Tiểu thuyết - ngôn tình

A Mạch Tòng Quân Tập 2

1. THÔNG TIN SÁCH/EBOOK

Tác giả : Tiên Chanh

Download sách A Mạch Tòng Quân Tập 2 ebook PDF/PRC/EPUB/MOBI. Tải miễn phí, đọc online trên điện thoại, máy tính, máy tính bảng.

Danh mục : TIỂU THUYẾT

Đọc thử Xem giá bán

2. DOWNLOAD

Download Ebook           

File ebook hiện chưa có hoặc gặp vấn đề bản quyền, Downloadsach sẽ cập nhật link tải ngay khi tìm kiếm được trên Internet.

Bạn có thể Đọc thử hoặc Xem giá bán.

Bạn không tải được sách ? Xem hướng dẫn nhé : Hướng dẫn tải sách


3. GIỚI THIỆU / REVIEW SÁCH

Lời giới thiệu


A Mạch, từ một bé gái ngây thơ, cả ngày chỉ có Trần Khởi ca ca, bỗng chốc cha mẹ mất, Trần Khởi ca ca thành kẻ thù, không còn nơi nào để đi, không còn nhà để về, đã dần phải trở lên mạnh mẽ.

Cái cay đắng, uất ức, tủi thân của một cô gái giả trang, rồi ra chiến trường, nếm mật nằm gai, không phải ai cũng có thể hiểu được. Không phải là một câu chuyện cổ tích của một cô bé lọ lem giả trai tìm được hoàng tử, mà là quá trưởng thành đổi bằng máu và rất nhiều nước mắt của một cô gái.

A Mạch- từ một con chim nhỏ lay lắt giữa gió mưa, đã từng bước trở thành con đại bàng sải cánh trên bầu trời, tung hoành bốn phương. Nàng cũng từng bước chạm tay vào quyền lực, cũng từng vì thù hận, không cam lòng mà muốn xưng đế một phương. Nàng xinh đẹp, thông minh, tình nghĩa, quyết đoán, nhưng cũng tàn nhẫn đến lạnh lùng. Tàn nhẫn với những người tổn thương nàng, cũng tàn nhẫn với chính mình. Nhưng trong sâu thẳm, vẫn có trái tim của một cô gái đang đập. Trái tim đấy cũng biết yêu, biết tổn thương, biết hờn giận, biết tha thứ. A Mạch, có lẽ là hình mẫu nữ cường nhân nếu ở thời hiện đại.

ĐỌC THỬ

Quyển 4TỰ RÈN LUYỆN KIẾM PHÁP BƯỚC ĐẦU BỘC LỘ

Chương 1TRỞ VỀ – OAN GIA – KIẾM PHÁP

Mùa thu năm thứ ba lịch Nam Hạ, Đường Thiệu Nghĩa thống lĩnh một vạn kỵ binh lén tấn công vào kho lương thảo quân Bắc Mạc ở Dự Nam Bão Mã Xuyên, chỉ một ngọn đuốc đã thiêu trụi lương thảo dự trữ hơn nửa năm của quân Bắc Mạc. Ngọn lửa đốt lương thảo bốc rợp trời chiếu đỏ nửa thành Dự Châu, khiến tiểu hoàng đế Bắc Mạc lúc đó tức giận đập vỡ bát trà trong tay, lập tức ra lệnh kỵ binh Bắc Mạc xuất kích trong đêm nhằm vây chặn đội kỵ binh của Đường Thiệu Nghĩa. Từ Bão Mã Xuyên tới cửa hang núi Ô Lan, cả chặng đường tám trăm dặm Dự Châu nhuộm đỏ máu. Tới lúc rút vào núi Ô Lan, một vạn kỵ binh của Đường Thiệu Nghĩa đã bị tổn thất quá nửa, nhưng điều này vẫn không gây trở ngại đến việc Đường Thiệu Nghĩa trở thành anh hùng dân tộc mới của Nam Hạ.

Tin tức truyền tới Thịnh Đô vào cuối tháng Chín, triều đình Nam Hạ bỗng chốc sôi sục, nghe nói nguyên soái quân Giang Bắc Thương Dịch Chi đang ở Thịnh Đô ngay lập tức dâng tấu thư về chí khí hào hùng oanh liệt, nói trắng ra là lần hành quân này của Đường Thiệu Nghĩa tuy hoàn thành dưới sự chỉ huy của phó tướng quân Giang Bắc Lý Trạch nhưng cũng không tách rời khỏi sự chỉ huy của chính Thương Dịch Chi. Để phản công quân Bắc Mạc, chàng khẩn thiết yêu cầu trở lại chiến trường Giang Bắc.

Có ai ngờ tấu thư này lại biệt tăm biệt tích như đá chìm nơi đáy bể.

Những người có con mắt tinh đời đều biết triều đình đã triệu Thương Dịch Chi từ Giang Bắc về tức là không muốn thả chàng nữa. Tiếc là Thương Dịch Chi lại không hề hay biết, thấy dâng tấu thư đã lâu không có tin tức gì, liền cầu xin mẫu thân công chúa Thịnh Hoa Trường vào cung nói chuyện với Thánh thượng.

Mồng sáu tháng Mười, trường công chúa một mình vào cung gặp mặt Thánh thượng, huynh muội đóng cửa nói chuyện hồi lâu.

Mồng chín tháng Mười, trong triều ra lệnh thưởng, phong Đường Thiệu Nghĩa chức Kỵ Lang tướng, lại phong làm phó tướng tả quân Giang Bắc. Nguyên phó tướng quân Giang Bắc Lý Trạch được phong chức Phiêu Kỵ tướng quân, lại phong làm phó tướng hữu quân Giang Bắc. Thương Dịch Chi làm nguyên soái quân Giang Bắc, phong làm Vĩnh Xương Hầu. Vệ Hưng Trừ Thiêu Kỵ đô úy, phong làm đại tướng quân kiêm tổng đốc các cánh quân mã Giang Bắc.

Lệnh này được ban ra, Thương tiểu hầu gia trên triều suýt nữa trở mặt bỏ đi, nhưng cuối cùng vẫn sầm khuôn mặt tuấn tú gắng đợi tới lúc bãi triều, vừa ra khỏi triều liền đi thẳng tới chỗ ở trường công chúa trong phủ hầu. Hai mẹ con bàn bạc chuyện gì người hầu kẻ hạ cũng không biết, chỉ thấy Thương tiểu hầu gia cao ngạo bước ra từ lúc hoàng hôn rồi qua đêm ở chốn mua hương bán phấn trên sông Thanh Thủy, ngoài thành Thịnh Đô. Thương tiểu hầu gia ngang nhiên chơi gái đương nhiên khiến trường công chúa vô cùng tức giận. Còn chưa thấy trường công chúa có hành động gì thì tiểu thiếp vốn được sủng ái trong hầu phủ, dám tranh cãi với cả tiểu hầu gia lại không ghìm được tức giận đưa theo hai gia nô chạy thẳng tới chiếc thuyền nhỏ được trang trí hoa lệ trên sông Thanh Thủy, chặn họng Thương tiểu hầu gia đang ngồi uống rượu bàn về lý tưởng cuộc đời với vài thanh quan nổi tiếng Thịnh Đô, tiếp đó tiến lên đập phá chiếc thuyền hoa. Nếu như bình thường, Thương tiểu hầu gia vốn có tiếng phong lưu đa tình đương nhiên không tính toán với nàng tiểu thiếp, nhưng hôm nay chàng vừa phải chịu cú sốc lớn trong đời, trong lòng vô cùng bức xúc, làm sao có thể tha thứ cho sự ngang ngược của tiểu thiếp, trong lúc tức giận liền giơ tay bạt tai nàng thiếp. Nào ngờ nàng thiếp tính tình cương liệt, trong lúc tức giận đã nhảy sông tự vẫn. Chỉ nghe bõm một tiếng, tiểu hầu gia kinh hãi bừng tỉnh, cho dù có ngang ngược thế nào cũng là do mình quá sủng ái mà ra, lòng nào nỡ chứ?

Tiểu hầu gia vội vàng gọi người nhảy xuống cứu, nhưng đèn đóm tối om thế này, lại đúng thời điểm mặt sông nổi gió, sao tìm được bóng người. Chờ tới sáng hôm sau, vẫn chưa vớt được tiểu thiếp kia. Một cô gái xinh đẹp như vậy, lại vùi thân dưới sông Thanh Thủy, người đời có thơ làm chứng:

Thanh Thủy dập dềnh bóng trời trong vắt

Thuyền hoa hoàng hôn đối mỹ nhân

Thương thay mỹ nhân chất vấn nhà thổ

Tình ái phôi pha quyết liều mình.

Tuy nhiên đó chỉ là câu chuyện được lưu truyền trong thị phường mà thôi, còn sự thật thế nào dân chúng không hề hay biết.

Ngày mười hai tháng Mười, Vệ Hưng từ Thịnh Đô khởi hành tới nhậm chức đại tướng quân Giang Bắc. Vệ Hưng là người ấp Sở Đông Giang, hơn ba mươi tuổi, rất tinh anh, thông minh, nhưng tướng mạo bình thường, là thủ lĩnh cấm quân, sinh ra trong nhà tướng, là người hiện giờ được thiên tử tin cẩn.

Bên bờ sông Thanh Thủy, A Mạch đã xuất hiện thanh tú với bộ quân phục nhung hào hứng đứng trên bến thuyền, nàng đã hoàn toàn khôi phục được thân phận chủ tướng Mạch Huê doanh trại bảy quân Giang Bắc.

Đại tướng quân Vệ Hưng không hề để ý tới việc A Mạch, Thương Dịch Chi về kinh, mang theo mấy tướng lĩnh tâm phúc chẳng phải chuyện gì lạ, thêm vào đó lần này Vệ Hưng tới nhậm chức đại tướng quân Giang Bắc, Thương Dịch Chi tuy không bằng lòng lắm nhưng trên mặt vẫn cố làm ra vẻ bình thường, song vẫn phải cử cho Vệ Hưng mấy tay tướng lĩnh đắc lực, đến cả ba mươi sáu cận vệ nổi tiếng tuấn tú ở Thịnh Đô cũng tặng cho Vệ Hưng quá nửa. Vệ Hưng cũng chẳng muốn suy tính sâu xa là Thương Dịch Chi đang tính bài gì.

A Mạch bái kiến Vệ Hưng xong liền lui về thuyền phó ở phía sau. Mãi tới khi thuyền đi qua núi Thúy, nàng mới ra ngoài, ngây người ngắm thế núi Thúy dốc cao nghìn thước bên sông Thanh Thủy. Đang xuất thần, đột nhiên nàng phát hiện tốc độ di chuyển của thuyền rõ ràng chậm hẳn lại. A Mạch nghi ngờ ngẩng đầu nhìn thấy thuyền chính của Vệ Hưng ở phía trước đã dừng lại. Một chiếc thuyền nhỏ dần sáp vào mép thuyền. Thuyền chính thả thang dây xuống, một thanh niên mặc áo gấm bước ra từ khoang thuyền nhỏ, nắm lấy thang leo lên. Người đó vừa trèo lên thuyền vừa quay đầu lại nói vọng về phía thuyền nhỏ: “Tắc Nhu, quay về sớm đi!”.

Không nghe thấy tiếng đáp lại trên thuyền nhỏ, A Mạch thấy động lòng liền tiến về phía trước mấy bước, nàng đứng trên mũi thuyền nhìn về thuyền nhỏ, chỉ thấy ngoài thanh niên đó không còn ai. Nhưng khi nhìn xuyên qua rèm trúc ở mé thuyền, nàng lờ mờ thấy bóng một cô gái đang ngồi lặng lẽ trong khoang thuyền.

Người thanh niên mặc áo gấm đã trèo lên thuyền chính, chiếc thuyền nhỏ đằng sau dần trôi xa. Người đó vẫy tay về phía thuyền nhỏ hồi lâu mới quay người lại, lúc này A Mạch mới nhìn rõ mặt người đó. Nàng đột nhiên thất kinh, không ngờ hắn đã lên thuyền chính của Vệ Hưng.

Người đó trong lúc quay đầu cũng nhìn thấy A Mạch, bất giác sững người, hắn ngây người nhìn nàng, dường như có đôi chút không dám nhận, lát sau đột nhiên ngoác miệng nở nụ cười rạng rỡ vẫy mạnh tay về phía A Mạch rồi hét lên: “Tiểu huynh đệ!”.

A Mạch trong giây lát chỉ mong sao có thể nhảy xuống dòng Thanh Thủy, trong lòng thầm nghĩ trên đời này tại sao còn có người không nhớ mình đã bị đánh như vậy. Hôm đó nàng đã đánh hắn một trận nhừ tử, thế mà bây giờ hắn còn vẫy tay phấn khởi gọi to tên nàng. A Mạch không nói không rằng, quay người lặng lẽ bước vào khoang.

Đêm đến, thuyền đậu ở Thanh Hồ, A Mạch lại ngửi thấy mùi thơm phảng phất từng hồi, nàng nhíu mày. Bỗng từ bên ngoài vọng tới tiếng gõ cửa, có người khẽ gọi: “Mạch tướng quân đang ở trong phải không?”.

A Mạch bất lực, biết không trốn được nữa đành phải ra mở cửa. Vừa mở cửa khoang thuyền mùi thơm nồng xộc vào mũi, nồng nặc tới mức A Mạch bất giác phải ưỡn người nheo mắt nhìn người vừa tới.

Người đó vẫn mặc áo gấm, lưng giắt chiếc quạt gấp, nắm chặt hai tay chào A Mạch, rồi cười ra vẻ phong lưu, nói: “Tham quân dưới trướng Vệ đại tướng quân Lâm Mẫn Thận đã ngưỡng mộ đại danh của Mạch tướng quân từ lâu, hôm nay mới gặp thật vinh hạnh!”.

A Mạch thấy hắn không hề nhắc tới chuyện ở núi Thúy hôm trước, cũng đành giả bộ hồ đồ, chắp tay tạ lễ: “Lâm tham quân, vinh hạnh!”.

Lâm Mẫn Thận thấy A Mạch không trở mặt với mình, trong lòng hớn hở, khó khăn lắm mới giả bộ đứng đắn nhưng sự đứng đắn đó nhanh chóng biến mất, hắn giơ tay kéo cổ tay A Mạch: “Mạch tướng quân, chúng ta…”.

Cổ tay A Mạch ấn mạnh xuống, lật lại ép cánh tay Lâm Mẫn Thận xuống khung cửa rồi lạnh lùng nói: “Không biết Lâm tham quân tìm Mạch mỗ có chuyện gì?”.

Lâm Mẫn Thận cười gượng, ngượng ngùng rụt tay lại đáp: “Người nhà mới làm mấy món ăn, muốn mời Mạch tướng quân cùng uống rượu thưởng nguyệt trên Thanh Hồ”.

A Mạch thấy hắn là tham quân trong trướng Vệ Hưng, nên không muốn đắc tội với hắn, đành đáp: “Đa tạ ý tốt của Lâm tham quân, có điều trong quân không cho phép uống rượu, Mạch mỗ không dám vi phạm quân phép”.

“Ồ, thế à!”

Mặt Lâm Mẫn Thận thoáng lộ vẻ thất vọng, nhưng mắt vẫn nhìn A Mạch chằm chằm.

“Không, không sao.” Lâm Mẫn Thận đáp.

“Vậy mời tham quân về cho, Mạch mỗ muốn nghỉ ngơi.” A Mạch lạnh lùng hạ lệnh đuổi khách.

Lâm Mẫn Thận thấy A Mạch nói thẳng như vậy, quả thực không tìm được cớ gì để nán lại lâu hơn, đành không cam tâm tình nguyện quay người bỏ đi. Đi được hai bước lại nghe thấy A Mạch gọi phía sau: “Lâm tham quân!”.

Lâm Mẫn Thận trong lòng vui lắm, vội vàng quay người lại, cố mỉm cười nhìn A Mạch hỏi: “Mạch tướng quân gọi ta có chuyện gì?”.

A Mạch chần chừ một lát rồi mở miệng hỏi: “Không biết Lâm tham quân và Lâm Tương có…”.

“Đó là gia phụ của ta.” Lâm Mẫn Thận vội vàng đáp lại, mặt lộ rõ vẻ đắc ý.

A Mạch thầm nghĩ: Chả trách chỉ là một tham quân lại dám không cùng lên thuyền với đại tướng quân Vệ Hưng, mà ngồi thuyền riêng từ vườn nhà họ Lâm ra, ngoài việc là con nhà dòng dõi, có lẽ cũng có sự cho phép ngầm của Vệ Hưng. Có thể thấy quan hệ giữa người này và Vệ Hưng không bình thường. Nghĩ tới đây, vẻ lạnh lùng trên khuôn mặt A Mạch hơi giãn ra, nàng khẽ nhếch mép.

Lâm Mẫn Thận phút chốc ngỡ ngàng vì được sủng ái liền nhấc chân định quay lại.

A Mạch thấy vậy vội vàng giơ tay ngăn hắn, nói: “Tốt nhất Lâm tham quân nên về thuyền nghỉ ngơi sớm đi!”.

Lâm Mẫn Thận tuy không vui nhưng cũng không muốn làm trái ý người đẹp, lại nghĩ ngày rộng tháng dài, không nên quá vội vàng, nếu khiến người đẹp không vui lại dở, liền cười nói: “Thế cũng được, tại hạ không làm phiền Mạch tướng quân nghỉ ngơi nữa, cáo từ!”.

Nói rồi hắn chắp tay cáo từ A Mạch nhưng ánh mắt vẫn không chịu rời khỏi khuôn mặt A Mạch.

A Mạch trong lòng tức lắm, nhưng vẫn không thể hiện ra mặt chỉ nói: “Tham quân đi cẩn thận!”.

Nói rồi nàng đóng cửa khoang thuyền, quay lại giường ngồi một lát, quả thực không chịu nổi, ngồi được một lúc lại đứng dậy cửa mở khoang thuyền. Quả nhiên Lâm Mẫn Thận vẫn đang đứng ở cửa, thấy A Mạch đột nhiên mở cửa, trong mắt lộ rõ vẻ vui mừng, mở miệng định nói gì đó nhưng A Mạch đã nói trước: “Lâm tham quân, Mạch mỗ có lời không biết có nên nói không”.

Lâm Mẫn Thận vội vàng đáp: “Xin cứ nói, cứ nói!”.

A Mạch do dự một hồi rồi nói: “Lâm tham quân, trong quân rất ít người xông trầm. Lâm tham quân đã vào trướng của đại tướng quân, cả người thơm phức thế này e rằng…”.

Nói tới đây, A Mạch dừng lại một chút, nàng đưa mắt nhìn Lâm Mẫn Thận.

Lâm Mẫn Thận cũng ngây người nhìn A Mạch, mãi tới khi nàng khẽ nhíu mày hắn mới định thần lại vội vàng đáp: “Hiểu rồi, tại hạ hiểu rồi”.

A Mạch nói thêm một câu: “Đa tạ”, rồi đóng cửa lại.

Lâm Mẫn Thận vẫn ngây người đứng đó nhớ lại từng hành động nhíu mày, từng nụ cười, từng câu từng lời của A Mạch, nhưng rốt cuộc vẫn không hiểu câu “Đa tạ” của nàng là ý gì. Một lát sau có một người đi tới, người đó ngỡ ngàng nhìn Lâm Mẫn Thận, lúc này hắn mới định thần lại, quyến luyến không muốn rời đi.

Lâm Mẫn Thận trở về thuyền chính, vẫn chưa về đến khoang của mình thì có binh sĩ tới truyền lệnh đại tướng quân muốn gặp hắn. Lâm Mẫn Thận không kịp nghĩ gì thêm, vội đi theo tên lính đó, nhận thấy Vệ Hưng đang đợi mình trong thuyền liền hỏi phủ đầu: “Đại tướng quân tìm bỉ chức có chuyện gì?”.

Qua tai mắt, Vệ Hưng biết được Lâm Mẫn Thận đôn đáo tìm người dò hòi tình hình của chủ tướng doanh bảy Mạch Huê liền cười nói: “Nghe nói ngươi tìm người hỏi Mạch Huê, có đúng không?”.

Lâm Mẫn Thận thấy Vệ Hưng hỏi chuyện này liền ngồi xuống ghế đáp: “Bỉ chức từng gặp mặt người ta một lần ở núi Thúy, cũng coi là quen biết, có điều không biết danh tính của người ta, càng không ngờ lại là quân Giang Bắc”.

Vệ Hưng nhìn Lâm Mẫn Thận, thấp giọng hỏi: “Người này thế nào?”.

“Tuyệt! Quả thật rất tuyệt!”

Lâm Mẫn Thận đập quạt vào lòng bàn tay đáp luôn, tới lúc nhận thấy nét mặt kỳ lạ không che giấu trên mặt Vệ Hưng mới nhận ra chữ “Tuyệt” này quả thực không nên dùng để mô tả một tướng quân có chiến công lừng lẫy như vậy.

Lâm Mẫn Thận nhếch miệng vội vàng bổ sung: “Lần đầu gặp ngỡ ngàng vì vẻ đẹp, lần sau gặp lại vẫn thấy vậy!”.

Trên mặt Vệ Hưng không hề có phản ứng gì, Lâm Mẫn Thận vội vàng cúi đầu nghĩ lại, rồi ngẩng đầu nhìn Vệ Hưng dò hỏi: “Tài hoa khiến người ta ngỡ ngàng, văn chương mỹ miều?”.

Thấy khuôn mặt Vệ Hưng giãn ra, lúc này Lâm Mẫn Thận mới vui vẻ trở lại, hắn đưa quạt đập vào đùi kêu lên: “Đúng vậy, đúng là tài hoa khiến người ta ngỡ ngàng, văn chương mỹ miều!”.

Lâm Mẫn Thận lắc đầu lải nhải mấy chữ “Tài hoa khiến người ta ngỡ ngàng, văn chương mỹ miều”, không biết đang thưởng thức cụm từ này hay là người đó nữa. Vệ Hưng không nói gì, tuy từ lâu đã biết Lâm công tử là kẻ dại gái, nhưng cảm giác nhìn từ phía xa kẻ dại gái này khác hoàn toàn với khi ở gần. Vệ Hưng đang nghĩ làm thế nào đuổi ông kễnh này đi thì chợt Lâm Mẫn Thận lên tiếng trước: “Đại tướng quân, lần này chúng ta tới núi Ô Lan lạ nước lạ cái, tại sao không triệu mấy vị tướng như Mạch Huê tới đây ở, một là có thể hỏi về tình hình trong quân Giang Bắc, hai là có thể để họ hiểu hơn về chúng ta, tránh sau này phát sinh khoảng cách”.

Vệ Hưng đương nhiên biết tỏng ý đồ của Lâm Mẫn Thận, tuy vậy cũng không nói trắng ra, chỉ đáp: “Có lý, có điều còn phải chờ nghe ý kiến của mọi người trong buổi họp sáng mai rồi hẵng hay. Nếu bị người ta hiểu nhầm là mình muốn khống chế họ thì chẳng hay chút nào, hơn nữa nếu đều dọn tới ở trên thuyền này, cũng không tránh khỏi chật chội”.

Lâm Mẫn Thận thấy Vệ Hưng nói vậy, cũng không dám nêu ý kiến thêm đành nói: “Đại tướng quân suy nghĩ thấu đáo, chờ sáng mai hỏi mọi người, cũng có thể để họ hiểu cách đối nhân xử thế của đại tướng quân”.

Vệ Hưng gật đầu không nói gì, Lâm Mẫn Thận thấy vậy cũng không còn tâm trạng nán lại, liền nói xã giao với Vệ Hưng thêm mấy câu nữa rồi đứng lên cáo từ. Về khoang thuyền của mình hắn liền sai người nấu nước tắm, kỳ cọ sạch sẽ mùi thơm trên người, đến cả bộ áo gấm được xông trầm cũng sai người vứt xuống Thanh Hồ, làm việc kể ra cũng dứt khoát, nhanh chóng.

Sớm hôm sau, A Mạch cùng các tướng lĩnh đi thuyền tới, nhìn thấy Lâm Mẫn Thận đã thay quân trang, trên người không còn mùi thơm, vai rộng lưng thẳng, trông tên tiểu tử này cũng tạm coi là tuấn tú.

Hiển nhiên Lâm Mẫn Thận cũng nhận thấy vẻ sững sờ của A Mạch, trong lòng đắc ý lắm, bắt đầu đưa mắt ra hiệu với nàng. A Mạch liền nhìn ra hướng khác, giả bộ không nhìn thấy.

Hôm trước lúc mới lên thuyền, A Mạch cùng mấy lão tướng Giang Bắc đã nhìn thấy Vệ Hưng, mặc dù biết người này chưa từng cầm quân đánh trận, nhưng vốn là một thị vệ mà được dần thăng chức làm thủ lĩnh cấm quân, chắc có chỗ hơn người, nên đều tỏ ra cung kính trong từng hành động, lời ăn tiếng nói. Thấy đám A Mạch như vậy, Vệ Hưng tự nhiên cũng tỏ ra là người hiểu biết coi trọng nhân tài, bình dị dễ gần, không hề tỏ ra kênh kiệu, không khí trong khoang thuyền rất vui vẻ.

Nói chuyện một hồi, Vệ Hưng đề nghị đám A Mạch chuyển lên ở thuyền chính, đám A Mạch đưa mắt nhìn nhau, cuối cùng phó tướng Trương – người có chức cao nhất – đứng dậy, cúi mình nói: “Ý tốt của tướng quân không nên từ chối, có điều đám thuộc hạ chỉ mấy ngày nữa sẽ tiến vào Uyển Giang, bọn giặc vẫn chưa tấn công Thái Hưng, nhưng ở Uyển Giang đã có thuyền bè của giặc ra vào rồi, nếu đám thuộc hạ được cùng đi trên một thuyền với đại tướng quân tuy có thể tiện nghe chỉ dạy của đại tướng quân, nhưng cũng sợ sẽ khiến bọn giặc chú ý, chi bằng cứ chia nhỏ ra, có thể phân tán sự chú ý của giặc, nếu gặp tình hình gì cũng dễ xử lý hơn”.

“Đã có thuyền của giặc ra vào ở Uyển Giang rồi sao?” Vệ Hưng quay về phía A Mạch hỏi.

“Đúng vậy.”A Mạch vội vàng đứng dậy đáp.

“Ngay từ lúc bao vây Thái Hưng Chu Chí Nhẫn đã bắt đầu đóng thuyền huấn luyện thủy quân, lúc này tuy chưa có khả năng phong tỏa cả Uyển Giang, nhưng Giang Bắc đã bị hắn khống chế, lúc thuyền của quân ta tới sẽ đi vào bờ nam. Lần trở về này để đề phòng bất trắc, đại tướng quân cũng nên đổi sang thuyền khác thì tốt hơn.”

Vệ Hưng gật đầu cho là phải, nhưng Lâm Mẫn Thận khó giấu được vẻ thất vọng, đột nhiên lên tiếng: “Mạch tướng quân, vậy ta lên thuyền của tướng quân có được không? Vừa hay có chút việc quân chưa được rõ lắm, rất muốn được thỉnh giáo Mạch tướng quân”.

A Mạch vừa đặt mông xuống mặt ghế, nghe thấy vậy suýt nữa nhảy lên, nàng cố nhịn, hít dài một hơi, nói: “Không dám nhận hai chữ “thỉnh giáo” của Lâm tham quân, Mạch mỗ chỉ là một doanh tướng, nên không thạo việc quân lắm, Lâm tham quân nếu muốn tìm hiểu việc quân, tốt nhất nên thỉnh giáo Trương phó tướng”.

Lâm Mẫn Thận đưa mắt nhìn theo ánh mắt A Mạch sang Trương phó tướng râu hùm hàm én, lại quay ra nhìn A Mạch, mắt ánh lên vẻ ai oán, không hề kiêng dè các tướng lĩnh đang ngồi đó.

Người của Vệ Hưng đều biết tính khí của Lâm Mẫn Thận, nhưng đám Trương phó tướng quân Giang Bắc lại không biết lai lịch của Lâm Mẫn Thận, thấy hắn chẳng qua chỉ là một tham quân nhỏ nhoi trong trướng, lại dám to gan tùy ý nói chuyện trước mặt đại tướng quân Vệ Hưng, thậm chí sau khi A Mạch từ chối khéo, trên mặt hắn vẫn tỏ thái độ, chứng tỏ chẳng coi Trương phó tướng ra gì.

Trong lòng đám người A Mạch khó tránh khỏi không vui, họ chỉ ngồi lặng im, chẳng thèm đếm xỉa gì tới Lâm Mẫn Thận.

Vệ Hưng tất nhiên nhận ra tâm trạng của đám Trương phó tướng, đành phải dàn hòa: “Đã như vậy thì phiền Trương tướng quân đem theo Mẫn Thận, hắn mới tòng quân, có rất nhiều điểm chưa hiểu, mong Trương phó tướng chỉ giáo”.

Trương phó tướng không dám làm bẽ mặt Vệ Hưng, tuy trong lòng không muốn nhưng vẫn đứng dậy đáp: “Tuân lệnh đại tướng quân”.

Lâm Mẫn Thận vốn chỉ muốn gần gũi A Mạch, giờ không những không đạt được nguyện vọng, ngược lại bị buộc với gã râu hùm hàm én, cao to đen hôi kia, trong lòng chẳng mong muốn gì, nhưng bị Vệ Hưng hằn học trợn mắt nhìn mới miễn cưỡng đứng dậy chắp tay qua quýt về phía Trương phó tướng:

“Đa tạ Trương tướng quân.” Tuy miệng nói vậy nhưng mắt hắn vẫn dán vào A Mạch.

Đám quân Giang Bắc đã lăn lộn trên sa trường, tuy hơi thô lỗ nhưng rốt cuộc không phải là kẻ ngốc, thấy ánh mắt Lâm tham quân không rời A Mạch, đám Trương phó tướng lúc này mới hoảng hốt nhận ra, họ không kìm được tò mò liền đưa mắt nhìn A Mạch.

A Mạch trong lòng vốn đã bực bội lắm rồi, nhưng vẫn cố giấu vẻ khó chịu, chỉ ngầm nghiến răng, hận rằng hôm đó đã không xuống tay nặng hơn. Nếu hôm đó khiến tên Lâm Mẫn Thận này tàn phế thì tốt biết bao. Lại thầm cầu mong ngày nào đó trăng tối gió mạnh có thể bắt gặp một mình Lâm Mẫn Thận, khi đó nàng sẽ trực tiếp đánh chết rồi ném xuống nước phi tang.

Có lẽ A Mạch đã tức tới mức hồ đồ rồi, nàng phải biết tên Lâm Mẫn Thận đang mong có thể đơn độc gặp nàng vào đêm trăng tối gió mạnh, không thể cùng thưởng nguyệt chuyện trò, chỉ cầu được đối diện với người đẹp cũng thỏa nguyện rồi.

Vệ Hưng nhận thấy Lâm Mẫn Thận mất hồn trước một Mạch tướng quân như vậy, không nén nổi tò mò ngầm liếc A Mạch hai cái, thấy A Mạch mặt mũi thanh tú ngũ quan đoan chính, cả khuôn mặt lẫn dáng người đều đẹp hiếm có, nhưng đó không phải vẻ đẹp nhu mì hiền lành giống như những cậu ấm được chiều chuộng trong các gia đình quyền quý chốn kinh thành, mà là vẻ đẹp hào khí tràn trề.

Trong lòng Vệ Hưng bất giác nghi ngờ, một thiếu niên như vậy làm thế nào có thể sinh tồn trong quân, lại còn được phong vị trí chủ tướng một doanh trại nữa chứ?

Lâm Mẫn Thận vẫn ngây người nhìn A Mạch, mặt A Mạch tỏ rõ vẻ tức giận. Vệ Hưng thấy vậy, vội vàng ho hai tiếng, rồi tuyên bố buổi họp sáng kết thúc. Đám A Mạch cáo từ về thuyền, Lâm Mẫn Thận thấy A Mạch sắp đi bèn theo sau, khiến Vệ Hưng phải vội vàng gọi hắn lại. Chờ mọi người đi hết Vệ Hưng mới nghiêm mặt dạy: “Mẫn Thận, ngươi đang ở trong quân, không được làm bừa”.

Ai ngờ Lâm Mẫn Thận không chút né tránh Vệ Hưng, trong ngữ khí lộ rõ vẻ buồn bã: “Vệ đại ca, huynh cũng biết mà, ngay lần đầu tiên nhìn thấy A Mạch ở núi Thúy, đệ đã biết đây chính là người đệ tìm kiếm cả đời”.

Vệ Hưng bất giác không nói gì, đặt tay lên trán, lòng thầm nghĩ cả đời ngươi mới chỉ có hơn hai mươi năm ngắn ngủi, tại sao người cần tìm lại nhiều như vậy chứ? Nam nữ đều đã có, không hiểu còn thiếu gì nữa? Tuy trong lòng nghĩ vậy nhưng Vệ Hưng không nói ra miệng, chỉ xua xua tay ra hiệu để Lâm Mẫn Thận đi.

Mấy ngày sau, Vệ Hưng thắt chặt quản thúc đối với Lâm Mẫn Thận. Trước hết Lâm Mẫn Thận là con trai độc nhất của Lâm Tương, hơn nữa đã giao vào tay chàng, tất nhiên chàng phải trả lại một Lâm Mẫn Thận hoàn hảo cho Lâm Tương; thứ nữa A Mạch tuy tướng mạo tuấn tú, nhưng dù gì cũng là chủ tướng một doanh trại, Vệ Hưng cũng không muốn đắc tội với người này. Bởi không cẩn thận sẽ làm tổn thương tướng sĩ trên dưới trong quân Giang Bắc, rốt cuộc đám người đó mới là quân Giang Bắc bản địa, còn đám Vệ Hưng tạm thời chỉ được coi là kẻ ngoại lai.

Họ vẫn đi như vậy thêm mấy ngày nữa, cuối cùng thuyền rẽ vào Uyển Giang, Vệ Hưng cũng đổi thuyền đi ngược dòng. Lần này Vệ Hưng đi nhậm chức đại tướng quân Giang Bắc, thủy quân Phù Bình cử chiến thuyền để bảo vệ Vệ Hưng. Khi thuyền đi ra ngoài thành Thái Hưng đúng lúc thời tiết mưa phùn ẩm ướt, do thuyền đi sát một bên Phù Bình Giang Nam, thành Thái Hưng đối diện mờ mờ ảo ảo không nhìn rõ, nhưng từ xa có thể thấy quy mô thủy trại quân Bắc Mạc bên ngoài thành tương đối lớn.

Đám A Mạch đều ở trên thuyền Vệ Hưng, từ khoang thuyền hướng nhìn về Giang Bắc, tướng quân thống lĩnh thủy quân Phù Bình Liễu Thành đứng bên cạnh Vệ Hưng, chỉ vào thủy trại quân Bắc Mạc ở bờ bên kia sông nói: “Chu Chí Nhẫn bao vây Thái Hưng bằng đại quân, không tấn công thành mà huấn luyện thủy quân trước, chưa đầy một năm đã có thành tích. Thuyền của giặc hiện giờ tuy chưa thể qua sông gây rối Phù Bình, nhưng chốc chốc lại có thuyền nhỏ và thuyền chiến đấu tiến qua giữa sông diễn tập, còn có thuyền xích mã dám tới rong chơi ở bờ Giang Nam”.

Đám Vệ Hưng không hiểu thủy quân, hoàn toàn không biết về mấy loại thuyền chiến mà vị phó tướng này vừa nói, nhưng lại không tiện hỏi, chỉ nhìn Thái Hưng ngay trước mặt rồi im lặng. Đột nhiên Lâm Mẫn Thận đứng cạnh cất tiếng hỏi: “Đã tới bờ Giang Nam rồi, thủy quân Phù Bình vì sao vẫn chưa xuất thuyền phản công?”.

Liễu Thành giải thích: “Tốc độ đi lại của thuyền xích mã nhanh như ngựa chạy nước kiệu trên mặt đất vậy. Quân giặc tới đây không nhiều, chờ quân ta phát hiện ra đuổi theo thì chúng đã tới Giang Bắc rồi. Quân ta sợ đó là kế dụ của bọn giặc nên không dám tùy tiện truy kích”.

Liễu Thành đang nói thì trong màn sương mù giữa lòng sông đột nhiên xuất hiện mấy chiếc thuyền nhẹ lao tới, Liễu Thành vội vàng chỉ tay nói: “Mọi người nhìn đi! Đây chính là thuyền xích mã!”.

Mọi người trên thuyền đều vội nhìn về phía tay Liễu Thành chỉ, thấy thân mấy chiếc thuyền nhỏ đó màu đen, trên thuyền chỉ có khoảng mười người, đều được trang bị giáp nhẹ, đúng là cách ăn mặc của quân Bắc Mạc. Trông đối phương dường như không hề sợ hãi chiến thuyền của quân Nam Hạ, chỉ quanh quẩn ở giữa sông, đi ngang hàng với chiến thuyền, lúc gần lúc xa, như thể cố ý chọc tức chiến thuyền của Nam Hạ, quả thực quá đỗi ngông cuồng.

Một số tướng lĩnh Giang Bắc bắt đầu nóng mắt, hỏi thẳng Liễu Thành: “Bọn giặc ngông cuồng như vậy, quân ta lẽ nào không có thuyền xích mã sao?”.

Trên mặt Liễu Thành thoáng hiện vẻ gượng gạo, ông ta giải thích: “Có, nhưng chờ tới lúc thuyền xích mã của ta được hạ xuống từ chiến thuyền thì bọn giặc đã chạy mất dạng, căn bản không thể đuổi kịp”.

Mọi người thấy thống lĩnh thủy quân nói vậy, đương nhiên không có cách nào rồi, nhưng nhìn chiến thuyền của quân Bắc Mạc cứ ngang nhiên rong ruổi ngay trước mắt như vậy, đều căm phẫn không chịu nổi. Trương phó tướng nheo mắt tính cự li rồi khẽ hỏi A Mạch: “Nếu có cung lớn, không biết có thể bắn tới bọn giặc không?”.

A Mạch ước lượng khoảng cách giữa hai bên, tiếp đó khẽ lắc đầu: “Lúc thuyền xích mã áp sát vào chiến thuyền của ta nhất cũng khoảng ngoài hai trăm bộ, hơn nữa lại trên sông, ai có thể đảm bảo được độ chuẩn xác với khoảng cách như thế, trừ phi Thương Dịch Chi ở đây”.

Trương phó tướng cũng thấy dùng cung bắn thị uy bọn giặc không thực tế chút nào, liền không nói gì thêm. Nhưng khi những lời đó lọt vào tai Vệ Hưng lại khiến lòng chàng rúng động. Chàng quay đầu khẽ dặn cận vệ vào khoang thuyền lấy cung tên. Cận vệ vội vàng lui đi, Vệ Hưng quay đầu lại, đột nhiên nghe thấy có người chỉ vào giữa sông hét lên: “Có người dưới sông”.

Mọi người liền nhìn về phía tay người đó chỉ, quả nhiên thấy dường như có người đang thoắt ẩn thoắt hiện dưới sông. Trong giây lát, một chiếc thuyền xích mã tiến gần tới phía người đó, binh sĩ trên thuyền giơ tay muốn kéo người dưới sông lên, nhưng người đó hình như không thèm để ý tới binh sĩ trên thuyền, tự bám vào mạn thuyền, loáng một cái đã nhảy lên khỏi mặt nước và đứng trên thuyền. Lúc này mọi người mới nhìn rõ được người đó, xem ra vẫn rất trẻ, trên người chỉ vận độc chiếc quần nhà binh, tuy nhìn từ xa nhưng vẫn có thể nhận thấy thân thể cường tráng chắc nịch. Trên chiếc thuyền xích mã đó từ lâu đã có binh sĩ mở rộng áo choàng đứng hầu cạnh bên, nhưng xem ra người đó không vội vàng khoác áo choàng, mà thong thả lau nước còn vương trên người.

Trương phó tướng thấy rất kỳ quặc, không nén nổi liền quay sang A Mạch khẽ nói: “Kẻ này đúng là quái thai, tiết trời như vậy mà dám xuống sông bơi lội”.

A Mạch đứng bên nhìn đã thấy bủn rủn chân tay, lúc người đó ở dưới nước không nhìn rõ lắm, giờ đã đứng trên thuyền, tuy khoảng cách rất xa, nàng vẫn nhìn rất rõ, người đang chậm rãi mặc quần áo kia không phải ai khác, chính là Thường Ngọc Thanh.

Cận vệ đã lấy cung lớn ra cho Vệ Hưng. Mọi người đều biết Vệ Hưng xuất thân từ thị vệ trước điện nên chắc chắn thân thủ phi phàm. Nhìn thấy chàng cầm cung, biết ngay chàng muốn bắn người thị uy liền nhất thời im lặng chờ đợi rốt cuộc vị tướng mới nhậm chức đại tướng quân Giang Bắc có tài gì.

Vệ Hưng lắp tên giương cung, tên chưa rời dây cung thì Thường Ngọc Thanh đối diện dường như đã có linh cảm, hắn quay đầu lại nhìn về phía khoang thuyền Nam Hạ khiến mọi người trong lòng không tránh khỏi hốt hoảng. Duy chỉ có Vệ Hưng nhếch miệng cười nhạt, cánh tay cầm cung dần giơ cao, tiếp đó phóng tên về phía Thường Ngọc Thanh.

Mũi tên xé không khí tạo thành tiếng vù vù sắc nhọn, đường tên giữa không trung tạo thành một vòng cung tuyệt đẹp, bay thẳng về phía thuyền xích mã của Thường Ngọc Thanh với thế sấm rền, chỉ trong giây lát đã bay tới trước người hắn.

Thường Ngọc Thanh vẫn đứng nguyên tại chỗ, chỉ khẽ lắc vai tránh mũi tên, mũi tên bay ngang vai hắn, nghe một tiếng phập đã cắm sâu vào thân thuyền. Mấy binh sĩ đứng quanh đã sợ mất mật từ lâu, chờ tới lúc bình tĩnh trở lại mới vội vàng cầm khiên đứng che trước người Thường Ngọc Thanh. Thường Ngọc Thanh nghiêng đầu nhìn vai, chiếc áo vừa mặc trên mình đã bị đầu mũi tên xé rách, hắn giơ tay đẩy đám lính trước mặt, rồi ngẩng đầu lạnh lùng nhìn về hướng Vệ Hưng.

Vệ Hưng vẫn không hề nao núng, rút tiếp mũi tên từ trong túi đựng tên ra lắp vào cung, giương cung bắn, chàng bắn liên tiếp mấy mũi tên đều nhằm thẳng vào Thường Ngọc Thanh.

Chân Thường Ngọc Thanh giống như mọc rễ tại chỗ, hắn chỉ nghiêng người tránh hoặc né, mấy mũi tên đều chỉ bay sát người hắn rồi cắm phập vào thân thuyền.

Mọi người trên thuyền đều phát hoảng, tạm thời không bàn về độ chuẩn xác của Vệ Hưng thế nào, chỉ thấy lực bắn cũng đủ để người khác ngỡ ngàng thán phục. A Mạch cũng không kìm lòng quay lại nhìn Vệ Hưng, thấy nét mặt chàng vẫn vậy, trong lòng càng khâm phục. Nàng thầm nghĩ trên đời này đúng là không thiếu người tài giỏi, nàng biết tên pháp của Thương Dịch Chi đúng là xuất quỷ nhập thần, nào ngờ giờ lại xuất hiện một Vệ Hưng cũng có bản lĩnh như vậy, tuy bàn về độ chuẩn xác có kém hơn một chút, nhưng nói về lực bắn, e rằng trên cơ Thương Dịch Chi nhiều.

Vệ Hưng bắn xong mấy mũi tên, liền vứt cung cho cận vệ. Đám tướng sĩ đều sững người, nhất thời không biết nên phản ứng thế nào, nếu như khen bắn giỏi, nhưng đại tướng quân bắn nhiều tên như vậy lại chẳng mũi nào trúng đích. Nếu không khen bắn hay, ít nhiều sức bắn của đại tướng quân cũng thực khiến người ta phải ngỡ ngàng. Với khoảng cách xa như vậy vẫn có thể bắn trúng thuyền, cũng là hy hữu rồi. Đám binh sĩ đang ngây người đưa mắt nhìn nhau thì đột nhiên Lâm Mẫn Thận kêu to một tiếng “Hay!”, lại còn lớn tiếng hét: “Đại tướng quân khí thế quá! Bọn giặc chắc đã sợ hết hồn rồi, thậm chí còn chẳng dám động chân nữa kìa!”.

Không ai nói gì thêm, chỉ nhìn về phía Lâm Mẫn Thận. A Mạch bất lực không biết làm sao trước bộ dạng hớn hở của hắn, trong lòng thầm nghĩ làm gì sợ tới mức không động đậy được nữa, rõ ràng là Thường Ngọc Thanh đang cố ý biểu lộ sự coi thường đối với Vệ Hưng thì có!

Vệ Hưng chỉ khẽ cười, không nói gì. Đám A Mạch quả thực không biết tiếp lời ra sao, bầu không khí nhất thời đông cứng lại. Lâm Mẫn Thận vẫn không hề hay biết, đột nhiên hắn chỉ vào thuyền xích mã của địch giữa lòng sông hét lên: “Nứt rồi! Thuyền nứt rồi!”.

Mọi người vội vàng nhìn về phía đó, chỉ thấy thuyền xích mã ở giữa sông quả nhiên giống như bị người ta dùng chùy lớn đập vỡ, đúng vị trí Thường Ngọc Thanh đứng. A Mạch là người phản ứng đầu tiên, nàng đưa mắt nhìn Vệ Hưng lần nữa, trong ánh mắt lộ rõ vẻ ngỡ ngàng. Thì ra mấy mũi tên của Vệ Hưng vốn không định bắn trúng Thường Ngọc Thanh, mà là muốn đánh đắm con thuyền! Chỉ có mấy mũi tên đã có thể đánh đắm con thuyền, nếu như không phải tận mắt nhìn thấy thì làm sao có thể tin nổi chứ?

Trên thuyền xích mã, Thường Ngọc Thanh cũng không khỏi ngỡ ngàng, hắn chưa từng nghĩ những mũi tên đó lại có nội lực thâm hậu tới vậy, thậm chí còn có thể làm nứt thuyền. Từ nhỏ hắn đã luyện võ cưỡi ngựa bắn tên, nhưng chưa từng học công phu trong họ tộc, giờ thấy người có tướng mạo bình thường kia lại có bản lĩnh như vậy, bất giác không dám coi thường nữa. Các thuyền xích mã xung quanh kịp thời tới cứu viện, Thường Ngọc Thanh nhân lúc thuyền chưa đắm, vội nhảy sang chiếc thuyền khác, tiếp đó chỉ huy binh lính vớt những binh sĩ rơi xuống sông. Tới lúc này hắn lại đứng trên mũi thuyền nhìn về phía Vệ Hưng.

Vệ Hưng phát hiện mấy chiếc thuyền xích mã kia không tiến cũng chẳng lùi, nhận ra Thường Ngọc Thanh cũng thuộc dạng to gan lớn mật, liền hỏi Liễu Thành: “Ngươi biết tên này là ai không?”.

Liễu Thành thấy thân thủ người đó và thái độ của binh sĩ xung quanh, tuyệt đối không phải người tầm thường, nhưng lại hoàn toàn không giống với thống lĩnh quân Bắc Mạc Nghiêm Phi, đành đáp: “Theo quân báo thống lĩnh thủy quân Bắc Mạc Nghiêm Phi đã ngoài bốn mươi tuổi, người này đương nhiên không phải, mạt tướng chưa từng nghe thấy danh hiệu của nhân vật này trong thủy quân Bắc Mạc”.

Trong lúc nói chuyện, thuyền của Thường Ngọc Thanh đã dừng lại cách thuyền lớn hơn trăm bước, hắn nghiêng người nói nhỏ mấy câu với quân sĩ bên cạnh. Đám Vệ Hưng nhìn thấy vậy cảm thấy rất kỳ quái, thì nghe thấy tiếng quân sĩ Bắc Mạc gào lên: “Bắn lén làm người khác bị thương không được coi là anh hùng, nếu can đảm thì xuống đây đấu một trận với tướng sĩ bọn ta”.

Câu khích tướng này vừa cất lên, bên quân Nam Hạ phút chốc hào hứng hẳn lên, ngay lập tức có người xin Vệ Hưng đi giết Thường Ngọc Thanh, quyết không để lũ giặc ngông cuồng kia chạy thoát. Do thuyền hai bên cách nhau chưa tới trăm bước nên có thể nhìn rõ mặt quân sĩ hai bên. Thường Ngọc Thanh thấy người Nam Hạ nhao nhao đầy phấn khích như vậy, trên nét mặt lộ rõ nụ cười thâm hiểm, hắn im lặng chắp tay sau lưng quan sát.

A Mạch liền khẽ nói: “Tên này là Thường Ngọc Thanh”.

Mọi người đều sững sờ, nhất tề nhìn A Mạch.

A Mạch thấy trong ánh mắt Vệ Hưng thoáng hiện vẻ nghi hoặc, nàng ghìm giọng giải thích: “Trong chiến dịch núi Ô Lan, người này đã dẫn quân đuổi theo doanh bảy chúng tôi hơn nghìn dặm, mạt tướng từng giao đấu với hắn ở đồng bằng Bình Gia”.

Nghe A Mạch nói vậy, Trương phó tướng vội vàng quay đầu nhìn kỹ người đó rồi kêu lên: “Đúng vậy, đúng là hắn, trong trận chiến đồng bằng Bình Gia, mạt tướng cũng đã từng thấy, quả đúng là hắn!”.

Vừa nghe A Mạch nhắc tới Thường Ngọc Thanh, các tướng sĩ trên thuyền bỗng trầm ngâm hẳn, giờ lại được Trương phó tướng xác nhận, miệng người nào người nấy ngậm chặt lại, hoàn toàn mất hết khí thế. Thử nghĩ xem, nếu người lên thuyền chỉ là một tướng lĩnh bình thường thì cũng thây kệ, mọi người cùng đánh cược không biết chừng có thể mang danh dũng cảm. Nhưng đây lại là Thường Ngọc Thanh, sát tướng Thường Ngọc Thanh danh nổi như cồn, nếu cùng đấu tay bo với nhau, có thể sống sót trở về đã là may lắm rồi, làm sao mong kiếm được danh hão gì chứ.

Thế là cả đám người nhất loạt im lặng.

Sắc mặt Vệ Hưng lành lạnh, chàng đưa mắt nhìn A Mạch rồi hỏi: “Mạch tướng quân dám xuống nước đấu một trận với Thường Ngọc Thanh không?”.

A Mạch hơi bất ngờ, nhưng ngay lập tức cười nhạt đáp: “Nếu đấu tay đôi, mạt tướng không phải là đối thủ của hắn”.

Vệ Hưng thấy A Mạch trả lời vậy, không hề giận dữ, trái lại thấy thích sự thành thật của nàng, bất giác cũng cười theo.

Lâm Mẫn Thận đứng bên đột nhiên nói thêm: “Cần gì phải đấu tay đôi với loại giặc này, theo tại hạ chi bằng cả bọn chúng ta cùng lao vào, trước tiên lấy cái mạng của hắn đã rồi tính sau!”.

Lâm Mẫn Thận vừa dứt lời, các tướng lĩnh liền tích cực hưởng ứng, có người thậm chí còn kêu gào dùng hết cung nỏ trên thuyền bắn cho tên giặc kia thành con nhím.

A Mạch quay đầu, thấy Lâm Mẫn Thận không biết tự lúc nào đã đứng bên cạnh nàng.

Lâm Mẫn Thận thấy A Mạch nhìn mình, liền xun xoe lấy lòng, nói: “Ai bảo hắn rỗi hơi dẫn xác tới trước mặt chúng ta chứ, trời lạnh thế này lại còn bơi lội làm quái gì, đây chẳng phải là tự tìm cái chết đó sao? Mạch tướng quân nói xem có đúng không?”.

A Mạch trong lòng rúng động, nàng đưa mắt liếc nhìn Thường Ngọc Thanh đang đứng trên đầu thuyền kia một cái, rồi đi tới bên cạnh Vệ Hưng khẽ nói: “Đại tướng quân, mạt tướng thấy việc này rất kỳ lạ, cẩn thận bọn giặc có mưu kế”.

Vệ Hưng đã làm tới chức thủ lĩnh cấm quân, đương nhiên cũng không phải dạng tầm thường, thấy A Mạch nhắc vậy, trong lòng cảnh giác hẳn lên. Chàng quay đầu khẽ nói với Liễu Thành mấy câu, vừa nghe xong mặt Liễu Thành biến sắc, ông ta ngẩng đầu nhìn Vệ Hưng, rồi không kịp cáo lui đã quay người bỏ đi. Một lát sau, trên đài chỉ huy thuyền lớn liền giăng biểu ngữ, các chiến thuyền nhanh chóng thay đổi đội hình, các tay cung nỏ trên các thuyền đều đã vào vị trí chuẩn bị chiến đấu.

Trên thuyền xích mã, đám quân sĩ vừa kêu gào ban nãy thấy tình hình thay đổi như vậy liền khẽ hỏi Thường Ngọc Thanh: “Tướng quân, xem ra bọn mọi Nam đã có phòng bị rồi, chúng ta phải làm sao đây? Tấn công hay không?”.

Thường Ngọc Thanh vừa nhận ra A Mạch mặc bộ giáp màu tro trong đám người kia, thấy nàng bất giác sững sờ, lại nghe đám binh sĩ dò hỏi, liền mím môi suy nghĩ một lát rồi dặn dò: “Hạ lệnh cho các chiến thuyền phía sau rút, chiến hạm của bọn mọi Nam vốn đã có thể thắng bên ta, lúc này lại có phòng bị, chúng ta nên rút lui”.

Binh sĩ khẽ dạ một tiếng, tiếp đó ra dấu bằng tay cho các thuyền phía sau, trong giây lát các thuyền xích mã lập tức tản ra, ngầm thay đổi vị trí rồi chậm rãi lùi về phía sau.

Vệ Hưng tuy không hiểu thủy chiến, nhưng nhìn thấy mấy chiếc thuyền xích mã của quân Bắc Mạc đột nhiên thay đổi vị trí, liền đoán ngay đó là sự truyền tin của chúng, chàng không kìm được thốt lên: “Bọn giặc quả nhiên có bẫy”.

A Mạch trầm ngâm không nói gì, nàng lặng lẽ lui về phía đám tướng lĩnh. Lâm Mẫn Thận bám sát theo sau, xun xoe bợ đỡ: “Nếu không phải là Mạch tướng quân suy nghĩ thấu đáo, quân ta chắc chắn đã trúng gian kế của bọn giặc rồi! Mạch tướng quân quả nhiên là…”.

“Lâm tham quân quá khen!” A Mạch ngắt lời Lâm Mẫn Thận, nàng lạnh lùng nhìn hắn rồi chắp tay về phía Vệ Hưng nói: “Là đại tướng quân quả cảm, Liễu tướng quân luyện binh có phương pháp, điều này mới khiến gian kế của địch khó thành”.

Vệ Hưng làm thị vệ trước điện nhiều năm, những lời nói lấy lòng này đã nghe nhiều rồi, thấy A Mạch biết cư xử như vậy, chỉ mỉm cười không nói gì.

Nhưng tên Lâm Mẫn Thận lại chẳng biết cư xử chút nào, thấy A Mạch khiêm tốn như vậy, không kìm được lại định ngoạc miệng nói tiếp, đột nhiên nghe thấy có người kêu lên: “Bọn giặc sắp chạy rồi!”.

A Mạch ngẩng đầu nhìn, quả nhiên thấy thuyền của Thường Ngọc Thanh đang lùi nhanh về phía sau.

Thường Ngọc Thanh đứng ở đầu thuyền cười to rồi nói: “Quả nhiên Nam Hạ đều là lũ yếu đuối, không có tên nào dám đấu với ta một trận, đã vậy ta cũng không ép nữa, có điều đã tới đây rồi không thể không trả lễ, vừa rồi đã nhận của các ngươi mấy mũi tên, nay ta trả lại”.

Nói rồi hắn đỡ lấy cung tên trong tay quân sĩ, nhanh chóng giương cung bắn về phía Vệ Hưng.

Vệ Hưng vẫn đứng yên tại chỗ, chàng chỉ giơ tay nhanh chóng tóm gọn mũi tên bay tới. Thường Ngọc Thanh bắn liên tiếp về phía Vệ Hưng, mũi nào mũi nấy đều nhằm vào những chỗ hiểm trên người Vệ Hưng. Vệ Hưng giơ cả hai tay bắt tên giống như đỡ ám khí vậy. Thường Ngọc Thanh bắn tên nhanh vô cùng, Vệ Hưng bắt tên cũng hay tuyệt. Trong giây lát, tất cả mọi người đứng ngây ra nhìn.

Thường Ngọc Thanh nhếch mép cười, đột nhiên bắn một mũi tên về phía bên trái Vệ Hưng, Vệ Hưng sợ mũi tên khiến người khác bị thương, liền lắc người sang trái chặn tên lại, ai ngờ mũi tên tiếp theo của Thường Ngọc Thanh lại bắn theo hướng bên phải, mũi tên này nhằm vào A Mạch đang đứng bên phải Vệ Hưng.

Vệ Hưng kinh hãi muốn cứu nhưng không còn kịp nữa.

Các tướng lĩnh trên thuyền đều ngây ra, đặc biệt là mấy vị đứng ở bên phải. Nhận thấy Thường Ngọc Thanh đột nhiên giương cung bắn về phía mình, họ nhất thời mất hết phản ứng, chỉ biết đứng im không động đậy. Duy chỉ có A Mạch, nãy giờ vẫn quan sát cẩn thận Thường Ngọc Thanh, nhận thấy mũi tên này đột nhiên hướng về phía mình cũng không quá ngạc nhiên. Đồng tử của nàng co lại, trong đầu nàng thoáng hiện ý nghĩ: Tránh hay là bắt?

Đang lúc do dự, mũi tên đã bay tới trước mặt, A Mạch vội nghiêng người, giơ tay định bắt mũi tên đang bay tới, nhưng không kịp chạm vào thân mũi tên. Đột nhiên nàng nghe thấy tiếng “á” thất thanh, một sức đẩy mạnh đột ngột va vào A Mạch từ phía sau, người nàng nhất thời mất thăng bằng, lảo đảo về phía trước đúng về hướng mũi tên đang bay tới. Trong giây lát, trong đầu A Mạch vang lên một câu: “Lâm Mẫn Thận, mẹ nhà ngươi chứ!”.

Chỉ nghe rầm một tiếng, A Mạch bị cả người Lâm Mẫn Thận xô ngã xuống đất. A Mạch đau tới mức rên một tiếng, nàng cảm thấy xương cốt toàn thân rã rời, nhất thời không nói được tiếng nào.

“Mạch tướng quân!”

“Lâm tham quân!”

Một vài người xung quanh kinh hãi kêu lên, lúc này cả đám người mới kinh hoàng bừng tỉnh, họ vội vàng cầm kiếm lao lên chặn phía trước. Trương phó tướng tiến lại gần, cúi người quan tâm hỏi han: “Mạch tướng quân, Mạch tướng quân, hai người thế nào rồi?”.

A Mạch còn chưa trả lời thì nghe thấy có người hét lên trên mạn thuyền: “Giặc trúng tên rồi! Đại tướng quân bắn trúng Thường Ngọc Thanh rồi!”.

Trương phó tướng không còn để ý tới A Mạch nữa, ông ta vội vàng đứng dậy nhìn về phía giữa sông, quả nhiên nhìn thấy trong làn mưa tên, thuyền xích mã chở Thường Ngọc Thanh đang nhanh chóng lùi về Giang Bắc. Quân sĩ Bắc Mạc trên thuyền dùng khiên chắn ở đầu thuyền, Thường Ngọc Thanh vốn đứng trên đầu thuyền đã không thấy tăm dạng đâu.

Tướng sĩ trên thuyền lớn bắt đầu hoan hô không ngớt, Trương phó tướng phấn khởi xoay người lại, ông đang định nói mấy câu với A Mạch thì không thấy bóng dáng nàng đâu nữa. Ông cúi đầu nhìn phát hiện A Mạch và Lâm Mẫn Thận vẫn đang nằm sấp trên sàn thuyền. Lúc này ông mới nhớ ra hai người đó còn không biết sống chết ra sao, liền vội vàng đưa mắt nhìn xung quanh tìm vết máu, tiếp đó ần cần hỏi han: “Ai trong hai ngươi bị thương? Bị thương ở đâu?”.

Lâm Mẫn Thận vẫn nhắm nghiền mắt, miệng thảm thiết kêu rên.

A Mạch nén đau, đưa mắt nhìn sang Lâm Mẫn Thận, tiếp đó lạnh lùng hỏi: “Lâm tham quân có thể đứng dậy được chứ?”.

Lúc này Lâm Mẫn Thận mới mở mắt, cố chống người dậy rồi nhìn A Mạch đang ở dưới, tiếp đó run rẩy cất tiếng: “Mạch tướng quân, có phải ta sắp chết không?”.

A Mạch cười khẩy một tiếng không đáp, nàng cố chống người dậy, rồi đẩy người Lâm Mẫn Thận ra, tiếp đó nhặt mũi tên lông vũ bị đè dưới người vứt lên người Lâm Mẫn Thận. Tới lúc này nàng mới lặng lẽ đứng dậy.

Đầu tiên Trương phó tướng sững người sau đó mới cười, nhận thấy A Mạch đứng dậy khó khăn, ông giơ tay kéo nàng dậy rồi cười lớn: “Tiểu tử nhà ngươi cũng may thật đấy, nếu như không có cú va mạnh của Lâm tham quân, chắc nhà ngươi đã bị mũi tên của Thường Ngọc Thanh bắn xuyên tim”.

A Mạch nghe vậy chẳng biết nên cười hay khóc, nàng cúi đầu quan sát trước ngực mình, thì ra có một vết rạch sâu trên áo giáp, nếu Lâm Mẫn Thận va vào người nàng sớm hơn một tích tắc, thì mũi tên đó chắc chắn đã xuyên thấu tim nàng rồi.

Tới lúc này Lâm Mẫn Thận mới lồm cồm bò dậy, Trương phó tướng tiện tay vỗ vào vai hắn một cái, mạnh tới mức hắn lảo đảo, tiếp đó pha trò trêu: “Lâm tham quân chịu mệt rồi, sau này bắt Mạch tướng quân phải mời ngươi một bữa ra trò đấy, nếu không phải ngươi, ngày hôm nay Mạch tướng quân chắc đã được kết hoa rồi! Có điều cứu người ngươi đã cứu rồi, một nam tử hán đại trượng phu kêu gào cái gì vậy? Ngươi gào đến nỗi khiến huynh đệ bọn ta lại tưởng rằng người bị trúng tên là ngươi kia đấy”.

Lâm Mẫn Thận cười khan hai tiếng rồi đáp: “Thấy tên phóng về phía Mạch tướng quân, nhất thời hơi hoảng hốt, ít nhiều khiến Trương phó tướng chê cười rồi!”.

Mọi người nghe xong đều cười phá lên, Lâm Mẫn Thận không hề tức giận lại đưa mắt lén nhìn A Mạch.

Lần này A Mạch không hề tránh ánh mắt của hắn, nàng suy nghĩ một lát rồi mỉm cười chắp tay về phía Lâm Mẫn Thận: “Đa tạ ơn cứu mạng của Lâm tham quân!”.

Thấy A Mạch sảng khoái cảm ơn, nét mặt Lâm Mẫn Thận có đôi phần đờ ra, nhưng đã nhanh chóng giấu đi, hắn cười ngây dại với nàng rồi nói: “Nên làm thôi mà, việc nên làm thôi mà”.

Ở bên kia Vệ Hưng đã cất cung lớn, mọi người nhanh chóng vây quanh. Nhận thấy Lâm Mẫn Thận vẫn đang sống sờ sờ đứng đó, chàng bỗng chốc nhẹ nhõm hẳn. Tới lúc này chàng mới quay sang quan tâm hỏi A Mạch: “Có bị thương không?”.

A Mạch vội vàng cúi người đáp: “Mạt tướng không sao, đa tạ tướng quân quan tâm”.

Vệ Hưng lại nhìn sang phía Lâm Mẫn Thận, chàng còn chưa kịp mở miệng, Lâm Mẫn Thận đã cười hì hì hai tiếng tiếp đó ngoác miệng nói lớn: “Không sao, không sao, chỉ ngã một tí thôi mà”.

Thấy Lâm Mẫn Thận va mạnh như vậy, Vệ Hưng vốn định mắng hắn vài câu, nhưng trước mặt nhiều người thế này cũng không tiện, đành lạnh lùng gật đầu nói: “Sau này không được như vậy”.

Thống lĩnh thủy quân Phù Bình Liễu Thành vội vàng đi từ khoang dưới lên, tới trước mặt Vệ Hưng bẩm báo: “Thuyền xích mã của giặc đều đã rút về Giang Bắc, quân ta có nên truy kích không, mong tướng quân hạ lệnh”.

Vệ Hưng biết mình đang trên đường nhậm chức, lại không thuộc thủy quân, lần tấn công này nếu như giành được thắng lợi thì còn được, ngộ nhỡ trúng gian kế của địch, e là cái được không bù đắp nổi cái mất. Chàng suy tư một lát rồi thấp giọng nói: “Thường Ngọc Thanh trúng tên còn không biết sống chết thế nào, chỉ còn lại mấy chiếc thuyền xích mã, không cần phải đuổi theo, tiếp tục đi cho kịp”.

Trong lòng Liễu Thành vốn đã tính toán thiệt hơn, ông ta tới xin chỉ thị của Vệ Hưng, chẳng qua là tôn trọng chức đại tướng quân của Vệ Hưng mà thôi. Thấy Vệ Hưng nói đúng với ý mình, liền vội vàng truyền lệnh dặn dò thuộc hạ tăng tốc, nhanh chóng thoát khỏi phạm vi khống chế của thủy quân Bắc Mạc.

Đoàn thuyền chiến tiếp tục ngược dòng, sau khi qua Thái Hưng tuy đường thủy hơi khó đi, nhưng không cần phải lo lắng về sự quấy nhiễu của thủy quân Bắc Mạc, nên tốc độ di chuyển nhanh hơn. Lúc này việc qua lại giữa các quân sĩ trên các thuyền trở nên bất tiện vô cùng, Vệ Hưng cũng vì thế miễn luôn họp sáng. Trong lòng các tướng lĩnh đều mừng thầm, duy chỉ có Lâm Mẫn Thận không cam tâm, ba lần bảy lượt muốn qua thuyền đi tìm A Mạch, không ít lần bị Vệ Hưng giáo huấn.

Chương 2DANH TƯỚNG – THỂ DIỆN – THÚC TRƯỢNG

Ngày hai mươi bảy tháng Mười, thuyền tới Ích Thủy, tả phó tướng quân Giang Bắc, Kỵ lang tướng Đường Thiệu Nghĩa dẫn năm nghìn kỵ binh đã chờ từ lâu. Nhiệm vụ hộ tống của Liễu Thành đã hoàn thành, ông ta dẫn đoàn chiến thuyền từ biệt đại tướng quân Vệ Hưng. Đường Thiệu Nghĩa đón Vệ Hưng lên bờ. Chờ tới khi chàng hành xong lễ, Vệ Hưng mới giơ tay vờ dìu dậy rồi thờ ơ nói: “Đường tướng quân vất vả rồi”.

Đường Thiệu Nghĩa tuy mặc giáp trên người, nhưng động tác vẫn nhanh nhẹn như thường, chàng đứng thẳng người nói: “Đó là chức trách của mạt tướng, không dám kêu khổ”.

Vệ Hưng cười không nói gì, các tướng thấy tình hình như vậy, đều biết Vệ Hưng làm vậy là có ý làm khó Đường Thiệu Nghĩa nhưng không tiện biểu hiện, chỉ lặng lẽ đứng đằng sau Vệ Hưng. Trương phó tướng là người thô lỗ, nào có lắm tâm tư như vậy, nhìn thấy Đường Thiệu Nghĩa liền cảm thấy chàng rất thân thiện, không chờ Vệ Hưng nói đã bước tới trước Đường Thiệu Nghĩa. Ông ta giơ tay nắm chặt vai Đường Thiệu Nghĩa rồi cười khen: “Tướng quân giỏi! Một ngọn đuốc thiêu rụi lương thảo đại doanh của giặc, quả thực đã giúp huynh đệ ta hả giận”.

Đường Thiệu Nghĩa chỉ cười, ánh mắt chàng vượt qua vai Trương phó tướng, quét về phía sau ông ta, lúc vô tình lướt qua A Mạch hơi dừng lại một chút, vẻ tươi cười càng rõ hơn trên khuôn mặt. A Mạch gặp lại Đường Thiệu Nghĩa trong lòng cũng rất vui, nhận thấy vẻ tươi cười trong ánh mắt chàng nàng khẽ nhoẻn cười. Đường Thiệu Nghĩa tâm thần hoang mang, chàng không dám nhìn nụ cười của nàng lâu hơn nữa, thu ánh mặt lại rồi quay người cung kính mời đại tướng quân Vệ Hưng lên ngựa.

Cận vệ dắt ngựa chiến của Vệ Hưng tới, Vệ Hưng lên ngựa, tiếp đó đi vào vùng núi Ô Lan dưới sự hộ tống của Đường Thiệu Nghĩa. A Mạch cũng nhảy lên ngựa bám theo, đi chưa được bao xa, Lâm Mẫn Thận cũng thúc ngựa tiến tới. Nhân lúc không ai chú ý, hắn cười khì nói: “Đã mấy ngày không gặp Mạch tướng quân, quả thực rất nhớ!”.

A Mạch không đáp lại, chỉ khẽ bĩu môi cho xong chuyện.

Lâm Mẫn Thận thấy A Mạch không tức giận, tự dưng cũng can đảm hơn, hắn giơ tay kéo dây cương trong tay nàng rồi khẽ nói: “Huynh đệ tốt à, huynh cười thêm với đệ một lần nữa đi!”.

Trong lòng A Mạch bực bội vô cùng, có điều nàng không bộc lộ ra mặt mà thôi. Nàng giật dây cương trong tay Lâm Mẫn Thận lại rồi hỏi: “Lâm tham quân đã từng vào núi Ô Lan chưa?”.

Ánh mắt Lâm Mẫn Thận vẫn dán vào mặt A Mạch, hắn lắc đầu đáp: “Chưa”.

A Mạch cười lạnh lùng, ghìm ngựa cố ý rơi lại phía sau, dõi mắt nhìn về phía dãy núi trập trùng phía trước, rồi quay đầu nói với Lâm Mẫn Thận: “Ai cũng biết phong cảnh núi Thúy ngoài thành Thịnh Đô đẹp nhất thiên hạ, nhưng không biết sâu trong dãy núi Ô Lan cũng có phong cảnh tuyệt vời. Lần này tham quân tới đây, nhất định phải ngắm cho kỹ mới được”.

Lâm Mẫn Thận vội vàng gật đầu: “Xem chứ, nhất định phải xem chứ! Có điều không có ai đi cùng, đi một mình quả thực chẳng hay chút nào!”.

A Mạch sảng khoái đáp lại: “Chờ đại quân hạ trại, tham quân có thể tới tìm tại hạ, những thứ khác không dám hứa, nhưng đi cùng với tham quân ngắm phong cảnh núi non tại hạ chắc chắn làm được”.

Lâm Mẫn Thận nghe vậy hớn hở ra mặt, vội vàng hỏi dồn: “A Mạch nói thật sao?”.

A Mạch cười đáp: “Đương nhiên!”.

Nói xong nàng lại liếc Lâm Mẫn Thận một cái, tiếp đó cười rồi thúc ngựa đuổi theo mọi người, chỉ còn lại một mình Lâm Mẫn Thận ngây người, thất thần nhìn theo bóng nàng. A Mạch rong ngựa chạy không xa thì nhìn thấy Đường Thiệu Nghĩa dừng ngựa đợi phía trước. A Mạch kẹp chặt hai chân vào bụng ngựa phi tới. Nàng vội gọi to: “Đại ca!”.

Đường Thiệu Nghĩa tủm tỉm cười nhìn A Mạch gật đầu.

A Mạch ngỡ ngàng hỏi: “Đại ca không cần hộ tống đại tướng quân sao?”.

Đường Thiệu Nghĩa quay đầu ngựa đi ngang hàng với A Mạch, chàng lạnh lùng đáp: “Đại tướng quân đã có Trương phó tướng hộ tống rồi, không cần huynh phải đi theo”.

Hôm nay A Mạch tận mắt nhìn thấy thái độ không hồ hởi cũng chẳng lạnh nhạt của Vệ Hưng đối với Đường Thiệu Nghĩa, nàng nghĩ một hồi rồi nói: “Lần này đại ca lập được đại công, các tướng sĩ trong quân đều rất tin phục huynh, có lẽ đại tướng quân sợ đại ca không yên phận, cho nên mới cố ý để huynh…”.

Đường Thiệu Nghĩa cười, ngắt lời A Mạch: “Lâu dần sẽ biết lòng người thôi”.

A Mạch thấy Đường Thiệu Nghĩa như vậy cũng cười theo, rồi nói tiếp: “Đại ca nghĩ được vậy là tốt rồi”.

Đường Thiệu Nghĩa nhìn A Mạch một cái, rồi vội vàng quay đầu nhìn sang hướng khác.

A Mạch gọi Đường Thiệu Nghĩa mấy lần nhưng đều không thấy chàng phản ứng gì, trong lòng lấy làm lạ lắm, tiếp đó nhìn theo hướng chàng đang chú tâm quan sát. Nàng nhìn đi nhìn lại vẫn không phát hiện thấy gì đặc biệt liền hỏi ngay: “Đại ca, huynh đang nhìn gì vậy?”.

Lúc này Đường Thiệu Nghĩa mới quay đầu lại cười rồi nói: “Lần này đệ đi Thịnh Đô, có gặp chuyện gì không hay không?”.

A Mạch liền trả lời dứt khoát: “Chán chết”.

Đường Thiệu Nghĩa thắc mắc: “Không có gì hay ư? Chẳng phải Thịnh Đô là nơi phồn hoa nhất trên đời đó sao? Bên ngoài thành lại có núi Thúy cùng Thanh Hồ bao quanh, ai cũng biết mọi cái đẹp đều tập trung hết ở đấy kia mà”.

A Mạch nghĩ một lát rồi đáp: “Thịnh Đô quả thực phồn hoa, cảnh sắc của núi Thúy và Thanh Hồ đều đẹp vô cùng, nhưng những thứ này đâu có thể sánh được vẻ hùng vĩ hiểm trở đẹp lạ kỳ của núi Ô Lan chúng ta chứ?”.

Đường Thiệu Nghĩa gật đầu nói: “Chính xác, những chỗ êm dịu phú quý như thế không phải là nơi dành cho binh sĩ chúng ta”.

A Mạch cười, đột nhiên nàng hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Đại ca, lần này huynh lén tập kích đốt trụi kho lương thảo đại doanh của Chu Chí Nhẫn, có phải lại muốn dẫn giặc tới đánh quân Giang Bắc ta không vậy?”.

Đường Thiệu Nghĩa trầm ngâm trong giây lát rồi đáp: “Đó chỉ là một mục đích mà thôi”.

“Chỉ là một mục đích thôi ư?”

“Đúng vậy, ngoài việc muốn dụ quân giặc một lần nữa tấn công núi Ô Lan, việc đốt kho lương thảo của Chu Chí Nhẫn cũng muốn giải vây cho thành Thái Hưng, lương thảo đã không còn nữa, đại quân của Chu Chí Nhẫn tất không thể bao vây Thái Hưng lâu được”.

A Mạch ngẫm nghĩ một lát rồi nói tiếp: “Nhưng bọn giặc chỉ đuổi theo đại ca tới rãnh Chày, chúng không dễ dàng mắc mưu vào núi Ô Lan, không những thế… lần này đi thuyền qua thành Thái Hưng, thủy quân của Chu Chí Nhẫn vẫn đang tập luyện như thường, dường như không hề bị ảnh hưởng gì”.

“Bọn giặc lần này không phẫn nộ vì huynh, chắc chắn đã có sách lược khác, tình hình hiện giờ chúng ta cũng chỉ có thể tùy cơ ứng biến thôi. Có điều…” Đường Thiệu Nghĩa im lặng, một lát sau mới hỏi nhỏ: “Đại quân chỗ Dịch soái trận tiền không biết có biến động gì không?”.

A Mạch mím môi, đột nhiên nói: “Đệ đã gặp Thường Ngọc Thanh ở Thịnh Đô”.

Đường Thiệu Nghĩa sững người, chàng quay sang nhìn A Mạch ngạc nhiên hỏi: “Ở Thịnh Đô?”.

A Mạch gật đầu: “Đúng vậy, ở núi Thúy, hắn dường như còn có quan hệ với ai đó trong triều đình nữa, cấm quân bắt được hắn, sau đó lại vẫn là người trong cấm quân cứu hắn ra”.

Đường Thiệu Nghĩa nghe xong, sắc mặt đột nhiên thay đổi, chàng phẫn nộ nói: “Chúng ta liều mạng với giặc ở Giang Bắc, vậy mà trong triều lại có kẻ câu kết với giặc, quả thật đáng ghét!”.

A Mạch chỉ lặng im không nói, bởi nàng cũng không biết Thường Ngọc Thanh tại sao lại xuất hiện ở Thịnh Đô, không những thế còn được cấm quân cứu nữa. Kẻ cứu hắn đã có thể sắp xếp tay chân trong cấm quân, như vậy thân phận cũng như hoàn cảnh của kẻ đó không đơn giản chút nào. Nhưng trong triều ai là người dính líu tới sát tướng Bắc Mạc – người đã giết hơn năm mươi vạn quân biên giới Nam Hạ? A Mạch quả thực không hiểu nổi. Nàng lại nhớ tới tiểu thư Lâm gia là người đã chuốc thuốc cho nàng, có mối quan hệ sâu sắc với Thương Dịch Chi nhưng lại dò xét, thám thính với Nhị hoàng tử Tề Dân rồi nghĩ tới Thịnh Hoa trường công chúa – người chưa bao giờ lộ diện nhưng lại khiến người ta cảm thấy sự có mặt ở khắp mọi nơi… những việc khó hiểu trong Thịnh Đô quả thật quá nhiều.

Đường Thiệu Nghĩa thấy A Mạch hồi lâu không lên tiếng, không kìm được tò mò vội cất tiếng gọi: “A Mạch?”.

Lúc này A Mạch mới định thần lại, nàng quay đầu nhìn Đường Thiệu Nghĩa nói: “Đại ca, có chuyện gì vậy?”.

Đường Thiệu Nghĩa đã nhận ra sự xuất thần vừa rồi của nàng, nhưng không nói gì, chỉ hỏi: “Vừa rồi huynh nghe người ta nói, khi thuyền đi qua Thái Hưng đại tướng quân đã bắt trúng Thường Ngọc Thanh, đúng là Thường Ngọc Thanh sao?”.

“Chính là hắn, hắn bị đại tướng quân bắn trúng, có điều còn sống hay đã chết không ai biết, đệ luôn cảm thấy Thường Ngọc Thanh không thể nào chết dễ dàng như vậy, bởi nếu vậy đó không thể là Thường Ngọc Thanh được.”

A Mạch dừng lại một chút rồi nói tiếp: “Chẳng phải huynh nói nhà họ Thường đã dẫn binh đông tiến rồi ư? Không biết tên Thường Ngọc Thanh này tại sao lại ngang ngược khắp nơi như thế?”.

Đường Thiệu Nghĩa đáp: “Nghe nói tiểu hoàng đế Bắc Mạc ghét hắn đã giết mười lăm vạn quân biên giới, tàn sát quá nặng, cho nên trước mắt thờ ơ với hắn”.

A Mạch nghe xong ngạc nhiên hỏi lại: “Ghét Thường Ngọc Thanh tàn sát quá nặng? Tiểu hoàng đế này thật buồn cười, nếu không phải hắn muốn xâm chiếm lãnh thổ nước ta, thì Thường Ngọc Thanh sao có cơ hội giết quân biên giới của ta chứ? Từ xa xưa danh tướng giống như danh kiếm, lấy que cời lửa chẳng phải là xong rồi sao, còn cần phải cầm bảo kiếm làm gì nữa! Những kẻ bề trên này quả thực vô sỉ tới tột cùng, đúng là đã làm gái lầu xanh lại còn muốn lưu danh!”.

Đường Thiệu Nghĩa nghe thấy những lời bình luận của A Mạch bất giác sững sờ, chàng đờ người trong giây lát, hỏi tiếp: “Nói như vậy, Thường Ngọc Thanh không có lỗi gì sao?”.

A Mạch nghĩ một lát rồi đáp: “Hắn hạ lệnh tàn sát người dân trong thành đương nhiên là sai, nhưng nếu buộc tội hắn gây ra mọi cái chết và thương vong của người Nam Hạ thì cũng không đúng”.

Sắc mặt Đường Thiệu Nghĩa hơi sầm lại, chàng hỏi: “Lẽ nào binh mã Bắc Mạc giết người dân Giang Bắc ta, làm nhục phụ nữ Nam Hạ ta không phải là binh mã do Thường Ngọc Thanh thống lĩnh sao?”.

A Mạch quay đầu lại lặng lẽ nhìn Đường Thiệu Nghĩa trong giây lát, đột nhiên trả lời: “Đại ca, nếu có một ngày đệ chết trên chiến trường, liệu huynh có báo thù cho đệ không?”.

Sắc mặt Đường Thiệu Nghĩa hơi thay đổi, ngay lập tức chàng mắng: “Nói lung tung, sao có người lại trù ẻo mình như vậy chứ?”.

A Mạch cười tiếp tục hỏi tiếp: “Đại ca đừng nóng, huynh chỉ cần nói liệu huynh có báo thù cho đệ không?”.

Đường Thiệu Nghĩa tức tới mức không nói được gì, chàng dứt khoát không thèm đếm xỉa tới A Mạch nữa. A Mạch lại không chịu bỏ qua, nàng cười hì hì rồi nhìn Đường Thiệu Nghĩa tiếp tục chất vấn: “Đại ca mau nói đi, báo thù hay không báo thù?”.

Đường Thiệu Nghĩa không thể thoát khỏi A Mạch, đành phải buồn bã đáp: “Đương nhiên phải báo thù rồi, nếu đệ có chuyện gì, huynh nhất định sẽ không tha cho bọn giặc kia!”.

A Mạch cười rồi hỏi tiếp: “Vậy huynh sẽ tìm ai để báo thù?”.

Đường Thiệu Nghĩa sững người, chàng không hiểu quay ra nhìn nàng: “Đương nhiên là tìm bọn giặc rồi”.

A Mạch lại cười nói tiếp: “Bọn giặc trên đời này nhiều không kể xiết, vậy huynh tìm tên giặc nào? Tên giặc giết muội sao? Nhưng có khả năng hắn cũng đã chết trên chiến trường rồi, vậy huynh sẽ tìm ai để báo thù đây? Tướng lĩnh của hắn? Thường Ngọc Thanh sao? Hay là Chu Chí Nhẫn, Trần Khởi, tiểu hoàng đế của bọn giặc?”.

Đường Thiệu Nghĩa nhất thời sững sờ, chàng ngây người nhìn A Mạch, không nói lên lời.

A Mạch không cười nữa, nghiêm mặt nói: “Đại ca, huynh đệ ta đều là binh sĩ, bọn giặc chết trong tay huynh đệ ta cũng không đếm hết, chúng cũng có phụ mẫu, huynh đệ, không biết có bao nhiêu người mong ngóng tìm ta để báo thù. Ngươi giết ta, ta giết ngươi, đây vốn đã là món nợ hồ đồ, vậy huynh đi báo thù thế nào đây?”.

A Mạch dừng lại, nàng suy nghĩ trong giây lát rồi nói tiếp: “Xét cho cùng, binh sĩ chẳng qua là một thanh đao mà thôi, nếu không có tham vọng và sự tham lam của kẻ bề trên, thanh đao làm sao biết làm tổn thương người khác chứ?”.

Đường Thiệu Nghĩa trầm ngâm trong giây lát, chàng cúi đầu nhìn con ngựa chiến của mình, một lát sau mới khẽ hỏi: “A Mạch, đệ tòng quân đã hơn một năm, trong quân đệ có huynh đệ tốt nào không?”.

A Mạch cười đáp luôn: “Có đại ca đó thôi”.

Đường Thiệu Nghĩa nghe vậy bất giác mỉm cười nhưng vẫn hỏi: “Những người khác nữa? Lẽ nào không có bạn tốt hợp tính sao? Hay là bạn tốt bên cạnh sao?”.

A Mạch nghĩ một lát rồi đáp: “Trương Sĩ Cường được tính là một này, còn có Trương Sinh đại ca, Vương Thất, Lý Thiếu Triều, Từ tiên sinh tuy tính cách hơi xảo quyệt một chút, nhưng đối với đệ cũng rất tốt”.

“Họ đều đang sống cả đấy chứ?” Đường Thiệu Nghĩa lại hỏi tiếp.

A Mạch sững người, nàng không hiểu tại sao Đường Thiệu Nghĩa lại hỏi điều này, nàng nghi ngờ nhìn chàng rồi đáp: “Đương nhiên còn sống”.

Đường Thiệu Nghĩa cười đau khổ nói: “Thời gian đệ tòng quân chưa lâu, họ vẫn đang vui vẻ bên đệ, đệ đương nhiên không cảm thấy gì cả, nhưng khi những người này dần bỏ đệ mà đi, từng người từng người một chết dưới tay bọn giặc, đệ sẽ không cho rằng binh sĩ chúng ta là thanh đao nữa”.

Đường Thiệu Nghĩa cúi đầu phóng mắt nhìn ra xa, rồi khẽ nói tiếp: “Sau này, đệ sẽ biết, chúng ta chẳng qua cũng chỉ là người bình thường, có máu có thịt, có yêu có hận, cũng có những nuối tiếc không thể bỏ qua!”.

A Mạch sững sờ nhìn Đường Thiệu Nghĩa, nhất thời không nói được gì.

Đường Thiệu Nghĩa quay đầu lại nhìn A Mạch, rồi tiếp tục nói: “Cho nên sau này đừng nên nói những thứ đại loại như Thường Ngọc Thanh không có lỗi, người khác nghe thấy lại rước họa vào thân đấy”.

A Mạch cúi đầu lặng lẽ ngồi trên ngựa, một lúc sau đột nhiên hỏi Đường Thiệu Nghĩa một câu chẳng đầu chẳng đuôi: “Đại ca, vậy trong lòng bọn giặc chúng ta cũng là người bình thường sao?”.

Đường Thiệu Nghĩa suy nghĩ một lát rồi gật đầu đáp: “Đương nhiên”.

A Mạch lại cúi đầu, khẽ nhíu mày, không hiểu đang nghĩ gì nữa.

Đường Thiệu Nghĩa cũng không nói nữa, chỉ lặng lẽ đi cạnh bên. Hai người không nói gì nữa, vì bỏ cách mọi người một quãng xa, nên trong rừng núi lại càng trở nên yên tĩnh, duy có tiếng vó ngựa chiến nện vào nền đất, âm thanh này khiến tâm trạng A Mạch bất ổn. Những lời nói vừa rồi của Đường Thiệu Nghĩa khác xa với những gì nàng nhận biết, nhưng lại không nói ra được sai ở đâu, lẽ nào người sai không phải là chàng mà chính bản thân nàng sao?

Tâm tư A Mạch còn chưa rõ ràng thì đã thấy Lâm Mẫn Thận đuổi theo phía sau. Nhìn thấy A Mạch đang ghìm cương đi ngang hàng với Đường Thiệu Nghĩa, hành động của hắn hơi chậm lại, hắn suy nghĩ một lúc rồi khẽ quất nhẹ roi vào chiến mã của mình. Hắn vừa cười vừa đuổi kịp A Mạch rồi gọi to: “Đường tướng quân, Mạch tướng quân, chờ tại hạ với!”.

Đường Thiệu Nghĩa nghe thấy có người gọi liền quay đầu lại, còn A Mạch nhíu mày.

Lâm Mẫn Thận đã đuổi kịp, hắn chắp tay về phía Đường Thiệu Nghĩa cười nói: “Tại hạ là tham quân Lâm Mẫn Thận dưới trướng đại tướng quân. Tại hạ ngưỡng mộ Đường tướng quân từ lâu, nay mới được gặp, quả thực là phúc ba đời”.

Đường Thiệu Nghĩa cười, chàng cũng đáp lễ với Lâm Mẫn Thận, tiếp đó nói khách sáo: “Hóa ra là Lâm tham quân, ngưỡng mộ từ lâu, ngưỡng mộ từ lâu”.

Lúc này Lâm Mẫn Thận mới cười chào A Mạch, tiếp đó quay đầu lại hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Đường tướng quân và Mạch tướng quân quen biết nhau từ trước sao?”.

Đường Thiệu Nghĩa còn chưa trả lời, A Mạch ở bên đã giành đáp: “Tham quân hỏi câu này lạ quá, Đường tướng quân và ta đều ở trong quân Giang Bắc, nếu trước đây không quen biết, há khiến người ta cười chê sao?”.

Lâm Mẫn Thận bị A Mạch quặc cho một câu, nhưng không hề phiền não, trái lại vội vàng cười trừ chữa thẹn: “Tại hạ đâu có ý gì khác, chỉ buột miệng hỏi vậy mà thôi, Mạch tướng quân đừng đa nghi như vậy”. Nói rồi hắn lại nhìn Đường Thiệu Nghĩa, nét mặt lộ rõ vẻ ngượng ngùng.

Đường Thiệu Nghĩa thấy sắc mặt Lâm Mẫn Thận như vậy, trong lòng cũng cảm thấy kỳ lạ, có điều vẫn giải thích: “Năm ngoái khi quân giặc xâm phạm phía nam, ta và Mạch tướng quân đều ở trong thành Hán Bảo, sau khi thành bị phá bọn ta cùng đầu quân dưới trướng Thương nguyên soái, sau này cùng vào núi Ô Lan trở thành quân Giang Bắc, nên cũng có thể coi là đã biết nhau từ trước”.

Lâm Mẫn Thận liền kêu lên: “Ồ, ra là vậy, tại hạ đi theo từ phía sau, phát hiện hai vị tướng quân tách khỏi mọi người, đang thắc mắc tại sao hai vị xem ra thân mật hơn so với người khác, hóa ra nguồn cơn là như vậy”.

A Mạch đột nhiên ngắt lời Lâm Mẫn Thận: “Lâm tham quân không nên nói như vậy, trong quân Giang Bắc người nào người nấy đều thân thiết, đều là những huynh đệ nguyện sống chết cùng nhau, làm gì có chuyện phân biệt thân sơ”.

Lâm Mẫn Thận đưa ánh mắt háo hức nhìn A Mạch hỏi: “Vậy tại hạ cũng đã gia nhập quân Giang Bắc, liệu Mạch tướng quân có thể đối xử với tại hạ giống như Đường tướng quân không?”.

Đường Thiệu Nghĩa cảm thấy chẳng vui chút nào, chàng khẽ nhìn xuống, thầm mắng người này ăn nói thật tùy tiện, chẳng giống với binh sĩ chút nào. Chàng nhanh chóng nghe thấy A Mạch trả lời: “Tại hạ đối với Lâm tham quân và Đường tướng quân đương nhiên không giống nhau được”.

Lâm Mẫn Thận khẽ sững người, hắn còn chưa kịp mở miệng thì đã nghe A Mạch nói tiếp: “Đường tướng quân là tả phó tướng quân quân Giang Bắc, há có thể so sánh với thân phận của ta và Lâm tham quân sao? Lâm tham quân nói lung tung như vậy, Đường tướng quân không hẹp hòi so đo với ta và Lâm tham quân, nếu đồn tới tai người khác thì không hay đâu”.

Lâm Mẫn Thận thấy A Mạch nói vậy, vội vàng xin lỗi Đường Thiệu Nghĩa: “Đường tướng quân tha tội, tại hạ lỡ lời, mong Đường tướng quân không trách tội”.

Đường Thiệu Nghĩa cười lạnh lùng đáp: “Không sao, cùng ở trong đại quân, không cần phải giữ kẽ nhiều như vậy”.

Đường Thiệu Nghĩa đang nói thì xuất hiện một kỵ binh lao tới từ phía trước, kỵ binh đó phóng thẳng tới trước mặt ba người, đầu tiên hành lễ với Đường Thiệu Nghĩa, tiếp đó truyền lệnh tới Lâm Mẫn Thận: “Đại tướng quân đang tìm tham quân, mong tham quân nhanh chóng về”.

Lâm Mẫn Thận ừ một tiếng, rồi quay đầu chắp tay từ biệt Đường Thiệu Nghĩa, tiếp đó quay sang nhìn A Mạch mấy lần, lúc sắp đi vẫn không quên quay lại dặn A Mạch: “Mạch tướng quân, đừng quên hẹn ước với tại hạ đấy”.

A Mạch cười đáp: “Đương nhiên ta nhớ”.

Lâm Mẫn Thận lại quay ra cười với Đường Thiệu Nghĩa một lần nữa rồi mới vỗ ngựa bỏ đi.

Đường Thiệu Nghĩa khẽ nhíu mày, quay lại hỏi A Mạch: “Hẹn ước gì vậy?”.

A Mạch không trả lời, nàng hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Đại ca thấy người này thế nào?”.

Đường Thiệu Nghĩa nghĩ một lát rồi đáp: “Ăn nói tùy tiện, xem ra tâm tư đơn giản, có điều lại có thái độ giả tạo”.

A Mạch thấy Đường Thiệu Nghĩa nói vậy, nàng quá đỗi bất ngờ nhìn Đường Thiệu Nghĩa một cái rồi cười nói: “Đại ca cũng thấy như vậy sao? Đệ còn cho rằng với sự trung hậu của đại ca, nhất định sẽ nghĩ hắn là người tốt kia đấy”.

Đường Thiệu Nghĩa lại cười, không nói gì thêm.

A Mạch nhìn theo bóng đã xa tít của Lâm Mẫn Thận, đột nhiên cất tiếng: “Hắn là con trai độc nhất của Lâm Tương đấy”.

Đường Thiệu Nghĩa sững sờ trong giây lát, ngạc nhiên hỏi lại: “Con trai của Lâm Tương sao?”.

A Mạch gật đầu cười nhạt: “Nếu quả thực Lâm Tương sinh ra người con trai thế này, e là sẽ không gửi tới quân Giang Bắc của ta đâu”.

Đường Thiệu Nghĩa trầm ngâm trong giây lát, hỏi tiếp: “Hắn với đệ có hẹn ước gì thế?”.

“Đệ hẹn hắn sau khi cắm trại xong sẽ đi một vòng quanh núi.” A Mạch đáp. “Bắt đầu từ núi Thúy, hắn nhiều lần bắt nạt đệ, trên thuyền hắn còn suýt lấy mạng của đệ nữa, đệ làm sao có thể dễ dàng tha cho hắn! Bất kể hắn ngốc thật hay ngốc giả, đầu tiên đệ phải tẩn hắn một trận cho hả giận rồi tính sau.”

Đường Thiệu Nghĩa liền xị mặt dạy: “Không được tùy tiện manh động, loại người này chỉ cần tránh gặp là xong, dây vào hắn làm gì?”.

A Mạch cúi đầu không nói, nàng vung chiếc roi ngựa trong tay. Đường Thiệu Nghĩa thấy nàng như vậy, sợ nàng không chịu nghe theo, liền nghiêm giọng nói: “Vệ Hưng mới tới, đệ gây sự với tham quân dưới trướng đại tướng quân, há chẳng coi ông ta ra gì sao, hơn nữa đệ đã nhận thấy người này cố ý giả ngốc, hà cớ gì gây chuyện với hắn, chỉ cần ngầm phòng bị là được thôi mà. Đệ chỉ muốn đánh hắn để giải hận, nếu như đệ không phải là đối thủ của hắn, há chẳng phải khiến mình thiệt thòi sao?”.

A Mạch thấy Đường Thiệu Nghĩa nghiêm mặt chỉ dạy, đành phải nói một câu: “Biết rồi”. Trong lòng nàng lại nghĩ chính vì hắn giả ngốc, mới càng nên nắm lấy cơ hội này để trị cho hắn một trận khiến hắn thấy khổ mà không thể nói ra, nếu không e rằng sau này hắn không giả ngốc nữa, sợ là chẳng còn cơ hội”.

A Mạch trả lời chẳng cam tâm tình nguyện chút nào, Đường Thiệu Nghĩa làm sao không nhận ra chứ, chàng lại gọi: “A Mạch!”.

A Mạch ngẩng đầu lên, tiếp đó nở nụ cười rạng rỡ, đáp: “Đại ca, đệ biết rồi”.

Đường Thiệu Nghĩa nhìn A Mạch hồi lâu, cuối cùng chỉ biết thở dài một tiếng rồi bất lực nói: “Hắn đã trót gây chuyện với đệ, huynh sẽ nghĩ cách để đệ trút giận là được chứ gì, đệ không được tự mình gây chuyện đấy!”.

A Mạch phấn khởi đưa mắt nhìn xung quanh, đột nhiên thúc ngựa tiến sát Đường Thiệu Nghĩa, tiếp đó vươn người ghé sát vào Đường Thiệu Nghĩa khẽ nói: “Đại ca, chờ tới tối huynh đệ ta lén nhét hắn vào bao gai, tẩn cho hắn sưng mặt sưng mũi được không?”.

Đường Thiệu Nghĩa đột nhiên bị A Mạch ghé sát vào bất giác kinh hãi đờ người, trong mắt chàng chỉ có làn da mịn màng của nàng mà thôi, đừng nói là râu, đến cả lỗ chân lông cũng nhỏ tới mức không nhìn rõ. Chàng nhất thời ngây người, lời của A Mạch không lọt vào tai từ nào.

A Mạch không hề hay biết, vẫn say sưa nói về kế hoạch ngầm của mình, hồi lâu không thấy Đường Thiệu Nghĩa phản ứng gì, mới kinh ngạc hỏi lại: “Đại ca?”.

Đường Thiệu Nghĩa liền định thần lại, trong giây lát chàng cảm thấy mặt mình nóng ran, liền vội vàng đưa mắt nhìn sang hướng khác rồi trách: “Vớ vẩn!”.

A Mạch sững người, nàng không biết tại sao Đường Thiệu Nghĩa lại đột nhiên trở mặt như vậy, thấy chàng không nói năng gì lại lững thững thúc ngựa tiến lên phía trước. Nàng biết chàng giận thật rồi, liền vội vàng đuổi theo xin lỗi: “Đại ca, đệ sai rồi, đệ không đi tìm hắn gây chuyện là được chứ gì”.

Đường Thiệu Nghĩa thấy A Mạch nói vậy, mặt càng nóng ran, chàng không biết phải giải thích thế nào, đành tiếp tục trầm ngâm không lên tiếng. A Mạch thấy Đường Thiệu Nghĩa như vậy, trong lòng cảm thấy kỳ lạ, nàng thực sự không biết câu nào của mình đã đắc tội với chàng, rõ ràng vừa vui vẻ là vậy, thế mà bây giờ lại giở chứng giống như bọn thiếu niên dở dở ương ương.

Thực ra việc này cũng không thể hoàn toàn trách A Mạch được, nếu như trước đây Đường Thiệu Nghĩa có biểu hiện như vậy, có lẽ nàng vẫn sẽ nghĩ theo hướng tình cảm nam nữ. Bởi lúc đó Đường Thiệu Nghĩa không được coi là trong sáng, nhưng hễ trong lòng có ý nghĩ gì là đỏ mặt tía tai, còn Đường Thiệu Nghĩa bây giờ dường như sống trên lưng ngựa cả ngày, nước da từ lâu đã bắt nắng đen nhẻm rồi. Lúc này tuy cảm thấy mặt nóng ran, nhưng trong mắt A Mạch khuôn mặt chàng không có thay đổi gì, cho nên cũng không nghĩ lung tung nữa.

Cả đoạn đường hai người không nói với nhau câu nào, vì không nói chuyện nên tốc độ di chuyển nhanh hẳn, chẳng mấy chốc đã có thể nhìn thấy đại quân ở phía trước. Lúc này Đường Thiệu Nghĩa mới ghìm cương, chàng quay lại nhìn A Mạch vẫn đi sát phía sau.

A Mạch thấy Đường Thiệu Nghĩa quay lại liền nói: “Đại ca, huynh đi trước đi, đệ chờ một lúc sẽ đuổi theo sau”.

Đường Thiệu Nghĩa thấy mình chưa mở miệng mà A Mạch đã như đọc được suy nghĩ của mình, bất giác thấy ấm áp lạ lùng, giọng chàng cũng dịu lại, khẽ nói: “Đệ đi trước đi, huynh đi phía sau”.

A Mạch biết ý tốt của Đường Thiệu Nghĩa, nàng sảng khoái đáp: “Cũng được, vậy đệ qua đó trước, đại ca đi sau nhớ nhanh lên đấy!”.

Đường Thiệu Nghĩa gật đầu, A Mạch cười với chàng rồi vung roi quất ngựa đuổi theo đại đội phía trước. Đường Thiệu Nghĩa lặng lẽ nhìn theo sau, chàng nhìn mãi tới khi chiếc bóng bé nhỏ của A Mạch hòa vào dòng người ở phía xa mới chậm rãi thúc ngựa tiến bước.

Đêm hôm đó đại doanh của Vệ Hưng cắm trại ở khe núi, còn Đường Thiệu Nghĩa dẫn năm nghìn kỵ binh cắm trại ở chỗ đất cao ngoài khe núi. Dường như vẫn lo sợ A Mạch tìm Lâm Mẫn Thận gây chuyện, Đường Thiệu Nghĩa đã xin chỉ thị Vệ Hưng giao cho A Mạch cùng một số tướng lĩnh quân Giang Bắc làm nhiệm vụ cảnh giới, tuần tra… A Mạch tuy không muốn lắm nhưng đã nhận lời của Đường Thiệu Nghĩa, cũng chẳng nói được lý do từ chối. May mà Lâm Mẫn Thận không hiểu có chuyện gì bị đại tướng quân Vệ Hưng trách mắng, nên cũng yên phận mấy ngày, không còn tâm trí làm phiền A Mạch nữa, khiến nàng thoải mái rất nhiều.

Đại quân đi qua Trạch Bình, Liễu Khê vào núi Ô Lan, lúc tới doanh trại quân Giang Bắc đã là đầu tháng Mười một. Thời tiết Giang Bắc lạnh lẽo, lúc này đã vào mùa gió lạnh thấu xương, A Mạch cùng các tướng lĩnh quân Giang Bắc đã trải qua một mùa đông trong núi Ô Lan, nên cũng không cảm thấy khó sống, khổ nhất đám Lâm Mẫn Thận mới tới. Tuy trên người ai nấy đều khoác áo choàng, nhưng trong áo giáp lại chỉ có áo đơn, mỗi lần gió thổi cảm thấy lạnh từ trong ra ngoài, đến cả răng cửa cũng va vào nhau lập cập.

Các phó tướng quân Giang Bắc cũ từng sống trong đại doanh quân Giang Bắc, hiện giờ chỉ còn tả phó tướng quân Giang Bắc, Phiêu kỵ tướng quân Lý Trạch dẫn chủ tướng các doanh quân Giang Bắc ra ngoài cách đại doanh ba mươi dặm. Đám Vệ Hưng vẫn chưa vào đại doanh, thì trời đã lất phất mưa tuyết, trận tuyết đầu tiên trên núi Ô Lan.

Trong đại doanh, đại tướng quân Vệ Hưng mới nhậm chức ngồi chính giữa, Đường Thiệu Nghĩa và Lý Trạch ngồi hai bên, các tướng lĩnh khác lần lượt ngồi xuống dưới theo thứ tự cấp bậc. A Mạch là chủ tướng doanh bảy bộ binh tuy không có chỗ ngồi nhưng vẫn được bố trí ở dãy cuối. Nàng ngồi cách xa đám Vệ Hưng, may mà Vệ Hưng xuất thân nhà võ, tuy người không cao nhưng tiếng nói sang sảng, do vậy A Mạch tuy ngồi ở rất xa vẫn có thể nghe được rõ ràng.

Vệ Hưng mới tới nên không hiểu rõ tình hình trong quân, do vậy trong cuộc họp chỉ nói những lời chung chung, tuy trên mặt A Mạch tỏ vẻ chăm chú lắng nghe nhưng trong đầu hoàn toàn không tập trung, nàng vẫn thắc mắc tại sao mãi không thấy bóng dáng quân sư Từ Tĩnh. Chờ tới lúc cuộc họp kết thúc, Đường Thiệu Nghĩa và Lý Trạch tiễn Vệ Hưng đi nghỉ, A Mạch vẫn không thấy Từ Tĩnh đâu, trong lòng thầm nghĩ lão thất phu này cũng kiêu thật, chỉ không biết Vệ Hưng có hay thù dai như Thương Dịch Chi không.

A Mạch cùng mọi người vừa đi ra ngoài đã nghe thấy có người gọi Mạch tướng quân ở phía sau. A Mạch dừng bước quay đầu lại thấy Trương Sinh đang chậm rãi bước tới, nàng không nén nổi ngạc nhiên, vui mừng hỏi: “Trương đại ca, huynh cũng ở đây sao? Tại sao ban nãy trong cuộc họp không thấy huynh?”.

Trương Sinh cười đáp: “Đệ chăm chú nghe quá, làm sao nhìn thấy huynh được”.

A Mạch giật mình, đưa mắt nhìn xung quanh khẽ thanh minh: “Trương đại ca đừng chê cười đệ nữa, vừa rồi đệ còn hơi lơ đãng ấy chứ”.

Trương Sinh nghe vậy cười khà khà: “Huynh thắc mắc sao đệ lại có thể nghe đại tướng quân nhập tâm như vậy, hóa ra không phải nhập tâm mà là lơ đãng”.

A Mạch cảm thấy ngượng, Trương Sinh thấy nàng như vậy cũng nén cười, nhanh chóng hỏi sang chủ đề khác: “Lần này đệ phải đi đâu?”.

A Mạch đáp: “Đại tướng quân đã dặn dò bọn đệ về trại, đệ cũng muốn về sớm, đi được mấy ngày rồi, trong lòng nhớ mọi người lắm. Có điều đã tới doanh trại rồi, không tới gặp Từ tiên sinh sợ ông ấy quở trách, nên muốn tới thăm Từ tiên sinh trước đã rồi mới về”.

Trương Sinh liền ngạc nhiên hỏi: “Đệ vẫn không biết gì sao? Tiên sinh không còn ở trong đại doanh nữa”.

A Mạch nghe vậy sững người hỏi lại: “Không ở trong đại doanh? Đi đâu rồi?”.

Trương Sinh lắc đầu đáp: “Việc này huynh cũng không biết, Từ tiên sinh vốn không thuộc quân tịch, nghe nói thay đổi chủ soái, không chờ đại tướng quân mới tới đã đi rồi”.

A Mạch nhất thời ngây người, nàng không thể ngờ được Từ Tĩnh lại rời bỏ quân Giang Bắc, có điều nghĩ lại Từ Tĩnh tuy là quân sư nhưng thực tế chỉ là tham mưu dưới trướng Thương Dịch Chi mà thôi. Hiện giờ chẳng cần suy đoán việc Vệ Hưng mang theo mấy tham quân của mình, Từ Tĩnh lại là tâm phúc của Thương Dịch Chi, e là Vệ Hưng không dám tùy tiện dùng ông ta. Đi như vậy chưa chắc đã không hay, A Mạch thầm nghĩ.

Có điều tuy nghĩ như vậy, nhưng hễ nhớ tới ông ta – kẻ chẳng già chẳng trẻ kia lúc nào cũng thích vuốt râu ra vẻ giờ không còn ở trong quân nữa, trong lòng A Mạch khó tránh khỏi chút nuối tiếc.

Trương Sinh biết quan hệ giữa A Mạch và Từ Tĩnh rất tốt, thấy nàng hồi lâu không nói gì, sợ nàng đau lòng liền khuyên nhủ: “Nhân vật như Từ tiên sinh chắc chắn không phải loại chịu sống tù túng, sau này cũng sẽ gặp lại thôi, đệ đừng suy nghĩ nữa”.

A Mạch cười nhạt nói: “Cũng phải, ông ta chắc chắn sẽ không cam chịu cô đơn, có điều giờ Giang Bắc loạn thế này, không biết chỉ có một mình liệu ông ta có an toàn không?”.

Trương Sinh tiếp tục an ủi: “Từ tiên sinh túc trí đa mưu, chắc không có chuyện gì đâu”.

A Mạch lặng lẽ gật đầu, nàng nhìn sắc trời rồi hỏi: “Trương đại ca, các huynh sẽ ở lại đại doanh bao lâu?”.

Trương Sinh đáp: “Còn mấy ngày nữa”.

“Thế thì tốt, bây giờ không còn sớm nữa, đệ về doanh bảy xử lý sự vụ xong sẽ tới hàn huyên với Trương đại ca.”

Trương Sinh hơi ngạc nhiên hỏi lại: “Sao đệ không báo với Đường tướng quân một tiếng rồi hẵng đi?”.

A Mạch do dự một lát rồi cười đáp: “Huynh chuyển lời tới Đường tướng quân giúp đệ, cũng chẳng xa xôi gì, mấy ngày nữa đệ quay lại thôi. Nếu các huynh rảnh, cũng có thể tới doanh bảy tìm đệ, chắc chắn đệ sẽ tiếp đãi thịnh soạn”.

Trương Sinh cười nói: “Thế thì tốt, tới lúc đó đừng keo kiệt là được”.

A Mạch cười từ biệt Trương Sinh, Trương Sinh tiễn nàng ra khỏi doanh trại. Thấy nàng chỉ một thân một mình, Trương Sinh quan tâm hỏi có cần người hộ tống không, A Mạch dắt ngựa chiến ra rồi nhảy phắt lên ngựa, quay lại cười đáp: “Đệ vừa cướp của Đường tướng quân một con ngựa tốt, hơn nữa lại không phải vượt núi, cần người tiễn làm gì”.

Nói xong nàng chắp tay cáo biệt Trương Sinh, rồi vung roi quất ngựa đi.

Trương Sinh ở đằng sau không kìm được cười thầm: “Đâu chỉ một con!”.

A Mạch đã phóng ngựa xa tít, để lại phía sau một đám bụi mờ.

Doanh trại bảy cách đại doanh quân Giang Bắc chỉ mấy quả núi, do xin được ngựa tốt của Đường Thiệu Nghĩa, thêm vào đó lại phi nước đại một mạch nên trời chưa tối nàng đã về tới doanh trại. A Mạch vừa về tới nơi, các binh sĩ canh cổng đã nhận ra nàng, họ vừa kinh ngạc pha lẫn vui mừng vội vàng chạy tới dắt ngựa cho nàng. A Mạch cười xua tay, một mình dắt ngựa đi vào trong. Còn cách thao trường khá xa nàng đã nghe thấy giọng lo lắng của Lý Thiếu Triều: “Coi chừng một chút! Đồ khỉ chết tiệt kia, chính là nói nhà ngươi đấy, ngươi khe khẽ một chút! Ta đã bảo ngươi nhẹ tay một chút mà!”.

A Mạch thấy bồn chồn trong lòng liền dắt ngựa quay ra chỗ đó, nàng thấy trên thao trường là cảnh tượng nhốn nháo, mười mấy con chiến mã đang ở trên đó, con thì chạy, con thì phi, Lý Thiếu Triều đứng ở bên chỉ vào một kỵ binh cách đó không xa lớn tiếng chửi: “Ngươi nhìn ta làm gì? Ta mắng nhà ngươi đó, ngươi còn vui cái nỗi gì? Nếu ngươi còn dám đánh ngựa thêm lần nữa, coi chừng ta sẽ đánh ngươi!”.

Vương Thất cưỡi trên con chiến mã từ xa phi tới, nhìn thấy Lý Thiếu Triều vẫn đứng trên thao trường lải nhải không ngừng, không kìm được bực bội mắng: “Mẹ khỉ, cái miệng rách của ngươi có thể ngừng một lát được không, ngươi dọa bọn chúng làm gì? Không luyện tập mà đòi cưỡi ngựa sao? Mẹ ngươi chứ, đám bọn ta đây là do thám, do thám! Ngươi biết không vậy? Không phải là mấy công tử nhà giàu cưỡi ngựa ngắm hoa, không chạy nhanh liệu có thể thu thập được tin tức gì của địch?”.

Lý Thiếu Triều vốn đã bực bội trong lòng, nghe Vương Thất nói vậy càng tức hơn, hắn chống nạnh mắng: “Cút mẹ ngươi đi! Ngươi làm do thám thế quái nào được? Ta thấy nhà ngươi chẳng khác gì loài ngựa khỉ! Ngươi có biết khó khăn lắm mới kiếm được số chiến mã này không, nếu không phải ta lấy danh nghĩa của đại nhân chúng ta ra, ngươi cho rằng Đường tướng quân có cho chúng ta nhiều như vậy không? Ngươi kiếm đâu được lũ binh sĩ vớ vẩn tới hại ta, nếu làm ngựa bị thương thì phải làm sao? Ngươi cố ý không muốn ta được sống yên ổn phải không?”.

Vương Thất cúi người từ trên ngựa xuống rồi cười với Lý Thiếu Triều: “Bị thương thì đã bị thương rồi, ngươi lại tới xin Đường tướng quân, dựa vào sự nể mặt của Đường tướng quân với đại nhân chúng ta, xin thêm mấy chục mấy trăm con nữa đâu có vấn đề gì?”.

“Mặt ta đâu dày như vậy!” Đột nhiên A Mạch lạnh lùng lên tiếng.

Vương Thất và Lý Thiếu Triều đều sững sờ, cả hai đều quay đầu lại, thấy A Mạch đang dắt ngựa đứng cạnh bên, nét mặt lộ rõ vẻ lạnh lùng. Lý Thiếu Triều ngây người, một lát sau mới phản ứng lại, hắn vội vàng buông tay xuống, rồi cười nịnh với A Mạch: “Đại nhân, đại nhân đã về rồi sao? Sao không báo trước cho bọn bỉ chức, để tiện bố trí người đón?”.

Vương Thất cũng vội vàng nhảy xuống ngựa a dua: “Đúng vậy, tại sao chỉ có một mình đại nhân về?”.

A Mạch hừ một tiếng, cũng chẳng thèm đếm xỉa tới họ, chỉ ném dây cương cho Lý Thiếu Triều rồi quay người bỏ đi.

Lý Thiếu Triều nhìn theo bóng dần xa của A Mạch, lẩm bẩm với Vương Thất: “Này, ngươi nói xem đại nhân của chúng ta vừa rồi nghe được những gì?”

Vương Thất chép miệng đáp: “E rằng nghe được hết rồi”.

Lý Thiếu Triều khẽ than thầm: “Chết rồi, lần này chắc chắn làm đại nhân tức giận, ngươi nói xem ta có oan không vậy, đi tìm Đường tướng quân đâu có phải là chủ ý của ta”.

Vương Thất lườm Lý Thiếu Triều với ánh mắt lộ rõ vẻ khinh thường: “Được rồi, ngươi cũng chẳng trong sạch lắm đâu”.

A Mạch sầm mặt đi về trướng, chưa tới cửa đã thấy Trương Sĩ Cường vội vàng bưng một chậu nước đi ra, hắn đi thẳng về hướng nàng rồi cứ thế va thẳng vào. May mà A Mạch phản ứng thần tốc, nàng nhanh chóng né người rồi đẩy Trương Sỹ Cường ra chỗ khác. Trương Sĩ Cường loạng choạng suýt nữa ngã nhào, cả chậu nước hất hết xuống đất, bắn tung tóe lên người A Mạch.

“Trương Nhị Đản! Ngươi làm cái gì vậy?” A Mạch mắng.

Trương Sĩ Cường quay lại nhìn thấy A Mạch, trong giây lát vừa ngỡ ngàng vừa vui sướng, thậm chí còn quên nhặt chậu nước đang nằm chỏng chơ dưới đất. Hắn chỉ biết lắp bắp hỏi: “Đại… đại nhân… đại nhân về rồi sao?”.

A Mạch gật đầu, nàng cúi đầu ngửi nước bẩn bắn lên người, tiếp đó nhìn lại chậu nước trên đất rồi nhíu mày thắc mắc: “Ngươi bưng nước gì vậy?”.

Trương Sĩ Cường ngượng ngùng giơ tay sờ sau gáy, thật thà thưa: “Nước rửa chân”.

“Nước rửa chân?” A Mạch nhíu chặt mày, nàng đang định hỏi lại lần nữa thì nghe thấy giọng nói khẽ réo lên từ trong trướng của mình: “Trương Sĩ Cường, ngươi vẫn chưa đổ xong nước sao? Mau lấy khăn lau chân cho lão phu”.

A Mạch nghi ngờ nhìn Trương Sĩ Cường rồi quay người vén rèm bước vào trướng thì thấy Từ Tĩnh đang chăm chú xem sách, đôi bàn chân trần duỗi ra trong không trung. Nghe thấy tiếng rèm vén lên, ông ta cứ ngỡ là Trương Sĩ Cường đã quay lại. Mắt ông vẫn dán chặt vào cuốn sách, giơ bàn chân lên giục: “Mau lên, lau chân cho lão phu, chân lão phu sắp cứng lại rồi!”.

A Mạch không nói gì, nàng cầm khăn lau chân tới, ngồi xuống cạnh giường lặng lẽ lau chân cho Từ Tĩnh. Chờ tới lúc cả hai chân được lau khô, nàng mới khẽ hỏi: “Tại sao tiên sinh tới doanh trại của tại hạ?”.

Từ Tĩnh giật nảy mình, suýt nữa đánh rơi cả sách trên tay xuống. Ông ta ngẩng đầu thấy A Mạch vẫn ngồi cạnh giường liền vội vàng thu chân lại, thất thần hỏi: “Tiểu tử nhà ngươi về lúc nào vậy? Định dọa chết lão phu sao?”.

A Mạch cười đứng dậy, tiếp đó cởi chiếc áo choàng trên người ra nói: “Hôm nay tại hạ tới đại doanh, nhưng không ở lại mà về ngay”.

Trương Sĩ Cường đỡ lấy chiếc áo choàng từ tay A Mạch, tiếp đó giúp nàng gỡ bộ giáp trên người xuống. Từ Tĩnh vội vàng xỏ chân vào dép rồi xuống giường, đi quanh A Mạch hai vòng quan sát từ đầu tới chân nàng rồi vui mừng thốt lên: “Xem ra thủy thổ Thịnh Đô vẫn là tốt nhất, chỉ đi một chuyến đã nhanh nhẹn thanh tú hơn nhiều”.

A Mạch cười ngượng, đáp: “Tiên sinh đừng chê cười tại hạ”.

Trương Sĩ Cường lại bưng nước sạch từ bên ngoài vào cho A Mạch rửa mặt, nàng vốn đã định vốc nước lên nhưng thấy chậu nước thì đột nhiên dừng lại không rửa mặt nữa.

Từ Tĩnh là loại người nào chứ, sao có thể không nhận ra tại sao A Mạch không rửa mặt nữa, ông ta cười hì hì nói: “Chỗ ngươi chỉ có một cái chậu này, lão phu đã không khách khí dùng mất rồi, thôi thì ngươi cứ dùng tạm đi, lão phu cũng không thường xuyên rửa chân đâu, chủ yếu vẫn dùng để rửa mặt thôi mà”.

Tay A Mạch run lên, vốc nước trên tay dường như đã chảy hết sạch, lòng thầm nghĩ chi bằng để ông ta dùng hàng ngày cho xong!

Trương Sĩ Cường đứng đó không hiểu ý, thấy A Mạch vẫn sững người đứng đó, vội vàng chêm thêm một câu: “Đại nhân, tiểu nhân vừa rửa chậu cẩn thận rồi”.

A Mạch chẳng biết nên khóc hay cười nữa, nàng vẩy khô tay, rồi tỏ vẻ không sao hỏi Từ Tĩnh: “Tiên sinh vẫn chưa nói tại sao lại tới doanh trại của tại hạ, lúc ở đại doanh chỉ thấy Trương Sinh nói tiên sinh đã đi rồi, cũng không biết tiên sinh đi đâu, tại hạ còn tưởng tiên sinh muốn ở ẩn nữa kia”.

Từ Tĩnh vuốt mấy cọng râu dưới cằm theo thói quen, đáp: “Đúng là ta đã bỏ đi, có điều thời buổi loạn lạc thế này, một lão già với sức trói gà không chặt như ta có thể đi đâu được chứ, chỉ có thể tới trông cậy vào cháu của ta thôi!”.

A Mạch ngây người, nhưng nàng nhanh chóng nghĩ ra người cháu mà Từ Tĩnh vừa nhắc tới chính là mình, bởi lúc trước khi nàng và Từ Tĩnh cùng tới Thanh Châu, bị quân do thám của Thương Dịch Chi bắt. Trước đó cả hai đã bàn bạc sẽ giả làm chú cháu, nhưng bấy giờ họ một người là tú tài cổ hủ vừa ra khỏi núi, một người là tiểu tốt vô danh cả ngày chỉ lo mỗi việc giữ tính mạng, đừng nói tới chuyện giả làm chú cháu, cho dù giả làm bố con cũng chẳng ai nói gì. Nhưng giờ thân phận của cả hai đã khác, nếu nói lại là chú cháu, chẳng phải muốn bày đặt lừa người sao.

Thấy bộ dạng dương dương tự đắc của Từ Tĩnh, A Mạch bất lực hỏi: “Tiên sinh, tiên sinh họ Từ, tại hạ họ Mạch, tiên sinh đã bao giờ gặp chú cháu nào không cùng họ chưa?”.

Từ Tĩnh ngớ người trước câu hỏi của A Mạch, ông ta quay lại nhìn nàng. A Mạch khẽ nhếch miệng nhìn với vẻ mặt vô tội.

Từ Tĩnh vuốt râu nghĩ một hồi, rồi quay lại thăm dò A Mạch: “Nếu làm cháu rể thì sao?”.

A Mạch bình tĩnh nhìn Từ Tĩnh hỏi: “Nhưng tiên sinh có cháu gái gả cho tại hạ không vậy?”.

Từ Tĩnh không đáp ngay, Trương Sĩ Cường không nhịn được cười thành tiếng. Từ Tĩnh trợn mắt liếc Trương Sĩ Cường, rồi quay đầu lại thấp giọng nói với A Mạch: “Đương nhiên là có!”.

Chỉ với câu nói này của Từ Tĩnh, A Mạch đã được thăng cấp từ anh chàng độc thân thành đàn ông đã có vợ. Tới lúc các tướng lĩnh trong doanh trại nghe được tin này từ chỗ Trương Sĩ Cường, trên nét mặt người nào người nấy đều lộ rõ vẻ mặt như đã ngộ ra điều gì, trong lòng họ đều nghĩ thầm chả trách ngay từ đầu Mạch tướng quân đã được quân sư Từ Tĩnh ưu ái, hóa ra người ta là họ hàng thân thích! A Mạch sao lại không nhận thấy tâm tư thầm kín của nhiều người, có điều để Từ Tĩnh có thể ngôn chính danh thuận ở lại doanh trại, cũng đành nhận vậy.

Từ lúc A Mạch rời khỏi doanh trại đến nay đã ba tháng, tình hình mọi việc rất tốt, việc huấn luyện quân sự được tiến hành bài bản dưới sự tổ chức của Mặt đen, còn về công tác hậu cần dưới sự lo liệu của Lý Thiếu Triều đúng là cơm no áo ấm, đến cả chiến mã trước đây lúc nào cũng thiếu, vậy mà đã gom được số lượng đến cả đội.

A Mạch nhìn đám ngựa chiến béo tốt, chỉ cần không nghĩ tới lai lịch của chúng trong lòng cũng vui đáo để, nhưng hễ nghĩ tới việc Lý Thiếu Triều thay mặt mình xin đám ngựa chiến từ chỗ Đường Thiệu Nghĩa, mặt nàng lại lộ rõ vẻ không vui. Vì việc này, Lý Thiếu Triều đã đích thân tới giải thích một hồi cho nàng hiểu, không phải trực tiếp xin về mà chỉ là nhắc khéo thôi. Bầy chiến mã này đều là Đường Thiệu Nghĩa cử người chủ động mang tới tặng… có điều trong lời nói của hắn thừa một câu, mặt A Mạch lại tối sầm. Cuối cùng, Lý Thiếu Triều đành phải thẳng thừng nói rõ ngọn ngành, đây đều là chủ ý của Từ tiên sinh, từng câu từng chữ cần nói khi gặp Đường Thiệu Nghĩa đều do Từ tiên sinh dạy.

A Mạch sầm mặt bỏ đi, Lý Thiếu Triều bất giác thở phào, tiếp đó lại tới tìm Từ Tĩnh xin kế hay, làm thế nào mới có thể xin thêm ít ngựa và đao về. A Mạch nổi cơn thịnh nộ, nhưng cơn giận của nàng nhanh chóng nguôi đi chỉ với một câu nói của Từ Tĩnh. Từ Tĩnh trả lời vô cùng vô sỉ như sau: “Cái thứ thể diện này không dùng sẽ lãng phí, hơn nữa…”, ông ta lại vuốt râu rồi thủng thẳng nói tiếp: “Chỉ có chuẩn bị tốt đội do thám, năm sau ngươi mới có cái mà dùng chứ”.

A Mạch sững người, nàng hỏi Từ Tĩnh theo bản năng: “Qua Tết sẽ có chiến sự sao?”.

Từ Tĩnh cười bí hiểm, tiếp đó nhìn A Mạch hỏi lại: “Ngươi thấy thế nào?”.

A Mạch nghĩ trong giây lát rồi đáp: “Vệ Hưng mới tới, lại đang có tuyết lớn phong tỏa mọi đường đi trên núi, trước Tết chắc chắn không có động tĩnh gì, còn qua Tết e sẽ có sắp đặt. Có điều Đường tướng quân đốt lương thảo của Chu Chí Nhẫn nhưng vẫn không thể dụ địch tiến về phía tây, còn có thể nghĩ được cách gì chứ?”.

Từ Tĩnh cười hỏi lại: “Ngươi biết tính khí Vệ Hưng sao?”.

A Mạch lắc đầu đáp: “Không biết, chỉ mới gặp trên thuyền mấy lần, xem ra cũng là người túc trí đa mưu, có điều Vệ tướng quân từng giao đấu bắn tên với Thường Ngọc Thanh bên ngoài thành Thái Hưng, nhưng đó chẳng qua chỉ là sự tranh tài mà thôi”.

Từ Tĩnh cười đáp: “Ngươi đã nhìn ra điểm này, ngươi nghĩ Vệ Hưng sẽ mai phục trong núi chờ giặc tới sao?”.

A Mạch ngỡ ngàng đáp: “Lẽ nào tướng quân vẫn muốn ra khỏi núi Ô Lan?”.

Từ Tĩnh vuốt râu đáp: “Cứ chờ xem sao đã, có điều sau Tết, tất sẽ có thư”.

A Mạch biết thừa tính cách của Từ Tĩnh, thấy ông ta nói vậy biết rằng nếu có hỏi nữa cũng vô ích, nên lặng lẽ tăng cường huấn luyện trong quân.

Đám binh sĩ trong quân ngày ngày mệt rã rời, nhưng có muốn oán trách cũng chẳng biết oán trách ai, bởi đích thân Mạch tướng quân cũng tham gia luyện tập cùng mọi người, vậy thì một tên lính quèn còn có thể nói được gì nữa? Bản thân họ đã nhìn thấy một tướng quân ngày nào cũng luyện tập cùng binh sĩ chưa? Chắc chưa từng nhìn thấy đúng không? Vậy thì phải rồi, kiên trì mà luyện thôi! Nói theo cách của một binh sĩ từng trải qua nửa năm ở ngũ tám đội bốn, thì tướng quân của doanh bảy huấn luyện chúng ta giống như chó vậy, lúc bắt đầu đánh trận giống như chó hoang, lúc chạy giống như chó săn, chờ tới tối khi thu binh về doanh trại thì giống như chó chết.

Lúc đó đội chính đội bốn Vương Thất đứng cách đấy không xa, nghe được liền đá cho binh sĩ đó một cái rồi mắng: “Đồ khốn, câu này ngươi cũng dám nói ra sao, may tính khí tướng quân tốt, đổi là người khác, mông của ngươi đã bị đánh nát rồi”.

Tên binh sĩ đó ôm lấy mông vội vàng chạy đi luyện tập tiếp, còn Vương Thất quay ra giải thích với mấy người bên cạnh: “Huynh không phải là người thuộc đội bốn bọn ta nên không biết đâu, ban đầu khi đại nhân còn là đội chính đội bốn đã từng nói với bọn ta rằng làm lính đôi chân quan trọng nhất. Thắng, bọn ta có thể đuổi theo giặc, đuổi kịp mới có thể giết; còn nếu thua, bọn giặc đuổi theo, bọn ta chỉ có chạy thật nhanh mới giữ được mạng sống của mình”.

Đám đội chính nghe vậy gật đầu lia lịa khen là đúng.

Vương Thất lại nghi hoặc tự nhủ: “Tiên sư nó chứ, các huynh nói xem làm sao hắn biết được đại nhân bọn ta chạy nhanh như chó săn nhỉ?”.

Lần này chẳng người nào dám gật đầu.

A Mạch dốc sức như vậy khiến các tướng lĩnh khác trong doanh trại không thích ứng nổi, tuy đều biết đại nhân thăng tiến nhờ vào liều mạng, nhưng đã là chủ tướng một doanh trại nên cũng phải chú trọng tới hình tượng cá nhân, việc gì cứ phải ngày ngày múa đao dùng thương với đám tân binh lại còn kiêm luôn gánh nặng chạy việt dã như vậy làm gì chứ?

Thấy A Mạch múa đao hùng dũng trên sân tập, Vương Thất tiếc nuối than: “Ái chà, thật tiếc cho tấm thân nho nhã của tướng quân nhà ta”.

Lý Thiếu Triều không hề để tai tới lời nói vừa rồi của Vương Thất, chỉ nhìn Mặt đen đang cởi trần hướng dẫn binh sĩ tập luyện ở phía xa rồi tự nhủ: “Nếu tất cả mọi người đều giống như hắn chẳng biết lạnh là gì thì hay quá, tiết kiệm được bao nhiêu vải bông”.

Từ Tĩnh chống tay đứng đằng sau hai người bọn họ, nghe thấy hai người ông nói chằng bà nói chuộc như vậy, chỉ biết hừ một tiếng đáp: “Hai tên tiểu tử, không lo chuyên tâm luyện tập lại đứng ở đây mài răng thế này!”.

Vương Thất và Lý Thiếu Triều vội vàng quay đầu lại, nhìn thấy Từ Tĩnh liền ngoác miệng cười đồng thanh nói: “Từ tiên sinh!”.

Từ Tĩnh ngạo mạn gật đầu, mắt vẫn không rời khỏi A Mạch trên sân tập nói: “Chim sẻ sao biết chí chim hồng!”.

Vương Thất và Lý Thiếu Triều đưa mắt nhìn nhau, Lý Thiếu Triều khôn khéo cúi mình cười với Từ Tĩnh, tiếp đó gượng gạo nói: “Trong trướng của tiểu nhân có khoản nợ vẫn chưa tính xong, tiểu nhân phải đi đối chiếu một chút. Từ tiên sinh, tiểu nhân đi trước đây”.

Vương Thất há miệng nhìn theo bóng Lý Thiếu Triều sấp sấp ngửa ngửa bỏ đi, nhất thời không nói được gì, một hồi lâu sau đột nhiên nhảy dựng lên nói: “Ái dà! Đại nhân đã dặn dò phải chỉnh lý ám ngữ cho đội do thám, tại sao tiểu nhân lại quên thế này. Từ tiên sinh, tiểu nhân phải đi ngay đây!”.

Vương Thất nói xong liền chuồn luôn.

A Mạch kết thúc tập luyện đem theo Trương Sĩ Cường về, trên sân tập chỉ còn lại một người vẫn bỏ tay trong ống áo đứng đó. A Mạch tập luyện ướt đầm mồ hôi, nàng dùng khăn tay lau qua quýt mấy cái rồi tiện tay ném cho Trương Sĩ Cường ở đằng sau, tiếp đó tiến lên phía trước hỏi Từ Tĩnh: “Tiên sinh tới tìm tại hạ?”.

Từ Tĩnh khẽ gật đầu, ông ta quay người rồi cùng đi về hướng doanh trại với A Mạch.

“Đại doanh báo tin tới, Vệ Hưng ra lệnh chủ tướng các trại có mặt đầy đủ ở đại doanh họp vào ngày hai mươi hai tháng Chạp.”

“Lại phải tới đại doanh sao?”

A Mạch dừng lại ngỡ ngàng hỏi: “Mọi người chẳng phải vừa mới ở đại doanh về đó sao? Tại sao lại nhanh chóng triệu tập thế? Chỗ ta gần còn được, nhưng có doanh trại cách đại doanh mấy trăm dặm, ngày đông giá rét thế này cứ giày vò mọi người đi đi lại lại đáng không vậy? Rốt cuộc tay Vệ Hưng này muốn làm gì đây?”.

Từ Tĩnh lạnh lùng đáp: “Bất kể Vệ Hưng muốn làm gì, ngươi cũng đều phải đi”.

A Mạch cười chế giễu: “Đương nhiên rồi, một chủ tướng doanh trại nhỏ bé như tại hạ đâu dám không đi”.

Từ Tĩnh dướn mắt nhìn A Mạch, do dự một hồi rồi dặn dò: “Lần này ngươi đi đại doanh, tuyệt đối không nên tìm gặp riêng Đường Thiệu Nghĩa”.

A Mạch cười đáp: “Tiên sinh quá lo lắng rồi, đừng nói lần này không tới gặp Đường tướng quân, đến cả lần trước ở đại doanh tại hạ cũng không tìm gặp riêng Đường Thiệu Nghĩa”.

Đường Thiệu Nghĩa đang bị Vệ Hưng lo ngại, điều này A Mạch sao lại không biết chứ, do vậy làm sao có thể tạo chuyện để cho người ta có cớ công kích. Hơn nữa, cũng từ chuyện Trương Sinh vốn đã hẹn muốn tới tìm chàng uống rượu nhưng chưa từng tới, e rằng trong lòng Đường Thiệu Nghĩa cũng đã hiểu rõ.

Từ Tĩnh vuốt râu không nói gì, một lúc sau đột nhiên cất lời khen: “A Mạch à, ngươi rất tốt”.

Ông ta dừng lại một lát rồi nhắc lại: “Rất tốt”.

A Mạch hơi sững sờ, nàng nhanh chóng cười đáp lại: “Đa tạ tiên sinh quá khen”.

Từ Tĩnh cười nhạt không nói gì thêm.


Giang Vi

Tôi là một người yêu sách cuồng nhiệt và đã hơn 20 năm. Tôi dành cả ngày để đọc, viết blog về sách và viết bình luận. Tôi tin rằng sách là công cụ mạnh mẽ nhất trong cuộc sống để mở mang đầu óc cho những ý tưởng và quan điểm mới. Các thể loại yêu thích của tôi bao gồm tiểu thuyết lịch sử, giả tưởng, khoa học viễn tưởng và phi hư cấu. Tôi cũng thích tìm hiểu về các nền văn hóa khác nhau thông qua văn học.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts:

Back to top button