Tiểu thuyết - ngôn tình

A Mạch Tòng Quân Tập 1

1. THÔNG TIN SÁCH/EBOOK

Tác giả : Tiên Chanh

Download sách A Mạch Tòng Quân Tập 1 ebook PDF/PRC/EPUB/MOBI. Tải miễn phí, đọc online trên điện thoại, máy tính, máy tính bảng.

Danh mục : TIỂU THUYẾT

Đọc thử Xem giá bán

2. DOWNLOAD

Download Ebook           

File ebook hiện chưa có hoặc gặp vấn đề bản quyền, Downloadsach sẽ cập nhật link tải ngay khi tìm kiếm được trên Internet.

Bạn có thể Đọc thử hoặc Xem giá bán.

Bạn không tải được sách ? Xem hướng dẫn nhé : Hướng dẫn tải sách


3. GIỚI THIỆU / REVIEW SÁCH

Lời giới thiệu


A Mạch, từ một bé gái ngây thơ, cả ngày chỉ có Trần Khởi ca ca, bỗng chốc cha mẹ mất, Trần Khởi ca ca thành kẻ thù, không còn nơi nào để đi, không còn nhà để về, đã dần phải trở lên mạnh mẽ.

Cái cay đắng, uất ức, tủi thân của một cô gái giả trang, rồi ra chiến trường, nếm mật nằm gai, không phải ai cũng có thể hiểu được. Không phải là một câu chuyện cổ tích của một cô bé lọ lem giả trai tìm được hoàng tử, mà là quá trưởng thành đổi bằng máu và rất nhiều nước mắt của một cô gái.

A Mạch- từ một con chim nhỏ lay lắt giữa gió mưa, đã từng bước trở thành con đại bàng sải cánh trên bầu trời, tung hoành bốn phương. Nàng cũng từng bước chạm tay vào quyền lực, cũng từng vì thù hận, không cam lòng mà muốn xưng đế một phương. Nàng xinh đẹp, thông minh, tình nghĩa, quyết đoán, nhưng cũng tàn nhẫn đến lạnh lùng. Tàn nhẫn với những người tổn thương nàng, cũng tàn nhẫn với chính mình. Nhưng trong sâu thẳm, vẫn có trái tim của một cô gái đang đập. Trái tim đấy cũng biết yêu, biết tổn thương, biết hờn giận, biết tha thứ. A Mạch, có lẽ là hình mẫu nữ cường nhân nếu ở thời hiện đại.

ĐỌC THỬ

Quyển 1GIÓ THU THƠM NỒNG HƯƠNG LÚA MẠCH

Chương 1THÀNH PHÁ – GẶP NGUY – TRỐN THOÁT

AMạch sinh vào tháng Năm, đúng mùa lúa mạch chín vàng, mẹ A Mạch vừa run rẩy trở về từ cửa tử, mệt mỏi nằm trên giường với sắc mặt xanh xao nhưng vẫn gắng gượng cất giọng nhẹ nhàng hỏi cha A Mạch:

“Đặt cho con cái tên đi!”

Cha A Mạch vừa ôm A Mạch mềm như cục bột nhồi vừa nhìn ngược nhìn xuôi, nghĩ thật làm khó nhau. Linh cảm chợt xuất hiện, ông vui mừng hét lên:

“A Đâu! Gọi là A Đâu đi!”

“A Đâu?” Mẹ A Mạch sững người nhìn.

Cha A Mạch nhẹ nhàng đặt A Mạch lên giường, vẻ kinh ngạc xen lẫn vui mừng hiện trên nét mặt. Ông đứng dậy khoa chân múa tay nói:

“Bà quên rồi à? Chính là con lợn con trong hoạt họa Hồng Kông, là con mắt đen đó! Ha ha, họ Mạch, năm nay lại là năm Lợn, gọi là A Đâu xứng đáng lắm! Ha ha…”

Ông vẫn chưa cười xong, một vật thể màu vàng bay vèo về phía ông, đậu thẳng lên mặt.

Mẹ A Mạch mắng: “Con trai mới gọi là A Đâu”.

Cha A Mạch vừa ngượng ngùng lấy miếng tã trên mặt xuống, vừa lén nhìn mẹ A Mạch khẽ hỏi: “Vậy bà nói xem nên đặt tên thế nào?”.

Mẹ A Mạch sững người, gọi tên gì bây giờ? Nếu bà biết còn phải hỏi ông làm gì chứ? Lúc mang thai hai vợ chồng chỉ lo gọi con là cục cưng, nhưng con giờ đã ra đời, không thể đặt là Cục cưng Mạch được.

Hai vợ chồng đang trầm ngâm thì nghe thấy tiếng Ngưu Nhị trong trấn gào to: “Điền chủ lúa mạch, lúa mạch trên đồng tôi đã mang về phơi trong sân, năm nay giàu to rồi, bông lúa mạch to khiếp!”.

Bông lúa mạch? Hai vợ chồng như cùng hiểu ý, nhìn nhau rồi không hẹn cùng gật đầu, thế là cái tên Mạch Huê1 ra đời.

1 Mạch Huê có nghĩa là bông lúa mạch. (Mọi chú thích đều của người dịch).

Sau này A Mạch cứ luôn tự hỏi, nếu năm đó thứ Ngưu Nhị hét toáng lên không phải là bông lúa mạch mà là bí đao, liệu nàng có bị đặt tên là bí đao không nhỉ? Năm A Mạch lên năm, nàng hỏi mẹ câu hỏi ấy khi mẹ đang bán rượu. Mẹ A Mạch chùi bàn tay ướt nhèm vào chiếc tạp dề, cười gượng đáp:

“Đồ khỉ, sao có thể gọi con là bí đao được chứ? Mạch Huê thật hay, cái tên mang đậm hương vị quê hương. Cha mẹ đã phải nghĩ rất lâu mới có thể đặt cho con cái tên mang ý nghĩa sâu xa vậy đấy!”.

Đương nhiên A Mạch không tin, nàng thiết tha mong chờ sự xuất hiện của em trai hoặc em gái, để xem bố mẹ đặt tên cho nó thế nào.

Bụng của bà hàng xóm nhà họ Trần bán đậu phụ hết to rồi lại nhỏ, hết nhỏ rồi lại to, con cái nhà họ Trần dần lớn lên giống như những quả bầu lúc lỉu, chen chúc trên giàn vậy. Còn bụng của mẹ A Mạch vẫn không có bất kỳ động tĩnh gì. Lúc rảnh rỗi A Mạch thường đứng ngây ra ngắm bụng của mẹ, khát khao mong chờ nó cũng có thể to dần lên. Cuối cùng cũng bị mẹ A Mạch phát hiện, bà hỏi: “A Mạch à, con đang nhìn gì thế?”.

“Mẹ ơi, tại sao bụng của mẹ lại không giấu em trai trong đó nhỉ?”

Lần này mẹ A Mạch không trả lời câu hỏi của A Mạch, bà chỉ khẽ cười xoa xoa đầu con gái.

Đêm hôm đó, lúc A Mạch giật mình tỉnh giấc thì nghe thấy tiếng nói chuyện lầm rầm từ bên phòng cha mẹ.

Mẹ A Mạch nói: “Đẻ thêm một đứa nữa đi, con cứ lủi thủi một mình cô độc lắm, đến một đứa bạn cũng không có”.

Nhưng giọng cha A Mạch vẫn kiên định khác thường: “Không được, thời buổi khó khăn thiếu thuốc thiếu thầy, nếu lại đẻ khó thì làm thế nào? Ngộ nhỡ bà có mệnh hệ gì, bà bảo tôi phải sống ở thế giới này một mình thế nào?”.

Hồi lâu mẹ A Mạch buồn bã thở dài nói: “Vợ chồng mình còn có nhau bầu bạn, nhưng sau này A Mạch thế nào đây? Tới lúc vợ chồng mình chết cả, A Mạch sẽ ra sao? Lẽ nào gả nó cho đàn ông thế giới này?”.

Bố A Mạch không nói gì, chỉ ôm chặt mẹ A Mạch, nghĩ ngợi hồi lâu mới an ủi: “Hay là vợ chồng mình nhận nuôi một bé trai đi, nuôi cùng với A Mạch, dạy dỗ nó tử tế, sau này trưởng thành nó có thể chăm sóc A Mạch, bà nói xem làm vậy được không?”.

Đương nhiên đó là chuyện của mười mấy năm trước.

A Mạch bây giờ đang ngồi trong quán trà bên vệ đường, gắng sức gặm bánh bột mỳ khô khốc, rồi ngẩng đầu gọi to: “Tiểu nhị, cho thêm một bình trà!”.

Phía ngoài dịch quán có tiếng truyền lệnh của quân sĩ cưỡi ngựa, chạy vụt qua cuốn tung lớp đất vàng khiến mấy người ho sặc sụa.

“Này, dạo này thường xuyên có lính tráng chạy qua, hay là phía Bắc lại đánh nhau nhỉ?” Ông chủ quán trà hỏi nhỏ.

A Mạch dùng tay đậy bát nước trà trước mặt, nheo mắt nhìn theo người cưỡi ngựa giờ đã biến thành chấm đen dần biến mất ở đằng xa. Phía bắc sắp đánh nhau? Đánh thì đánh, liên quan gì tới nàng chứ? Nàng muốn đi về phía nam cơ mà.

Cách quán trà khoảng sáu dặm về phía nam là một tòa thành nhỏ, lúc A Mạch tới cửa thành phía bắc thì mặt trời vừa qua đỉnh đầu. Nàng nghiêng đầu nhìn hai chữ “Hán Bảo” to đùng trên thành bị mặt trời chiếu tới mức mờ ảo. Nàng cảm thấy cơn đói lại ập tới, không chịu nổi liền chép miệng thắt chặt dải rút. Chiếc bánh bột mỳ đó đúng là không thể chống đói, nếu biết sớm thế này nàng đã không uống nhiều trà tới vậy.

A Mạch cúi đầu đi một mạch vào thành nhưng bị tên lính canh thành ngăn lại, ban đầu hắn nghi hoặc nhìn A Mạch từ đầu xuống chân, rồi hách dịch hỏi:

“Từ đâu tới?”

“Từ phía bắc.” A Mạch thật thà đáp.

“Đi đâu?”

“Về phía nam.”

Dường như tên lính kia cũng nhận thấy có điều gì không bình thường trong câu trả lời của A Mạch, nhưng nhất thời không nói rõ được. Một tên lính đứng bên xúm vào nói: “Đại ca, vừa nhìn đã thấy tên này không giống người tốt, bộ dạng cao to mà lại trắng trẻo giống như đàn bà vậy. Không chừng lại là gian tế từ phương bắc cũng nên”.

Tên lính ban nãy liếc xéo A Mạch từ đầu xuống chân một lần nữa, càng nhìn càng thấy gã trai đứng trước mặt không thuận mắt. Dáng người cao gầy, đã thế tóc lại ngắn củn, cố gắng lắm mới có thể bện được một búi nhỏ đằng sau, đây đâu phải là cách ăn mặc tóc tai của người Nam Hạ, rõ ràng là người nơi khác.

A Mạch cao hơn một mét bảy, thực ra không đến nỗi là quá cao, nếu ở thời cha mẹ nàng, cùng lắm được coi là dong dỏng. Nhưng thời này, đứng trong đám đàn bà con gái lại thuộc dạng “phượng hoàng đứng giữa bầy gà”, và đứng trong đám đàn ông cũng được coi thuộc dạng cao.

A Mạch nhìn tên lính thấp hơn mình tới nửa đầu, thầm than: “Mẹ nói thật chẳng sai chút nào, người thời này phần lớn là thiếu chất, tên này cùng lắm hơn mét sáu, thế mà cũng xứng làm lính kia đấy? Còn kém xa cha nàng”.

Tên lính kia đi vòng quanh A Mạch rồi đột nhiên nhảy về sau một bước rống to: “Lính đâu! Mau bắt thằng này cho ta!”.

Mấy tên lính hùng hổ nhảy bổ về phía A Mạch, không để A Mạch kịp phản ứng gì đã trói quặt cánh gà nàng lại. A Mạch vừa cúi đầu nhìn dây trói trên người vừa vội vàng van xin: “Mấy ông lính ơi, mấy ông hiểu nhầm rồi, hiểu nhầm rồi, tôi là dân lành mà, sao có thể là gian tế được chứ? Không tin các ông cởi trói cho tôi để tôi lấy giấy thông hành cho các ông xem!”.

Đám lính đâu thèm nghe A Mạch giải thích, đẩy mạnh nàng vào thành, đi được nửa đường, vừa hay gặp một vị tướng trẻ và toán thân binh đi tới. Đám lính áp giải A Mạch vội vàng hành lễ nịnh nọt vị tướng trẻ kia: “Bẩm Đại nhân, bọn thuộc hạ vừa bắt được tên gian tế Bắc Mạc”.

A Mạch lớn tiếng kêu oan: “Oan uổng quá, tiểu dân bị oan, tiểu dân là thương nhân đi về hướng nam, trên người tiểu dân có giấy thông hành do phủ Định Châu cấp”.

Giọng nói tuy to nhưng vẫn run run, khuôn mặt chất chứa vẻ chân thành nhưng đượm nét buồn, tốt nhất thì nên nằm bò trên đất để biểu thị sự trung thành, đây là việc cần chú ý khi kêu oan mà có lần mẹ A Mạch đã từng dặn. A Mạch rất chú ý tới điểm này, nghĩ tới việc mình bị trói quá chặt, nếu cứ tiếp tục nằm bò thế này thật mất mặt, nên A Mạch đã chọn cách đứng kêu oan.

Quả nhiên ánh mắt của viên tướng trẻ kia đã bị A Mạch thu hút, nhận thấy viên tướng đang nhìn mình, A Mạch vội vàng gập người, nói: “Xin tướng quân minh xét! Tiểu dân thực sự bị oan!”.

Vị tướng trẻ kia chẳng qua chỉ là một hiệu úy nhỏ, nghe thấy A Mạch cứ luôn mồm gọi mình là tướng quân, nét mặt có phần dịu đi, nhưng vẫn không thèm đếm xỉa tới A Mạch. Chàng chỉ hỏi mấy tên lính áp giải vài câu rồi dặn dò trước tiên cứ áp giải A Mạch tới đại lao rồi thẩm vấn sau.

A Mạch chỉ còn biết thầm trách số phận đen đủi, đang yên lành bỗng cái họa lao tù từ đâu giáng xuống. Nào đâu biết chỉ với một loáng công phu thế này đã khiến bản thân nàng đi một vòng từ quỷ môn quan về. Tình thế giữa Nam Hạ và Bắc Mạc cấp bách, chiến tranh biên giới phía Bắc rất dễ nổ ra, rất nhiều người khả nghi bị bắt, thậm chí còn không cả thẩm vấn, liền xử trảm cho xong chuyện. Giống hoàn cảnh nàng hiện giờ bị giải tới nhà lao coi như đã xong đời.

Bất kể ở triều đại nào, đồ ăn trong đại lao cũng không tài nào nuốt nổi. Ngậm vội cọng lúa mạch, A Mạch lại thầm nghĩ tới miếng bánh bột mỳ đen gặm ở ngoài thành Hán Bảo, nhai trong miệng hào hứng, khi được đưa vào bụng bằng nước chè còn nghe thấy tiếng réo mãn nguyện. Đương nhiên lúc này bụng nàng cũng đang réo ầm lên, nhưng tiếng vọng ra từ trong bụng hơi buồn, nghe chẳng dễ chịu chút nào, A Mạch chỉ còn biết thắt chặt dải rút.

Ban đầu tuy đồ ăn chán tệ, không những thế còn ít, nhưng xấu tốt gì cũng có thể duy trì nhu cầu tối thiểu của cơ thể, cũng không biết vì sao hai ngày gần đây không thấy đưa đồ ăn tới, chỉ có một chút nước nhưng cũng phải nài nỉ mãi mới chịu đưa tới. A Mạch lờ mờ nhận thấy có gì đó bất ổn, quả nhiên ngày thứ mười một ở đại lao, sai dịch dẫn một đám lính dữ tợn, hung hăng đi tới. Sai dịch mở cửa nhà lao, tên lính dẫn đầu không nói không rằng chém phứt đầu một phạm nhân rồi giơ cây đao dính máu lên gào to: “Bọn hung nô Bắc Mạc đến rồi, kẻ nào không muốn chết thì cùng ta ra giữ thành, phàm kẻ nào hăng hái cầm đao giết giặc đều được miễn tội! Ai đi?”.

Nhà lao im ắng như tờ, một lát sau A Mạch là người đầu tiên giơ tay nói: “Tiểu nhân đi! Vì nước giết giặc!”.

Kể cũng buồn cười, ai không đi kiểu gì cũng bị chém chết trong nhà lao, xung phong đi không biết chừng còn đường sống! Khi A Mạch giơ nắm đấm hét to “Vì nước giết giặc”, ngay lập tức rất nhiều phạm nhân bừng tỉnh phản ứng theo, họ vội vàng giơ cao cánh tay hét to: “Vì nước giết giặc!”.

Trong phút chốc tinh thần đám phạm nhân phấn chấn hẳn, lòng yêu nước bỗng chốc sục sôi, trông họ không còn giống với loại người cặn bã cướp giật, trấn lột nữa. Lúc này họ rõ ràng là những chàng trai tràn đầy nhiệt huyết!

Tên lính dẫn đầu tỏ vẻ hài lòng, hắn nhét vội vào tay mỗi phạm nhân một thanh gỗ, tiếp đó đẩy họ lên tường thành.

… Lúc Mạch đại soái còn trẻ lên chơi thành Hán Bảo, bị vu là gian tế Bắc Mạc, vừa may gặp Thiệu Nghĩa dẫn quân đi tuần qua, nghe thấy Mạch đại soái la hét: Tiểu nhân bị oan! Thiệu Nghĩa nhìn đại soái thấy dáng vẻ cao to, tóc ngắn, dung mạo đẹp như đàn bà, chàng không dám nhìn thẳng, một trượng phu như thế lẽ nào lại là gian tế! Liền thả ra.

Trích từ Tập hồi ức tướng quân Bắc chinh.

Mạch thị ngôn lục: Chiến tranh là con cờ trong tay nhân vật có quyền có thế, giơ tay đi nước cờ, trong tiếng cười nói cướp đoạt đất đai; chiến trường là lò lửa một mất một còn mà những kẻ thấp cổ bé họng phải đối mặt, giơ tay đao rơi, trong nháy mắt bụi bay khói tán.

Năm thứ hai Thịnh Nguyên lịch Nam Hạ, Bắc Mạc may phúc bảy năm, cuộc thương thuyết giữa Nam Hạ và Bắc Mạc vẫn ở thế giằng co, hỏa khí đầy trời. Miệng lưỡi của người Nam Hạ luôn khéo hơn người phương bắc, nói mãi cán cân lợi thế dần nghiêng về phương nam. Bên Bắc Mạc ngày càng trầm tư. Bên Nam Hạ còn chưa kịp chúc mừng thắng lợi thì bị kinh động tới mức hồn bay phách lạc bởi một tin tức kinh thiên động địa.

Đầu tháng Tám, Bắc Mạc bỗng nhiên dấy hai mươi vạn binh chia hai đường tấn công biên giới phía bắc Nam Hạ, trong giây lát cục diện biến đổi khó lường.

Dân Bắc Mạc nhanh nhẹn dũng mãnh, đối lập với dân Nam Hạ khéo mồm khéo miệng, người Bắc Mạc thích động chân động tay hơn, thuộc phái hành động, từ trước tới giờ tôn chỉ của họ chính là: Nói không được, đánh liền tay!

Có người từng lấy ví dụ như thế này, nếu có hai người cãi nhau tới tận một canh giờ vẫn không thấy động thủ, không cần phải hỏi cũng biết đó là người Nam Hạ; nếu chưa nói được tới hai câu đã đánh nhau, thì cũng không cần hỏi, nhất định là người Bắc Mạc.

Đương nhiên ví dụ trên kể cũng có phần cường điệu.

Sứ thần của Nam Hạ đột nhiên hiểu ra, đầu tiên ngây người, tiếp đó buồn bã đập liên tiếp vào đầu, trời ơi, sao lại có thể quên thói quen xấu của bọn hung nô Bắc Mạc chứ? Lẽ nào phía Bắc Mạc gần đây im thin thít, hóa ra từ lâu họ đã có dự định này.

Danh tướng Bắc Mạc Chu Chí Nhẫn dẫn mười vạn quân Đông Lộ, sau khi bí mật vượt qua núi Yến Thứ, đã tấn công vào khu Lâm Đồng, rồi băng qua sông Tử Nha, tranh thủ đêm tối tiến vào thị trấn trọng yếu phía bắc Nam Hạ, chỉ huy quân lính trực chiến thành Thái Hưng. Cánh quân Tây Lộ mười vạn được chỉ huy bởi danh tướng Bắc Mạc Thường Ngọc Thanh đi xuyên qua thảo nguyên Tây Hồ thành Quốc Đông, vượt qua tuyến Lương Châu, Mậu Thành, thành Tiểu Cát hướng về phía Đông nam, dường như không gặp phải sự kháng cự nào nên đã nhanh chóng tới phía tây thành Thái Hưng Đại Hạ.

Trong một thời gian ngắn rất nhiều thành, trấn phía bắc Nam Hạ liên tục cấp báo.

Nhưng lúc này ba mươi vạn quân Nam Hạ vẫn đóng tại biên giới phía bắc – Tịnh Dương, một tuyến Phiêu Thủy, đối mặt với đại quân Bắc Mạc. Các tướng sĩ của Nam Hạ cảm thấy khó hiểu vô cùng, rõ ràng đại quân mười mấy vạn của Bắc Mạc đang đóng ở phía đối diện, lấy đâu ra hơn hai mươi vạn đại quân đi vòng ra phía sau mình được? Lẽ nào đại quân Bắc Mạc hai mươi vạn quân kia nứt ra từ trong đá?

Đường tiến công của đại quân Bắc Mạc được chia làm hai, người tinh mắt thoáng nhìn sẽ nhận ra đại quân chia hai đường này hướng mũi nhọn về cùng một nơi – Thái Hưng, thế là điểm đại diện cho thành Thái Hưng trên bản đồ bị tướng lĩnh các nước khoanh tròn đi khoanh tròn lại, chấm đi rồi chấm lại tới mức mờ tịt.

Thành Thái Hưng, thành trọng yếu phía bắc nước Đại Hạ có số dân hơn hai mươi vạn, đối mặt với đồng bằng ven sông, đằng sau có Uyển Giang chảy ngang qua, từ trước tới nay luôn là vùng đất tranh giành binh đao, một tòa thành nếu mất, cả dải đất phía bắc cũng sẽ mất luôn.

Ngày hai mươi sáu tháng Tám, cánh quân Đông Lộ Bắc Mạc tới cửa thành Thái Hưng, tiến hành vây thành trong hai mươi bảy ngày, ngồi chờ cánh quân Tây Lộ mười vạn quân do tướng Thường Ngọc Thanh cầm quân.

Lúc này cánh quân Tây lộ của Bắc Mạc vừa tới trước thành Hán Bảo, cách mười tám dặm phía bắc thành Thái Hưng.

Thành nhỏ Hán Bảo từ trước tới giờ không phải là trấn quân sự trọng yếu, cho nên việc phòng bị thành vốn không được coi trọng, tường thành thấp, không có hào sâu cũng chẳng có sông bảo vệ, cho nên càng không cần tới các loại cầu treo. Thậm chí cổng thành cũng đơn giản, đến cả thành phụ cũng không có, bên ngoài thành mấy trượng chỉ dựng một vài hàng rào ngăn kỵ binh, nhìn thưa thớt, tiêu điều tới mức đáng thương. Không cần đoán cũng biết đã bị coi nhẹ, về cơ bản không thể ngăn cản được cái gì.

Có thể dùng một câu để tổng kết: Phòng thủ quá thô sơ! Tường thành so với tường bao của nhà địa chủ phía bắc chỉ cao hơn, dày hơn, dài hơn người đứng phía trên một chút.

Trong thành lính canh có hơn một nghìn, cộng già trẻ lớn bé cả thảy chưa tới hai vạn dân, nếu có để trong miệng đại quân Bắc Mạc cũng không bõ dính răng, chả trách phạm nhân trong đại lao cũng bị huy động lên thành.

Lúc A Mạch bị đẩy lên thành, thành Hán Bảo đã bị quân Bắc Mạc vây chặt tới mức một giọt nước cũng không lọt, nhìn từ thành xuống chỉ thấy đen một màu. A Mạch thò đầu ra, ngay lập tức rùng mình, vội vàng chùn người xuống trốn sau tường bao quanh thành, đã thế này rồi thì liệu có thể giữ được thành chăng? Nếu có thể giữ được thì đúng là kỳ tích.

Đội kỵ binh bọc sắt Bắc Mạc tới dưới thành Hán Bảo trước tiên, hàng vạn kỵ binh bày binh bố trận, tuy rằng không có tác dụng gì đối với việc phá thành, nhưng cũng được coi là sự giễu võ giương oai nhằm nắn gân quan quân Nam Hạ, đồng thời cũng dẹp bỏ ý nghĩ bỏ thành mà chạy của bọn họ. Vả lại hai chân làm sao chạy bằng bốn chân, vì vậy, huynh đệ chúng ta cứ vững tâm mà thủ thành thôi!

Mấy kỵ binh vừa phi nước kiệu từ thế trận của Bắc Mạc, vừa giơ cờ phi nhanh vài vòng trước thế trận, đoàn kỵ binh liền thúc ngựa chia thành hai cánh rút về phía sau, lộ ra trận bộ binh tay cầm khiên. Xen kẽ trong trận là rất nhiều khí giới tấn công như xe phá thành, thang, thang dây dần dần được đẩy về phía trước. Tiếng kèn hiệu lệnh vang lên từ xa, tiếng giáo vàng rộ lên khắp nơi, đại quân màu đen của Bắc Mạc ào lên như nước triều, có cảm giác chỉ cần một con sóng cũng có thể khiến thành Hán Bảo đổ sập.

“Bắn tên! Bắn tên! Bắn chết bọn giặc đi!” Viên quan trên thành vừa vung vẩy chiếc roi trong tay vừa nghiêm giọng kêu gọi.

A Mạch cũng dính vài roi, nàng vội vàng nhặt chiếc cung trên đất lên rồi bắn xuống dưới thành. Nàng đâu biết bắn tên, có điều học cách giương cung của người bên cạnh, thậm chí đến ngắm cũng không dám, cứ thế nhắm tịt mắt buông tay. Thế nhưng lực bắn lại không yếu chút nào, mũi tên bay xuống dưới, chỉ nghe thấy một tiếng kêu thảm thiết vọng lên, một tên lính Bắc Mạc trèo tới nửa thang phá thành đã rơi bụp xuống.

Một tên lính Nam Hạ bên cạnh A Mạch khen một tiếng giỏi, không biết vớ được chiếc mũ giáp từ đâu ném về phía nàng. Tên lính vừa bắn tên xuống dưới thành vừa gào to: “Người anh em, được lắm, đội cái này lên, cẩn thận tên của bọn giặc, cố gắng bắn hết lũ súc sinh này”.

A Mạch sững sờ nhìn chiếc mũ giáp vẫn còn vương vết máu trong tay, nhưng rồi vẫn nghiến răng đội lên, tên đao không có mắt, nàng chẳng muốn chết ở đây, tuy nhiên với tình hình trước mắt, xác suất có thể sống sót rời khỏi chỗ này quả thực rất nhỏ.

Hai tên lính Nam Hạ bên cạnh gắng sức đập những chiếc răng sói sắc nhọn xuống dưới, nhìn thấy quân Bắc Mạc trèo lên thành liền đập xuống, tiếng kêu thảm thiết đập vào tai A Mạch khiến nàng hoảng hốt không yên. Chốc chốc bên cạnh nàng lại vọng lên một tiếng “á” thất thanh, tên lính vừa mới khen nàng giỏi đã trúng tên của quân Bắc Mạc. Một mũi tên dài xuyên qua ngực, máu tươi phun từ miệng bắn lên tường thành, phút chốc đã nhuộm đỏ một góc thành. A Mạch sợ hãi đánh rơi chiếc cung trong tay, nàng chỉ còn biết ôm đầu ngồi thụp xuống, những tiếng kêu thất thanh vẫn không ngừng vang lên. Người A Mạch lại trúng mấy roi, viên quan vung roi giận dữ hét lên: “Mẹ kiếp, còn có thời gian trốn à, bọn giặc lên tới nơi, chẳng tên nào sống nổi đâu!”.

Trên một con dốc nhỏ bên ngoài cổng thành không xa, chủ tướng cánh quân Tây Lộ Bắc Mạc Thường Ngọc Thanh lạnh lùng ngồi thẳng trên lưng ngựa chiến, khóe miệng hơi mím như thể cười nhạt, chăm chú theo dõi trận chiến công thành đang diễn ra gần đó. Đội cận vệ kỵ binh mặc áo giáp đen đứng yên sau chủ tướng, giữa chiến trường hỗn loạn này, vẫn giữ được vẻ tĩnh lặng khác thường, phảng phất như khách xem trên chiến trường, lạnh lùng mà điềm nhiên.

Bỗng Thường Ngọc Thanh giơ tay chỉ roi quất ngựa về một phía tườngthành, tiếp đó vừa cười vừa nói với phó tướng Khương Thành Dực: “Ha ha, Thành Dực à, ngươi xem bọn mọi Nam, thậm chí đến cung còn không biết cầm, những tên như vậy lại được đưa lên để giữ thành, có thể thấy Nam Hạ thực sự không có người nữa rồi”.

Khương Thành Dực nhìn về thành Hán Bảo không kìm chế được cảm xúc, cười tủm tỉm. Trên tường thành có một lính Nam Hạ lóng ngóng nhoài người bắn đại một mũi tên, bắn xong liền vội vàng ngồi thụp xuống trốn sau bức tường, một lát sau lại thò đầu ra bắn một mũi tên nữa. Xem ra mười mũi tên có tới tám mũi rơi xuống thành, may chăng được hai mũi tên bắn ra được, mà cũng lạ chẳng có mục tiêu gì cả, chẳng trúng được ai.

Nụ cười của Khương Thành Dực nhanh chóng biến mất, hắn quay đầu nhìn Thường Ngọc Thanh rồi thận trọng nhắc: “Tướng quân, chỗ này gần tường thành quá, tên bay đạn lạc quá nhiều, để bảo toàn mời tướng quân lui về sau thế trận quan sát”.

Thường Ngọc Thanh chậm rãi lắc đầu, khóe môi nhếch lên, khẽ giơ tay nói: “Mang cung tên tới đây”.

Tên lính cận vệ đứng cạnh vội vàng lấy cây cung dài sau lưng ra rồi dâng lên bằng hai tay. Thường Ngọc Thanh cầm lấy, đặt tên lên rồi kéo căng cung, mắt khẽ nheo ngắm chuẩn người lính đó. Khi vừa buông tay, chỉ nghe thấy “phựt” một tiếng, mũi tên nhọn được bắn ra mang theo tiếng rẹt sắc nhọn, xé toạc khoảng không rồi bay về phía tên lính nhát gan trên thành kia.

Lúc này A Mạch đang đứng thẳng, dây cung vẫn chưa kịp chùng xuống thì cảm thấy như có vật gì đập mạnh vào đỉnh đầu, quán tính mạnh đẩy nàng lùi về phía sau rồi cả người ngã mạnh xuống đất. Trong giây lát, A Mạch chỉ cảm thấy tối tăm mặt mũi, trong tai ngoài tiếng ù ra chẳng còn nghe được gì. Hồi lâu nàng mới hoàn hồn, uể oải gỡ chiếc mũ giáp trên đầu xuống, nàng hốt hoảng phát hiện một mũi tên dài ghim chặt vào đỉnh mũ giáp, đứt luôn mấy chiếc tua dùng để trang trí.

Tên lính trên thành đó cho dù có ngất lịm cũng sợ tới vãi tè ra quần thôi, Thường Ngọc Thanh cười đắc ý, hắn tiện tay vứt lại cây cung dài cho tên cận vệ đứng bên. Lúc này hắn cũng chẳng thể ngờ được rất nhiều năm sau đó hắn sẽ phải hối hận vì mũi tên đó bắn hơi cao một chút, nếu như lúc đó bắn thấp hơn khoảng hai thốn thì hay biết mấy.

Quân Bắc Mạc đã trèo được lên thành, chúng múa đại đao chém lính giữ thành Nam Hạ. Lưỡi đao nặng chém vào cơ thể người phát ra âm thanh nặng nề, những kẻ bị chém trợn mắt lảo đảo ngã về phía sau, trong ánh mắt ngoài sự hoảng hốt còn vương nét không cam tâm. Tên lính chém người còn chưa kịp ăn mừng thì đã bị một mũi lao dài không biết từ đâu xuyên thủng bụng. Máu trào ồng ộc từ mũi lao ra, hắn cúi đầu nhìn mũi lao nhuốm máu xuyên qua cơ thể mình mang theo cả nội tạng rách nát.

Bầu trời đầu thu rõ trong sáng, thế nhưng thành Hán Bảo lại nổi cơn mưa máu lất phất, nhuộm đỏ, tanh ngòm…

Cửa thành mở rồi, đi thôi, muộn chút nữa thì không kịp!

Thường Ngọc Thanh vừa cười vừa dùng chân khẽ thúc vào bụng ngựa, con ngựa Chiếu Dạ Bạch khoan khoái phi thẳng về phía trước.

“Tối nay sẽ ngủ ở thành Hán Bảo, báo cho binh sĩ, tối nay bất luận quân kỷ.”

“Tướng quân!” Khương Thành Dực vội thúc ngựa lên phía trước can gián: “Nguyên soái có lệnh, không được giết người trong thành!”.

Thường Ngọc Thanh từ lâu đã không chịu đựng được tay phó tướng tuổi trẻ nhưng lại già dặn hơn người này, nghe thấy hắn lại lôi mệnh lệnh của vị nguyên soái kia ra, trong lòng càng bực bội, khẽ kéo dây cương đi chậm lại vài bước, liếc xéo Khương Thành Dực đang đi sát phía sau rồi nửa đùa nửa thật hỏi lại: “Khương phó tướng, tai nào của ngươi nghe thấy bản tướng quân nói phải giết người trong thành hả?”.

Khương Thành Dực nghẹn họng, Thường Ngọc Thanh quả thực không nói rõ giết người trong thành, nhưng câu nói vừa rồi nếu được truyền đi thì có khác gì giết người trong thành chứ? Trước khi xuất chinh nguyên soái đã đích thân dặn dò, chỉ muốn họ phá thành thị uy, không cho phép giết người trong thành.

“Tướng quân…” Khương Thành Dực vươn cổ định khuyên can tiếp, nhưng bị câu nói của Thường Ngọc Thanh khiến họng tắc nghẹn, đành phải im lặng.

Thường Ngọc Thanh cười nhạt nói: “Truyền lệnh, những tướng sĩ tham gia phá thành sau khi vào thành, bất luận quân kỷ tự hành phóng túng, đều phải đóng quân bên ngoài thành”.

Nói xong Thường Ngọc Thanh quật một roi trong không khí, không đợi Khương Thành Dực nói thêm đã thúc ngựa đi, đội cận vệ phía sau vội vàng đi theo.

Thường Ngọc Thanh thúc ngựa phi nước kiệu từ trong trận Bắc Mạc ra cửa thành. Cửa thành vừa bị xe húc của quân Bắc Mạc mở toang hoang, binh sĩ hai bên vẫn đang quấn lấy nhau, Thường Ngọc Thanh giương súng nhằm về hướng đó, cứ nhìn thấy binh sĩ mặc giáp Nam Hạ liền bắn, chẳng mất mấy công sức đã bắn hạ được hơn mười lính Nam Hạ. Khương Thành Dực nhìn Thường Ngọc Thanh giết người đầy hứng khởi, cũng không đành ngăn cản, nhưng lại sợ chủ tướng gặp chuyện rủi ro trong trận chiến hỗn loạn liền múa đao tới, cùng bảo vệ Thường Ngọc Thanh với các cận vệ. Một hàng mười mấy kỵ binh xông lên phía trước quân Bắc Mạc tiến vào trong thành Hán Bảo.

Ngày hai mươi tám tháng Tám năm Thịnh Nguyên thứ hai lịch Nam Hạ, thành Hán Bảo bị công phá, Lưu Cánh tự sát trên thành, vợ là Trần Thị dẫn hai con gái treo cổ tự vẫn trên cột trong phủ, con trai duy nhất mất tích.

Thành Hán Bảo không hề yên tĩnh trở lại khi màn đêm buông xuống, ánh lửa trong thành sáng rọi khắp nơi, tiếng cười đùa chửi tục của binh sĩ Bắc Mạc, tiếng kêu gào, khóc lóc của dân Nam Hạ, tiếng kêu thét thảm thiết lúc rộ lên lúc lắng xuống trong thành. Đủ loại tạp âm lẫn vào nhau nếu không phải không cam tâm thì là khiếp sợ hoặc phóng túng lan truyền đi khắp mọi nơi trong thành, giống như một bàn tay vô hình, mỗi khi tới một nơi nào đó đều có thể khiến người nghe giật mình, cảm giác như tim mình thót lại giống như đang bị treo lơ lửng trong màn đêm, chốc chốc lại run rẩy…

Thậm chí đến cả ánh trăng trên trời dường như cũng không nhẫn tâm nhìn xuống, cứ nhắm chặt mắt lại.

Sắc đêm, quả thực rất đen.

So với âm thanh huyên náo hỗn loạn ở thành Hán Bảo, doanh trại Bắc Mạc đóng ở ngoài thành trái lại rất yên tĩnh. Ánh nến trong doanh trại chính vẫn sáng, bên trong năm sáu tướng lĩnh Bắc Mạc đang ngồi xung quanh một chiếc bàn vuông thảo luận gì đó. Vị tướng trẻ cầm đầu im lặng, không nói không rằng, chỉ cúi đầu nhìn tấm bản đồ trên bàn. Ngọn lửa lay động khiến bóng người dong dỏng in trên lều trại cũng trở nên sinh động hơn.

Bỗng từ bên ngoài lều vọng tới tiếng bước chân gấp gáp, một tướng quân mặc giáp gạt rèm bước vào khẽ bẩm báo: “Bẩm Tướng quân, đội kỵ binh bốn vạn đã chuẩn bị xong, có thể xuất phát ngay lập tức, chỉ còn chờ tướng quân hạ lệnh”.

Vị tướng quân trẻ kia cuối cùng đã ngẩng đầu lên, khóe miệng hơi nhếch lên không rõ là cười hay không, nhưng vẫn không thể che lấp được sát khí giữa đôi lông mày. Đó chính là chủ tướng Thường Ngọc Thanh đang đóng trong thành Hán Bảo.

Đôi lông mày lưỡi kiếm của Thường Ngọc Thanh khẽ nhướn lên, rồi đưa ánh mắt nghiêm nghị lướt qua mấy vị tướng xung quanh, hỏi khẽ: “Các tướng đều đã nghe rõ về việc bố trí ban nãy rồi chứ?”.

Các tướng lĩnh nhất tề hô rõ, riêng chỉ có tiếng đáp của phó tướng Khương Thành Dực pha lẫn sự do dự. Vị phó tướng lưỡng lự một lát rồi nói: “Tướng quân, mạt tướng…”.

Thường Ngọc Thanh còn không chờ cho Khương Thành Dực kịp nói gì tiếp đã chặn lại, nửa cười nửa không hỏi lại: “Sao vậy? Thành Dực cho rằng sự sắp xếp của ta có gì không ổn sao?”.

“Mạt tướng không dám.” Khương Thành Dực vội vàng thanh minh, sau khi nhìn nét mặt của Thường Ngọc Thanh xong vẫn cung kính nói: “Mạt tướng chỉ muốn tuân theo tướng quân, nhưng trước khi đi nguyên soái cũng dặn dò mạt tướng phải bảo đảm chắc chắn sự an toàn của tướng quân”.

Từ lâu Thường Ngọc Thanh đã biết nguyên soái để Khương Thành Dực làm phó tướng cho mình mục đích là để bó buộc mình, trên cả chặng đường dài phải nghe những lời lải nhải bên tai trong lòng vô cùng khó chịu. Phải vất vả lắm mới đợi được lần chia quân này, làm sao hắn có thể để Khương Thành Dực tiếp tục ở lại bên cạnh. Thế là tranh thủ thời cơ thay đổi kế hoạch ban đầu, hắn bố trí Khương Thành Dực dẫn đầu một cánh quân ở càng xa mình càng tốt. Nay nghe Khương Thành Dực lại đưa ra phương án như cũ, trong lòng Thường Ngọc Thanh bực bội nhưng vẫn không biểu lộ gì ra ngoài mặt, chỉ cười nói: “Thành Dực yên tâm, lần này ta sẽ không đích thân ra trận tàn sát, không cần người phải hộ vệ, không những thế ngươi còn là phó tướng cánh quân Tây Lộ của ta, chứ không phải là đội trưởng đội cận vệ của ta, sao lại dồn hết tâm lực vào những việc nhỏ nhặt này? Việc ngày mai trọng đại, càng cần những người cẩn trọng như ngươi xử lý, tuyệt đối không thể để xảy ra bất cứ sai sót nào”.

Khương Thành Dực vẫn muốn nói tiếp nhưng thấy nét mặt Thường Ngọc Thanh sắc lạnh, đành phải nuốt lại những lời muốn nói, chỉ còn biết tuân lệnh rồi cúi đầu đi ra ngoài trướng cùng với những tướng lĩnh khác. Lúc này Thường Ngọc Thanh mới khẽ cười một tiếng, để cho cận vệ buộc chặt áo bào xong liền ôm mũ giáp tua đi ra.

Bên ngoài đã có cận vệ đưa con chiến mã Chiếu Dạ Bạch của Thường Ngọc Thanh chờ sẵn, Thường Ngọc Thanh lên ngựa, ánh lửa chiếu vào bộ áo giáp của hắn tạo ra vầng sáng lạnh lẽo, vầng sáng hắt lên mặt khiến khuôn mặt hắn vốn đã lạnh càng trở nên lạnh hơn.

“Tướng quân Thành Dực.” Thường Ngọc Thanh gọi Khương Thành Dực, từ trên ngựa hắn cúi người xuống ghé sát vào tai Khương Thành Dực khẽ nói: “Mười vạn binh mã của bản tướng quân đều đã giao cho ngươi rồi đó, nhớ phải dẫn đại quân của bản tướng tới ngoài thành Thái Hưng đấy!”.

Nói rồi cười lớn hai tiếng, không chờ cho Khương Thành Dực phản ứng đã thúc ngựa phi nước kiệu bỏ đi.

Đêm đó chủ tướng Bắc Mạc dẫn bốn vạn kỵ binh biến mất trong màn đêm dày dặc, nhưng doanh trại mười vạn đại quân của Bắc Mạc vẫn đóng ngoài thành Hán Bảo.

Trong thành Hán Bảo, hơn một vạn tướng sĩ Bắc Mạc tham gia cuộc tấn công thành ban ngày vẫn đang xả hơi…

Trong ngôi nhà vách đất thấp lè tè sát phía tây thành, các khuôn viên nhỏ hẹp chen chúc bên nhau bị những con ngõ nhỏ cong queo xuyên qua giống như một mạng nhện thủng lỗ chỗ. Mạng nhện đó lả lơi buông lửng trên mặt đất, còn không dựng được bộ khung lên.

Mười mấy binh sĩ Bắc Mạc cầm đuốc vừa chửi bới lung tung vừa đi xuyên qua các con ngõ nhỏ, tất nhiên chúng không hài lòng chút nào với những thứ thu hoạch được.

“Đại ca, khoảng sân này mở toang hoang thế này, xem ra người đã chạy hết từ lâu rồi, chúng ta vào không vậy?”

“Vào cái con khỉ!” Tên lính Bắc Mạc cầm đầu chửi. “Đã lục soát bao nhiêu nhà rồi hả? Tiên sư chúng nó, chẳng lấy được thứ gì đáng giá, nói gì tới đàn bà, mẹ kiếp, đến cả cái lông còn chẳng tìm được nữa là, coi như chúng ta đen đủi, tại sao lại chạy tới chốn khỉ ho cò gáy này chứ?”

Thành Hán Bảo được chia làm hai thành đông và tây, đông thành là khu nha phủ và nhà giàu, tây thành là khu bình dân, khu sát với tây thành này lại là nơi nghèo nhất trong khu bình dân. Phần lớn những người sống ở đây là dân nghèo khổ đáy xã hội, bình thường gắng gượng được một ngày ba bữa đã là tốt lắm rồi. Do vậy làm gì có vàng bạc châu báu nào giấu trong nhà chứ, bọn lính Bắc Mạc lại mò tới đây cướp bóc đúng là tới sai chỗ. Chả trách lục soát tới mười mấy ngôi nhà cũng chẳng cướp được thứ gì, cuối cùng đến cả tâm trạng giơ chân đạp cửa cũng chẳng còn nữa.

Một tên lính Bắc Mạc cầm đuốc chỉ về khu đông thành gào to: “Đại ca, đệ thấy bên kia náo nhiệt lắm, hay là chúng ta tới đó đi!”.

Tên cầm đầu rõ ràng cũng bị lay động, hắn ngẩng lên nhìn bầu trời phía đông đỏ rực, sau đó quay sang nhìn đám thuộc hạ rồi vẫy tay nói: “Đi thôi! Chúng ta đổi chỗ, phải nhanh lên mới được, nếu không tới muộn đến cả nước cũng chẳng có phần đâu!”.

Đám thuộc hạ đồng thanh “tuân lệnh” rồi chạy theo ra bên ngoài. Ánh lửa dần xa với tiếng bước chân lộn xộn, bóng tối trở lại. Chính trong khoảng sân mở toang hoang đó, tâm trạng thấp thỏm lo âu của A Mạch cuối cùng cũng được cởi bỏ. Nàng dỏng tai nghe ngóng một hồi rồi mới cẩn thận bò ra từ góc tường chất đầy những thứ đồ linh tinh, nàng còn chẳng lo lau bụi bẩn trên mặt, vội vàng nằm sõng soài trên đất thở dốc.

Binh pháp có nói: Thực tức là hư, hư tức là thực. Nếu như không phải mình mở cửa sân tông hổng, còn vứt lung tung mọi thứ trong sân thì khó tránh khỏi bọn lính Bắc Mạc vào lục soát, nếu đã lục soát thì tính mạng của mình sẽ ra sao nhỉ?

Bản thân A Mạch cũng không ngờ rằng mình còn sống sót, còn có thể bình yên xuống khỏi thành. Đầu tiên dính mũi tên trên đỉnh đầu khiến cho sợ mất mật, tiếp đó phải giả chết, phải chịu khổ tới tận đêm mới dám bò ra từ đống xác chết. Cũng may do đêm tối nên mới mò tới khu dân nghèo này, coi như vừa thoát được một kiếp nạn. Chỉ trong vòng một ngày ngắn ngủi thế nhưng nàng đã vào vào ra ra quỷ môn quan tới mấy lượt.

Nằm ngửa trên đất, A Mạch ngắm nhìn những vì sao lấp lánh như thường lệ, nàng bất giác than thở, không ngờ sức sống của mình lại mãnh liệt như vậy! Mẹ đã từng nói, nếu muốn có sức sống mãnh liệt như con gián thì phải chịu được bóng tối và sự ẩm ướt mà người khác không thể chịu. Việc vừa rồi còn đáng sợ hơn nhiều so với bóng tối và sự ẩm ướt mà nàng vẫn vượt qua được, nàng còn phải sợ gì nữa chứ? Có lẽ nàng cũng không cần phải lo lắng cho cuộc đời của mình, bởi nếu ông trời muốn bắt nàng, vậy thì đã bắt nàng từ bốn năm trước rồi. Bốn năm trước chưa bắt, thì rõ rằng đến cả ông trời cũng không muốn gặp nàng, tức là sẽ không muốn mạng của nàng.

Khóe miệng A Mạch hơi nhếch lên, lộ ra nụ cười bất đắc dĩ. Ái chà, cảm giác đói lại dâng lên, cứ tưởng là đói tới đỉnh thì sẽ không biết tới đói nữa. A Mạch thở dài rồi lại bò vào nhà sờ sờ soạng soạng. Không hiểu chủ ngôi nhà này có để lại thứ gì ăn được không nữa, cho dù không còn thứ gì chín, chí ít cũng phải còn chút gì sống chứ? Thường thì gian trong để ngủ, gian ngoài ăn uống, nếu có thứ gì ăn được, chắc là ở nhà chính thôi. Sờ soạng hồi lâu, cuối cùng A Mạch cũng mò được một nửa miếng lương khô trong lò bếp. A Mạch khấp khởi mừng, trong lòng thầm nghĩ ông trời quả nhiên không định cho mình chết đói. Nàng cũng chẳng màng quan tâm xem có ăn được hay không, vội vàng nhét ngay vào miệng. Miếng bánh vừa đưa tới miệng thì động tác của A Mạch ngay lập tức cứng đờ lại, nàng nhìn chằm chằm vào đống củi bên trên bệ bếp.

Đống củi đó quả nhiên đang động đậy.

Một đầu người nhô ra từ trong đống củi, khuôn mặt đen xì xì không thể nhìn rõ được, duy chỉ có đôi mắt sáng long lanh đang nhìn không chớp mắt vào A Mạch.

A Mạch có cảm giác một cơn gió lạnh đột nhiên thổi qua lưng, lông trên người dựng đứng cả lên. A Mạch rất muốn gào to lên một tiếng “Ma!”, tiếp đó ba chân bốn cẳng chạy ra ngoài, nhưng khi nỗi sợ lên đến đỉnh điểm, dường như chân tay không còn chịu sự điều khiển của đại não nữa. Phản ứng đó chỉ thoáng qua đầu nàng một lát rồi biến mất, nàng chẳng hét toáng cũng không bỏ chạy, chỉ lặng người giơ nửa miếng lương khô ra hỏi: “Ăn không?”.

“Con ma” đó cũng ngây ra trước hành động ngoài sức tưởng tượng của A Mạch, sững sờ một lát rồi há to miệng, lộ ra hàm răng trắng đối lập với sắc mặt.

Khi chữ “á” vừa mới thành hình còn chưa kịp thốt ra khỏi miệng thì miếng lương khô đã được nhét vào miệng “con ma”. Tiếng “á” chuyển thành tiếng “u u”, tiếng nói mềm mại, hóa ra là “ma nữ”!

Một tay A Mạch bịt chặt miệng “ma nữ”, tay còn lại ấn vào vai, A Mạch khẽ trách: “Kêu cái gì mà kêu? Hay là muốn gọi bọn Bắc Mạc tới mới cam lòng hả?”.

Vừa nói xong câu này, sức chống trả của “ma nữ” lập tức giảm hẳn, cô bé giương đôi mắt còn thấm đẫm nước mắt rất đáng thương nhìn A Mạch.

A Mạch ghìm giọng nói: “Ta là người Nam Hạ, vì tránh bọn Bắc Mạc nên mới trốn vào đây, chúng đang ở cách đây không xa, nếu kinh động khiến chúng kéo tới, cả hai chúng ta không ai sống nổi đâu! Ngươi đừng hét, ta sẽ buông tay”.

“Ma nữ” nghẹn ngào gật đầu, A Mạch thử lỏng tay một chút, quả nhiên “ma nữ” không kêu thét nữa, lúc này A Mạch mới buông hẳn tay ra. A Mạch ngồi phịch xuống đất, thở phào nhẹ nhõm. Lúc này nàng không sợ người cũng chẳng sợ ma, chỉ sợ tạo ra tiếng động nào đó kéo bọn Bắc Mạc quay lại.

Phải rất lâu sau đó, tim A Mạch mới đập bình thường trở lại, ngay lập tức cơn đói lại khiến nàng không chịu nổi. Nàng quay đầu nhìn “ma nữ” kia, tiếp đó kéo nửa miếng lương khô còn đang mắc trong miệng ma nữ ra, lấy tay đập đập rồi thổi mấy cái. Nàng cũng chẳng thèm để ý tới ánh mắt sợ hãi của “ma nữ”, tiếp đó tống luôn miếng lương khô vào miệng, dùng sức nuốt thật lực vào bụng.

Lương khô vốn khô ráp, cộng thêm cả ngày hôm nay A Mạch không có giọt nước nào vào miệng, nên vừa nuốt xuống đã tắc nghẹn cả cổ. Nàng đấm mạnh vào ngực nhưng vẫn vô hiệu, xem ra nghẹn tới mức không thở được rồi. Trong lòng A Mạch chua xót vô cùng, bao nhiêu sóng gió đã qua rồi, không ngờ cuối cùng lại bị chết bởi miếng lương khô. Nếu gặp lại cha mẹ ở thế giới bên kia liệu họ có buồn cười chết đi vì nàng không nhỉ?

Thụp, thụp! A Mạch tiếp tục đấm vào ngực, “ma nữ” há hốc mồm ra nhìn trong giây lát rồi vội vàng trèo khỏi đống củi, lóng ngóng múc nửa gàu nước trong chum đưa tới, tiếp đó dìu A Mạch đứng lên rồi đổ nước vào miệng, vừa đổ nước vừa vỗ vỗ mạnh vào lưng A Mạch.

Tới lúc uống cạn nửa gàu nước, lương khô mắc ở cổ A Mạch mới trôi xuống bụng, nàng vừa nghẹn giờ lại bị sặc, nước mắt nước mũi đầm đìa cả mặt.

“Cảm ơn ngươi!” A Mạch cất tiếng khàn khàn. Chất giọng của nàng vốn thấp trầm, vừa rồi lại bị miếng lương khô to làm trầy xước cổ họng khiến giọng nói càng khàn hơn.

“Ma nữ” kia trong lúc cấp bách, chẳng để ý tới việc phân biệt nam nữ, nay thấy A Mạch không sao rồi, mới chợt nhận ra thái độ đối với chàng trai trước mắt quá đỗi thân mật. Cô ta ngượng nghịu, khuôn mặt thoáng ửng hồng, buông A Mạch ra rồi lùi về sau hai bước, cúi đầu không dám nhìn A Mạch nữa.

Mười lăm tuổi A Mạch đã bắt đầu mặc đồ con trai, tới bây giờ dây thần kinh đã được mài thô như dây đay rồi, do vậy đâu đoán được tâm tư của cô gái kia. Nàng vẫn cho rằng cô gái kia sợ mình, liền giơ tay áo lên vuốt mặt rồi cười hì hì hai tiếng.

Nếu nàng không cười còn không sao, nụ cười này của nàng khiến cô gái kia lại lùi về phía sau thêm hai bước.

Nhìn cô gái nhỏ bị mình dọa tới mức này, A Mạch cũng không biết phải nói gì nữa, chỉ biết ngoác mồm cười mà thôi. Cả hai cùng im lặng, cô gái nhỏ kia thấy A Mạch không có hành vi vô lễ, mới mạnh dạn hơn một chút. Nghe thấy tiếng sôi sùng sục trong bụng A Mạch, cô lặng lẽ đi về đống củi phía góc tường mò mẫm một hồi, khi quay lại đưa cho A Mạch một tay nải nhỏ.

A Mạch nghi ngờ đỡ lấy, lúc mở ra vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, thì ra đó là năm chiếc màn thầu mềm dẻo thơm phưng phức. Nàng không dám tin hỏi lại: “Cho ta à?”.

Cô gái gật đầu, sợ A Mạch lại bị nghẹn như vừa nãy, liền bê một gàu nước tới cho A Mạch. A Mạch cười ngượng nghịu cúi đầu nhìn những chiếc màn thầu trắng phốp, tự dưng lại tiếc không nỡ cho vào miệng. Nàng không nhớ là đã bao lâu không được ăn bánh màn thầu bột trắng rồi, giờ đây mùi vị thơm ngon đó thoảng bay tới khiến nước miếng ngay lập tức tiết ra đầy miệng. Nàng ngẩng đầu nhìn cô gái nhỏ một cái, còn chẳng nhớ phải cảm ơn liền cúi đầu ăn ngấu nghiến. Mãi tới khi ăn hết chiếc bánh thứ ba, động tác của A Mạch mới chậm lại, đúng lúc định đưa chiếc thứ tư vào miệng, đột nhiên nhớ ra người ta có cả thảy năm chiếc bánh, sao mình lại có thể ăn hết được chứ? Nghĩ tới đây, nàng luyến tiếc gói lại bánh vào tay nải, trả về chỗ cũ, rồi cúi đầu nói: “Cảm ơn!”.

Ánh sao từ ngoài cửa lọt vào tạo thành những vệt loang lổ trên người, lúc này A Mạch mới quan sát kỹ cô gái kia. Cô có dáng người mảnh mai, nhiều lắm chỉ mười bốn, mười lăm tuổi, mặt giống như quét nhọ nồi, đen xì xì nhìn không rõ, chỉ có đôi mắt sáng rất lanh lợi.

Cô gái nhỏ này cũng đang kín đáo quan sát A Mạch, tên cô ta là Từ Tú Nhi. Trong nhà chỉ có hai cha con sống nương tựa vào nhau. Hai ngày trước cha cô bị quan phủ bắt đi giữ thành, tới tận giờ vẫn chưa quay về, sau đó quân Bắc Mạc tấn công vào thành, hàng xóm láng giềng đều chạy loạn cả. Từ Tú Nhi vốn cũng định chạy loạn, nhưng lại sợ lúc cha trở về không tìm được mình, hơn nữa cô cũng không dám bỏ nhà đi. Bọn lính Bắc Mạc bên ngoài mặc sức chém giết, đốt phá, cướp bóc, Từ Tú Nhi trốn sau đống củi đã mỏi hết cả chân. Lúc A Mạch mò mẫm vào nhà, cô còn tưởng kẻ ác đột nhập, sợ tới mức run bần bật cả người, sém chút nữa đã khóc. Giờ thấy A Mạch không hề có bất kỳ hành động xâm phạm mình, không những thế lời ăn tiếng nói còn rất dịu dàng, lễ độ, mặc dù vẫn cảm thấy bất ổn khi ở chung trong căn nhà tối với một người con trai xa lạ, nhưng trong lòng lại dần cảm thấy vững tâm lên rất nhiều, không còn sợ hãi như khi chỉ có một mình nữa.

Từ phía xa vọng tới tiếng gào thét đòi giết của binh lính Bắc Mạc, trong lòng Từ Tú Nhi vô cùng sợ hãi. Cô tiến gần về phía A Mạch theo bản năng. A Mạch nhìn thấy cô yếu đuối, đáng thương liền vội vàng lên tiếng an ủi: “Đừng sợ! Chúng ở cách xa đây lắm, khu này nghèo xơ xác, có lẽ chúng sẽ không quay lại đâu”.

A Mạch vừa nói xong thì nghe thấy bên ngoài có tiếng người gào to: “Ở đằng kia, mau đuổi theo!”.

Tiếp đó tiếng gào giết càng lúc càng gần.

A Mạch khiếp sợ kéo Từ Tú Nhi chạy vào trong sân, định nấp vào chỗ vừa trốn, nhưng vừa mới ra khỏi cửa nhà đã đứng ngây lại. Ánh lửa lấp loáng trong ngõ, hơn mười tên lính Bắc Mạc đuổi theo một tướng lĩnh Nam Hạ ôm một đứa trẻ sơ sinh đã tới cửa nhà lớn rồi.

Đám người này đến nhanh thật! Bây giờ có nấp cũng không kịp nữa rồi.

Dưới ánh lửa, A Mạch chỉ cảm thấy viên tướng bị truy sát kia hơi quen, nhìn kỹ lại hóa ra là viên hiệu úy nàng gặp lúc mới vào thành Hán Bảo.

Đường Thiệu Nghĩa một tay ôm đứa trẻ sơ sinh, tay kia cầm kiếm quyết chiến đấu không chịu lùi bước. Do ẩn nấp không tiện, A Mạch quyết định lộ mặt tìm cơ may sống sót. Khóe mắt Đường Thiệu Nghĩa lướt qua A Mạch và cô gái đang ngây người đứng ở cửa nhà, chàng cố gắng đỡ lưỡi đao của một tên lính Bắc Mạc vung tới, rồi quay người vừa ném mạnh tay nải trong tay về phía A Mạch vừa hét to: “Vào nhà!”.

A Mạch bị tay nải đập mạnh, trên tay lúc này đã có thêm một trẻ sơ sinh đang khóc oe oe, trong lúc hoảng loạn không nghĩ được gì, nàng vội vàng kéo Từ Tú Nhi quay vào trong nhà, đóng chặt cửa lại. Trong tay Đường Thiệu Nghĩa không còn đứa trẻ vướng víu, kiếm khí linh hoạt, trong nháy mắt đã có vài tên lính Bắc Mạc chết dưới đường kiếm. Toán quân Bắc Mạc ép dần Đường Thiệu Nghĩa tới trước cửa, một tên gào to: “Phóng hỏa!”. Ngay lập tức mấy bó đuốc được ném vào trong nhà, Đường Thiệu Nghĩa múa kiếm chém rơi mấy bó, nhưng vẫn có một bó rơi vào nhà.

Giấy dán cửa bắt lửa cháy, ngọn lửa quái ác ngay lập tức bén sang song cửa, tiếp đó khói đặc ùa vào nhà. A Mạch luôn mồm kêu, với tình hình trước mắt quân Bắc Mạc đương nhiên không có ý định bắt sống, nếu chạy ra ngoài nhất định sẽ bị muôn đao chém chết. Nhưng không chạy thì bó đuốc kia cũng đốt cháy ngôi nhà này, nếu không biến thành vịt quay thì cũng bị hun chết vì khói mất thôi. A Mạch cúi đầu nhìn đứa bé trong tay đã không còn khóc thành tiếng được nữa, liền nghiến răng nhét đứa trẻ vào lòng Từ Tú Nhi, rồi quay người lao vào ngôi nhà ngập ngụa khói, loáng một cái đã lao ra, tay cầm chiếc chăn bông cũ rách. A Mạch còn chẳng thèm giải thích với Từ Tú Nhi, lao tới vại nước rồi nhúng cả chiếc chăn vào, cuối cùng gọi to:

“Lại đây! Nhanh lên!”

Từ Tú Nhi vội vàng ôm đứa trẻ vừa lăn vừa bò tới, A Mạch trùm chiếc chăn đã ngấm nước lên ba người, thầm nghĩ có thể kéo dài được lúc nào hay lúc ấy. Hy vọng người đàn ông bên ngoài đủ bản lĩnh hạ hết được bọn lính Bắc Mạc, còn không lần này chắc chắn biến thành vịt quay mất. Đưa mắt sang nhìn Từ Tú Nhi đang run bần bật, A Mạch vội đỡ đứa bé, gượng cười an ủi: “Đừng sợ! Nhà toàn là tường đất, không dễ cháy đâu, cháy được một lát sẽ tự tắt thôi!”.

Gắng chịu một lát, cả hai nhận thấy nhiệt độ xung quanh càng ngày càng cao, không khí càng lúc càng loãng, A Mạch nghĩ lần này chết chắc rồi, so với việc bị thiêu chết trong này, thà ra ngoài bị chém một đao còn dễ chịu hơn, liền gọi Từ Tú Nhi: “Đi thôi, chúng ta lao ra ngoài!”.

Từ Tú Nhi lắc đầu đáp: “Chân tôi mỏi nhừ rồi, không nhúc nhắc được nữa”.

A Mạch chửi thề mấy câu, dùng đầu đỡ chăn, một tay bế đứa bé, tay kia kéo Từ Tú Nhi chạy ra phía cửa. Vừa được mấy bước, cửa lớn đã bị người từ bên ngoài xô mở. Chiếc chăn trên đỉnh đầu ngay lập tức được vén ra, Đường Thiệu Nghĩa toàn thân máu me bê bết đứng ngay trước mặt nàng, trong ánh lửa trông càng giống với thần Tu La dưới địa ngục. Chàng ta cướp lấy đứa trẻ trong tay A Mạch, nhìn A Mạch và Từ Tú Nhi một cái, tiếp đó vác Từ Tú Nhi lên vai mình, rồi quay người lao ra bên ngoài. A Mạch thấy chàng ta không hề để ý tới mình, cũng chẳng thèm chửi kẻ vong ân phụ nghĩa, vội vàng chạy theo ra ngoài.

Ba người vừa chạy ra giữa sân, chỉ nghe thấy đằng sau một tiếng động lớn, cột nhà cháy sập xuống.

A Mạch ngồi phịch xuống đất, ngây người nhìn lửa cháy rực trời sợ hết hồn, xém chút nữa, e rằng đã bị mất mạng trong biển lửa rồi. Từ Tú Nhi được Đường Thiệu Nghĩa buông tay ra, cũng sợ tới mức mềm nhũn ra trên đất, một lúc lâu sau mới đưa mắt nhìn xung quanh phát hiện toàn là xác của lính Bắc Mạc. Cô ta sợ hãi hét toáng lên một tiếng, rồi vừa bò vừa lăn tới chỗ A Mạch. A Mạch bất đắc dĩ đành phải an ủi mấy câu mới khiến cô ta bình tĩnh trở lại.

Đứa bé trong tay Đường Thiệu Nghĩa luôn miệng gào khóc, không hiểu là do bị sặc khói hay do quá sợ hãi nữa. Từ Tú Nhi không nhẫn tâm nhìn đứa trẻ tiếp tục gào khóc liền đi tới bên Đường Thiệu Nghĩa khẽ nói: “Ông lính à, để dân nữ bế đứa bé cho, cứ khóc mãi thế này, đứa bé sẽ lịm mất”.

Đường Thiệu Nghĩa đang váng đầu nhức óc vì tiếng khóc của đứa trẻ, nghe thấy vậy liền đưa cho Từ Tú Nhi. Kể cũng lạ, đứa trẻ vừa được Từ Tú Nhi bế đã không còn khóc nữa, chỉ giương cặp mắt tròn xoe nhìn cô. Từ Tú Nhi vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ quay đầu lại gọi A Mạch: “Ngươi xem, đứa bé này thật là dễ thương!”.

A Mạch cũng cảm thấy kỳ lạ liền đứng dậy bước tới bên cạnh Từ Tú Nhi xem đứa trẻ. Đứa bé bụ bẫm đó khoảng tám, chín tháng tuổi, quần áo trên người nó được may rất tinh xảo, vừa nhìn đã biết không phải là con nhà thường dân. A Mạch quay đầu lại nhìn Đường Thiệu Nghĩa, nhận thấy chàng ta dường như cũng đang nhìn về phía mình đầy vẻ suy tư. Nàng giật mình mượn cớ giơ tay đùa đứa bé, ghé sát vào người Từ Tú Nhi khẽ nhắc: “Trả đứa trẻ cho người ta đi, chúng ta phải nhanh chóng rời khỏi đây”.

Từ Tú Nhi sững người, nhìn A Mạch khó hiểu, tuy không biết tại sao A Mạch lại muốn mình làm vậy nhưng kể từ khi cùng trải qua quá nửa đêm bên nhau, trong lòng cô đã tin tưởng A Mạch tuyệt đối. Giờ nghe A Mạch nói vậy, cô hơi sững sờ, nhưng cũng không hỏi nhiều liền đem đứa trẻ trả lại cho Đường Thiệu Nghĩa.

“Ông lính à, trả lại ông đứa trẻ này.”

Không ngờ Đường Thiệu Nghĩa lại không chịu nhận đứa trẻ, lông mày lưỡi kiếm của chàng ta nhăn lại, lạnh lùng nói: “Quân Bắc Mạc sẽ nhanh chóng tới đây, nơi này không thể lưu lại lâu được”. Nói rồi liền lột hết quân phục trên xác binh lính Bắc Mạc, vứt một bộ lên người Từ Tú Nhi rồi ra lệnh: “Mau mặc vào, nhanh lên!”.

Không ngoài dự đoán của A Mạch, nhìn thấy đứa trẻ nằm trong vòng tay Từ Tú Nhi không khóc, nên chàng ta muốn để Từ Tú Nhi bế đứa trẻ. Vừa rồi có nhiều lính Bắc Mạc truy sát chàng ta như vậy, e rằng Từ Tú Nhi đi theo có tám, chín phần sẽ xui xẻo. Nếu là bình thường A Mạch sẽ không để ý tới chuyện này, nhưng hôm nay Từ Tú Nhi đã cứu mạng nàng, nàng quả thực không thể giương mắt nhìn cô ta đi theo vị tướng này để nộp mạng. Nàng lấy hết can đảm cười nói: “Thưa tướng quân, em gái tiểu nhân không biết võ, đi theo e rằng sẽ làm liên lụy tới tướng quân, tiểu nhân thấy hay là ngài nên tranh thủ quân Bắc Mạc vẫn chưa đuổi tới nơi này thì hãy bế đứa trẻ đi đi, chúng tôi sẽ không nói hướng đi của ngài đâu”.

Từ Tú Nhi cũng vội vàng nói theo: “Đúng vậy, tướng quân à, dân nữ không thể đi được, dân nữ phải ở đây chờ cha trở về, cha dân nữ cũng là lính, ông ấy đi bảo vệ thành rồi”.

Đường Thiệu Nghĩa đã nhận ra A Mạch, chàng nhìn nàng một cái rồi cười nhạt: “Ngươi căn bản không phải là người ở đây, lấy đâu ra em gái ở đây hả?”, rồi quay đầu nhìn Từ Tú Nhi nói tiếp: “Lúc bọn giặc Bắc Mạc tấn công thành, tướng lính Nam Hạ chết vô số, sau khi phá thành xong bọn giặc còn tàn sát vô độ, đến cả binh lính đầu hàng cũng bị giết, e rằng cha ngươi đã không còn nữa, ngươi không chờ được ông ấy đâu!”.

Đường Thiệu Nghĩa vừa nói xong, Từ Tú Nhi liền than một tiếng, cơ thể vốn đã mỏi mệt của cô trong giây lát liền lịm đi. A Mạch vội vàng đỡ cô ta, một tay nâng đứa trẻ trong lòng cô, rồi giận dữ nói với Đường Thiệu Nghĩa: “Một cô nương yếu đuối không thù không oán gì với tướng quân, hà cớ gì tướng quân lại nói năng tàn nhẫn như vậy? Sao lại dập tắt mọi hy vọng của người ta?”.

Đường Thiệu Nghĩa đỡ lấy đứa trẻ trong tay A Mạch, đứa trẻ liền lớn tiếng gào khóc, nét mặt Đường Thiệu Nghĩa thoáng hiện nỗi đau buồn, thế nhưng ngay lập tức chàng đã kiên nghị trở lại, lạnh lùng nói: “Ta cũng không giấu các ngươi, đứa trẻ này là con trai độc nhất của Lưu đại nhân cai quản thành, cả nhà Lưu đại nhân đã tuẫn tiết vì nước, vì vậy dù thế nào ta cũng phải thay ông ấy giữ được giọt máu cuối cùng này. Hôm nay các ngươi phải giúp ta đưa đứa trẻ này ra khỏi thành, nếu không…”, Đường Thiệu Nghĩa ngừng lại một lát, đe dọa: “Đừng trách ta không khách khí”.

A Mạch nghe thấy chàng ta nói vậy, biết rằng hôm nay mình và Từ Tú Nhi không thể dễ dàng trốn chạy được, nên cũng không nói gì thêm, cúi đầu dùng tay ấn mạnh vào nhân trung của Từ Tú Nhi. Hồi lâu Từ Tú Nhi mới thở hắt ra một hơi, vừa mở mắt nhìn A Mạch liền khóc.

A Mạch mềm lòng trước tiếng khóc của Từ Tú Nhi, chỉ biết nhẹ nhàng an ủi: “Đừng khóc nữa, khóc cũng có ích gì đâu, cô phải sống cho tốt mới có thể an ủi được cha, xét cho cùng cũng chưa rõ cha cô có chuyện không, ta đã từng lên bảo vệ thành, chẳng phải vẫn sống đấy thôi. Đầu tiên chúng ta hãy rời khỏi nơi này, chờ chiến loạn tan rồi thì quay về tìm cha cô”.

Từ Tú Nhi cũng là cô gái kiên cường, khóc một lúc rồi ngưng, chỉ cúi đầu sụt sịt. Trong lúc đó Đường Thiệu Nghĩa đã khoác lên mình bộ quân phục của quân Bắc Mạc, tiếp đó vứt hai bộ quân phục tới nói: “Mau thay đi!”.

A Mạch mặc bừa bộ quân phục, nhìn thấy Từ Tú Nhi cũng đang khoác lên người, liền nghĩ ngăn lại: “Cô không cần phải mặc, chỉ cần búi tóc lên là được, làm vậy sẽ giống phụ nữ đã có chồng”.

Nhận thấy Từ Tú Nhi và Đường Thiệu Nghĩa đang nghi ngờ nhìn mình, A Mạch liền giải thích: “Người Tú Nhi gầy gò, mặc quân phục vào cũng không giống quân Bắc Mạc, trái lại sẽ khiến bọn giặc nghi ngờ, chi bằng ăn mặc giống như một người phụ nữ ôm con, còn hai người chúng ta sẽ giả vờ làm hai tên lính Bắc Mạc chém giết, dâm đãng, cướp bóc. Gặp phải đại quân của giặc đương nhiên sẽ không quan tâm gì tới chúng ta còn nếu gặp toán lính nhỏ cũng dễ che đậy”.

Trong ánh mắt Đường Thiệu Nghĩa thoáng hiện sự tán thưởng, Từ Tú Nhi nghe A Mạch nói vậy lại đỏ mặt ngượng ngùng, thế nhưng tình thế nguy hiểm cũng không để ý nhiều, liền cởi bộ quân phục đã mặc được nửa người ra, tiếp đó búi tóc cho giống với phụ nữ đã có chồng. Ba người nhanh chóng thu dọn, không dám lưu lại lâu. Từ Tú Nhi ôm đứa trẻ, A Mạch và Đường Thiệu Nghĩa bảo vệ hai bên đi ra cửa.

Đứa trẻ khóc đã lâu nên mệt, chưa đi được bao xa đã ngủ thiếp trong vòng tay Từ Tú Nhi. Tranh thủ đêm tối, ba người chọn đi trong những ngõ nhỏ vắng vẻ, tĩnh lặng. Trên đường mấy lần đi ngang qua trại của quân Bắc Mạc, may mà Từ Tú Nhi quen địa hình ở đây, chỉ cần nghe thấy động tĩnh ở xa liền đi đường vòng, hết lần này tới lần khác chỉ bị kinh sợ chứ không gặp nguy hiểm.

Trời dần sáng, cuối cùng ba người đã ra khỏi ngõ nhỏ tới con đường rộng thông với cửa thành. Đây từng là con đường phồn hoa tấp nập nhất của thành Hán Bảo. Hai bên đường vốn có rất nhiều hàng quán, bây giờ chỉ còn sót lại vài bức vách điêu tàn, trên đường đâu đâu cũng là xác binh lính Nam Hạ, con đường đá dưới chân đã bị máu tươi nhuộm đỏ. A Mạch cảm thấy giẫm tới đâu cũng có cảm giác trơn trơn, nhờn nhờn.

Chân của Từ Tú Nhi đã mềm oặt ra rồi, cô ta bước đi nhưng dựa hoàn toàn vào lực xốc hai bên của A Mạch và Đường Thiệu Nghĩa. Nhìn thấy cổng thành càng lúc càng gần, A Mạch lại dần cảm thấy căng thẳng, chỉ cần ra khỏi cổng thành là có thể thoát khỏi địa ngục trần gian này. Ba người đang đi bỗng Đường Thiệu Nghĩa dừng bước, khẽ nói: “Ngoài thành có người tới!”.

A Mạch thầm lo lắng, tiếp đó liền nghe thấy tiếng tiếng vó ngựa phi hỗn loạn về hướng cửa thành. Nỗi sợ luôn dồn nén trong lòng nàng cuối cùng đã lên đến đỉnh điểm, nàng định quay người chạy trốn theo bản năng nhưng bị Đường Thiệu Nghĩa túm lại: “Chúng cưỡi ngựa, chạy cũng không lại đâu! Trước tiên hãy cứ nấp vào đâu đó rồi tính sau!”.

Nói rồi kéo A Mạch và Từ Tú Nhi nấp sau mảng tường đổ.

Họ vừa ngồi xuống, đám kỵ binh kia đã vào cửa thành, nghe tiếng vó ngựa có thể đoán được không dưới bốn, năm chục người. Đám người đó sau khi vào thành liền đi chậm lại, tuy số người không hề ít nhưng tuyệt đối không nhốn nháo. A Mạch cảm thấy cổ họng khô lại, tim đập thình thịch, Từ Tú Nhi ở bên cạnh run bần bật, nhắm nghiền mắt, cắn chặt môi chỉ sợ mình bật khóc. A Mạch quay đầu nhìn sang Đường Thiệu Nghĩa thấy chàng ta khẽ nheo mắt, tay nắm chặt chuôi kiếm, xem ra sẵn sàng giết giặc bất cứ lúc nào.

Ba người đang khốn đốn chợt nghe thấy tiếng khóc trẻ con vang lên A Mạch cúi đầu nhìn xuống, đứa trẻ không biết tỉnh dậy từ lúc nào, có lẽ do quá đói nên đã thức giấc. A Mạch thầm gào khóc thảm thiết, ông tổ nhỏ ơi, chẳng phải là ông muốn lấy mạng của mọi người sao? Tiếng vó ngựa trên đường quả nhiên dừng lại, tiếp đó nghe thấy chạy về hướng ba người. A Mạch trong lúc dầu sôi lửa bỏng lại nhanh trí vô cùng, một tay kéo Đường Thiệu Nghĩa đang muốn đứng dậy xông ra giết chóc, một tay bế đứa trẻ trong lòng Từ Tú Nhi để sang một nơi rồi khẽ nói: “Mau gào khóc đi!”.

Từ Tú Nhi đã sợ tới ngây dại từ lâu, may mà cô sớm đã hình thành phản xạ có điều kiện đối với mệnh lệnh của A Mạch, nghe thấy A Mạch dặn vậy, tâm trạng cũng không cần phải chuẩn bị nữa, ngoạc miệng khóc “òa” một tiếng. A Mạch cũng chẳng còn thời gian để ý tới sự kinh ngạc của Đường Thiệu Nghĩa, hung hãn đẩy Từ Tú Nhi xuống đất, một mặt cố ý xé rách quần áo của cô, mặt khác khàn giọng cười nham hiểm: “Tiểu mỹ nhân đừng khóc, ông đây yêu ngươi lắm!”.

Từ Tú Nhi sợ tới lú lẫn trước hành động bất thường của A Mạch, cô mở to cặp mắt còn đẫm lệ sững sờ nhìn A Mạch, thậm chí còn quên cả nhiệm vụ khóc. A Mạch ngoài mặt tuy vẫn cười dâm loạn nhưng trong lòng ngầm kêu khổ tại sao con bé này lại chậm hiểu thế nhỉ, chẳng biết phối hợp chút nào. Ít ra thì cũng phải vừa kêu vừa khóc vừa giãy giụa mới phải chứ, lúc này lại chẳng giãy giụa chống cự, thì mình làm sao diễn tiếp được đây? Cũng không thể tụt quần cô ta xuống được? Mà nếu cô không phản ứng kịp thì chí ít Đường Thiệu Nghĩa cũng nên biết rằng mình đang diễn trò chứ, tại sao lại cũng không có phản ứng gì vậy? A Mạch quay đầu lại, vừa cười vừa chửi Đường Thiệu Nghĩa đang đứng ngây người: “Mẹ mày chứ, cái thằng này mày cũng không biết tới đây giúp tao à, lát nữa đứa khác ngửi thấy mùi tanh mò tới đây rồi, làm gì có phần cho tao với mày?”. A Mạch vừa nói dứt lời, chỉ thấy lưng đau nhói, đau tới mức lăn lộn trên đất, cả người nàng thậm chí còn bay lên trên không trung rồi va vào bức tường đổ tiếp đó lăn xuống đất, trong giây lát nàng đau tới mức ngất đi.

Viên tướng Bắc Mạc kia thu roi lại, nét mặt lạnh lùng đáng sợ, nàng nhớ ra đó chính là viên phó tướng Khương Thành Dực của Bắc Mạc bị Thường Ngọc Thanh giữ lại ở đây. Sau khi phá thành xong mệnh lệnh bất luận kỷ cương quân đội là do Thường Ngọc Thanh ban ra, làm phó tướng Khương Thành Dực không có quyền thay đổi nhưng hắn quả thực không thể giương mắt đứng nhìn đám binh lính chém giết thiêu đốt dâm đãng cướp bóc trong thành. Trong thế bất lực hắn đành phải ở ngoài thành coi như khuất mắt trông coi, hắn vốn định sáng nay sau khi vào thành sẽ trực tiếp tập hợp các bộ lại, ai ngờ đúng lúc đó lại nhìn thấy cảnh tượng không đẹp mắt như vậy.

A Mạch giơ tay chống lưng rồi chậm rãi ngẩng đầu, vừa đúng lúc đối diện với khuôn mặt sắc lạnh của Khương Thành Dực, ánh mắt đầy sát khí của Khương Thành Dực khiến nàng sợ hết hồn. Theo ý nghĩ ban đầu của nàng, lũ người Bắc Mạc sẽ không để ý tới hành vi của họ, không những thế còn dung túng nữa, huống hồ việc này cũng không hiếm gặp ở khắp thành Hán Bảo. Nếu như không phải thượng cấp có ý dung túng thì quân lính sao lại bừa bãi tới mức này. Nhưng hôm nay sao vậy? Tại sao lại mọc ra tên tướng Bắc Mạc nhìn thấy bất bình trên đường liền rút đao ra thế này? Lẽ nào mệnh lệnh bất luận quân kỷ không phải là do các ngươi hạ lệnh ư? Đã từng thấy việc vừa ăn cướp lại vừa la làng chưa vậy?

Sau khi Khương Thành Dực nhìn rõ mặt A Mạch thoáng cảm thấy kinh ngạc, không ngờ tướng mạo của tên lính quèn này lại tuấn tú đến vậy. Mặc dù câu khẩu hiệu của Tịnh Quốc công Nam Hạ: “Nhìn bên trong không nên nhìn bên ngoài” đã được mọi người lưu truyền đã hơn hai mươi năm, nhưng phần đông mọi người vẫn nhìn mặt đặt tên theo bản năng. Nếu hôm nay tên đang nằm dưới đất kia là một gã mặt mũi bặm trợn, chắc chắn Khương Thành Dực đã không do dự vung roi lần thứ hai rồi, nhưng hiện giờ Khương Thành Dực cảm thấy mình không ra tay nổi nữa.

A Mạch ngẩng đầu ngây người nhìn Khương Thành Dực đang ngồi trên ngựa trong giây lát, rồi kịp phản ứng lại. Nàng vội vàng vừa lăn vừa bò vài bước kéo Đường Thiệu Nghĩa đang quỳ ngã vật ra đất rồi run rẩy nài nỉ: “Xin tướng quân tha mạng! Tướng quân tha mạng!”.

Lúc này Khương Thành Dực đã định thần lại, trong lòng dâng lên nỗi tức giận kỳ lạ, hắn lạnh lùng liếc nhìn A Mạch một cái. Lúc cầm cương định đi thì nhìn thấy Từ Tú Nhi đang ngây người ra vì sợ, bất giác dừng lại, nhẹ nhàng nói: “Cô nương, mau ra khỏi thành, đừng lưu lại ở đây nữa!”.

Từ Tú Nhi nghe lời, run rẩy bò dậy rồi vội vàng ôm đứa trẻ liêu xiêu đi về phía cửa thành. A Mạch nhận thấy tuy cô ta đã sợ tới mức vậy nhưng vẫn không quên đứa trẻ, bất giác thở phào nhẹ nhõm, chỉ cần cô gái này bế được đứa trẻ ra khỏi thành, chuyện giữa cô ta và Đường Thiệu Nghĩa sẽ dễ dàng hơn.

Khương Thành Dực thôi không nhìn theo bóng nhỏ nhoi yếu đuối của Từ Tú Nhi, bất giác lắc đầu, trong lúc binh đao loạn lạc này một người phụ nữ yếu đuối lại ôm theo một đứa trẻ sơ sinh trong lòng tự nhủ như vậy làm thế nào mới có thể tồn tại được? Cho dù lần này mình cứu cô ta, nhưng lần sau thì sao? Khương Thành Dực vừa lạnh lùng đưa mắt nhìn A Mạch và Đường Thiệu Nghĩa đang nằm trên đất vừa cất giọng đanh thép: “Lần này tạm tha cho bọn ngươi, sau khi về đội phạt mỗi tên hai mươi quân trượng”.

Nói rồi “hừ” một tiếng dẫn đoàn kỵ binh phi vào thành.

A Mạch “vâng” to một tiếng. Chờ tới khi đoàn người ngựa kia đi mãi xa mới vội vàng bò dậy, tiếp đó nói với Đường Thiệu Nghĩa: “Nhân lúc chỗ này không có ai, chúng ta mau ra khỏi thành!”.

Đường Thiệu Nghĩa xì mặt không nói không rằng, giơ tay đánh mạnh về phía A Mạch, một đấm trúng vào má khiến A Mạch ngã lăn ra. Nàng còn chẳng kịp chùi máu tươi trào ra từ khóe miệng, chỉ ngẩng đầu sững sờ nhìn Đường Thiệu Nghĩa.

“Đường đường là đấng nam nhi, sao lại có thể sợ chết tới mức này hả?” Đường Thiệu Nghĩa tức giận mắng. “Trước mặt bọn giặc làm nhục phụ nữ Nam Hạ, làm việc xấu như vậy trước ngựa của kẻ thù, ngươi có còn là đàn ông không vậy?”

A Mạch im lặng nhìn Đường Thiệu Nghĩa, chờ chàng ta chửi xong mới gắng gượng bò dậy, dùng ống tay quệt vết máu bên khóe miệng, thậm chí còn chẳng thèm nhìn Đường Thiệu Nghĩa liền đi về hướng cửa thành. Lúc đi ngang qua Đường Thiệu Nghĩa thì bị chàng ta túm chặt lấy.

“Bỏ tay ra!” A Mạch lạnh nhạt nói.

Đôi lông mày rậm của Đường Thiệu Nghĩa dựng lên, nét mặt lộ rõ vẻ giận dữ: “Ngươi?”.

A Mạch cười trêu chọc: “Ngài mắng thật chẳng sai chút nào, tiểu nhân tôi đúng thật không phải là nam nhi, tiểu nhân chỉ muốn sống mà thôi. Ngài là đấng nam nhi đội trời đạp đất nhưng tại sao bây giờ ngài vẫn sống sờ sờ đấy sao?”.

Khuôn mặt Đường Thiệu Nghĩa phút chốc đỏ rần, chỉ biết trợn mắt nhìn A Mạch không nói được gì. A Mạch cười khẩy, gạt tay Đường Thiệu Nghĩa rồi rảo bước đi thẳng về phía cổng thành. Đúng vậy, nàng sợ chết, nàng muốn sống, để được sống, nàng đã từng làm những việc còn xấu xa hơn thế này, chỉ là quỳ trước mặt người Bắc Mạc có đáng gì chứ?

Ngày hôm đó mẹ nói: “A Mạch à, con mau chạy đi, chạy vào trong núi, con phải tiếp tục sống, sống cho tốt con nhé!”.

Từ hôm đó nàng không còn là viên minh châu trong tay cha mẹ nữa, bắt đầu từ hôm đó biến thành một cô gái phải bó chặt ngực ăn mặc giả làm nam nhi. Một chàng trai không có bất kỳ nguyên tắc hay sự vô sỉ gì, một chàng trai để được sống có thể làm tất cả mọi việc!

Không thể khóc, cha đã từng nói, khóc là biểu hiện của người yếu đuối, cho nên nàng không thể khóc.

Đường Thiệu Nghĩa giận chính bản thân mình vô dụng mới trút giận sang A Mạch, sau đó bị A Mạch tỉa cho vài câu, ngọn lửa bức bối trong người tắt ngấm. Lúc này nhìn thấy bộ dạng A Mạch như vậy, trong lòng vô cùng hối hận đã quá xốc nổi. Mấy lần chàng định tiến lên phía trước nói mấy câu dàn hòa, nhưng không còn mặt mũi nào chỉ biết cúi đầu lặng lẽ theo sau A Mạch.

May mà quân Bắc Mạc sau khi công phá thành xong chỉ muốn cướp bóc, cũng không dự định chiếm giữ thành lâu, cho nên không cử người trông cửa thành. Từ Tú Nhi gắng gượng ôm đứa bé không ngừng gào khóc ra khỏi cửa thành, vừa định thở phào nhưng khi ngẩng đầu cảm thấy lạnh hết người. Cách cổng thành ba, bốn dặm chỉ cần nhìn qua cũng thấy chính là doanh trại của quân Bắc Mạc. Chạy? Còn có thể chạy đâu được?

A Mạch và Đường Thiệu Nghĩa một người trước một người sau ra khỏi cửa thành, A Mạch nhìn thấy Từ Tú Nhi đang ngồi thừ ra bên vệ đường bỗng do dự một lát, cuối cùng vẫn lấy hết can đảm đi ngang qua cô ta. Mới đi chưa được hai bước bị Đường Thiệu Nghĩa đang ở phía sau tóm chặt lấy cánh tay. Chàng ta vừa dùng sức kéo A Mạch quay người lại, vừa tức giận nói: “Lòng dạ tên tiểu tử nhà ngươi sao lại hẹp hòi tới vậy? Cho dù là ta đánh sai ngươi, ngươi cũng không nên như vậy chứ? Ngươi lại còn khóc ư?”.

Không ngờ mắt A Mạch đỏ lên, Đường Thiệu Nghĩa nhìn thấy vừa tức giận vừa buồn cười.

“Bảo ngươi không phải là đàn ông ngươi phát cáu, có loại đàn ông nào lại khóc chứ? Ta đánh sai ngươi, cùng lắm cho ngươi đánh lại, sao vẫn còn thút thít như đàn bà hả?”

A Mạch ngước cổ, hằn học nhìn Đường Thiệu Nghĩa không nói gì, Từ Tú Nhi ở bên cạnh cũng dần có tinh thần hơn. Nhìn thấy hai người đàn ông kẻ túm người kéo cũng chẳng hiểu đầu cua tai nheo thế nào liền cất tiếng hỏi: “Mạch đại ca, hai người làm sao vậy? Sao khóe miệng huynh lại chảy máu?”.

A Mạch nghiêng đầu tránh bàn tay giơ tới của Từ Tú Nhi, rồi lạnh lùng liếc Đường Thiệu Nghĩa một cái. Đường Thiệu Nghĩa khó chịu nói: “Ngươi có bực ta thì mau đánh trả đi, đừng có thút tha thút thít như đàn bà nữa”.

A Mạch mím chặt khóe môi xanh tím rồi nhìn Đường Thiệu Nghĩa trong giây lát, đột nhiên nàng nhoẻn miệng cười. Đường Thiệu Nghĩa nhìn thấy sự thỏa hiệp thấp thoáng trong ánh mắt A Mạch, nụ cười của nàng rạng rỡ vô cùng, như bông sen trắng thấm đẫm nước sau cơn mưa sớm, chàng ngây người nhìn một lúc. A Mạch vẫn khẽ cười, giơ tay tháo chiếc mũ giáp trên đầu Đường Thiệu Nghĩa xuống rồi ôm trước ngực, tiếp đó nắm chặt tay phải thành quả đấm rồi đánh mạnh vào má Đường Thiệu Nghĩa.

Cú đánh này khiến Từ Tú Nhi ngỡ ngàng nhưng lại khiến Đường Thiệu Nghĩa tỉnh lại. Vừa rồi chàng chỉ định nói cho vui ai dè A Mạch lại đánh trả thật. Trong lúc bực bội chàng định giơ nắm tẩn cho A Mạch một cái, nhưng nhìn thấy dáng vẻ vênh cằm đe dọa của A Mạch, cùng với khóe miệng hơi nhếch lên khiêu chiến, Đường Thiệu Nghĩa liền cảm thấy nóng mặt, mặt chàng đỏ bừng, trợn mắt hồi lâu nhưng không tài nào vung nắm đấm được. Chàng đành hừ một tiếng, hục hặc quay đầu tự nhủ: “Thật giống đàn bà, lại còn đánh trả không biết ngượng!”.

A Mạch và Đường Thiệu Nghĩa vẫn tiếp tục như vậy khiến Từ Tú Nhi đứng đó vừa tức vừa lo, cô nghẹn ngào hỏi: “Hai người muốn làm gì vậy? Lát nữa nếu lại gặp bọn giặc Bắc Mạc thì làm thế nào? Phía trước đâu đâu cũng là doanh trại của bọn giặc, chúng ta nên đi về hướng nào đây?”.

Câu nói của Từ Tú Nhi khiến A Mạch và Đường Thiệu Nghĩa như bừng tỉnh nhìn về doanh trại quân Bắc Mạc ở phía xa, cả hai không hẹn mà cùng nhíu mày.

Đường Thiệu Nghĩa lên tiếng trước: “Quân Bắc Mạc không dễ thương lượng, tốt nhất chúng ta nên tránh một chút chắc không có vấn đề gì lớn, điều đáng sợ nhất lúc này là bọn lính rải rác khắp nơi. Đông thành có một khu rừng bí mật kéo dài tới tận biên giới Túc Châu, chúng ta phải nghĩ cách tới khu rừng này trước, sau đó đi tới thành Thái Hưng trước bọn giặc Bắc Mạc”.

A Mạch hứ một tiếng, thầm nghĩ người này quả thật không coi mình là người ngoài, ba người hợp lại trốn thoát khỏi thành Hán Bảo đó là bất đắc dĩ, có ai nhận lời với chàng ta cùng đi tới thành Thái Hưng đâu? Hơn nữa, đi với người vui buồn khó đoán định này, lại còn thêm cả của nợ động một tí là khóc, liệu nàng có chịu nổi không? Nếu lúc đầu A Mạch không đi cùng Đường Thiệu Nghĩa, một mình tự giải thoát khỏi bộ quân phục trên người thì hay biết bao!

Đường Thiệu Nghĩa nhìn bộ dạng A Mạch lúc này không được vui, nhưng vẫn cố nhẫn nại hỏi lại: “Ngươi có dự định gì không?”.

“Dự định?” A Mạch liếc nhìn chàng ta nhởn nhơ đáp: “Chẳng có dự định gì, chỉ biết rằng nếu chúng ta vẫn mặc bộ quân phục này đứng ở cửa thành thảo luận về vấn đề dự định, sẽ bị một tên tướng nào đó nhìn thấy, cho dù tiểu nhân có ôm chân ngựa của người ta mà khóc lóc ỉ ôi, e rằng vấn đề không chỉ đơn giản là hai mươi quân trượng nữa đâu”.

Mặc dù Đường Thiệu Nghĩa tức nghẹn nhưng cũng không thể không thừa nhận A Mạch nói có lý. Chàng ta vội vàng bỏ bộ quân phục Bắc Mạc, lộ ra bộ chiến bào màu xanh bê bết máu. A Mạch cười nhạt hỏi: “Không biết quân Bắc Mạc đối với kẻ đào ngũ và quân địch thì bên nào tốt hơn nhỉ?”.

“Chẳng tốt với loại nào.” Đường Thiệu Nghĩa bực bội gầm lên: “Sao nhà ngươi lại hẹp hòi vậy? Đánh trả ngươi cũng đã đánh rồi, còn muốn gì nữa hả? Ta sẽ cõng cô nương này. Còn ngươi bế đứa trẻ, phải đi nhanh, tránh gặp lại bọn giặc Bắc Mạc rồi rước họa vào thân”.

A Mạch cười khẩy: “Ngài là nam tử hán đầu đội trời chân đạp đất, sao lại bắt tiểu nhân, một kẻ vô sỉ như thế này bế đứa trẻ thay ngài? Ngài bế tốt hơn đấy!”.

Nói rồi nàng quay người đi về hướng đông.

Đường Thiệu Nghĩa giận dữ hét lên: “Vậy phải làm sao với cô nương này hả?”.

A Mạch dừng lại, quay người nhìn Đường Thiệu Nghĩa cười đáp: “Có gì khó đâu, ngài ôm cô ta, cô ta bế đứa trẻ là xong. Ngài là đại trượng phu, lẽ nào lại không gánh vác được chút việc nhỏ này?”.

A Mạch cảm thấy khoan khoái trong lòng, cười to hai tiếng rồi quay người bước tiếp. Mới đi chưa được hai bước đã cảm thấy một thứ gì lành lạnh lướt qua mang tai, người nàng cứng đờ tại chỗ. Sắc mặt tái nhợt, một thanh kiếm cắm phập vào phần đất cách chỗ nàng đứng chưa tới năm thước, chuôi kiếm còn đang rung rung giữa không trung.

Đường Thiệu Nghĩa dúi đứa trẻ vào tay A Mạch: “Bế cho tử tế!”, nói xong liền tiến hai bước về phía trước rút thanh kiếm rồi tra vào bao. Quay về chỗ cũ cõng Từ Tú Nhi đang ngây người vì sợ lên lưng, đi qua chỗ A Mạch lạnh lùng nói: “Còn không mau đi đi!”.

“Ừ.” A Mạch thật thà trả lời rồi đi theo sau.

Mạch đại soái được gả cho người họ Từ, là người Hán Bảo. Mùa thu năm Bính Ngọ, quân Bắc Mạc tấn công thành Hán Bảo, Mạch đại soái cầm sào gỗ trèo lên thành, giết được rất nhiều người, dũng cảm đứng đầu toàn quân, do vậy tướng giặc Thường Ngọc Thanh sợ hãi bắn đại soái. Mũi tên làm đứt tua mũ giáp. Lúc thành bị chiếm, trên người Mạch đại soái có mười mấy vết thương, sức cùng lực kiệt trốn trong nhà dân, may mắn gặp người họ Từ cứu Mạch đại soái trong loạn quân. Mạch đại soái cảm ơn ân tình hẹn kết tóc xe tơ…

Trích từ Sử Hạ – Mạch soái liệt truyện

Chương 2ĐỒNG HÀNH – PHÓ THÁC – NGÃ RẼ

Vùng đất núi đông thành Hán Bảo thuộc nhánh cuối trong dãy núi Ô Lan phía bắc Nam Hạ nằm ở giữa cao nguyên Vân Hồ và đồng bằng Giang Trung, đại để theo hướng tây bắc – đông nam. Phía bắc từ dãy Hán Lĩnh Nam gần với Uyển Giang, kéo dài tới hơn bảy trăm dặm, thế núi từ Bắc dần lắng dịu xuống Nam, tới ngoài thành Hán Bảo đã hình thành địa thế rừng núi bằng phẳng.

Đám A Mạch sau khi đi xuyên vào vùng rừng núi bao la này đều thở phào nhẹ nhõm, cảm giác thật may mắn sống sót. Nếu quân Bắc Mạc không nổi hứng săn bắn tiêu khiển thì tính mạng của ba người tạm thời có thể giữ được. Cũng may lúc này là đầu thu, trong rừng có rất nhiều hoa quả chín, ba người sốt sắng hái vài quả ăn. Từ Tú Nhi còn cẩn thận chọn vài quả ngọt mọng nước, nhai nhỏ rồi cho vào mồm đứa trẻ.

“Quân giặc người ngựa vướng víu như vậy sẽ không thể nào đi xuyên qua rừng rậm này được, chúng chỉ có thể đi men theo đường lớn, sau khi vòng qua rừng mới về thành Thái Hưng được. Nếu đi theo lộ trình trên ít nhất bọn giặc phải mất ba ngày.” Đường Thiệu Nghĩa vừa nói vừa dùng cành cây vạch sơ sài trên đất. Chịu sự hạn chế về điều kiện thông tin trong thời đại này, hơn nữa lại chỉ là một hiệu úy đóng quân ở một thành nhỏ nên Đường Thiệu Nghĩa cơ bản không cách nào có được tin tức hoàn chỉnh về cục diện cuộc chiến giữa Nam Hạ và Bắc Mạc. Chàng chỉ dựa vào tuyến đường tấn công của đại quân Thường Ngọc Thanh để suy đoán mục tiêu tiếp theo của quân Bắc Mạc là thành Thái Hưng. Nhưng Đường Thiệu Nghĩa không hề hay biết tình hình gì về cánh quân khác của Bắc Mạc, và cũng không biết rằng thành Thái Hưng đã bị quân Bắc Mạc bao vây từ lâu, thậm chí còn trước cả thành Hán Bảo.

A Mạch ngồi im lặng một bên lắng nghe, thỉnh thoảng ngẩng đầu liếc xéo Đường Thiệu Nghĩa một cái, rồi cúi đầu tiếp tục gặm quả táo dại còn xanh. Nàng từng có ấn tượng sâu sắc về cái đói nên một khi có thứ gì có thể ăn được, nàng luôn không ghìm được nhu cầu ăn no hơn một chút.

Thái độ này của A Mạch rõ ràng chọc tức Đường Thiệu Nghĩa – người đang sốt sắng muốn được nghe ý kiến, chàng ta vứt mạnh cành cây trong tay xuống đất rồi xẵng giọng hỏi: “A Mạch, ngươi muốn thế nào hả?”.

“Hả?” A Mạch ngẩng đầu, trên khuôn mặt ngay lập tức nở nụ cười xun xoe: “Đường đại nhân, ngài đang hỏi tiểu nhân à?”.

Đường Thiệu Nghĩa sầm mặt gật đầu. Nụ cười trên khóe miệng A Mạch hơi mang vẻ giễu cợt nhưng khẩu khí vẫn cung kính: “Nhưng thưa Đường đại nhân, lời của tiểu nhân có tác dụng không vậy?”.

Theo ý của A Mạch, đương nhiên càng cách xa chiến trường càng tốt, không ngờ Đường Thiệu Nghĩa lại đang bàn với nàng về vấn đề làm thế nào để tiến gần tới chiến trường hơn. Trong lòng A Mạch thực sự muốn chửi rủa tên dở người này, nhưng do võ công của Đường Thiệu Nghĩa cao cường nên không dám biểu hiện ra. Nàng thầm lên kế hoạch chớp thời cơ bỏ trốn tách khỏi Đường Thiệu Nghĩa.

Đường Thiệu Nghĩa tức nghẹn vì lời nói chẳng ra đâu vào đâu của A Mạch, thực ra chàng không nên trưng cầu ý kiến của A Mạch về vấn đề nên đi đâu. Không biết có phải do cả ngày chém giết, hao tổn quá nhiều tinh lực hay không mà vào lúc này trái tim vốn cứng rắn của chàng đã hơi mệt mỏi, chàng cũng muốn có được sự ủng hộ của người bên cạnh. Chàng nhìn chằm chằm vào A Mạch hồi lâu, vẻ giận dữ hiện rõ trên mặt cuối cùng chuyển thành vẻ thất vọng não nề. Chàng khẽ thở dài rồi nói:

“Mỗi người có chí hướng riêng của mình, nếu ngươi muốn đi thì mau đi đi, nếu cô nương Từ Tú Nhi cũng cùng đi với ngươi, mong ngươi hãy chăm sóc cho cô ấy”.

Đường Thiệu Nghĩa nói xong liền đi tới bên Từ Tú Nhi bế đứa trẻ, nhận thấy A Mạch ngạc nhiên nhìn mình, bất giác cười khốn khổ nói: “Ngươi vốn không phải là quân nhân, làm sao ta có thể bắt ngươi cùng xông pha ra trận giết giặc, là ta nghĩ sai rồi, các ngươi mau đi đi. Từ chỗ này đi về hướng Đông bắc xuyên qua dãy núi này sẽ tới địa giới Dự châu, các ngươi…”. Đường Thiệu Nghĩa còn chưa nói xong, từ mé rừng đột nhiên vọng tới tiếng người huyên náo, cả ba người đều kinh hãi nhận ra đó chính là đám quân Bắc Mạc truy đuổi theo. Đường Thiệu Nghĩa vừa nhìn bóng người mờ mờ ảo ảo đằng xa, vừa dúi đứa trẻ vào tay A Mạch nói nhỏ: “Ngươi đưa đứa trẻ cùng Từ Tú Nhi chạy trước đi, ta sẽ đánh lạc hướng bọn lính”.

Trong lúc hoảng hốt A Mạch cũng chẳng kịp nói gì thêm, vội vàng buộc đứa trẻ lên lưng, kéo tay Từ Tú Nhi rồi đi. Mới được mấy bước lại nghe thấy Đường Thiệu Nghĩa khẽ gọi nàng từ phía sau. A Mạch dừng lại, thấy Đường Thiệu Nghĩa đuổi theo rồi nhét vào tay A Mạch một thanh kiếm: “E trong rừng có dã thú, thanh kiếm này cho ngươi để phòng thân”. Đường Thiệu Nghĩa nói xong, lưu luyến nhìn đứa trẻ trên lưng A Mạch một lần nữa rồi nghẹn ngào nói: “Đứa trẻ này là Lưu Minh, đứa con côi cút của Lưu Cảnh đại nhân. Cả nhà Lưu đại nhân trung liệt, rất mong Mạch huynh có thể bảo toàn tính mạng cho nó, Thiệu Nghĩa xin thay mặt Lưu đại nhân tạ ơn Mạch huynh!”.

Vừa nói xong, Thiệu Nghĩa liền quỳ sụp xuống rồi cúi đầu lạy A Mạch một lạy.

A Mạch nhất thời ngây người vì ngạc nhiên, vội vàng dìu Đường Thiệu Nghĩa đứng dậy: “Đường tướng quân mau đứng lên đi, xin tướng quân yên tâm, A Mạch thề chỉ cần A Mạch còn sống sẽ không vứt bỏ đứa trẻ này”.

Đường Thiệu Nghĩa cười thanh thản, điều chàng sợ chính là tới lúc nguy cấp nhất A Mạch sẽ ghét đứa trẻ này làm liên lụy mà vứt bỏ nó đi. Giờ nghe thấy A Mạch thề như vậy, chàng cũng cảm thấy yên tâm phần nào. Đường Thiệu Nghĩa đẩy A Mạch một cái rồi nói: “Mau đi đi!”.

A Mạch thấy Đường Thiệu Nghĩa đưa cả kiếm báu cho mình, biết chắc bản thân chàng đã mang trong lòng ý niệm quyết tử để đánh lạc hướng bọn lính truy sát, nên cũng bị nhiễm tinh thần quyết tử của chàng ta. Nhận thấy tiếng người bên ngoài rừng càng lúc càng gần, A Mạch cũng không nói nhiều nữa, nàng nhìn Đường Thiệu Nghĩa gật đầu rồi nghiến răng kéo Từ Tú Nhi chạy vào rừng sâu.

Bóng A Mạch và Từ Tú Nhi biến mất trong rừng không lâu thì một toán quân Bắc Mạc kéo tới, trông bộ dạng thì chúng hoàn toàn chưa phát hiện ra đám A Mạch. Chúng đứng lố nhố ở mé rừng, vừa chặt những cây cối cản đường vừa chia thành từng toán nhỏ đi vào rừng. Đường Thiệu Nghĩa nghĩ ngợi giây lát rồi leo lên một cây to, chờ cho toán quân truy sát Bắc Mạc tới gần sẽ trèo xuống giết vài thằng xong rồi sẽ dẫn chúng đi ngược với hướng của A Mạch.

Các toán quân Bắc Mạc không ngừng đổ vào rừng, Đường Thiệu Nghĩa ước tính ít nhất phải có mấy trăm tên. Tuy chàng vừa trải qua sự tàn sát trên chiến trường, hơn nữa đã quyết một trận sống mái, nhưng nhìn thấy nhiều lính như vậy cũng không tránh khỏi kinh hãi trong lòng. Nghĩ tới việc một hiệu úy nhỏ nhoi như mình rốt cuộc lại kéo theo nhiều lính Bắc Mạc tới truy sát như vậy, thì quả thật vẻ vang. Ý nghĩ sợ hãi mới xuất hiện ngay lập tức bị tinh thần hăng hái đè bẹp. Đường Thiệu Nghĩa nắm chặt nắm đấm có phần nhớp nháp của mình, hạ quyết tâm chờ bọn lính tới gần sẽ nhảy xuống tiêu diệt.

Không ngờ đám lính Bắc Mạc dừng lại khi còn cách Đường Thiệu Nghĩa mười mấy trượng, Đường Thiệu Nghĩa cảm thấy bồn chồn. Nhìn từ tán cây xuống, chỉ thấy bọn lính bắt đầu chặt cây, những cây chúng chặt đều là cây to và nhiều cành lá, chặt xong kéo luôn cả cây cả lá đi, trong giây lát Đường Thiệu Nghĩa không hiểu tại sao.

Lại nói về A Mạch chỉ cắm đầu cắm cổ lo kéo Từ Tú Nhi chạy vào rừng sâu. May mà tên tiểu tử Lưu Minh cũng nể mặt, trên đường im thin thít, thêm vào đó Từ Tú Nhi là con nhà nghèo tuy nhỏ người nhưng không thể coi thường khả năng đi bộ của cô ta. Mặc dù bị A Mạch kéo sềnh sệch nhưng không hề rơi lại phía sau. Cả hai chạy thục mạng khoảng nửa canh giờ, tới khi không còn sức chạy tiếp nữa, Từ Tú Nhi đổ vật người ra đất, A Mạch cúi người bám vào một cây to, miệng không ngừng thở phì phò. Chỉ duy nhất tiểu tử Lưu Minh trên lưng A Mạch dường như được A Mạch đung đưa thú vị lại phát ra tiếng cười khanh khách.

A Mạch quay đầu nhìn đứa trẻ, thấy nó ngoác miệng cười vui, bất lực lắc đầu, quay lại tiếp tục bám vào thân cây thở hồng hộc. Khi tiếng thở của cả A Mạch và Từ Tú Nhi còn chưa đều trở lại thì đã nghe thấy tiếng sột soạt vọng tới từ trong rừng cây. A Mạch hoảng hốt không hiểu đó là sự xuất hiện của thú dữ hay là quân Bắc Mạc đã đuổi kịp. Nàng nín thở nhìn Từ Tú Nhi, Từ Tú Nhi tái mặt khẽ lắc đầu, cô ta quả thực không thể chạy nổi nữa. A Mạch cắn chặt môi, hai tay nắm chặt thanh kiếm Đường Thiệu Nghĩa đưa cho, rồi chậm rãi đứng trước mặt Từ Tú Nhi.

Cành cây rậm rạp đột nhiên chẽ ra, một bóng người cao to lách qua, đầu óc A Mạch trong giây lát trống rỗng, thanh kiếm trong tay bỗng chốc rơi xuống đất.

Không ngờ người đuổi theo chính là người mà A Mạch và Từ Tú Nhi tin rằng đã chết chắc – Đường Thiệu Nghĩa.

Thần kinh bị kéo căng của A Mạch trong giây lát dãn ra, nàng có cảm giác chân mình nhũn ra sau khi căng thẳng cực độ, cả người khẽ rung lên rồi ngã vật ra đất. Từ Tú Nhi nhìn thấy Đường Thiệu Nghĩa vẫn còn sống thì vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, cô không kìm nén được bật khóc. Khóe mắt A Mạch nóng lên, nàng ngoác mồm về phía Đường Thiệu Nghĩa, lần đầu tiên nhoẻn cười thật lòng.

Đường Thiệu Nghĩa tiến lên phía trước đỡ A Mạch dậy, trong giây lát hai người đều trầm ngâm, chỉ có hai bàn tay nắm chặt vào nhau, cảm giác hành động đó còn hơn cả muôn vạn lời nói. Một lúc lâu sau Đường Thiệu Nghĩa mới buông tay, chàng nhìn A Mạch và Từ Tú Nhi mặt mũi lấm bẩn trông thật nhếch nhác, bất giác không nhịn được cười.

CA Mạch chưa kịp mở miệng hỏi, Đường Thiệu Nghĩa đã kể hết những hành động kỳ quặc của lính Bắc Mạc, A Mạch cũng cảm thấy khó hiểu bởi nếu quân Bắc Mạc muốn tạo vũ khí tấn công thành thì tại sao không chặt những cây to, ngược lại chỉ chặt những cây nhiều cành lá? Hơn nữa, bên ngoài thành Thái Hưng cũng có rất nhiều cây, hà cớ gì phải ra ngoài thành Thái Hưng làm vũ khí tấn công thành chứ? Tạo vũ khí tấn công thành Thái Hưng ở đây liệu có phải hơi sớm không?

“Chỗ này rất gần bìa rừng, chúng ta tiếp tục đi lên trên, tới đỉnh núi tiếp tục quan sát hành động của bọn chúng.” A Mạch nói.

Đường Thiệu Nghĩa gật đầu rồi đi tới chỗ Từ Tú Nhi đang ngồi xổm đề nghị: “Từ cô nương, để ta cõng cô!”.

Từ Tú Nhi ngượng đỏ mặt, cô liếc trộm A Mạch một cái, tâm tư của cô có chút xáo trộn sau hành động A Mạch cầm kiếm đứng ngay trước cô để bảo vệ. Cô gắng gượng đứng dậy nói: “Không làm liên lụy Đường tướng quân, dân nữ tự đi được”.

Nói rồi cô cố đi về phía trước, nhưng chưa được mấy bước thì chân đã mềm oặt đành ngồi bệt xuống đất.

Từ Tú Nhi rưng rưng nước mắt nhìn A Mạch, nhưng A Mạch nào hiểu tâm tư của cô gái trẻ, nàng cho rằng Từ Tú Nhi ngại lễ giáo mới không chịu để Đường Thiệu Nghĩa cõng liền bức xúc khẽ nhíu mày nói: “Bây giờ là lúc chạy trốn để bảo toàn tính mạng, đâu cần phải nghĩ ngợi nhiều, ta ngược lại chỉ mong sao có ai đó cõng mình đây”.

Đường Thiệu Nghĩa tiến lên phía trước Từ Tú Nhi rồi ngồi xuống giục: “Mau lên đi!”.

Lần này Từ Tú Nhi ngoan ngoãn ngồi trên lưng Đường Thiệu Nghĩa, A Mạch lại buộc chặt Lưu Minh sau lưng. Bốn người cả lớn lẫn nhỏ trèo lên đỉnh núi. Tuy núi không cao nhưng do cây rừng nhiều nên khó đi, hơn một canh giờ sau mới leo được đến đỉnh. Đám binh lính Bắc Mạc ở bìa rừng dưới chân núi đã chặt cây xong và ra khỏi rừng. Nhìn ra xa hơn, doanh trại quân Bắc Mạc dường như đã nhổ trại, người ngựa của đại đội rầm rập qua thành Hán Bảo đi về phía Nam. Vó ngựa của đội kỵ binh làm bụi mù tung cao khiến đoàn quân giống như một con rồng vàng to lớn, uốn lượn không biết dài bao xa.

A Mạch và Đường Thiệu Nghĩa đưa mắt nhìn nhau, họ thoáng nhận thấy vẻ hoảng hốt trong mắt đối phương. Từ Tú Nhi sợ tới mức há hốc miệng, hồi lâu sau mới lẩm bẩm một mình: “Trời ơi, không hiểu có bao nhiêu quân Bắc Mạc tới đây?”.

Câu nói này khiến Đường Thiệu Nghĩa dần lấy lại bình tĩnh, chàng lạnh lùng hừ một tiếng rồi nói: “Cho dù bọn giặc thực sự có mười vạn đại quân, nhưng nếu muốn phá thành Thái Hưng cũng đừng mơ tưởng hão. Thành Thái Hưng của ta thành cao hồ sâu, thành Hán Bảo còn lâu mới có thể so sánh được. Chỉ có mười vạn quân mà muốn bao vây thành Thái Hưng của ta. Hừ! Đúng là chẳng biết trời cao đất dày!”.

Trông Đường Thiệu Nghĩa vô cùng oai phong, khẩu khí hiên ngang, duy chỉ có khóe miệng mím chặt vô tình lộ ra đôi chút căng thẳng trong lòng chàng. A Mạch nhìn chàng, tuy trên nét mặt không hề có bất cứ biểu hiện gì, nhưng trong lòng biết rõ không đúng như vậy. Mặc dù tiếng lòng mách bảo thành Thái Hưng kiên cố không thể công phá, chàng có báo tin hay không cũng chẳng có can hệ gì. Chàng vội gì mà phải làm thay sai dịch vậy? Vừa nghĩ tới đây, đầu óc A Mạch bỗng sực tỉnh, vội vàng quay người lại nhìn kỹ con rồng uốn lượn dưới chân núi kia, nàng nhìn mãi nhìn mãi, đôi lông mày bắt đầu nhíu lại.

Nam Hạ không có chiến mã, do vậy phần lớn ngựa chiến đều được mua về từ thảo nguyên Tây Hồ, mấy doanh trại kỵ binh lèo tèo dường như đều được bố trí ở dải đất tuyến Bắc sóng đôi với Bắc Mạc. Một vài kỵ binh được bố trí trong thành, thị trấn phần đông làm do thám, cũng chính là lính xích hầu được nhắc tới trong quân, hầu như không có trận kỵ binh bao vây quy mô lớn. A Mạch đã từng lên thành Hán Bảo, từng chứng kiến sự uy phong của kỵ binh Bắc Mạc, lúc đó chỉ biết lo sợ, không hề nghĩ thấu đáo tại sao lần này xâm lược Nam Hạ quân Bắc Mạc lại cử nhiều kỵ binh tới vậy, nếu biết kỵ binh ưu việt hơn ở tính cơ động, trong dã chiến mới có thể phát huy được uy lực của nó, còn chưa từng nhìn thấy dùng kỵ binh để phá thành bao giờ. Suy cho cùng phía dưới vó ngựa không có giác mút, chẳng thể trèo lên tường thành được! Nay nhìn thấy đại đội kỵ binh của quân Bắc Mạc đi tới đâu long trời lở đất, lại nghĩ tới hành động trong rừng của quân Bắc Mạc lúc sáng, một suy đoán mạnh dạn dần hình thành trong đầu A Mạch: Quân Bắc Mạc đang bày trận giả! Mục tiêu của đợt hành quân này tuyệt đối không phải là thành Thái Hưng tường cao hồ sâu. “Mười vạn đại quân” tấn công Thái Hưng chẳng qua là để che mắt người ta mà thôi, còn đại đội kỵ binh thực sự không biết đã đi hướng nào mất rồi!

Đường Thiệu Nghĩa thấy vừa rồi A Mạch chỉ thờ ơ nhìn mình một cái, chẳng phụ họa gì thêm, trong lòng cơ hồ đã có sự bất mãn, lúc này lại nhìn thấy A Mạch nhíu chặt mày, khiến chàng không kìm nổi sự tò mò, đành nén cơn giận hỏi: “Sao thế?”.

A Mạch khẽ dãn mày, quay lại nhìn Đường Thiệu Nghĩa. Một ý nghĩ thoáng hiện trong đầu, A Mạch do dự không biết có nên nói cho chàng ta nghe sự suy đoán của mình không. Đường Thiệu Nghĩa ở trong quân đã lâu, đã hình thành tính cách thẳng thắn có gì nói nấy, bình thường chướng mắt nhất là bộ dạng muốn nói lại thôi như thế này. Giờ thấy A Mạch với bộ dạng này khiến chàng ghét vô cùng nên xẵng giọng hỏi: “Có lời cứ nói, một thằng đàn ông tại sao lại học cái thói đàn bà đó chứ?”.

A Mạch vốn thấy vẫn còn mâu thuẫn lại nghe Đường Thiệu Nghĩa nói vậy liền cố gắng nén sự nhiệt huyết trong đầu, trên nét mặt nàng lộ vẻ thành khẩn, cố tỏ vẻ lo lắng hỏi: “Đường tướng quân à, quân giặc hành quân nhanh như vậy, liệu chúng ta có thể tới thành Thái Hưng trước chúng không?”.

Đường Thiệu Nghĩa nhận thấy điều A Mạch lo lắng chỉ thế, bất giác cảm thấy buồn cười, sự bất mãn trong lòng nhanh chóng tan biến, chàng giơ tay đập vào vai A Mạch cười nói: “Đương nhiên không có vấn đề”. Ngừng một chút, nghĩ tới việc A Mạch vốn không muốn cùng đi tới Thái Hưng nên hỏi lại: “A Mạch, ngươi muốn đi cùng ta tới Thái Hưng không?”.

A Mạch lộ rõ vẻ trung nghĩa, trợn mắt nói: “Điều này là đương nhiên rồi, A Mạch tuy quê mùa cục mịch, không biết đạo lý lớn là gì, nhưng tiểu nhân vô cùng khâm phục lòng can đảm của Đường tướng quân. Đường tướng quân mang theo giọt máu côi cút của Lưu đại nhân phá vỡ vòng vây của giặc, trong đám loạn quân vẫn giơ cao kiếm mà đi, quả thực khiến A Mạch vô cùng xấu hổ. Nay quốc gia gặp nạn, tiểu dân vốn là một trai tráng Nam Hạ, sao lại chỉ lo nghĩ tới sự an nguy của bản thân, không hề lo lắng tới đại nghĩa của quốc gia chứ? Lần này đến thành Thái Hưng, cho dù A Mạch không thể ra trận giết giặc, thì chí ít cũng có cây đao nhỏ này để góp phần giữ thành!”.

Những lời hoành tráng này của A Mạch vừa dứt, không những khiến Từ Tú Nhi cảm động rưng rưng nước mắt, mà còn khiến cô nhìn A Mạch bằng ánh mắt ngưỡng mộ đối với người anh hùng. Đến cả Đường Thiệu Nghĩa cũng vỗ vai A Mạch, mím chặt môi gật đầu tán đồng.

A Mạch lại buộc Lưu Minh lên lưng rồi nói: “Đường tướng quân, chúng ta đi thôi, nhất định phải tới thành Thái Hưng trước bọn giặc, để thông báo cho họ phòng vệ! Chúng ta hãy đứng trên thành chờ bọn giặc, xem xem mười vạn đại quân bọn chúng có thể làm gì được chúng ta!”.

A Mạch lại cảm thấy mình thật vô sỉ, đặc biệt là khi nhìn thấy ánh mắt sùng bái ngượng ngùng của người thiếu nữ càng cảm thấy xấu hổ hơn. Nàng suy đoán người Bắc Mạc giả công phá thành Thái Hưng, vậy thì tới thành Thái Hưng trước bọn giặc ngược lại chính là sự lựa chọn an toàn nhất. Thành Hán Bảo không thể về được nữa, hơn nữa xác chết ngập thành, chỉ riêng tai họa cướp bóc hoành hành sau cuộc chiến cũng đã là vấn đề nghiêm trọng. Bây giờ xem ra tới thành Thái Hưng, rồi trước khi chiến loạn xảy ra vượt qua Uyển Giang xuôi về phía Nam mới là chính đạo. Uyển Giang không nguy hiểm, cho dù quân Bắc Mạc có đánh tới toàn mạn phía bắc sông, thì nhất thời sẽ không đánh qua Uyển Giang, do vậy Giang Nam sẽ là lựa chọn tránh chiến loạn tốt nhất.

Đường Thiệu Nghĩa và Từ Tú Nhi đâu có ngờ A Mạch có nhiều dự định đến vậy, Từ Tú Nhi luôn coi A Mạch là chàng trai đầy nhiệt huyết đội trời đạp đất, Đường Thiệu Nghĩa cũng có cái nhìn khác về A Mạch. Chàng coi những hành động sợ chết trước đây của A Mạch chỉ là sự sợ hãi nhất thời, bây giờ đã hiểu ra, nhiệt huyết trào dâng, đúng là đấng nam nhi Nam Hạ tốt.

Ba người bọn họ lập tức men theo đường núi ngoằn nghèo xuôi xuống phía đông nam, bằng mọi giá tới thành Thái Hưng nhanh nhất. Từ Tú Nhi không chịu để Đường Thiệu Nghĩa cõng nữa, kiên quyết đòi tự mình đi. Đường Thiệu Nghĩa nhìn thấy cô đã vững vàng hơn sau nỗi sợ hãi nên cũng không ép nữa. Trên cả đoạn đường A Mạch cõng Lưu Minh, tuy rằng đứa trẻ này không nặng nhưng đường xa, lưng áo A Mạch đã ướt đầm mồ hôi, thấy vậy Đường Thiệu Nghĩa cõng thay A Mạch. Tốc độ di chuyển của ba người nhanh lên rất nhiều.

Tầm trưa, ba người đã vượt qua ngọn núi, Đường Thiệu Nghĩa nhận thấy cả A Mạch và Từ Tú Nhi đã mệt lử, thêm vào đó Lưu Minh trên vai bắt đầu khóc quấy, liền chọn một khe suối gần đó nghỉ chân. Lúc này vừa đúng đầu thu, nước suối trong vắt, róc rách chảy từ trên núi xuống, gặp đá núi liền nổi bọt nước khiến ai nhìn thấy cũng sảng khoái.

Từ Tú Nhi đứng bên suối rửa mặt mũi tay chân cẩn thận, tiếp đó đỡ lấy đứa trẻ trên vai Đường Thiệu Nghĩa tận tình chăm sóc. Đường Thiệu Nghĩa dang tay rồi nằm bò xuống suối, cúi đầu vừa rửa mặt vừa uống nước. A Mạch rửa sạch tay trong làn nước suối, nàng vốn định vốc nước rửa mặt, lúc cúi đầu nhìn thấy bóng mình trong nước, nghĩ một hồi rồi thôi, chỉ uống mấy ngụm nước suối mát ngọt.

A Mạch vẫn còn giữ một vài quả dại hái lúc vào rừng, nàng lấy ra chia cho Đường Thiệu Nghĩa và Từ Tú Nhi cùng ăn. Từ Tú Nhi chọn ra những quả ngon nhất cho Lưu Minh, A Mạch vừa cầm phần quả của mình ăn một mình bên bờ suối vừa chốc chốc đưa mắt ngắm nhìn đàn cá nhỏ bơi lội trong làn nước.

Nàng chỉ nghĩ tới việc làm sao để bắt được một hai con cho đỡ thèm, đã lâu lắm rồi nàng không được ăn đồ mặn, bụng vốn đã đói tới mức hoa mắt rồi.

Đường Thiệu Nghĩa cúi nhìn hai quả trám trong tay, nhưng đầu vẫn đang nghĩ về hành động kỳ quặc của quân Bắc Mạc lúc mới vào rừng, không hiểu bọn chúng chặt nhiều cây như vậy để làm gì. Nghĩ mãi, nghĩ mãi, cuối cùng Đường Thiệu Nghĩa đột ngột thay đổi sắc mặt.

Lúc A Mạch vẫn đang ngây người ngắm đàn cá dưới suối thì chợt nghe thấy một tiếng “Trời ơi!” của Đường Thiệu Nghĩa, nàng giật mình vội vàng nhìn về phía ấy. Chỉ thấy chàng ta vo chặt nắm đấm đứng dậy, sau khi quay hai vòng tại chỗ rồi hậm hực nói với A Mạch: “Trúng gian kế của bọn giặc rồi! Những cành cây đó được buộc sau đuôi ngựa nhằm che mắt chúng ta, chúng chỉ giả tấn công thành Thái Hưng mà thôi, e rằng còn có dụng tâm khác!”.

Đường Thiệu Nghĩa vừa nói xong, A Mạch suýt cũng la “Trời ơi” theo, có điều tiếng kêu này của nàng lại xuất phát từ nguyên nhân tại sao Đường Thiệu Nghĩa lại nhanh chóng nhìn thấu được mọi chuyện như vậy? Nàng nên làm gì đây? Vừa nãy nói khoác hoành tránh như vậy, lúc này làm sao thu lại được? Trong lòng thầm nghĩ họ Đường kia cũng không phải là kẻ hữu dũng vô mưu.

A Mạch nhìn bộ dạng Đường Thiệu Nghĩa, cũng không nói phá, chỉ muốn thăm dò rốt cuộc chàng ta nhìn được tới đâu, liền giả bộ khó hiểu thắc mắc: “Đường tướng quân, tướng quân nói thế là sao? Bọn giặc có gian kế gì?”.

Đường Thiệu Nghĩa im lặng, nhíu mày đi đi lại lại, trong đầu thầm nghĩ bọn giặc giả tấn công thành Thái Hưng, vậy rốt cuộc chúng muốn làm gì? Quân Bắc Mạc đi xuyên qua Tây Hồ biên giới phía đông tới, phía đông thành Hán Bảo chính là khu rừng hiện giờ chúng đang đóng, đại đội kỵ binh không thể vượt qua bao đường núi để tới đây được, con đường hướng về phía Nam thông với thành Thái Hưng, lẽ nào chúng lại đi về hướng bắc? Nhưng phía bắc là trấn nào nhỉ? Không có trấn trọng yếu về quân sự nào sao? Tại sao bọn giặc Bắc Mạc lại bỏ qua thành Thái Hưng, đi về hướng Bắc nhỉ? Không lẽ nào!

“Dự Châu! Đúng là Dự Châu!” Đường Thiệu Nghĩa đột nhiên lắng giọng nói. “Từ đây đi về hướng Đông Bắc sẽ là Dự Châu, nơi đó là cửa ngõ của đồng bằng Giang Trung, chỉ cần đoạt được Dự Châu, đội kỵ binh sắt của Bắc Mạc có thể bóp chẹn được mảnh đất yết hầu Giang Bắc Nam Hạ, đi xuống hướng Nam có thể tấn công Thái Hưng, đi lên hướng Bắc lại có thể tạo thành thế gọng kìm Nam Bắc đối với quân đội dải đất Tịnh Dương, Lật Thủy của chúng ta. Bọn giặc Bắc Mạc giỏi thật! Suy tính thật là thâm độc!”

Đường Thiệu Nghĩa ngẩng đầu nhìn A Mạch, ánh mắt tinh anh, không che giấu được vẻ phấn khích. Chàng đã nhìn ra âm mưu của kẻ địch, trong lòng vừa tức giận vừa xúc động, giận vì không ngờ bọn Bắc Mạc lại giảo trá như vậy, xúc động là vì cuối cùng mình đã nhìn rõ được gian kế của chúng. Nam tử tòng quân, đặc biệt là những người giữ chức tước nhỏ như chàng, không bao giờ dám ôm mộng mình sẽ nổi danh sau một trận chiến, bước vào hàng ngũ danh tướng, nhưng giờ đây, cơ hội dường như đang bày ra trước mắt, khiến chàng sao không xúc động chứ!

A Mạch nhìn Đường Thiệu Nghĩa không nói năng gì, tuy nàng đã đoán ra quân Bắc Mạc chỉ giả tấn công thành Thái Hưng, nhưng do nàng không hiểu gì về tình hình chiến sự nên cũng không tìm hiểu sâu rốt cuộc mục tiêu của quân Bắc Mạc là gì. Hiện giờ Đường Thiệu Nghĩa suy đoán nơi quân Bắc Mạc muốn tấn công là Dự Châu, vậy thì sống chết gì cũng không thể đi Dự Châu được, nếu không lại chẳng phải tiến gần tới chiến trường hay sao? Một thành Hán Bảo nhỏ bé là vậy thế mà cuộc chiến phòng thủ tấn công đã vô cùng khốc liệt, Dự Châu lớn đến vậy, không hiểu còn phải bao nhiêu người chết nữa đây!

A Mạch hạ quyết tâm cho dù chết cũng không thể đi Dự Châu, nàng có thể sống được từ trên thành Hán Bảo đã là may phúc lắm rồi, bản thân nàng cũng không cho rằng mình sẽ may mắn sống sót ở thành Dự Châu. Mẹ nàng từng nói, con người không nên đi khiêu chiến với ông trời làm gì.

Thế nhưng khi nghe Đường Thiệu Nghĩa nói quân Bắc Mạc gian trá như vậy, trong lòng A Mạch lại cảm thấy có gì không đúng. Dự Châu, xét cho cùng cũng chỉ là một thành trì mà thôi, bỏ Thái Hưng mà đi Dự Châu, nàng chưa nhìn ra được lợi lộc gì lớn. Nếu là nàng, ngược lại sẽ chọn chiến thuật vây thành dài ngày, cũng giống như cha nàng từng nhắc qua, sức mạnh tiêu diệt kẻ thù mới là thứ quan trọng nhất, còn việc được hay mất của một thành trì, xét từ góc độ lâu dài cũng chỉ là chuyện nhỏ không đáng kể!

“A Mạch, chúng ta sẽ đi Dự Châu!” Đường Thiệu Nghĩa buộc đứa trẻ trên lưng, vừa dứt lời đã chuẩn bị đi.

Từ Tú Nhi không hiểu những điều hai người vừa nói, cô ta cũng chẳng để ý, đứng dậy chuẩn bị đi theo. A Mạch vội vàng ngăn lại: “Chờ một chút đi! Đường tướng quân, tướng quân nói bọn giặc sắp tấn công thành Dự Châu, nhưng từ thành Hán Bảo tới Dự Châu phải đi qua khu rừng này mà, chẳng phải tướng quân nói đội kỵ binh của Bắc Mạc không thể đi qua được khu rừng này hay sao? Thế chúng qua rừng bằng cách nào đây?”.

Từ lâu Đường Thiệu Nghĩa đã nghĩ tới vấn đề này, nghe A Mạch hỏi liền giải thích: “Cách khu rừng này hơn ba trăm mét về hướng bắc có một đoạn đường địa thế vô cùng bằng phẳng, nếu quân giặc muốn tấn công thành Dự Châu, tất phải đi qua đây, tuy tốc độ của kỵ binh nhanh, nhưng lại phải đi mất một đoạn đường vòng. Nếu chúng ta đi nhanh, không những có thể kịp thời tới Dự Châu cảnh báo, mà còn có thể bố trí quân mai phục ở hang núi, tới lúc đó việc giết bọn giặc dễ như trở bàn tay”.

Tuy ngoài mặt A Mạch tỏ ra rất tập trung vào sự phán đoán cục diện cuộc chiến của Đường Thiệu Nghĩa nhưng trong đầu lại đang suy tính phải làm thế nào mới có thể thoát khỏi số phận gắn với chiến trường. Đường Thiệu Nghĩa nói về chiến tranh đơn giản như vậy, nhưng A Mạch biết rõ lần này đi Dự Châu sẽ vô cùng nguy hiểm, đặc biệt đối với những người như nàng. Quá lắm nàng cũng chỉ trở thành một tên lính quèn, chắc chắn khi ra trận sẽ bị đẩy lên phía trước. Nếu như ra chiến trường thực sự, cho dù muốn giả chết cũng khó, bởi bọn giặc Bắc Mạc đều là kỵ binh, nếu không cẩn thận sẽ bị vó ngựa giẫm thành bánh nhân thịt.

“Đường tướng quân, A Mạch có điều muốn nói nhưng không biết có nên nói hay không.” A Mạch đột nhiên cất tiếng.

Đường Thiệu Nghĩa đang mải đi về hướng Dự Châu, bởi họ đã đi về hướng đông nam hơn nửa ngày, bây giờ lại quay ngược về hướng Dự Châu phải thêm đoạn đường dài. Thời gian vốn đã rất gấp, không ngờ A Mạch lại hỏi hết câu này tới câu khác khiến Đường Thiệu Nghĩa phát cáu liền đáp: “Có lời muốn nói thì mau nói đi! Đừng quanh co như vậy, lính tráng cần phải nói như sấm rền ăn như gió cuốn, còn những lễ nghi vớ vẩn kia là thứ bọn tú tài vô dụng coi trọng mà thôi! Binh lính không cần thứ này đâu!”.

A Mạch nói: “A Mạch không hiểu việc quân, tuy ban nãy Đường tướng quân nói đều có lý, nhưng A Mạch cảm thấy chúng ta không thể không đi thành Thái Hưng, tuy bọn giặc chia quân tới Dự Châu, nhưng chúng ta cũng nhìn thấy rất nhiều quân Bắc Mạc tiến tới thành Thái Hưng. Bọn giặc đã gian trá thế, vậy thì bên thành Thái Hưng cũng không thể không phòng bị. Báo tin chỉ cần một người là được rồi, Đường tướng quân cứ đi Dự Châu, còn tiểu nhân đi Thái Hưng, làm như vậy cho dù bọn giặc có quỷ kế gì đi nữa, chúng ta cũng đều có chuẩn bị. Như vậy há chẳng phải ổn hơn sao?”.

Đường Thiệu Nghĩa không ngờ được mưu tính riêng của A Mạch, nghe A Mạch nói hợp tình hợp lý như vậy, còn cho rằng nàng toàn tâm vì quốc gia. Chàng đắn đo suy nghĩ giây lát rồi nói: “Như vậy cũng được, vậy thì chúng ta chia nhau tới Dự Châu và Thái Hưng, cần phải báo tin trước khi bọn giặc đến”. Nói rồi chàng rút lệnh bài hiệu úy bằng đồng của mình đưa cho A Mạch: “Ngươi đi Thái Hưng, cầm cái này coi như vật làm tin tới gặp đại nhân giữ thành Vạn Lương, nếu có thể yêu cầu Vạn đại nhân xuất quân khỏi thành tấn công bọn giặc Bắc Mạc, tiếp đó viện binh cứu trợ Dự Châu!”.

Đường Thiệu Nghĩa nghĩ một hồi tự cảm thấy cấp bậc của mình kém hơn nhiều so với Vạn đại nhân, khẩu khí như vậy e rằng không ổn, liền đổi giọng dặn: “Thôi được, ngươi chỉ cần nói rõ tình hình với Vạn đại nhân là được, đại nhân tự biết sắp xếp”.

A Mạch gật đầu rồi trịnh trọng giắt lệnh bài vào người. Lúc này Từ Tú Nhi đi tới, nhìn thấy Đường Thiệu Nghĩa và A Mạch đều không nói tới việc mình sẽ đi đâu, khóe mắt đã hơi đỏ, cô nghi ngờ khẽ hỏi: “Vậy dân nữ nên làm gì?”.

Lúc này A Mạch và Đường Thiệu Nghĩa mới nhớ ra bên mình còn có một cô gái, hai người quay lại nhìn Từ Tú Nhi rồi không hẹn mà cùng nhíu mày.

Từ Tú Nhi từ lúc ở Hán Bảo đã nảy sinh tình cảm khác thường với A Mạch, trong lòng đương nhiên muốn đi cùng đường với A Mạch. Câu nói ban nãy tuy hỏi cả A Mạch lẫn Đường Thiệu Nghĩa, nhưng cô vẫn trộm nhìn phản ứng của A Mạch. Nhìn thấy A Mạch nhíu mày, Từ Tú Nhi cảm thấy lòng trĩu nặng, chua xót.

Hành động nhíu mày của A Mạch ngay lập tức khơi gợi sự quật cường trong con người Từ Tú Nhi, cô cắn răng, không chờ A Mạch và Đường Thiệu Nghĩa phản ứng gì đã nói ngay: “Dân nữ và Đường Thiệu Nghĩa đi Dự Châu! Đường tướng quân yên tâm, dân nữ là con nhà nghèo nên đi đường núi cũng không nề hà, chắc chắn sẽ không liên lụy tới tướng quân, hơn nữa tiểu công tử này cũng cần có người chăm sóc. Tướng quân là nam nhi, e rằng không biết chăm sóc trẻ con, thôi cứ để dân nữ đi theo tướng quân”.

Mặc dù Từ Tú Nhi nói với Đường Thiệu Nghĩa, nhưng ánh mắt lại không rời A Mạch, cô không hề nhìn thấy hành động nhíu mày lần thứ hai của Đường Thiệu Nghĩa. Thực ra rất dễ nhận thấy vẻ giận dỗi trong giọng điệu cô gái nhỏ này, trong lòng cô vẫn mong mỏi A Mạch giữ mình lại, nhưng không ngờ A Mạch chỉ cúi đầu suy ngẫm. Lát sau nàng ngẩng đầu lên nói:

“Thế cũng được! Cô nương hãy đi cùng Đường tướng quân tới Dự Châu!”.

Đến tự bảo vệ mình, nàng đã cảm thấy rất khó khăn rồi, nếu đem theo Từ Tú Nhi quả thực vô cùng bất tiện. Hơn nữa nàng cũng đã quen đi một mình. Lòng hiệp nghĩa không thể khiến nàng mắc câu được, tuy cô gái này đã cho nàng mấy chiếc bánh màn thầu, nhưng nàng cũng không muốn cõng theo một tay nải lớn tới vậy. Thôi thì cứ đẩy cho Đường Thiệu Nghĩa, chàng ta chẳng phải đấng nam nhi đó sao? Vậy thì hãy gánh vác thêm chút đi! A Mạch thầm nghĩ.

Đường Thiệu Nghĩa nghe vậy chỉ còn biết gật đầu, bản thân chàng cũng biết nếu mang theo Từ Tú Nhi sẽ vô cùng bất tiện, nhưng sự giáo dục chàng được tiếp nhận từ bé khiến chàng không có cách nào mở miệng nói lời “không” với một cô gái yếu đuối, bèn đáp: “Vậy Đồ cô nương hãy đi theo ta!”.

Từ Tú Nhi cắn môi liếc trộm A Mạch một cái, thấy A Mạch lại gật đầu theo, trái tim non nớt của cô gái trẻ tê tái tột cùng.

Ba người chỉnh đốn một lát rồi chia tay, lúc sắp đi Đường Thiệu Nghĩa đột nhiên gọi A Mạch lại. Chàng nhìn thân hình mỏng manh của A Mạch rồi nói: “A Mạch, ngươi biết võ công không?”.

A Mạch lắc đầu, võ công nàng không biết nhưng sức lực thì cũng khá, hơn nữa tay chân cũng thuộc loại nhanh nhẹn, chạy cũng khá nhanh. Về điểm này nàng hoàn toàn tin tưởng vào bản thân.

Đường Thiệu Nghĩa mím chặt môi, tiếp đó rút kiếm báu ra đưa cho A Mạch.

“Thanh kiếm này ngươi hãy cầm lấy, sợ trong rừng có thú dữ, ngươi hãy mang theo để phòng thân!”

Lúc này A Mạch thực sự cảm động, nàng nhìn Đường Thiệu Nghĩa, quả thực không biết nên nói gì.

“Không cần đâu, không cần đâu Đường tướng quân, tướng quân đem theo cả Từ cô nương và đứa trẻ, càng cần thứ này để phòng thân hơn.”

“Cầm lấy đi!”

Đường Thiệu Nghĩa không nói nhiều liền giắt thanh kiếm vào hông A Mạch, tiếp đó đặt tay lên vai nàng rồi ngây người nhìn nàng trong giây lát, cuối cùng bóp mạnh vai A Mạch khẽ nói: “A Mạch, bảo trọng!”.

Nói xong không chờ A Mạch kịp phản ứng gì chàng đã buông tay, quay người sải bước về phía tây. Đường Thiệu Nghĩa không dám quay đầu lại, chàng cảm thấy trong lòng có cảm giác rất lạ, không thể nói rõ mà trước đây chưa từng xuất hiện. Cảm giác đó giống như sự quyến luyến không nỡ rời người thiếu niên có nụ cười thánh thiện như hoa sen trắng kia.

Từ Tú Nhi nhìn A Mạch một lần nữa rồi vội vàng chạy theo Đường Thiệu Nghĩa.


Giang Vi

Tôi là một người yêu sách cuồng nhiệt và đã hơn 20 năm. Tôi dành cả ngày để đọc, viết blog về sách và viết bình luận. Tôi tin rằng sách là công cụ mạnh mẽ nhất trong cuộc sống để mở mang đầu óc cho những ý tưởng và quan điểm mới. Các thể loại yêu thích của tôi bao gồm tiểu thuyết lịch sử, giả tưởng, khoa học viễn tưởng và phi hư cấu. Tôi cũng thích tìm hiểu về các nền văn hóa khác nhau thông qua văn học.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts:

Back to top button