Văn học trong nước

Thả Một Bè Lau

1. THÔNG TIN SÁCH/EBOOK

Tác giả : Thích Nhất Hạnh

Download sách Thả Một Bè Lau ebook PDF/PRC/MOBI/EPUB. Tải miễn phí, đọc online trên điện thoại, máy tính, máy tính bảng.

Danh mục : VĂN HỌC TRONG NƯỚC

Đọc thử Xem giá bán

2. DOWNLOAD

Download Ebook         

File ebook hiện chưa có hoặc gặp vấn đề bản quyền, Downloadsach sẽ cập nhật link tải ngay khi tìm kiếm được trên Internet.

Bạn có thể Đọc thử hoặc Xem giá bán.

Bạn không tải được sách ?  Xem hướng dẫn nhé : Hướng dẫn tải sách


3. GIỚI THIỆU / REVIEW SÁCH

Lời giới thiệu


Image001
Chúng ta thường nghĩ Truyện Kiều là truyện của một người khác và chúng ta chỉ là khán giả, không có liên can gì. Nhưng khi viết Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du đã sống trong da thịt của nhân vật Kiều, đã trở thành một với Kiều. Và qua Kiều, cụ đã nói được tâm sự của chính mình. Cô Kiều trong truyện đã phải bắt buộc làm gái giang hồ. Là một nhà Nho, một mẫu mực đạo đức thời xưa ở Việt Nam, vậy mà có khi cụ Nguyễn Du cũng có cảm tưởng mình là một cô gái giang hồ. Cụ đã làm quan với triều Lê. Sau khi nhà Lê mất, cụ bị nhà Nguyễn gọi ra làm quan. Không từ chối được, cụ phải ra làm quan cho triều Nguyễn. Theo quan niệm của Nho giáo ngày xưa, một người thần tử trung thành không bao giờ thờ hai vua cả (‘trung thần bất sự nhị quân’). Trong khi viết truyện Thúy Kiều, cụ Nguyễn Du viết truyện của chính mình. Cụ muốn gửi tấc lòng mình vào thiên cổ chứ không phải vì ngồi không, cao hứng nhất thời mà viết ra một tác phẩm chữ Nôm.

Nếu có chánh niệm, đem những khổ đau, luân lạc, gian truân của mình ra đọc Truyện Kiều, chúng ta cũng có cơ hội thấy được bản thân. Và như vậy đọc Truyện Kiều cũng là tu. Tu tức là nhìn tất cả những gì đã và đang xảy ra trong đời mình bằng con mắt quán chiếu.

Trong quá khứ, có nhà Nho đã liệt Truyện Kiều vào loại dâm thư, vì trong truyện có tả đời sống của một cô gái giang hồ. Họ có thể đứng về phương diện đạo đức của Nho giáo mà nói như vậy. Nhưng dùng con mắt quán chiếu mà nhìn cuộc đời Thúy Kiều, ta có thể học được bài học của khổ đau và kinh nghiệm. Nếu biết cách đọc, chúng ta có thể học được rất nhiều từ Truyện Kiều như học từ một cuốn Kinh. Và Truyện Kiều sẽ không phải là dâm thư mà là kinh điển.

Truyện Kiều là truyện về cuộc đời, có những hoàn cảnh khổ đau, hạnh phúc và u mê của cuộc đời. Lấy con mắt của người quán chiếu nhìn vào Truyện Kiều, chúng ta có thể thấy được bản chất của cuộc đời. Những điều xảy ra trong mười lăm năm của cô Kiều có thể xảy ra cho bất cứ một người nào. (Vì vậy ở Việt Nam có truyền thống bói Kiều). Kiều đã trải qua rất nhiều hoàn cảnh khác nhau, đi qua tất cả những chuyện lên voi xuống chó của một con người. Thúy Kiều có khi đã làm học trò, làm vợ của một người có quyền thế gần như vua (Từ Hải), làm đầy tớ, làm người yêu, làm vợ lẽ hay làm một người con gái phong sương… Kiều cũng đã từng làm sư cô. Mỗi chúng ta ít nhất đã có một giai đoạn giống như giai đoạn của Thúy Kiều. Nhìn vào đời Thúy Kiều, ta phải nhìn như một toàn thể chứ đừng nhìn từng khoảng ngắn.

Chúng ta phải có con mắt trạch pháp, tức là con mắt có khả năng nhận xét và phân biệt. Khi đọc Kinh, ta cần phải có nhận thức độc lập, huống nữa là khi đọc Truyện Kiều. Ta phải nhìn cụ Nguyễn Du bằng con mắt trạch pháp. Cụ tin vào thuyết Tài mệnh tương đố (tài năng và số mệnh chống trái nhau). Chúng ta sẽ từ từ xét coi tại sao cụ tin vào thuyết này và thuyết này có đúng hay không. Nếu đúng thì đúng bao nhiêu phần trăm. Không phải vì cụ nói ‘Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau’ hay ‘Chữ tài liền với chữ tai một vần’ mà chúng ta tin ngay vào sự tương phản, chống trái của tài và mệnh. Có những người có tài nhưng không bị tai nạn, vì họ có tu, có chánh niệm và sự khiêm nhượng. Tai nạn sẽ không xảy tới cho họ, hay ít nhất, không xảy tới nhiều như cho những người quá cậy vào tài năng của mình mà xem thường người khác.

Dựa theo truyện Phong Tình Lục của Trung Hoa để viết Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du đã biến tập tiểu thuyết tầm thường này thành một tác phẩm văn chương phong phú và sâu sắc. Một lần nữa, chúng ta thấy cốt tủy của một tác phẩm có giá trị không phải là cốt truyện mà là văn chương và tư tưởng.

Ngày xưa tôi cũng đã từng dạy văn chương Việt Nam và đã dạy Truyện Kiều. Nhưng tâm của tôi lúc đó không được như bây giờ. Tôi đã dạy với tư cách một giáo sư văn chương mà chưa bao giờ dạy với tư cách một thiền sư. Nhìn với tư cách một thiền sư là nhìn sâu, nhìn kỹ, nhìn bằng sự khám phá của thiền quán mọi sự kiện qua những nhận thức, đau khổ, hạnh phúc, thành công, thất bại và qua sự tu học của mình. Nhìn như vậy trong khi đọc lại Truyện Kiều ta có thể thấy được những điều rất mới.

Khi đọc Truyện Kiều, ta không nên ngại về từ ngữ và điển tích. Các bản Truyện Kiều đều có chú giải. Có tài liệu là ta có thể hiểu được hết các điển tích và từ cổ. Điều quan trọng là chúng ta đọc với tâm trạng quán chiếu, tìm thấy tâm lý của tác giả và tìm thấy lòng mình.

ĐỌC THỬ

HÀNH TRANG

Image001
Chữ tài, chữ mệnh, chữ tâm

Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.

Trải qua một cuộc bể dâu

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.

Lạ gì bỉ sắc tư phong

Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.

Bắt đầu Truyện Kiều, tác giả nêu lên tư tưởng Tài mệnh tương đố, tài năng và số mệnh đố kỵ nhau. Cố nhiên, qua Truyện Kiều, ta có thể thấy tác giả là một thi sĩ đại tài. Vì vậy, khi nói tới tài, Nguyễn Du nói tới kinh nghiệm trực tiếp của mình chứ không phải nói tới một sự thực ở ngoài.

Những người có tài và có sắc được thi sĩ cho đứng về phía màu hồng. Màu hồng kỵ với màu xanh, đại diện cho ông Trời, Tạo hóa. Ông Trời sẽ đi theo, ‘đánh ghen’, đày đọa những người có tài, có sắc bằng cách phó cho họ một số phận trớ trêu. ‘Má hồng’ không phải chỉ là đàn bà. Đàn ông có tài có sắc thì cũng là một thứ ‘má hồng’, bị số phận làm cho điêu đứng. Đó là quan niệm của Nguyễn Du.

Kết thúc Truyện Kiều, câu 3247, cụ Nguyễn Du trở lại ý niệm về tài và mệnh. Cụ trình bày quan niệm luân lý của mình như sau:

Có tài mà cậy chi tài

Chữ tài liền với chữ tai một vần.

Đã mang lấy nghiệp vào thân

Cũng đừng trách lẫn Trời gần Trời xa

Thiện căn ở tại lòng ta

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.

Cụ khuyên chúng ta không nên cậy vào tài mình. Bởi vì khi có tài mà không có đức, không tu, không biết giấu tài của mình đi mà cứ khoe khoang, hợm hĩnh, cho mình là giỏi, thì tai nạn sẽ đến với mình và mình sẽ đau khổ rất nhiều. ‘Chữ tài liền với chữ tai một vần’ là một câu chơi chữ rất khéo.

Và mầm mống của những tai nạn, khổ đau kia đến từ đâu? Cụ Nguyễn Du nói đừng đổ lỗi cho ai hết. ‘Đã mang lấy nghiệp vào thân’: Khi mình đã có những tham, giận, kiêu căng trong người rồi, thì: ‘Cũng đừng trách lẫn Trời gần Trời xa’: Đừng đổ lỗi cho ai hết, đừng trách Trời. Tại sao mình đau khổ? Mình nói: Tại Trời, tại xã hội, tại người này, người kia… Kỳ thực mình chịu trách nhiệm lớn về những đau khổ của mình. Vì vậy mình phải quay về tu sửa tâm mình, vun bồi gốc rễ của cái thiện trong tâm mình. Đó là vấn đề tu tâm (citta bhavana). Thiện căn (kusalamula) là một danh từ Phật học, có nghĩa là gốc rễ của cái thiện. Cụ Nguyễn Du thấy tu tâm là điều quan trọng phải làm. ‘Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài’: Một người có tâm lành, biết tu học thì sẽ có hạnh phúc và mang lại hạnh phúc cho người khác nhiều hơn (bằng ba) những người có tài mà không có tâm lành.

Gửi gắm rất nhiều kinh nghiệm hạnh phúc và khổ đau của mình cho chúng ta rồi, thi sĩ kết thúc Truyện Kiều bằng hai câu khiêm nhượng như cụ từng khuyên chúng ta:

Lời quê chắp nhặt dông dài

Mua vui cũng được một vài trống canh.

Và cũng thật đẹp khi một tác phẩm lớn như Truyện Kiều lại được kết thúc bằng hai câu giản dị và khiêm nhượng như vậy.

Sau khi viết xong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du lại có cơ hội được học Phật thêm rất nhiều. Kiến thức về đạo Phật của Nguyễn Du sau Truyện Kiều sâu sắc hơn. Có vài danh từ Phật học trong Truyện Kiều dùng chưa được hoàn toàn chính xác (Ví dụ như chữ ‘nghiệp’ và ‘tâm’ trong đoạn vừa trích dẫn). Chúng ta sẽ thấy ở phần sau.

Hoa ghen thua thắm

Họ Vương là một gia đình giàu vào loại thường (trung lưu):

Có nhà viên ngoại họ Vương

Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung.

Một trai con thứ rốt lòng

Vương Quan là chữ nối dòng Nho gia.

Đầu lòng hai ả tố nga[1]

Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.

Khi giới thiệu gia đình họ Vương, Nguyễn Du giới thiệu người con trai trước rồi mới nói đến hai cô chị. Trong truyền thống xưa, vị trí của người con trai rất quan trọng vì chính con trai tiếp nối được gia phong. Con gái, tuy cũng là con nhưng không phả i thực sự là con, vì nó sẽ đi lấy chồng, không còn ở nhà để giữ gìn gia nghiệp ông cha. Đó là quan niệm ngày xưa của chế độ phụ hệ.

Đầu lòng hai ả tố nga

Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.

Mai cốt cách, tuyết tinh thần

Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.

Hai chị em đẹp thanh nhã, tinh thần băng tuyết, trong sáng. Hai người đều đẹp, nhưng đẹp khác nhau.

Vân xem trang trọng khác vời,

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.

Hoa cười, ngọc thốt đoan trang

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.

Thúy Vân trang trọng đài các, cười nói đoan trang. Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da. Đẹp như vậy là đẹp lắm rồi chứ gì nữa! Chúng ta tưởng thi sĩ đã dùng hết tất cả chữ nghĩa để tả một cô gái rồi, ai dè ông còn trong túi rất nhiều chữ khác, hay hơn nữa, để tả cô chị:

Kiều càng sắc sảo, mặn mà

So bề tài sắc lại là phần hơn.

Làn thu thủy, nét xuân sơn [2]

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

Vì muốn bảo Thúy Kiều đẹp hơn nên Nguyễn Du đã không bắt đầu bằng cách giới thiệu cô chị mà lại giới thiệu cô em trước.

Nhìn qua hình tướng hai chị em, ta có thể thấy được cuộc đời hai cô. Thúy Vân đẹp, mà đẹp rất hiền (Hoa cười ngọc thốt đoan trang, Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da). Thúy Kiều đẹp, mà đẹp làm cho người ta phải ganh tức(Làn thu thủy nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh). Và cái khổ đã nằm sẵn ở sắc đẹp của Kiều rồi. Sinh con gái đẹp vì vậy nguy hiểm lắm!

Một hai nghiêng nước nghiêng thành [3]

Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.[4]

Thông minh vốn sẵn tính Trời

Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm

Cung thương làu bậc ngũ âm

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương.

Thúy Kiều rất thông minh. Giỏi thi, họa, ca ngâm và chơi đàn tỳ bà (hồ cầm) rất giỏi. Kiều sáng tác một bản nhạc tên là Bạc mệnh. Bản nhạc rất hay, nhưng đàn lên thì nghe buồn thấm thía ruột gan:

Khúc nhà tay lựa nên xoang

Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân.

Bạc mệnh là số kiếp rất mỏng. Không biết tại sao từ hồi bé thơ cô nàng đã sáng tác những khúc nhạc như vậy rồi! Nguyễn Du nói rất rõ rằng những khổ đau và truân chuyên của Kiều đã biểu lộ rõ rệt ngay từ khi cô còn là một thiếu nữ. Về phương diện nhan sắc cũng như tài năng của cô, đã có đầy đủ những lý do khiến cô phải ba chìm bảy nổi và đau khổ suốt đời.

Những người nào có tài thì phải cẩn thận.

Những người nào có sắc cũng phải như thế.

Dây đàn bén nhạy

Chúng ta đã nghe cụ Nguyễn Du tả ba chị em Thúy Kiều. Khi cụ tả cô chị, chúng ta thấy rõ ràng trong con người này đã có những hạt giống của tiêu cực. Chính những hạt giống này đã mang lại cho Thúy Kiều nhiều đau khổ. Trong khi đó, Thúy Vân không đau khổ nhiều bằng Thúy Kiều. Thúy Vân chỉ đau khổ vì những cộng nghiệp với Thúy Kiều mà thôi. Biệt nghiệp của Thúy Kiều rất nặng. Cái đẹp của Thúy Kiều có thể làm nảy sinh sự ghen tuông xung quanh mình. Sự ghen tuông không chỉ của con người mà của cả vạn vật. ‘Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh’. Chính vì chỗ đó mà Kiều phải chết. Một dấu hiệu khác của tai họa là tài năng của Thúy Kiều. Cô là nhạc sĩ, sáng tác nhạc rất hay, đánh lên thì mọi người đều buồn thấm thía. Trong tâm hồn của Thúy Kiều có hạt giống của sự đau buồn. Kiều là một người đa cảm, cảm nhận được những cái mà người khác không cảm nhận được. Có những cái khi mà hai em thấy thì dửng dưng, cho là thường, trong khi Thúy Kiều lại cho là quan trọng.

Đoạn tới nói về cuộc đi chơi mùa xuân của ba chị em. Trong cuộc đi chơi này, ba chị em gặp hai nhân vật: một hồn ma và một người con trai. Hai nhân vật của chiều mùa xuân năm đó sẽ ám ảnh, đi theo Kiều suốt cuộc đời.

Ngày xuân con én đưa thoi,

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.[5]

Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

Thanh minh trong tiết tháng ba,[6]

Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh.[7]

Gần xa nô nức yến anh,[8]

Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.

Dập dìu tài tử giai nhân,

Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.

Ngổn ngang gò nấm kéo lên,

Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay.

Trong văn hóa Á Đông, đi tảo mộ cũng là đi chơi, là một dịp để người sống bày tỏ sự cảm thông, thân thiết với người chết. Người ta mang theo vàng và nhang đi thăm mộ, ngồi bên mộ người thân, thắp nhang và đốt giấy tiền vàng bạc xuống cho người cõi âm dùng. Vàng vó là những lượng và những chỉ vàng làm bằng giấy, hoặc những áo quần giấy. Bây giờ ở Mỹ, người Hoa làm ra những tờ một trăm, một ngàn đô-la, đốt xuống cho người âm xài thả cửa, gọi là Hell Bank Notes.

Tà tà bóng ngả về tây,

Chị em thơ thẩn dang tay ra về.

Bước lần theo ngọn tiểu khê,[9]

Nhìn xem phong cảnh có bề thanh thanh.

Nao nao dòng nước uốn quanh,

Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.

Sè sè nắm đất bên đường,

Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.

Ba chị em đi chơi về, thấy một ngôi mộ bên đường, tiêu điều, không ai thăm viếng và thắp hương, cỏ trên mộ cũng vàng úa, không xanh như những ngôi mộ khác. Thúy Kiều hỏi:

Rằng: ‘Sao trong tiết thanh minh,

‘Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?’

Vương Quan cắt nghĩa:

Vương Quan mới dẫn gần xa:

‘Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi.

‘Nổi danh tài sắc một thì,

‘Xôn xao ngoài cửa thiếu gì yến anh.

‘Kiếp hồng nhan có mong manh,

‘Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương.

Đây là mộ của Đạm Tiên, một ca sĩ nổi tiếng ngày xưa, chết trong khi đang còn trẻ đẹp. Ca nhi không phải là một cô gái ăn sương. Ca nhi chỉ có nghĩa là ca sĩ. Người ta có thể tổ chức mời cô đến hát riêng cho nhà mình. Hát xong, cô lấy tiền rồi về. Người ta cũng có thể cùng các bạn đến nghe hát ở nhà cô, cố nhiên là phải trả tiền đàng hoàng. Có những ca nhi từ chối không hát cho những người thô tục. Họ có quyền như vậy. Thường, thi sĩ làm được thơ hay thì muốn những người có giọng tốt ngâm lên nghe cho đã. Như Trịnh Công Sơn làm được những bài như Diễm xưa, thấy mình hát cũng chẳng hay gì mấy nên đã đi tìm một người như Khánh Ly để hát giùm, nghe sảng khoái hơn. Ca nhi là những người làm việc đó giúp thi sĩ hay nhạc sĩ. Ở Việt Nam ngày xưa, hễ khi nào các ông làm được một bài ca trù, là họ thường rủ nhau tới nhà trò, yêu cầu các cô đào hát cho mình nghe. Còn chuyện cô đào bán mình để có thêm tiền là chuyện không chính thức. Theo nguyên tắc chuyện này không xảy ra nhưng trên thực tế nó đã xảy ra rất nhiều. Nếu hát không được hay lắm thì phải đem cái khác ra để bù trừ, chuyện này xảy ra trong bất cứ một xã hội nào. Ở Nhật có những cô geisa, phố Khâm Thiên (Hà Nội) cũng từng có nhiều cô ca nhi như vậy, gọi là cô đầu. Thi sĩ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu xuất thân là con quan (Ấm Hiếu), một hôm đi chơi với các bạn thì gặp em gái mình ở trong giới ca nhi. Ông đau khổ vô cùng. Chúng ta nên hiểu chữ ca nhi theo nghĩa chính của nó là ca sĩ.

Chúng ta nghe Vương Quan kể tiếp:

‘Có người khách ở viễn phương,

‘Xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi.

‘Thuyền tình vừa ghé tới nơi,

‘Thì đà trâm gãy bình rơi bao giờ!

‘Buồng không lạnh ngắt như tờ,

‘Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh.

‘Khóc than khôn xiết sự tình,

‘Khéo vô duyên ấy là mình với ta!

‘Đã không duyên trước chăng mà,

‘Thì đây chút ước gọi là duyên sau.

‘Sắm sanh nếp tử xe châu,[10]

‘Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa.

‘Trải bao thỏ lặn ác tà,

‘Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm!’

Nghe như vậy thì Kiều òa lên khóc:

Lòng đâu sẵn mối thương tâm,

Thoạt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa.

Trong khi đó, Thúy Vân vẫn tỉnh bơ tiếp tục nhai kẹo chewing gum (nếu có chewing gum lúc đó). Anh chàng Vương Quan kể chuyện cũng tỉnh bơ. Thúy Kiều, trái lại, nghe đến đó thì òa lên khóc, vì cô là một sợi dây đàn rất bén nhạy.

‘Đau đớn thay phận đàn bà,

‘Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

‘Phũ phàng chi bấy hóa công!

‘Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha.

‘Sống làm vợ khắp người ta,

‘Hại thay thác xuống làm ma không chồng!

Rất rõ cô ca nhi này không chỉ đơn thuần là một ca sĩ.

‘Nào người phượng chạ loan chung,[11]

‘Nào người tích lục tham hồng là ai?[12]

‘Đã không kẻ đoái người hoài,

‘Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương.

‘Gọi là gặp gỡ giữa đường,

‘Họa là người dưới suối vàng biết cho.’

Mấy chị em ngồi lại thắp hương trên mộ Đạm Tiên. Kiều cám cảnh làm một bài thơ tứ tuyệt, viết lên vỏ cây.

Lầm rầm khấn khứa nhỏ to

Sụp ngồi đặt cỏ trước mồ bước ra.

Một vùng cỏ áy bóng tà,

Gió hiu hiu thổi một vài bông lau.

Rút trâm sẵn giắt mái đầu,

Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần.[13]

Có một sức mạnh gì kéo Kiều ở lại:

Lại càng mê mẩn tâm thần,

Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra.

Lại càng ủ dột nét hoa,

Sầu tuôn đứt nối châu sa vắn dài.

Số phận Đạm Tiên như được nối với số phận Kiều. Kiều thấy đây là người tri kỷ của mình. Và đây là lời phê bình của Thúy Vân:

Vân rằng: ‘Chị cũng nực cười,

‘Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa!’

Đúng là Thúy Vân! Kiều đáp:

Rằng: ‘Hồng nhan tự thuở xưa,

‘Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu.

‘Nỗi niềm tưởng đến mà đau,

‘Thấy người nằm đó biết sau thế nào?’

Trông người lại ngẫm đến ta. Nhìn vào số phận của Đạm Tiên, mình không biết thân thế mình sẽ như thế nào mai sau. Vương Quan lúc đó mới chen vào, phản đối:

Quan rằng: ‘Chị nói hay sao,

‘Một lời là một vận vào khó nghe!

‘Ở đây âm khí nặng nề,

‘Bóng chiều đã ngả dặm về còn xa.’

– ‘Chị này thật là kỳ cục! Nói câu nào cũng đem số mạng người ta buộc vào số mạng mình! Trời chiều rồi, mình về đi thôi!’

Kiều rằng: ‘Những đấng tài hoa,

‘Thác là thể phách còn là tinh anh.

‘Dễ hay tình lại gặp tình,

‘Chờ xem ắt thấy hiển linh bây giờ!’

Kiều có những tri giác mà người thường không thể có được. Cô có thể cảm, thấy, nghe, sờ mó được những cái mà người khác không cảm, thấy, nghe, sờ mó được. Theo Kiều thì Đạm Tiên còn ở đó, không phải bằng thân xác tầm thường mà bằng tinh anh của nàng. Cô nghĩ rằng Đạm Tiên sẽ đáp lại cái tình của mình và khuyên các em ở lại chứng kiến.

Một lời nói chửa kịp thưa,

Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay.

Ào ào đổ lộc rung cây,

Ở trong dường có hương bay ít nhiều.

Đè chừng ngọn gió lần theo,

Dấu giày từng bước in rêu rành rành.

Nói vừa xong thì một trận gió mạnh thổi tới làm rụng những lộc non của tháng ba. Trong luồng gió phảng phất mùi hương của người ta (không biết đây là nước hoa Poison, Scorpion hay Samsara?), trên rêu xuất hiện những dấu giày mới. Ma Đạm Tiên đã về!

Mặt nhìn ai nấy đều kinh,

Nàng rằng: ‘Này thật tinh thành chẳng xa.

‘Hữu tình ta lại gặp ta,

‘Chớ nề u hiển mới là chị em.’

Cái cô ghê thật! Làm quen liền: ‘Chị về đó hả? Như vậy là giữa chúng ta có những mối dây tình cảm thân thiết. Đừng phân biệt người chết kẻ sống thì mới thật là tình chị em.’ Người ta nói Thúy Kiều thuộc về một thứ nòi gọi là nòi tình. Nguyễn Du cũng thuộc về nòi tình. Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. ‘Hữu tình ta lại gặp ta’ thì ‘Chớ nề u hiển mới là chị em.’

Đã lòng hiển hiện cho xem,

Tạ lòng nàng lại nối thêm vài lời.

Lòng thơ lai láng bồi hồi,

Gốc cây lại vạch một bài cổ thi.

Đa sầu, đa cảm, đa tình. Làm một bài thơ tứ tuyệt, rồi lại làm thêm một bài cổ phong nữa. Vẫn chưa chịu về.

Lưng túi gió trăng

Và bây giờ, nhân vật thứ hai, người con trai của đời Kiều, xuất hiện:

Dùng dằng nửa ở nửa về,

Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần.

Trông chừng thấy một văn nhân,

Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng.

Đề huề lưng túi gió trăng, [14]

Sau chân theo một vài thằng con con.

Tuyết in sắc ngựa câu giòn,[15]

Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.

Không phải chỉ khi tả hai người con gái cụ Nguyễn Du mới tả kỹ lưỡng. Người con trai này cũng được cụ Nguyễn Du tả rất đẹp và rất kỹ. Anh chàng cưỡi một con ngựa bạch, mặc áo màu da trời, đi trong màu lục của cây cỏ. Trong túi của anh chàng có gió và có trăng. Đây là một người hào hoa phong nhã, thanh nhàn, biết thưởng thức cái đẹp của đất trời. Một người biết sống. An trú trong hiện tại thì người nào cũng có một cái túi đựng gió trăng cả. Không biết cái túi của mình có chút gió trăng nào ở trong không hay chỉ đựng những cát bụi đau buồn? Túi của mình cần phải có nhiều gió trăng, tức là phải có thơ, có nhạc, có sự thanh nhàn và hạnh phúc.

Nẻo xa vừa tỏ mặt người,

Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình.

Hài văn lần bước dặm xanh,

Một vùng như thể cây quỳnh cành dao.

Sự có mặt của người con trai, hài hòa với phong cảnh thiên nhiên, đẹp như cây ngọc dao trong rừng ngọc quỳnh. Thi sĩ tả con gái đẹp mà tả con trai cũng rất đẹp.

Nội kết êm ái

Chàng Vương quen mặt ra chào,

Hai kiều[16] e lệ nép vào dưới hoa.

Không có chữ nào có thể khoanh tròn để lấy ra được cả. Một câu lục bát mà nói được cả hành động lẫn thái độ của hai bên. Người con trai thì ra chào: ‘A! Anh Kim đó hả! Lâu quá không gặp!’. Còn hai cô nàng thì khép nép, núp dưới hoa. Không cần dùng nhiều chữ.

Image002
Nguyên người quanh quất đâu xa,

Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh.[17]

Nền phú hậu bậc tài danh,

Văn chương nết đất thông minh tính trời.

Phong tư tài mạo tót vời,

Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa.

Chung quanh vẫn đất nước nhà,

Với Vương Quan trước vẫn là đồng thân.[18]

Cụ Nguyễn Du khen anh chàng đủ điều. Anh chàng cũng đã từng nghe tiếng hai chị em nhà họ Vương:

Trộm nghe thơm nức hương lân,

Một nền Đồng Tước khóa xuân hai Kiều.[19]

Nước non cách mấy buồng thêu,

Những là trộm nhớ thầm yêu chốc mòng.

Và đây là cơ hội đầu để Kim Trọng gặp hai cô nàng:

May thay giải cấu tương phùng,[20]

Gặp tuần đố lá thỏa lòng tìm hoa.[21]

Bóng hồng nhác thấy nẻo xa,

Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai.

Người quốc sắc kẻ thiên tài,

Tình trong như đã mặt ngoài còn e.

Kim Trọng đã chú ý tới Kiều và Kiều cũng chú ý tới Kim Trọng. Tiếng sét đã nổ. Chỉ có tám chữ thôi: Tình trong như đã mặt ngoài còn e. Bên ngoài thì có ai nói gì với ai đâu. Bên trong thì đã có nội kết êm ái rồi.

Chập chờn cơn tỉnh cơn mê,

Rốn ngồi chẳng tiện dứt về chỉn khôn.

Ở thêm để nói chuyện thì kỳ quá mà về thì không dứt nổi. Nhưng cuối cùng cũng phải về:

Bóng tà như giục cơn buồn,

Khách đà lên ngựa người còn ghé theo.

Dưới cầu nước chảy trong veo,

Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.

Chấm dứt buổi hội ngộ. Văn chương gì mà hay vậy!

Tưới tẩm hạt giống

Tất cả những gì xảy ra trong chuyến đi chơi đều được biểu hiện trở lại ngay trong giấc mộng tối hôm đó của Thúy Kiều. Hạt giống gieo vào đều hiện hành ra ngay. Thật dễ sợ. Đây là chỗ tài tình của Nguyễn Du.

Kiều từ trở gót trướng hoa,

Mặt trời gác núi chiêng đà thu không.[22]

Gương nga chênh chếch dòm song,

Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân.

Hải đường lả ngọn đông lân,

Giọt sương gieo nặng cành xuân la đà.

Một mình lặng ngắm bóng nga,

Rộn đường gần với nỗi xa bời bời:

Kiều ngồi ở cửa sổ, một mình ngắm trăng. Cô suy nghĩ lại chuyện xảy ra trong ngày:

‘Người mà đến thế thì thôi,

‘Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi!

‘Người đâu gặp gỡ làm chi,

‘Trăm năm biết có duyên gì hay không?’

‘Người’ trong câu đầu là Đạm Tiên. ‘Người’ trong câu kế tiếp là Kim Trọng. Thúy Kiều có nội kết với Kim Trọng rất rõ ràng.

Ngổn ngang trăm mối bên lòng,

Nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình.

Hết nghĩ tới con ma lại nghĩ tới anh chàng. Nghĩ tới anh chàng rồi lại nghĩ tới con ma… Rồi làm thơ về những điều mình nghĩ. Đây là hành động tự mình tưới tẩm những hạt giống trong tâm mình.

Chênh chênh bóng nguyệt xế mành,

Tựa ngồi bên triện một mình thiu thiu.

Không chịu đi ngủ đàng hoàng. Ngồi ngủ gục, và Kiều mơ thấy Đạm Tiên:

Thoắt đâu thấy một tiểu kiều,

Có chiều phong vận có chiều thanh tân.

Sương in mặt tuyết pha thân,

Sen vàng lãng đãng như gần như xa.

Một cô rất đẹp, đến từ trong đêm. Bước chân rất nhẹ, thấp thoáng khi thì ở gần, khi thì ở xa. Đúng là một bóng ma! Vì vậy người ta nói cụ Nguyễn Du là thi thánh chứ không phải là một thi sĩ thường.

Rước mừng đón hỏi dò la:

‘Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây?’

Thưa rằng: ‘Thanh khí xưa nay,

‘Mới cùng nhau lúc ban ngày đã quên?

‘Hàn gia ở mái tây thiên,

‘Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu.

– ‘Chị em mình là người đồng thanh đồng khí. Mình vừa mới gặp nhau chiều nay, chị quên rồi sao? Nhà em ở hướng tây, dưới dòng nước chảy, bên trên có cầu.’ ‘Hàn gia’ có thể có nghĩa khiêm nhượng là nhà nghèo, không sang trọng. Nhưng ‘hàn’ cũng có nghĩa là lạnh. Nhà lạnh tức là nhà mồ.

‘Mấy lòng hạ cố đến nhau,

‘Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng.[23]

‘Vâng trình hội chủ xem tường,

‘Mà xem trong sổ Đoạn Trường có tên.

‘Âu đành quả kiếp nhân duyên,

‘Cũng người một hội một thuyền đâu xa!

‘Này mười bài mới mới ra,

‘Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời.’

Đạm Tiên đã đem thơ của Kiều trình cho bà hội chủ hội Đoạn Trường. Bà này mở sổ của những người đàn bà có số phận mỏng ra tra và thấy tên Kiều. Đạm Tiên đưa thêm mười đề bài mới, yêu cầu Thúy Kiều vịnh để bỏ vào tuyển tập (collection) của hội Đoạn Trường. Hội của những người suốt đời đau khổ. Trong nguyên tác, mười đề bài đó là: Tích đa tài, Liên bạc mệnh, Bi kỳ nộ, Ức cố nhân, Niệm nô kiều, Ai thanh xuân, Ta kiến ngộ, Khổ linh lạc, Mộng cố viên và Khốc tương tư. Toàn là những đề tài đứt ruột. Thúy Kiều chỉ cần mấy phút đồng hồ là làm xong cả mười bài thơ.

Kiều vâng lĩnh ý đề bài,

Tay tiên một vẫy đủ mười khúc ngâm.

Xem thơ nức nở khen thầm:

‘Giá đành tú khẩu cẩm tâm khác thường!

‘Ví đem vào tập Đoạn Trường,

‘Thì treo giải nhất chi nhường cho ai!’

– ‘Thơ của chị hay quá! Bỏ vào tập Đoạn Trường là hay nhất, không ai bằng.’ Nói xong Đạm Tiên cầm mấy bài thơ và từ biệt. Kiều còn muốn giữ lại:

Thềm hoa khách đã trở hài,

Nàng còn cầm lại một hai tự tình.

Gió đâu sịch bức mành mành,

Tỉnh ra mới biết là mình chiêm bao.

Trông theo nào thấy đâu nào,

Hương thừa phảng phất ra vào đâu đây.

Kiều tỉnh dậy còn nghe cả mùi hương của con ma vừa mới ghé thăm đó.

Một mình lưỡng lự canh chầy,

Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh!

Thấy khúc đời còn lại của mình mà ngán quá. Không dám sống.

Hoa trôi bèo dạt đã đành,

Biết duyên mình biết phận mình thế thôi!

Nỗi riêng lớp lớp sóng dồi,

Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn.

Tâm Kiều như có những đợt sóng lên xuống. Càng suy nghĩ chừng nào thì Kiều càng khóc lớn chừng đó. Bà Vương đang ngủ gần đó bị quấy rầy:

Giọng Kiều rền rĩ trướng loan,

Nhà huyên[24] chợt tỉnh hỏi cơn cớ gì:

‘Cớ sao trằn trọc canh khuya,

‘Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa?’

Thưa rằng: ‘Chút phận ngây thơ,

‘Dưỡng sinh đôi nợ tóc tơ chưa đền.

‘Buổi ngày chơi mả Đạm Tiên,

‘Nhắp đi thoắt thấy ứng liền chiêm bao.

‘Đoạn trường là số thế nào,

Bài ra thế ấy vịnh vào thế kia.

‘Cứ trong mộng triệu mà suy,

‘Phận con thôi có ra gì mai sau!’

Bà mẹ nói: ‘Ôi, những cái chuyện nằm mơ! Do tâm mình tưởng ra như vậy, tin vào đó thì chết. Tại sao tự mua chuốc chuyện sầu não vào làm gì hả con? Con đừng tin vào những giấc mộng.’ (Bà nói như vậy thôi nhưng trong lòng bà cũng lo sợ lắm!)

Dạy rằng: ‘Mộng huyễn cứ đâu,

‘Bỗng không mua não chuốc sầu nghĩ nao!’

Vâng lời khuyên giải thấp cao,

Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch Tương.[25]

Vừa được mẹ khuyên can về chuyện con ma xong, thấy lòng có nhẹ bớt một chút thì Kiều lại nghĩ đến chuyện Kim Trọng.

Ngoài song thỏ thẻ oanh vàng,

Nách tường bông liễu bay sang láng giềng.

Hiên tà bóng gác nghiêng nghiêng,

Nỗi riêng riêng chạnh tấc riêng một mình.

Hai đứa em dại quá, không thể nào hiểu được tâm sự của chị. Thúy Vân thì đang ngủ khì. Vương Quan là con trai, mình đâu có tâm sự được với nó. Nói với mẹ lại càng không được: Con gái gì mới gặp con trai đã thương, đã đặt vấn đề có liên hệ gì với anh chàng sau này không! Thúy Kiều rất cô đơn trong tâm trạng này. Chúng ta sẽ đọc đến tâm trạng của anh chàng.

Có một điều cần nói ở đây. Bản nhạc Kiều sáng tác là một bản nhạc rất buồn. Mỗi khi đàn lên, Kiều lại có cơ hội tưới tẩm những hạt giống của sự đau buồn đó. Rất nguy hiểm. Vì vậy tôi nghĩ rằng khi tiêu thụ các sản phẩm văn nghệ chúng ta phải chọn lựa những bài lành mạnh, có sự cởi mở, nhẹ nhàng, giải thoát. Phải cẩn thận như khi chúng ta ăn. Nếu chúng ta biết chọn những thức ăn không có độc tố thì chúng ta cũng phải biết chọn những sản phẩm văn hóa lành mạnh khi tiêu thụ. Tôi không muốn chúng ta hát ngâm những bài rền rĩ đau thương quá. Ngâm, hát những câu thơ và những bài hát đó là chúng ta đang thực tập tưới tẩm những hạt giống đau thương trong mình. Có một thầy trẻ ngâm thơ hay. Mỗi khi ngâm những bài thơ buồn thì thầy khóc nức nở, không còn tác phong của người tu hành nữa. Thầy không biết chính trong lúc đó thầy đang tưới tẩm những hạt giống đau thương. Trong thiền có rất nhiều thi ca và âm nhạc nhưng thi ca và âm nhạc thiền phải nhắm tới mục đích giải phóng và chuyển hóa. Ngồi đó mà đọc và nghe những bài thơ, bài nhạc đau thương, hưởng cái thú gọi là ‘thú đau thương’ là thực tập ngược lại thiền. Gãi, cào, cấu những nỗi đau của mình như vậy cũng có sự thú vị, nhưng càng thú chừng nào thì hạt giống buồn đau càng lớn chừng đó. Rất nguy hiểm. Hình ảnh những chàng trai, những cô gái còn trẻ ôm một cái băng của Thanh Thúy nằm nghe rồi rên xiết là một hình ảnh rất tiều tụy.

Ngày xưa, khi chị Cầm của tôi đọc Truyện Kiều cho mẹ tôi nghe, ngang câu ‘Phận sao phận bạc như vôi, Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng’, mẹ tôi nói: ‘Con đừng đọc như vậy, phải đọc là ‘Phấn sao phấn bạc như vôi.’ Tôi nói: ‘Đâu có! Trong sách để ‘phận’ rõ ràng mà, tại sao lại đọc ‘phấn’?’ Mẹ tôi nói: ‘Đúng rồi. Viết là ‘phận’ nhưng nếu mình đọc ‘Phận sao phận bạc như vôi’ thì mình cũng đang than thở như Kiều vậy. Mình sẽ vận nó vào trong người. Rất nguy hiểm. Thành ra phải đọc là ‘phấn’ (để chứng tỏ là mình khác). Lúc đó mấy chị em mới hiểu là trong văn hóa của mình có truyền thống tự bảo hộ như vậy. Không phải chỉ trong đạo Phật người ta mới cẩn thận trong việc tưới tẩm hạt giống, chính trong văn hóa Việt Nam cũng có truyền thống kiêng cữ. Người con gái nào chơi đàn Độc huyền cầm (đàn bầu) nhiều thì người ta tin rằng cô sẽ suốt đời đau khổ. Tiếng Độc huyền rất ‘trệ’, làm người nghe lụy xuống. Ngồi đó mà chơi Đêm tàn bến Ngự… tưới tẩm hoài những hạt giống đau thương thì thế nào cũng có một ngày mình sẽ lãnh đủ. Đây là chuyện thực tập. Người tu mà không biết chuyện này là có thiếu sót.

Có một thi sĩ làm thơ hô hào những nhà sáng tác, những ca sĩ từ bỏ lối sáng tác và ca hát đau thương đứt ruột. Ông ta viết những câu này, tôi còn nhớ:

Đừng kể nữa những mảnh tình tan tác,

Hãy đứng lên, nhạc sĩ, với tôi đi!

Tôi ghét anh ưa giọng hát sầu bi

Và tung mãi tâm hồn thường trụy lạc.

Hãy đứng dậy! Vứt chiếc cầm ảo não!

Tôi cần nghe những khúc nhạc rất hùng

Thét ngựa lòng phi mãi chẳng chồn chân

Sáng như gươm tuốt, mạnh như luồng bão.

Ôi nhạc sĩ! Thật anh người thậm tệ!

Quan hoài chi những khúc hát mê ly

Những câu ca không đẹp lại không thi

Của kỹ nữ vọc cuộc đời ê trệ?

Hãy cung kính nhượng những người tuổi tác

Những bản đàn nhịp hát thiếu tinh thần.

Hãy ra xem sóng vỗ với mây vần

Và sáng chế cho tôi vài điệu khác.

Nếu chúng ta cứ hát những bài khóc gió than mây và cứ nghe những bài độc huyền thì có thể ‘vận cái rủi’ vào số mạng của mình, tưới tẩm những hạt giống đau buồn, điều đó không tốt.

Giống hữu tình

Đây là tình cảnh của Kim Trọng sau cuộc gặp gỡ đầu tiên với Kiều:

Cho hay là giống hữu tình,

Đố ai gỡ mối tơ mành cho xong!

Cụ Nguyễn Du nói tới chàng sinh viên này như nói về chính cụ. Cụ là một người có rất nhiều tình. Có nhiều tình thì có thể có nhiều đau khổ. Người ta nói đến một ‘giống’ người (race) gọi là ‘nòi tình’. Thúy Kiều, Kim Trọng và cụ Nguyễn Du đều thuộc ‘chủng tộc’ này. Cho nên cụ rất thông cảm. ‘Cho hay là giống hữu tình’ có nghĩa là: ‘Tôi biết mà! Anh thuộc về cái giống hữu tình thì thế nào anh cũng bị kẹt.’ Hồi trẻ chắc chàng Nguyễn Du cũng đa tình lắm! Chắc chàng cũng đã nhiều lần bị kẹt.

‘Đố ai gỡ mối tơ mành cho xong’: Đã vướng vào vòng tình ái rồi thì gỡ ra rất khó. Đây là cụ nói ra từ kinh nghiệm của mình. Chữ tình ở đây là thứ tình yêu có đam mê. Nhưng chữ tình có thể chỉ nhiều loại tình cảm khác. Ví dụ Từ, Bi, Hỷ, Xả cũng là tình, nhưng tình này không có tính đam mê. Tôi nhớ ở chùa Trúc Lâm (Huế) các thầy dùng chữ rất táo bạo. Trong thiền thất, các thầy để hai câu đối như thế này:

Bất tục tức Tiên cốt

Đa tình thị Phật tâm.

Cốt cách của người tiên thì thanh, không trần tục. Trái tim của Bụt là một trái tim có nhiều tình thương. Bụt thương, không phải chỉ một người mà rất nhiều người. Từ loài người cho đến ‘con sóc, con nai, con muỗi, con giun, con chim, con cá…’[26]Như vậy là ‘đa tình’ chứ gì nữa! Tôi dịch là: Cốt Tiên là không tục, Tâm Bụt vốn nhiều tình. Tình như tình của Bụt thì càng nhiều thì càng tốt, không sao hết. Tình đam mê, bi lụy, chiếm hữu, dính mắc… thì mới ngán. Về thăm chùa Trúc Lâm quý vị sẽ thấy hai câu đối đó.

Vướng vào vòng tình ái gỡ ra rất khó. Chàng thư sinh nọ gặp người đẹp rồi, về đọc Tứ thư, Ngũ kinh, Đại học, Trung dung, Luận ngữ… không vô nữa. Văn sách, Kinh nghĩa không làm gì được cả. Sách vở, chữ nghĩa chạy đi đâu hết, chỉ có hình ảnh nàng Kiều ngự trị trong lòng thôi.

Chàng Kim từ lại thư song,

Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây.

Sầu đong càng lắc càng đầy,

Ba thu dọn lại một ngày dài ghê!

Một ngày thương nhớ dài như ba năm. Thi sĩ dùng hình ảnh một hũ sầu để nói về sự nhung nhớ. Người ta thường lắc hũ để dồn những vật bên trong lắng xuống đáy, làm hũ vơi đi. Cái hũ sầu ở đây càng lắc lại càng đầy thêm. Đúng là thơ!

Nhớ ít tưởng nhiều

Mây Tần khóa kín song the,

Bụi hồng liệu nẻo đi về chiêm bao.[27]

Tuần trăng khuyết đĩa dầu hao,

Mặt tơ tưởng mặt, lòng khao khát lòng.

Đọc những câu thơ này chúng ta đừng cười Kim Trọng. Có cười thì nên cười thi sĩ Nguyễn Du, một nhà Nho đang làm quan ở triều đình mà viết những câu thơ về tình tương tư như vậy.

Phòng văn hơi giá như đồng,

Trúc se ngọn thỏ tơ chùng phím loan.

Mành Tương phân phất gió đàn,[28]

Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình.

Ví chăng duyên nợ ba sinh,

Làm chi đem thói khuynh thành trêu ngươi.

Tội nghiệp! Lâm vào tình trạng này là nguy hiểm lắm. Không làm ăn gì được cả. Không sinh hoạt gì được trong phòng học cả (phòng văn lạnh ngắt như đồng): Bút (lông thỏ) lâu ngày không viết ngọn khô quắn lại, đàn không gảy dây chùng lại, trà không pha, hương không đốt. Hoàn toàn tê liệt vì sự nhớ tưởng đến hình bóng kia. Nhớ quá, chịu không nổi, không biết làm gì hơn là tìm trở lại nơi chốn đã gặp nàng thăm để cho đỡ nhớ:

Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người,

Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi.

Một vùng cỏ mọc xanh rì,

Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu.

Bên dòng suối ngày xưa làm gì còn bóng dáng người kia nữa! Nước đâu lưu lại bất cứ hình bóng nào. Cỏ bây giờ đã gần thành cỏ tháng tư, xanh hơn màu cỏ tháng ba nhiều lắm. Thà rằng không tới, tới càng buồn thêm:

Gió chiều như giục cơn sầu,

Vi lô hiu hắt như màu khơi trêu.

Những cây lau lắc lư trước gió như trêu chọc kẻ si tình: ‘A, cái anh chàng! Còn gì nữa đâu mà tìm kiếm ở đây!’ Nhớ nhung quá, anh chàng tìm luôn tới nhà cô nàng:

Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều,

Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang.

‘Nghề riêng’ là tập khí nhà văn của anh chàng. Kim Trọng viết văn hay, dùng trí tưởng tượng nhiều hơn ký ức về những chuyện có thật. ‘Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều’ nghĩa là những cái nhớ được thì rất ít nhưng những cái tưởng tượng ra thì rất nhiều. Thường thường là vậy. Khi yêu, giận hay buồn người ta tưởng tượng ra nhiều cái rất ngộ, không có trong sự thật. Vẽ vời bao nhiêu là cái… Đâu cần phải là nhà văn! Kẻ nào đang bị lôi cuốn theo tình cảm yêu, giận, buồn, ganh… của mình đều tạo tác ra rất nhiều ‘tưởng’ để bị bao vây trong thế giới của tưởng. Anh chàng tưởng tượng tới nhà Kiều sẽ gặp được người đẹp, rồi gì gì nữa. Nhưng tới nơi thì chàng thấy gì?:

Thâm nghiêm kín cổng cao tường,

Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh.[29]

Xung quanh bốn bức tường cao, nhìn vào cũng không thấy được gì. Không có phương tiện để liên lạc, nhắn tin. Đi quanh một vòng rồi về chứ làm gì nữa!

Lơ thơ tơ liễu buông mành,

Con oanh học nói trên cành mỉa mai.

Những cây liễu buông rủ xuống như bức mành. Trên cây có con chim oanh tập hót, chọc ghẹo anh chàng: ‘Anh chàng si tình ơi! Đứng đó làm gì? Đi về cho rồi!’ Tâm trạng anh chàng như vậy nên thấy cái gì cũng như đang trêu chọc mình hết. Cụ Nguyễn Du không nói: ‘Anh chàng nhớ cô nàng quá, thất vọng quá”… mà dùng toàn hình ảnh để diễn đạt ý đó. Dùng hình ảnh để nói, đó là thơ.

Mấy lần cửa đóng then cài,

Đầy thềm hoa rụng biết người ở đâu?

Tần ngần đứng suốt giờ lâu,

Dạo quanh chợt thấy mé sau có nhà.

Là nhà Ngô Việt thương gia,

Phòng không để đó người xa chưa về.

Lấy điều du học hỏi thuê,

Túi đàn cặp sách đề huề dọn sang.

Dọn đến làm hàng xóm. Ở một, hai bữa không gặp nhưng ba, bốn bữa chắc thế nào cũng có dịp gặp. Người ta cũng phải mở cửa đi ra chứ không lẽ ở hoài trong nhà sao! Đó là hy vọng của chàng Kim.

Có cây có đá sẵn sàng,

Có hiên Lãm Thúy nét vàng chưa phai.

Nhà có cảnh đẹp và lại có một cái hiên ngắm hoa đề ba chữ ‘Lãm Thúy Hiên’. Lãm là ngắm, Thúy là màu xanh đẹp của cây cảnh, trùng với chữ trong tên của Thúy Kiều. Vì vậy Kim Trọng mừng:

Mừng thầm chốn ấy chữ bài,

Ba sinh âu hẳn duyên trời chi đây.

Đúng là khi đam mê người ta hay tưởng tượng và suy diễn theo cái muốn của mình. Ba sinh là nói đến chuyện hôn nhân. Ngày xưa khi gặp người con trai hay người con gái mà thương thì người ta nghĩ ngay đến chuyện cưới nhau làm vợ chồng. Không có chuyện chỉ liên hệ trong chốc lát hay chỉ đi chơi như đời bây giờ. Bây giờ người ta gặp cô này xong thì gặp cô khác, đang chơi với cô này, thấy cô khác xinh xinh cũng chạy theo luôn. Có hai ba người một lần. Chính ngay trong số thiền sinh tới đây cũng có người đồng thời chơi với hai ba cô. Nhất là ở Đức. Có người tới thưa: ‘Bạch Thầy, con thương ba người một lần. Bây giờ làm sao?’ Quý vị ra hành đạo bây giờ khó lắm! Ngày xưa dạy cho anh chàng Kim Trọng này thì còn dễ.

Song hồ nửa khép cánh mây,

Tường đông ghé mắt ngày ngày hằng trông.

Tấc gang động khóa nguồn phong,[30]

Tuyệt mù nào thấy bóng hồng vào ra.

Rình hoài. Cửa sổ không bao giờ đóng hết. Cách nhau trong gang tấc mà hoàn toàn không sao gặp mặt được.

Ngóng đợi như vậy, hai tháng trôi qua.

Cách tường phải buổi êm trời,

Dưới đào dường có bóng người thướt tha.

Buông cầm xốc áo vội ra,

Hương còn thơm nức người đà vắng tanh.


 

Giang Vi

Tôi là một người yêu sách cuồng nhiệt và đã hơn 20 năm. Tôi dành cả ngày để đọc, viết blog về sách và viết bình luận. Tôi tin rằng sách là công cụ mạnh mẽ nhất trong cuộc sống để mở mang đầu óc cho những ý tưởng và quan điểm mới. Các thể loại yêu thích của tôi bao gồm tiểu thuyết lịch sử, giả tưởng, khoa học viễn tưởng và phi hư cấu. Tôi cũng thích tìm hiểu về các nền văn hóa khác nhau thông qua văn học.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts:

Back to top button