tài to. Người ở đây tinh khôn, chịu khó, lại nặng tình với quê cũ, cho dù ra ngoài làm ăn ghê gớm đến mấy, đều mong lúc già lá rụng về cội. Bởi thế các vị tai to mặt lớn khi đã vinh quy bái tổ, thường tu bổ xây mới các công trình công cộng to đẹp, vừa tạo điều kiện cho cư dân ở quê nhà an cư lạc nghiệp, vừa dọn sẵn nơi khi tuổi già về an dưỡng. Bạc tây trắng lóa cứ thế ùn ùn đổ về hòn đảo trồng dưa nghèo nàn. Dần dà, những ruộng dưa bị thay thế bởi tường trắng ngói đỏ, những con đường mòn dọc ngang qua ruộng được lát đá xanh, quanh co dẫn về tô điểm cho nhà cao cửa rộng giữa rừng cây hoa lá muôn tía ngàn hồng. Từ lúc ấy, đảo Qua Âm bắt đầu nức tiếng với kiều bào, những người có tiền trong thành phố cũng thích thú với phong cảnh nơi đây mà tới xây biệt thự. Chớp mắt hòn đảo nhỏ thành nơi tập trung đám quý tộc, thương gia giàu có, tiếng ca múa phồn hoa ngày ngày làm bạn với gió biển mờ sương…

Dù sao, đây chỉ là chuyện của rất lâu rất lâu về trước. Trải qua trăm năm có lẻ, vật đổi sao dời, đầu tiên là quân Nhật giày xéo thời kháng chiến, sau đến biến loạn “Cách mạng Văn hóa”, con cháu những phú gia xưa kia hầu hết đã lưu vong hải ngoại, lác đác vài người còn trụ lại thì quá nửa đã thất thế. Những ngôi biệt thự kiểu tây xa hoa kỳ vĩ dần rơi vào cảnh hoang phế… Quá trình công nghiệp hóa sau giải phóng mang đến cho hòn đảo một lượng lớn cư dân mới, chính thế hệ cha Phương Đăng đã di cư tới vào thời điểm này. Họ lấy cái danh giai cấp làm chủ mới của chế độ xã hội chủ nghĩa để bước vào những đình đài lầu tạ mà người bình thường chỉ dám ước mơ. Nào vườn hoa, hành lang uốn khúc, tiểu lầu, đại viện… bị cắt thành vô số các gian phòng chật hẹp. Giữa cây bạch ngọc lan phảng phất hương và gốc đa cổ thụ um tùm thấy phất phơ cái váy ngủ đem phơi. Nét phồn hoa tinh tế vừa mơ hồ vừa xa vắng bị cái ồn ào thô tục đè bẹp, chỉ còn chiếc đèn đường bằng đồng vẫn hay bị thửa mất phụ kiện với mấy viên đá đại lý ngả màu loang lổ có tay cầm chạm hoa là còn khăng khăng kể câu chuyện quá vãng…

Phương Đăng nào giờ chẳng có duyên với cảnh xa hoa lộng lẫy. Con bé cảm nhận được mỗi góc nhỏ trong căn biệt thự bỏ hoang, mỗi khe nứt trên các viên đá xanh tàn tạ đều như trào ra bầu không khí của những tháng năm xưa cũ. Chúng cách biệt hẳn với cuộc sống của nó, dù thật khó nói rõ điểm sai khác nằm ở đâu. Tuy mới mười lăm tuổi, con bé cũng lờ mờ hiểu rằng, cho dù cảnh hưng thịnh trên đảo Qua Âm không thể tái diễn, nhưng những phồn hoa đã tạ từ ấy chẳng khác nào một nền văn minh tàn lụi. Chúng mang hơi thở mê hoặc khó tả, vượt xa cảnh vật hoang tàn cằn cỗi trước mắt. Không những thế, nơi này còn được trời cao ban ân, khắp đảo phủ rợp bóng xanh, gió biển ẩm mát dội vào mang theo cái hương quê ngọt ngào mà nó lẫn cha đều yêu đến sâu nặng. Con bé chẳng hiểu sao ngày trước họ lại nỡ lòng rời đi?

Đúng vào mùa mưa, hàng tuần nay trời đất ngập trong tiếng rả rích không thôi. Trên đường từ trường trở về, Phương Đăng bỗng nghĩ, biết đâu ấn tượng về đảo Qua Âm luôn mịt mờ âm u của mình không phải đến từ những mảng hồi ức mà cô Chu Nhan vui miệng kể, cũng không phải đến từ vẻ u sầu trên khuôn mặt đờ đẫn của cô lúc thốt nhiên câm lặng. Có lẽ, nơi này vốn dĩ đã là cái đất khó trông rõ bầu trời, không mưa xuống thì sương lên, cái buồn tự nhiên ngấm vào tận xương tủy con người ta lúc nào không rõ.

Đến căn nhà giữa ngõ, Phương Đăng cụp ô lại, bước vào một lối nhỏ vừa tối vừa hẹp. Tiếng ông chủ trước cửa hàng tạp hóa vọng ra cùng với mùi nước tiểu khai nồng cứ bảng lảng không tan.

“Con bé nhà họ Phương, không mời ta sang uống rượu với ‘Huyết Nùng’ à?”

Phương Đăng không đáp, vẩy vẩy cái ô cũ cho róc nước, cứ thế bước lên tầng. Nơi trú chân mới nhất của nó và cha nằm trong con ngõ thuộc trung tâm hòn đảo. Nói một cách chính xác, đó là căn nhà xây trộm, chen giữa giáo đường Thiên chúa đã bỏ hoang và cô nhi viện Thánh Ân cũ kỹ – hai tòa kiến trúc lụ khụ như mấy chiếc răng lung lay trong miệng bà lão tám mươi. Dưới tầng là cửa tiệm tạp hóa duy nhất trên đảo, ngay đối diện chính là Phó gia viện lừng danh, khu biệt thự nằm ở vị trí được xem là thắng địa trời cho. Ông chủ tiệm tạp hóa dùng gạch đỏ, đắp nên căn nhà hai tầng rưỡi xiêu xiêu vẹo vẹo, trên nóc lợp ngói a-mi- ăng, tầng trệt để bán hàng và ở, tầng trên ngăn thành vài cái “chuồng bồ câu” đem cho thuê. Phương Đăng và cha ở căn gác xép nhô ra trên tầng hai rưỡi. Mỗi lần mưa lớn, dường như những viên ngói a-mi-ăng sát trên đầu cũng muốn sụt sùi nhỏ lệ.

Phương Đăng bước vào căn gác hai gian ngăn bằng mành vải. Quả đúng như nó dự liệu, ông Phương Học Nông cha nó đang nằm gà gật trên cái giường trúc ở mé cửa. Chiếc xô nhựa nhỏ trước khi ra ngoài Phương Đăng để hứng nước mưa giờ đã đầy tràn, nước từ mép xô tràn ra liên tục, vậy mà ông Phương Học Nông vẫn say giấc, chẳng hay biết gì.

Phương Đăng lẳng lặng xách xô ra cửa sổ, mạnh tay hất xuống. Có lẽ vách cửa bị bắn nước, có tiếng ông chủ tiệm tạp hóa chửi ra. Đúng vào lúc ấy, Phương Đăng trông thấy căn phòng nhỏ nhìn ra đường nằm trên gác hai mé đông Phó gia viện lay động. Có lẽ người trong phòng bị tiếng đổ nước ào ào của nó làm kinh động, một bàn tay khẽ vén góc rèm cửa sổ lên làm lộ ra một nửa gương mặt người. Trước khi tấm rèm khép lại như cũ, cái cửa chớp vốn đang mở đã nhẹ nhàng sập xuống.

Đây là lần đầu kể từ khi chuyển tới Phương Đăng trông thấy động tĩnh từ phía đối diện. Vài ngày trước đến giờ, mấy tấm cửa chớp ấy luôn luôn sập kín, bao bọc tấm màn nhung màu đỏ tươi bên trong. Thế giới trong khung cửa thần bí y như cơ ngơi từng cực thịnh nay đã thành truyền thuyết, bị thời gian làm cho hoang phế của nhà họ Phó. Chỉ cách nhau có hai ba chục mét, nhưng nơi ấy so với căn nhà hai tầng rưỡi như một trời một vực: Bên này sinh động, huyên náo tiếng người, tràn trề không khí mà tục thế nên có, ấy là cái không khí đục ngầu, thô kệch, không khí tươi non của sự sống.

Không sai, so với bên này, Phó gia viện phía đối diện im ắng như đã chết. Nếu không có trận mưa đánh vào gốc đa cao vút ngoài sân thành tiếng ào ào, cơn gió vi vút phóng qua những hành lang trống vắng, thi thoảng ngớt mưa lại thêm tiếng cánh những con chim con vỗ phải lá của cây kê huyết đằng chằng chịt bám trên tường, thì cơ ngơi ấy y hệt chiếc quan tài thạch anh khổng lồ đang bị thời gian ngưng kết. Hoặc giả, nó giống như bức tranh cổ ma mị trong câu chuyện liêu trai: Tịch mịch, buốt giá, dường như không có gió sương mưa tuyết nào mảy may xâm phạm nổi.

Đây mới chính là đảo Qua Âm mà cô Chu Nhan đã kể. Những âm hồn co cụm, lánh thân nơi phế tích các khu đình viện xa hoa trên đảo này vốn chẳng có chút quan hệ gì với Phương Đăng, với cha cô ông Phương Học Nông, với gia đình lão bán tạp hóa tầng trệt hay đại đa số dân đảo bây giờ. Nếu sau tấm rèm kia có một người ngồi đó, thì chắc người ấy cũng giống cô Chu Nhan, một người đàn bà đẹp đã quá thì, da thịt cằn khô nhưng vẫn toát lên vẻ mê hoặc khiến người ta say đắm. Người đàn bà ấy ngồi trước đèn, phàm thế chỉ có thể đứng từ xa nhìn lại, mơ hồ đoán ước ánh hào quang quá vãng của bà.

Dù sao, đây đều là tưởng tượng của Phương Đăng mà thôi, nếu chịu khó nghĩ thêm chút nữa, nó sẽ phát hiện suy tưởng của mình thật khiên cưỡng. Nhà họ Phó hiển hách một thời, hiện nay dù không bì kịp năm xưa nhưng chưa đến nỗi suy tàn. Số tiền để duy trì cô nhi viện Thánh Ân thời điểm này một phần là do họ quyên góp. Người nhà giàu ăn ở thế nào, Phương Đăng làm sao nói rõ, chỉ biết chắc không thể giống như lời bà cô Chu Nhan nói, phải dựa vào nghề “đó đó” để kiếm cái ăn. Cô và cha nó cùng một mẹ sinh ra, đời trước đều xuất thân bần hàn, nào đã hưởng sung sướng bao giờ. Những việc này Phương Đăng có nhận định riêng, chỉ nghi hoặc một chút rằng tại sao có người nói…

“Có đứng rầu rĩ thế rầu rĩ nữa, cái phòng này cũng không tự dưng mọc hoa được đâu.”

Ông Phương Học Nông trở mình một cái, khàn giọng lầu bầu làm mấy suy nghĩ vẩn vơ của Phương Đăng bị đứt đoạn hết.

Phương Đăng lịch bịch xách xô nhựa đặt vào chỗ cũ, nhanh nhảu vặc lại: “Con cần gì phải rầu, người bố chẳng đã mọc đầy rêu đấy thôi.”

Ông Phương Học Nông hầm hừ hai tiếng, hình như đang cười. Hiếm có một buổi chiều nào không đi làm mà ông không say. Lên đảo vài ngày, Phương Đăng cảm nhận sâu sắc rằng cha nó không thẹn là người từ đảo ra đi. Dân đảo đa số đều biết mặt đặt tên ông, dĩ nhiên, quá nửa bọn họ chỉ nhớ cái biệt danh không mấy dễ nghe: “Phương Huyết Nùng[2]“. Mấy khuôn mặt tươi cười của họ trông cứ khinh khỉnh thế nào đó.

Không thể trách người ta được, chính Phương Đăng cũng hiểu cha mình là người bạc nhược. Hồi còn trẻ ông không có công việc đàng hoàng, chỉ chuyên làm những thứ chẳng ai muốn rớ để kiếm cái ăn. Ví dụ nhà nào có trẻ con bạo bệnh chết non thường gọi ông đến, chỉ cần cho vài đồng, hoặc ít gạo hay mỳ cũng được, ông sẽ mang đứa bé đi chôn hộ. Hoặc trên đảo có việc ma chay, nào tắm rửa tử thi, nào khênh áo quan, nào rắc giấy tiền… việc gì ông cũng thạo. Lúc không có mấy việc như vậy thì dọn bồn xí, hốt rác cũng được, chỉ cần đổi lấy đủ tiền sống qua ngày ông đều nhận làm. Phương Học Nông chẳng phải người to gan, càng không biết giận dữ, gặp ai ác ý giễu cợt ông chỉ biết cười hì hì. Ngày thường ông chẳng bao giờ thèm chỉnh trang vẻ ngoài, dư ít tiền nào là mua rượu bằng sạch, bà con đều lấy đó trêu chọc. Chẳng nhớ ai đầu têu mà mọi người đều gọi ông bằng “Phương Huyết Nùng”, ấy thế mà ông cũng thưa.

Đưa theo cô em gái cùng mẹ khác cha Chu Nhan ra khỏi đảo vài năm, Phương Học Nông mới đầu chỉ làm các công việc vớ vẩn. Ông nghiện rượu, không làm nổi những việc đòi hỏi sức khỏe thuần túy, chính vì vậy mà thời bé Phương Đăng luôn bữa no bữa đói. Sau rồi có một ngày, cô Chu Nhan căng tấm rèm vải cũ ngay trong căn nhà gỗ, Phương Học Nông lôi bé Phương Đăng ra ngoài cửa ngồi đúng một buổi chiều, cho dù con gái có hỏi thế nào, ông cũng không hé răng. Nhá nhem tối, Phương Đăng thấy cô đi ra dúi vào tay cha mấy tờ giấy bạc. Nó nhớ rất rõ, lúc ấy mặt trời vừa khuất núi, thiên không u ám dần, đầu tóc cô Chu Nhan rối bời, nhưng khuôn mặt chẳng hề có cảm xúc gì. Phương Học Nông cầm được tiền là bật khóc, đêm ấy đi uống rượu đập tan cả bình, say sưa đến tận hoàng hôn ngày hôm sau. Dần dà, ông thường dắt nhiều người đàn ông khác nhau về phòng cô Chu Nhan, rồi ngồi bên ngoài uống rượu. Những đồng bạc dù đanh mới hay cũ nát từ tay cô Chu Nhan cũng đã trở thành tiền mua cái ăn cho cả ba người. Cô Chu Nhan chết rồi, Phương Học Nông chẳng sống nổi ở bên ngoài, liền dắt con gái quay về đảo Qua Âm định làm lại nghề cũ. Ông thường nhìn chằm chằm nụ cười của con gái nói một cách vô liêm sỉ rằng, thêm vài năm nữa là con gái đủ khả năng kiếm tiền dưỡng già cho bố.

Bình tâm mà nói, Phương Học Nông đối xử với Phương Đăng không quá tệ. Bản thân ông thấp hèn đến tận cùng, nhưng đã nuôi lớn được đứa con gái độc nhất, dù no bữa nay đói bữa mai. Ông chẳng ngược đãi gì con, cùng lắm say khướt rồi mang nó ra trút giận, dọa đem đi bán một lát rồi thôi. Có điều vài năm nay Phương Đăng chẳng còn sợ ông nữa. Bán nó rồi, ông chẳng có cơm mà ăn, say chết không ai biết. Không lâu trước đây có một lần ông uống nhiều, vô lý hò hét sai cái này cái nọ, Phương Đăng đang làm bài tập, chẳng thèm để ý. Lửa giận bốc lên, ông túm tóc con định du vào tường. Vùng vẫy một hồi, Phương Đăng thấy da đầu đau buốt nóng ran, mãi vẫn chưa thoát ra được, hoảng quá đạp vào bụng ông một cái. Ấy thế mà Phương Học Nông dừng tay, ngồi bệt xuống góc tường hồi lâu không đứng dậy nổi. Ngày hôm sau tỉnh rượu, ông chỉ dám xoa bụng lầu bầu, tuyệt không nhắc đến chuyện hôm trước.

Đôi khi Phương Đăng thấy khó hiểu, sao trên đời lại có người phụ nữ ngốc đến độ sinh con cho cha mình. Nhưng giả dụ người phụ nữ ấy không tồn tại, vậy nó ở đâu mà ra? Hay nó là con nuôi? Phương Học Nông nuôi bản thân còn khó, làm gì vĩ đại đến mức chịu đùm bọc một đứa bé chẳng có máu mủ gì với mình? Có một thời gian khoảng sau khi tốt nghiệp tiểu học, Phương Đăng nghi ngờ mình là con của cô Chu Nhan với một người khác. Thậm chí con bé dám gọi “mẹ”, còn cô Chu Nhan chẳng bao giờ trả lời. Thấy Phương Đăng gọi nhiều quá, bà bực mình cứ thấy mặt là đuổi đi chỗ khác.

Đến giờ Phương Đăng vẫn chưa làm rõ được gốc gác của bản thân, nhưng đã học được cách lờ đi. Là nhặt trên đường cũng được, là con đẻ Phương Học Nông cũng được, do cô Chu Nhan sinh cũng xong, đâu có gì khác biệt. Dù thế nào nó đã là thiếu nữ mười lăm, vài năm nữa là sống độc lập được rồi.

Như thường lệ, Phương Đăng ngồi trước cửa sổ nhặt rau cho bữa sáng, cứ một chốc không kìm được lại liếc cánh cửa sổ bên kia một cái. Gương mặt thoáng qua sau tấm rèm ban nãy đã làm dấy lên trí tò mò tận nơi sâu nhất trong tim con bé. Vậy mà tới lúc nhặt xong rau của trưa hôm sau, bên kia vẫn chẳng có chút động tĩnh. Tấm rèm nhung đỏ tươi quen thuộc hoàn toàn bất động sau lớp cửa chớp kín bưng, nói gì đến người phía sau cửa.

Phương Đăng dù gì cũng là trẻ con, ngây ra một hồi, đến khi tò mò quá không chịu được liền hỏi người nằm trên giường một câu: “Bố, ai cũng bảo cả nhà họ Phó đều ra nước ngoài rồi, thế sao trong nhà vẫn còn người ở? Có ai ở trong ấy nhỉ?”

“Quan tâm làm gì?”, mãi Phương Học Nông mới trả lời. “Con tiện miệng hỏi thôi. Nghe nói chính phủ trả nhà lại cho họ Phó rồi mà? Họ lắm tiền, sao lại để hoang nhà của tổ tiên như thế?”

“Tao biết đâu được, mà có liên quan gì đến mày? Cũng có liên quan chó gì đến tao?” Phương Học Nông bật dậy, chiếc giường vốn đã lung lay phát ra một tràng tiếng kẽo kẹt ghê tai.

Phương Đăng không ngốc, nó đã sớm nhìn ra cha mình dù lớn tiếng nói nhà đối diện chẳng liên quan gì, nhưng mỗi lần nó vô tình hay cố ý nhắc chữ “Phó”, cha đều trở nên cáu bẳn lạ lùng. Ông vốn là người dễ bị thao túng lừa gạt, vậy mà mấy hôm nay uống rượu xong đều vô thức ngoảnh nhìn bên ấy. Có điều không như Phương Đăng, cái nhìn của ông tràn đầy vẻ nanh nọc của kẻ thấp hèn. Điều này rất hợp lý với mối ngờ vực lớn nhất trong lòng Phương Đăng. Con bé đã hiểu nhiều lẽ đời, nghe được vài lời bên ngoài truyền tới, cộng thêm những manh mối ngày trước cô Chu Nhan vô tình tiết lộ, tất cả bện thành một sợi dây vô hình. Một đầu sợi dây là nó, cha và cô Chu Nhan, đầu kia như con rắn, dần trườn mình tới cánh cửa sổ vừa gần trong gang tấc, vừa xa không thể đếm đo kia. Nghĩ tới đây, con bé dằn lòng không đặng, buột miệng: “Trước đây cô Chu Nhan từng sinh con, đứa bé đó giờ ở Phó gia viện phải không bố?”

Ông Phương Học Nông lặng đi một lúc, mặt đỏ rần, cứ như mìn sắp nổ tung, lắp ba lắp bắp: “Vớ… vớ vẩn! Mày nghe ở đâu ra… cô mày làm sao… nó với đứa trẻ con ngoài giá thú bên kia chẳng… chẳng có liên quan gì!”

“Bố định lừa ai? Cô chẳng giấu con chuyện gì. Bố đi hỏi xem, trên đảo có ai không biết?”

Phương Đăng không nói dối, cô nó trước đây từng lấy chồng, nghe nói họ Phó. Cô đích thực từng kể, ngày xưa mình có đứa con lớn hơn Phương Đăng hai tuổi. Thêm nữa, Phương Đăng và cha dọn vào mới ngày thứ hai, ông bà chủ tiệm tạp hóa dưới nhà đã châm chọc: “Ơ này, mày là cháu gái Chu Nhan cơ mà! Sao không dọn vào ở nhà cao cửa đẹp bên kia? Dù gì chẳng người một nhà.”

Những quá khứ ẩn giấu đằng sau câu đùa cợt cùng lời đồn nhảm nhí kia, có lẽ chính là nguyên do cô Chu Nhan rời đảo Qua Âm, cũng là đề tài ông Phương Học Nông nhất quyết tránh né. Mười mấy năm trôi qua, ở đảo Qua Âm điều ấy chẳng còn là bí mật.

Chương 2MỘNG HÃO NƠI VƯỜN HOANG

Trước khi ngủ Phương Học Nông lại uống một trận quắc cần câu. Phương Đăng nằm trên chiếc giường nhỏ bên kia tấm bạt, nghe thấy bình rượu rơi xuống đất đánh “choang” một cái, không vỡ. Tiếng cái bình lăn lông lốc qua khỏi chân bàn xen với tiếng ngáy của cha cứ từng cơn từng cơn. Nó cố thiếp đi, chợt ngửi thấy mùi ngai ngái của đất đưa tới. Ra vậy, hết trận này sang trận khác đâu phải tiếng ngáy, ấy là tiếng gió.

Gió kéo mấy lá cỏ lướt nhẹ trên gương mặt Phương Đăng. Nó cúi đầu, lác đác mấy bông hoa dại không rõ tên bị giẫm nát dưới gót giày. Bốn bề mọc đầy thứ cỏ dại xơ xác cao quá đầu, chúng khom mình trong gió, nhìn theo nó rì rầm chuyện gì đó. Căn phòng nhỏ nơi nó và cha đang ở trở thành một hình bóng mơ hồ sau lưng, còn phía trước không xa, dưới bông hoa màu tím của cây kê huyết đằng và những sợi râu dài rủ xuống gốc đa, tấm rèm nhung màu đỏ tươi khẽ lay động trong gió.

Nó giờ đã đứng trong khu vườn hoang nhà họ Phó. Căn nhà tổ nguy nga tráng lệ của ông vua cao su trong truyền thuyết giờ chỉ còn là tường đổ gạch nát. Duy nhất khu nhà nhỏ phía đông là tương đối nguyên vẹn, còn dãy hành lang lát đá đại lý ở khu giữa lẫn khu tây đều nhuốm màu hoang tàn, làm cảnh vật càng thêm ảm đạm.

Phương Đăng rẽ đám cỏ dại đi về khu nhà phía tây. Rõ ràng không quá mười mấy bước nhưng đám thực vật sinh sôi điên cuồng phía dưới cứ như giăng ra một lưới bẫy, trói chặt lấy chân nó. Nó phải bước đi thật chậm, ngón tay bị những ngọn cỏ sắc nhọn cứa đứt, vậy mà không đau chút nào. Nó thở ra phì phò, nhìn lên, cánh cửa ấy vẫn không gần không xa. Lòng như lửa đốt, chẳng nghĩ thêm được gì, con bé hướng về phía ấy thét gọi một cái tên.

Nó nghe được cái tên này từ đâu? Trong lời thầm thì của bà cô, hay từ mẩu đối thoại của những kẻ nhàn rỗi trên đảo? Cái tên vừa thốt ra liền bị gió thổi tiêu tán. Đúng vào lúc ấy, tấm rèm nhung màu đỏ tươi bị ai đó chầm chậm vén lên.

Cậu ta đứng bên mép khung cửa sổ hình bán nguyệt trổ cành hoa uốn lượn, lặng lẽ nhìn Phương Đăng. Chính là gương mặt thoáng qua lúc trưa, mềm mại tao nhã, đẹp mà nhợt nhạt, giống một phiến đá đại lý sau trận mưa rào, sạch sẽ, mát lành.

Mùa mưa triền miên ở đảo Qua Âm lần đầu tiên tạnh hẳn trong mắt Phương Đăng. Đằng sau cậu thiếu niên, cái thế giới trong cửa sổ mà nó vẫn muốn biết, hóa ra lại là một bầu trời xanh thẳm, mênh mang trong vắt như vừa trải qua một trận mưa lớn, chẳng thể nhìn rõ đường chân trời.

Bộ dạng lúc bấy giờ của cô nhóc chắc ngốc lắm, giống như một người nhà quê chân ướt chân ráo lên thành phố vậy. Thậm chí ban đầu nó còn hơi sợ, chầm chậm dừng bước, không dám tiến lên, cũng không muốn đi khỏi.

Chẳng ai nói gì, chỉ nghe tiếng gió, nó cảm thấy cứ thế này thật dễ chịu… Sau đó trong tiếng gió chẳng hiểu sao có thêm tiếng nước tí tách, quen thuộc lạ lùng, dường như… là tiếng nước mưa gõ vào ngói a-mi-ăng trên đỉnh đầu.

Phương Đăng mở bừng mắt, rồi lập tức nhắm lại. Thật là phí quá, tỉnh mất rồi. Chẳng còn bầu trời trong xanh, ngoài ô cửa sổ rách nát kia, thế giới lặng lẽ hửng dần trong cơn mưa.

Chỉ một buổi tối ông Phương Học Nông uống hết nửa bình rượu mạnh, bây giờ dưới đất toàn bãi nôn. Hôm nay là Chủ nhật, mai mới phải lên trường làm thủ tục nhập học, Phương Đăng dọn dẹp đống hỗn tạp dưới đất rồi nấu một nồi cháo cho cả hai người. Trưa, vừa mê mệt tỉnh dậy ông Phương Học Nông đã sai con đi mua rượu. Trước ông uống cũng ghê gớm, nhưng vừa dậy đã đòi uống như hôm nay quả là hiếm thấy.

“Không có tiền!” Phương Đăng lạnh lùng cự tuyệt.

Sau khi dọn về đảo Qua Âm, cha con bé vẫn chưa ra ngoài đi làm lần nào. Chút tiền ít ỏi trong tay nó bây giờ chính là miếng ăn nửa tháng tới của hai người, có đánh chết nó cũng không lấy ra.

“Không có thì cứ mua chịu trước. Bảo với lão Đỗ dưới nhà là mua cho tao, thể nào lão cũng đưa.”

Phương Đăng nghe xong cười nhạt. Ông Đỗ chủ hàng tạp hóa ở tầng một lần nào gặp cũng chỉ biết hỏi cha con “Phương Huyết Nùng” bao giờ trả tiền thuê phòng nửa tháng sau thôi.

Phương Học Nông thấy con gái không nói năng gì, bực bội đưa tay chặn trước mặt con bé, “Mau, đi mua rượu nhanh!”

Phương Đăng vốn định hất tay ông ra, nhưng ngẩng đầu nhìn bỗng thấy trong đôi mắt đục ngầu đầy tia máu kia dường như ánh lên một thứ na ná bi thương. Đã quá lâu rồi nó không nhìn thấy dáng vẻ ra hồn người của ông. Ngoại trừ niềm tha thiết với rượu, những lúc thường ông như cái xác thối không tim, như lúc cô Chu Nhan mất, ông chỉ biết đờ đẫn mang xác đi đốt vậy thôi.

“Ngoan nào, cha chỉ uống nửa lít thôi. Uống hết nửa lít này tiệt không uống nữa.” Phương Học Nông ngọt giọng khẩn khoản. Ông ta biết nếu tự đi, lão Đỗ còn lâu mới chịu cho nợ.

Phương Đăng dĩ nhiên chẳng tin lời con ma men nói.

Nhưng thốt nhiên nó thấy thương hại cho người đàn ông khiếp nhược này. Ông sống trên đời liệu còn ý nghĩa gì? Còn có niềm vui gì? Ngoại trừ cảm giác lâng lâng ngắn ngủi sau khi bị men rượu kích thích.

“Cho rượu vật chết bố đi.”

Phương Đăng đùng đùng vấn tóc đi xuống nhà. Còn lâu mới ghi sổ được, nó thừa biết. Có đôi khi muốn tiết kiệm chút tiền, ta phải chấp nhận đem thứ khác ra đánh đổi. Con bé để món tiền đủ trả cho nửa lít rượu lên nóc cái tủ kính cáu bẩn, nứt nẻ rồi đứng chờ. Lát sau, lão già mắc dịch rót rượu đưa ra, chẳng biết vô tình hay cố ý còn đụng vào cánh tay nó một cái.

Phương Đăng rùng mình, chai rượu chưa kịp đậy sánh mấy giọt ra ngoài. Một thứ cảm giác buồn nôn xộc lên. Con bé đứng im, liếc xéo lão già trước mặt.

Lão Đỗ giở trò thành công, lại thấy con bé không tỏ thái độ gì, không hoảng sợ cũng chẳng bỏ chạy, lão đoán chắc nó hãi quá ngớ người rồi, hoặc có lẽ ngây ngô chưa hiểu ý tứ bên trong. Lão mừng thầm, được nước làm tới, thò một bàn tay về phía ngực nó.

“Mày giống y đúc cô mày ngày xưa, sao mà đẹp thế… mái tóc này.”

Ban ngày ban mặt cửa hàng còn mở tênh hênh, lão Đỗ không dám manh động, ngón tay khẽ chạm vào mấy lọn tóc rủ trước ngực Phương Đăng, hơi ngừng một tí lại rụt về.

Phương Đăng cúi xuống nhìn, đúng vào lúc lão rụt tay, con bé không nhịn được chộp ngay lấy, khẽ nức nở một tiếng như sắp sửa la khóc đến nơi. Lão Đỗ làm sao đoán nổi nó lại như thế, theo bản năng định bịt miệng con bé lại. Phương Đăng vùng vẫy rít lên một tiếng. Tiếng kêu này không to cũng không nhỏ, nhưng đủ làm lão Đỗ hoảng hồn. Vợ lão đang xào nấu trong căn bếp phía sau, hai mặt chỉ cách nhau có một phòng ngủ. Người đàn bà này vừa dữ tợn vừa to béo, ngày thường chẳng có chuyện gì lão Đỗ vẫn khiếp bà ta ba phần. Lão già cùng lắm chỉ có gan lén chòng ghẹo con gái nhà thằng nát rượu, chẳng may bị hung thần trong kia nhìn thấy, lão không chết cũng bị lột da.

“Đừng kêu! Lỡ ai nhìn thấy thì bác còn mặt mũi nào!” “Ngữ ông có còn mặt mũi mà mất!” Mặt Phương Đăng lộ vẻ ghê tởm, hai mắt ngấn lệ, giữ rịt lấy tay lão Đỗ không buông, cũng không rõ sức lực lấy đâu ra mà khỏe thế.

Lão Đỗ sợ sệt ngó trước nhìn sau, Phương Đăng thừa cơ thoát ra, trong lúc giằng co, tiếng nói con bé lại to thêm vài phần, “Ông định làm gì, tay để cho đàng hoàng đi!”

Bấy giờ là buổi trưa, đa số mọi người ở nhà chuẩn bị ăn cơm, mưa lại lớn, người đi trên đường không nhiều. Lão Đỗ dường như nghe thấy tiếng bước chân từ nhà bếp phía sau vọng ra.

“Mày có tin vợ tao xé xác mày ra không hả?”, lão cuống quá lên tiếng dọa nạt.

“Ông sờ mó linh tinh, tôi phải mách bố.”, Phương Đăng nghẹn ngào.

Lão Đỗ thở hộc ra, “Ai tin lời con ngớ ngẩn nhà mày!”

“Thế nào cũng có người tin.”

Đúng thế. Ừ thì bố nó là thằng ma men, chẳng dám làm gì ông chủ nhà thật, nhưng vợ lão Đỗ nếu có xé xác nó ra, thì trước hết sẽ bửa cái bàn tay của lão chồng mặt giặc.

Lão Đỗ thấy khuôn mặt xinh xắn của nó như hoa lê ngậm mưa quyết chẳng có ý chịu thua, dường như cũng ngẫm ra nguy cơ phía mình, bèn nhỏ giọng cầu xin: “Im nào, bà trẻ ơi, bà muốn thế nào? Hay thôi tôi không lấy chỗ tiền rượu này nữa nhé?”

Lão vội vàng vơ tiền trên nóc tủ, thuận tay với thêm cái kẹo cao su, nhét cả vào tay Phương Đăng.

Con bé vẫn còn nức nở. Lão Đỗ sợ muốn nhảy tim ra ngoài, “Tiền thuê nhà nửa tháng sau bác lấy rồi, nhé? Được chưa? Thế đã được chưa?”

Cảm giác bàn tay mình được nới lỏng, lão cả mừng chưa kịp phản ứng, chai rượu trên tay Phương Đăng bỗng rơi xuống vỡ tan. Vợ lão Đỗ đứng ở cửa sau tiệm nhìn ra, mặt đầy vẻ ngờ vực.

“Làm cái gì thế hả?”

Phương Đăng khóc nói: “Bác Đỗ đưa vội quá, cháu còn chưa cầm chắc. Đổ hết rượu rồi, bố cháu đánh chết cháu mất!”

“Thế thì tao chịu, tiền rượu vẫn phải lấy chứ.” Vợ lão

Đỗ liếc cái bình vỡ dưới đất, “Lão già chết dẫm, có lấy rượu cũng không ra hồn, dọn sạch cho tôi nghe chưa!” Bà ta vừa lầm bầm chửi, vừa quay đầu đi vào trong bếp.

Lão Đỗ thở hắt ra một hơi, mãi mới hoàn hồn, đập vào mắt gương mặt nhòe lệ chẳng rõ vui buồn của Phương Đăng, lão lại được phen đánh trống ngực. Có điều lần này đầu óc đã linh hoạt hơn, nhoáng cái lão đưa ra bình rượu mới.

Phương Đăng đón lấy, không quên nói: “Cảm ơn bác Đỗ ạ.”

Nó ra khỏi cửa tiệm, nghe thấy tiếng lầu bầu của lão Đỗ vẳng theo, “Hãm thật.”

Đang định rẽ vào con đường hẹp dẫn lên lầu, bước chân Phương Đăng bỗng khựng lại. Nó quay ra nhìn về bên trái cửa tiệm tạp hóa. Cạnh bồn hoa trước cổng cô nhi viện Thánh Ân quả nhiên có một người đứng đó. Phải mất đến năm giây Phương Đăng mới nhận được ra đấy là ai.

Trên đảo Qua Âm, chẳng có mấy con đường bằng phẳng, thường không lên dốc lại đổ đèo. Phó gia viện và tiệm tạp hóa ngự ở nơi cao nhất ngõ, cũng là điểm cao nhất trên đảo. Do đó người kia đi về phía này chính là đang leo lên một đoạn dốc. Lão Đỗ và Phương Đăng khi nãy nhìn ra cửa cô nhi viện không phát hiện có người, nhưng từ vị trí người ấy đứng… Phương Đăng ngờ rằng toàn bộ vở kịch ban nãy đều cho cậu ta thưởng thức cả rồi, chỉ có điều cậu không muốn nhúng tay vào thôi.

Giờ đây kịch hay đã hạ màn, cậu ta liền thủng thẳng dạo qua mấy luống hoa, tiếp tục con đường mình đang đi.

Phương Đăng không cất bước, đứng nguyên trước hành lang nhìn theo. Người đó điềm nhiên đi qua Phương Đăng, cứ như nó là một khóm hoa dại bên đường, hoặc cái thùng rác trong ngõ, chẳng liên quan gì đến mình.

Phương Đăng mở miệng định nói, nhưng cổ họng cứ như bị nút kín bông gòn. Thấy cậu ta đi qua tiệm tạp hóa của lão Đỗ, như ma xui quỷ khiến, nó liền bám theo.

Trời vừa đổ cơn mưa, cậu thiếu niên căng chiếc ô màu đen, bảng vẽ đeo sau lưng. Trong tay Phương Đăng chỉ cầm mỗi chai rượu, đành lấy bàn tay còn lại che trên đỉnh đầu, có cũng như không. Nó không cố tình rón rén, cứ bước đi như bình thường bám sát người kia. Tiếng giày cùng tiếng nước mưa đập xuống mặt đá xanh lát đường nghe khá rõ, chắc chắn cậu ta cảm nhận được phía sau có người vậy mà tuyệt không ngoảnh đầu, không bước nhanh hay đi chậm lại, chiếc bảng vẽ đều đều đập vào tấm lưng gầy gò mà thẳng băng.

Đầu Phương Đăng ướt sũng, cứ ngốc nghếch theo sau cậu ta, chẳng biết để làm gì, như thể vẫn chưa thoát khỏi giấc mộng đêm trước. Không tính trong mơ, ở đời thực con bé chỉ mới thoáng thấy gương mặt cậu sau tấm rèm một lần. Nhưng nó biết chính là người đó. Ánh nhìn của cậu, dáng đi của cậu, tất cả đều y như trong tưởng tượng.

Phó gia viện vốn nằm chếch ngay phía trên tiệm tạp hóa, chẳng mấy chốc hai người đã đứng trước cửa lớn. Cả khu nhà nguy nga cùng vườn hoa rộng rãi bị bức tường cao và hai cánh cửa sắt vây kín. Cậu thiếu niên dừng lại bên cửa, rút chìa khóa ra.

Cánh cổng sắt mở kèm theo hàng tràng tiếng kẽo kẹt như người già, cậu ta bước vào, đóng chốt khóa lại như cũ. Phương Đăng đứng cách cánh cổng không xa, đối diện với người đó. Con bé cắn môi, không thốt tiếng nào, cũng không dám ngẩng đầu cao quá, cứ đăm đăm nhìn đôi tay cậu thoăn thoắt bên cái ổ khóa loang lổ rỉ sét. Xong xuôi, người bên trong cửa nán lại nhìn, con bé bèn ngẩng lên, mặt đối mặt.

Ánh mắt cậu ta chỉ dừng trên Phương Đăng một khắc. Là vì hiếu kỳ? Khó hiểu? Hay… ấy là khinh thường? Cậu ta đã đi khuất. Phương Đăng đứng đó hồi tưởng lại chuyện ban nãy ở tiệm tạp hóa, cảm thấy chưa bao giờ khinh bỉ bản thân như lúc này.

Ông Phương Học Nông trông thấy bình rượu còn nguyên niêm phong thì vui ra mặt, chẳng thèm hỏi câu nào đã bật nút uống liền. Phương Đăng rầu rầu nằm trên giường đến tận hoàng hôn mới dậy, nhìn sang thấy cha mình nằm bò trên giường trúc, sợ rằng có đá văng hai chân ông, ông cũng chẳng biết mà kêu đau. Vậy cũng tốt, nó không buồn miệng, bỏ luôn bữa tối cho gọn.

Phương Đăng lại nhớ người ấy. Nó đã nghe mấy chuyện về cậu, còn cậu thì sao? Liệu có biết nó tồn tại trên đời này? Nếu có, cậu ta nhất định biết nó là con gái của một tên ma men. Cha nào con nấy, nó có nói năng hay hành động quá quắt một tí cũng có gì lạ. Nghĩ đến đây bất giác nó thấy buồn, lâu lắm rồi cảm giác này mới lại tìm tới. Bị người ta cười chê, coi thường, nó vốn đã quen rồi. Nhưng nếu lời đồn là thật, vậy cậu ta chính là người thân hiếm hoi còn lại trên đời của nó, ngoại trừ bố ra. Chuyện này thật diệu kỳ làm sao. Một người như thế, xuất thân từ dòng tộc cao sang khác hẳn nó, sống trong ngôi biệt thự truyền thuyết tuy cùng lối ngõ nhưng hoàn toàn cách biệt với nó, vậy mà hai đứa lại là máu mủ ruột già của nhau. Người đó là thứ gì trên mây, hoặc trong giấc mộng mà thôi. Mối liên hệ với người đó chính là thứ tinh khiết, xinh đẹp duy nhất tồn tại giữa cuộc sống bùn nhơ thường ngày của con bé.

Bầu trời dường như bị cơn mưa hút lấy trơ ra một vệt nứt sâu thẳm, mưa gần ngớt hẳn, chỉ còn những tầng mây nặng trịch tắc lại không chịu tan. Phương Đăng phủi phủi đôi bàn tay đầy bùn đất, ngồi vắt vẻo trên tường cao nhìn xuống. Nó là đứa bé con nhà thôn dã, lấy mặt đất dốc đứng cùng cây xoài bên đường làm đà trèo lên bức tường đã xiêu đổ của Phó gia viện, chẳng phải chuyện khó lắm. Góc này không trông ra ngõ, chẳng ai phát hiện nó được. Hàng rào sắt nhọn hoắt, thẳng băng trên đỉnh tường vừa hay bị lở mất một đoạn đủ cho nó ngồi lên trên.

Nhóp nhép cái kẹo cao su lão Đỗ cho ban trưa, nó rướn cổ ngó nghiêng bốn phía. Căn phòng nhỏ cậu ta ở nằm ngay trước mặt, nhưng cửa ra vào lẫn cửa sổ hướng ra phía khác. Dưới chân nó, một mảnh đất trống rộng thênh thang. Trong góc vườn có một cái đình nghỉ mát mái sụt mất một nửa, bên cạnh là miệng giếng, xung quanh hoa cỏ xanh tươi, khác hẳn vẻ hoang liêu nơi cổng chính. Phương Đăng đang phân vân có nên nhảy xuống xem cho rõ, chợt hiểu ra mỗi một cành cây ngọn cỏ nơi này vì sao được chăm sóc tốt đến thế. Nó thấy cái người mình tìm đang cầm cây kéo làm vườn, cắm cúi tỉa tót một chậu kiểng chẳng rõ tên ở góc rẽ tận cuối tầm mắt. Cậu ta chắc chưa biết có một vị khách không mời đang ngồi trên tường cao kia.

Ở bên ngoài cậu ta khiến người khác cảm thấy khó gần, tuy chưa đến mức lạnh nhạt, nhưng cái vẻ xa lạ ấy cứ như dùng một tấm màn ngăn bản thân khỏi tất cả mọi sự. Chuyện lúc trưa thật khiến Phương Đăng bối rối. Con bé nghĩ chắc ở nhà cậu ta cũng ngất ngưởng như thế, giống như một đứa trẻ con nhà có tiền giàu từ trong trứng giàu ra ấy. Mặc dù con nhà có tiền thường làm cái gì, về cơ bản là nó không biết. Dù sao cũng không thể như nó đang thấy: Tay áo xắn cao, ống quần bị nước mưa đọng trên hoa cỏ làm ướt cả, một bên mặt còn lấm chút bùn.

Động tác của cậu ta thật thuần thục, ánh nhìn chăm chú, cây kéo làm vườn trong tay nhẹ nhàng linh hoạt, trông cậu dịu dàng hơn nhiều. Phương Đăng bỗng táo tợn hẳn lên, nhặt lấy một miếng gạch vỡ, ném về phía đó. Viên gạch rơi đúng vào ngọn cây ngọc lan trước mặt cậu thiếu niên. Cái cây khẽ lay động, những giọt nước bắn tóe lên, cậu ta đưa tay hứng lấy. Ngẩng lên nhìn, thấy Phương Đăng đang ngồi trên tường, lần này rõ ràng là cậu kinh ngạc.

“Phó Kính Thù, anh có phải là Phó Kính Thù không?” Cảm thấy câu hỏi của mình hơi kỳ, Phương Đăng tự bưng miệng cười.

“Cô đi theo tôi làm gì?” Cậu ta không cười, cũng không có vẻ giận.

Phương Đăng đáp: “Hóa ra anh biết nói à. Tôi tưởng anh bị câm cơ. Sao lúc trưa không nói gì?” Cô nhóc muốn tỏ vẻ ngầu, cố thổi một quả bóng thật to, ai ngờ thổi mạnh quá bóng vỡ, dính đầy cả mặt.

Chẳng rõ khóe miệng người kia có phải vừa nhếch lên hay không nữa. Cậu ta nói: “Trưa nay á? À… Tôi sợ cô sẽ bịp cả tôi.”

Nói những lời như thế mà trông cậu ta thật hời hợt. Phương Đăng hầm hầm liếm kẹo cao su dính quanh miệng, mấy thứ này đã dính thật khó làm sạch. “Cái kẹo lởm này!” Nghĩ sơ cũng hiểu những thứ lão Đỗ cho làm gì có cái gì tốt đẹp! Nó không chịu thừa nhận, tâm trạng mình bỗng chốc rối ren chỉ vì một câu nói vô tình mà đâm trúng chỗ hiểm của Phó Kính Thù.

Phó Kính Thù chẳng buồn lên tiếng nữa, lại cúi xuống tỉa tót chậu kiểng tồi tàn, hình thù kỳ dị của mình. Phương Đăng càng nhai tợn, trong tim nỗi sợ thêm dầy.

“Lão ta chẳng phải giống gì tốt đẹp. Từ khi tôi dọn vào mắt lão cứ hấp ha hấp háy, chỉ chực giở quẻ.” Nó cúi đầu nhìn mũi chân mình chốc chốc lại đá bâng quơ vào mấy cành cây bên tường, “Ừ thì tôi cũng lợi dụng lão đấy, nhưng mà lão đáng bị như thế! Phải có người cho lão bài học chứ.”

Tuôn xong một tràng lý luận đanh thép, tự con bé cảm thấy nhạt nhẽo. Nó là sứ giả của chính nghĩa ư? Có heo mới tin.

“Bố tôi không đóng nổi tiền thuê nhà nửa tháng sau đâu. Với tôi tiền quan trọng lắm.” Con bé không muốn bị vợ chồng lão Đỗ đuổi đi, không muốn chuyển nhà nữa. Cái gác xép kia tuy có hôi hám nhưng cũng tốt lắm rồi, ít nhất nơi ấy có một khung cửa sổ.

Nó nín thở quan sát phản ứng của bên kia. Cậu ta vẫn chăm chú vào chậu cây, tỉa tỉa cắt cắt, có điều động tác chậm lại, lát sau lên tiếng: “Tôi không có rượu, không phải chủ nhà của cô, cũng không có tiền đâu.”

Chẳng phê bình luân lý đạo đức, không khinh lờn, càng không mảy may an ủi hay thương hại. Phương Đăng nghe xong, tâm trạng quay ngoắt một trăm tám mươi độ, trở lại vẻ láu lỉnh, cười hi hi nói: “Anh mà không có tiền? Phòng thì to ngần này, vườn thì rộng ngần này.” Con bé vừa nói vừa khoa chân múa tay, “Có cái gì mà anh không có kia chứ?”

Hứng chí ngọ nguậy quá đâm ngồi không vững, suýt tí nữa con bé rớt khỏi tường.

Phó Kính Thù nói: “Tôi không có tiền mua thuốc cho người nào ngã gãy chân đâu.”

Phương Đăng phát hiện, tính cách cậu ta không mấy nhiệt tình, nhưng giọng nói lại khiến người ta cảm thấy như được đắm mình dưới cơn gió xuân. Dịu dàng, tiết chế, không gấp quá cũng không chậm quá, dường như bẩm sinh đã có sức mạnh mê hoặc lòng người. Nó nghĩ, giả sử giọng nói ấy bảo nó đêm là ngày, sợ rằng nó cũng tin.

“Anh cần làm gì nữa không, tôi giúp cho. Hay tôi tưới hoa cho, tôi khỏe phết đấy.”

“Cảm ơn, vừa mưa xong, cô tưới nữa thì hoa chết hết… À này, cô đừng có mà nhảy xuống…”

Cậu ta nói chưa dứt câu, Phương Đăng đã nằm gọn trên bãi cỏ dưới chân tường.

“… Cẩn thận!”

Phương Đăng định bò dậy, thình lình trông thấy một con chó to nằm phục trong bụi cỏ không xa, nghĩ đến nửa câu sau của Phó Kính Thù, người chợt run bắn lên.

Nếu sớm biết trong vườn có chó, dĩ nhiên nó sẽ cẩn thận hơn.

“Ôi mẹ ơi… Giữ chó nhà anh lại đi!” Phương Đăng bưng mặt co rúm người lùi lại.

Phó Kính Thù chẳng phản ứng gì, con chó trắng cũng không thèm động đậy. Phương Đăng dụi dụi mắt. Chẳng trách con bé nhìn lầm, trời còn âm u, pho tượng con chó bằng đá trắng thì nằm trong cỏ, cả về kích thước, tư thế đều y như chó thật.

“Tôi bảo cô cẩn thận kẻo sái chân.”

“Có một câu mà không nói cho hết ra!” Mặt mày lem luốc, Phương Đăng đến gần ngắm nghía con chó đá. Không đúng, “con chó” này hàm dưới nhọn hơn, hai tai vểnh ngược, dù đặt trong vườn bị mưa gió bào mòn, những đường nét chạm khắc đã không còn sắc sảo nữa nhưng vẫn đủ khiến người ta nhìn ra thần thái hoang dã kỳ dị của nó. Đây không phải chó, mà là hồ ly.

“Chẳng trách có người gọi nhà anh là ‘biệt thự hồ ly’.” Mới đầu nghe qua cái tên này, Phương Đăng còn ngỡ là do cách phát âm chữ “Phó” và “Hồ”[3] ở đây có chút tương đồng, giống như họ gọi “Phương Học Nông” thành “Phương Huyết Nùng” vậy. Không ngờ nơi này có “hồ ly” thật.

Vừa nói nó vừa quay sang nhìn Phó Kính Thù, ngạc nhiên phát hiện cậu ta đang cười. Là vì nó ngã trông buồn cười à? Cậu nên cười nhiều một chút mới phải. Trong mắt Phương Đăng, mỗi khi cười, dường như quanh Phó Kính Thù lờ mờ tỏa ra hào quang.

“Anh cũng là hồ ly phải không?” Phương Đăng biết mình lại nói lời ngốc nghếch. Nhưng giữa khu vườn tuyệt đẹp mà hoang lạnh, một người như thế đứng đó, dưới ánh sáng nhập nhoạng của buổi hoàng hôn, thật dễ khiến người ta tưởng tượng viển vông.

Người đó càng cười toe toét, “Cô bây giờ còn giống hồ ly hơn.”

Phương Đăng ngẩn ra một lúc mới hiểu ngụ ý trong lời nói này: Nó nằm bò dưới bãi cỏ, đối diện con cáo đá, hai bên quan sát lẫn nhau, tư thế như thể cùng một bầy mà ra.

“Cũng phải, hồ ly thường rất là đẹp.” Con bé nói xong, thản nhiên đứng dậy chẳng thèm thẹn. Rất nhiều người khinh nó là con gái thằng nát rượu, nhưng cũng nhiều người phải thừa nhận, lão nát rượu Phương Huyết Nùng có một đứa con gái xinh đẹp.

Phương Đăng sực nghĩ ra điều gì, chợt nhìn Phó Kính Thù chằm chằm.

“Sao mà nhìn ghê vậy?” Phó Kính Thù tuy là ông cụ non, nhưng tuổi còn nhỏ, bị Phương Đăng nhìn chằm chặp như thế cảm thấy không thoải mái cho lắm.

Phương Đăng không vòng vo, “Ai cũng bảo tôi hơi giống cô Chu Nhan hồi trẻ, thế tôi với anh chắc hẳn có nét hao hao nhau chứ?”

Nụ cười trên mặt Phó Kính Thù vụt tiêu tan, như pháo hoa chợt tắt trong màn đêm. Cậu nhóc rũ rũ vụn lá bám trên kéo, cụp mắt cúi đầu, “Cô mau đi đi, đừng để già Thôi trông thấy, chú ấy nóng tính lắm.”

“Già Thôi là ai?”

Cậu ta rõ ràng chẳng còn hứng thú nói chuyện với nó nữa.

“Đi nhanh.”

“Ra đằng nào bây giờ?”

“Nhảy vào được thì trèo ra được.”


 

Giang Vi

Tôi là một người yêu sách cuồng nhiệt và đã hơn 20 năm. Tôi dành cả ngày để đọc, viết blog về sách và viết bình luận. Tôi tin rằng sách là công cụ mạnh mẽ nhất trong cuộc sống để mở mang đầu óc cho những ý tưởng và quan điểm mới. Các thể loại yêu thích của tôi bao gồm tiểu thuyết lịch sử, giả tưởng, khoa học viễn tưởng và phi hư cấu. Tôi cũng thích tìm hiểu về các nền văn hóa khác nhau thông qua văn học.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts:

Back to top button