Văn học trong nước

Góc Nhìn Sử Việt – Phan Đình Phùng

phan dinh phung sach ebook1. THÔNG TIN SÁCH/EBOOK

Tác giả : Đào Trinh Nhất

Download sách Góc Nhìn Sử Việt – Phan Đình Phùng ebook PDF/PRC/MOBI/EPUB. Tải miễn phí, đọc online trên điện thoại, máy tính, máy tính bảng.

Danh mục :  SÁCH VĂN HỌC TRONG NƯỚC

Đọc thử Xem giá bán

2. DOWNLOAD

Download ebook                      

File ebook hiện chưa có hoặc gặp vấn đề bản quyền, Downloadsach sẽ cập nhật link tải ngay khi tìm kiếm được trên Internet.

Bạn có thể Đọc thử hoặc Xem giá bán.


Bạn không tải được sách ?  Xem hướng dẫn nhé : Hướng dẫn tải sách


3. GIỚI THIỆU / REVIEW SÁCH

LỜI GIỚI THIỆU

Bạn đọc thân mến!

Lịch sử văn hóa của một dân tộc không phải của riêng cá nhân nào, chính vì vậy, việc bảo tồn, gìn giữ và phát triển lịch sử văn hóa cũng không phải riêng một người nào có thể gánh vác được, nó thuộc về nhận thức chung của toàn xã hội và vai trò của từng nhân tố trong mỗi chặng đường lịch sử. Lịch sử là một khoa học. Lịch sử không phải là việc thống kê sự kiện một cách khô khan rời rạc. Bởi mỗi sự kiện trong tiến trình đó đều có mối liên kết chặt chẽ với nhau bằng sợi dây vô hình xuyên suốt không gian và thời gian tạo nên lịch sử của một dân tộc.

Dân tộc Việt Nam trải hơn một nghìn năm Bắc thuộc, gần trăm năm dưới ách cai trị của thực dân, đế quốc, nhưng con cháu bà Trưng, bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung… vẫn kiên trì bền chí, tin tưởng ở quá khứ hào hùng, không ngừng tranh đấu hướng tới tương lai rộng mở vì độc lập tự do của đất nước.

Một dân tộc, một quốc gia muốn trường tồn và phát triển, ngoài việc đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng, khoa học kỹ thuật, điều quan trọng hơn nữa là phải có một nền tảng giáo dục vững chắc. Trong đó, giáo dục về lịch sử và lòng tự hào dân tộc là cần thiết để ghi khắc trong tâm trí các thế hệ, đặc biệt là tầng lớp thanh niên trẻ, ý thức về nguồn gốc dân tộc, truyền thống văn hóa và nội lực quốc gia, đồng thời giúp định hình góc nhìn thấu đáo về vai trò của từng giai đoạn, triều đại và nhân vật – dù gây tranh cãi – tạo nên lịch sử đó.

Chính vì những giá trị to lớn đó, vấn đề học tập, tìm hiểu lịch sử nước nhà hiện đang là mối quan tâm hàng đầu của Nhà nước và toàn xã hội. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Quỹ Phát triển Sử học Việt Nam, Tạp chí Xưa và Nay… và rất nhiều những tổ chức khác đã và đang kiên trì con đường thúc đẩy sự phát triển của nền khoa học lịch sử quốc gia, phổ biến tri thức lịch sử, góp phần giáo dục truyền thống văn hóa dân tộc tới toàn xã hội.

Đồng hành với mối quan tâm của toàn xã hội, Công ty Cổ phần Sách Alpha – một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất bản, với tôn chỉ “Tri thức là sức mạnh” – đặc biệt quan tâm tới việc góp phần nâng cao hiểu biết của người dân về truyền thống văn hóa lịch sử đất nước.

Theo nhiều kết quả khảo sát, đánh giá nhu cầu của bạn đọc cho thấy, “lỗ hổng lịch sử” ở không ít người trẻ hiện nay hoàn toàn có thể bù lấp một phần dựa trên nhiều nguồn tư liệu, công trình nghiên cứu, sách cổ sách quý hiện đang được các Viện nghiên cứu, các tổ chức, cá nhân lưu giữ. Để chung tay tái hiện một cách rõ nét những mảnh ghép lịch sử dân tộc, Công ty Cổ phần Sách Alpha đã triển khai dự án xuất bản mang tên Góc nhìn sử Việt với mục đích xuất bản lại và xuất bản mới một cách có hệ thống các công trình, tư liệu, sách nghiên cứu, sách văn học có giá trị… về lịch sử, bước đầu hình thành nên Tủ sách Alpha Di sản.

Cuốn sách bạn đang cầm trên tay là một trong những sản phẩm đầu tiên của dự án này.

ĐỌC THỬ

Một làng nhiều mũ cánh chuồn

Trận đánh sau cùng với quân Pháp là trận ở Huế đêm 23 tháng 5 năm Ất Dậu (1885), quân đội chính qui của triều đình Việt Nam cũng thất bại nốt.

Thành mất vua chạy.

Bây giờ chống với Pháp chỉ là Văn thân với dân binh.

Người này đánh một hai trận, nhóm kia giữ được đôi ba năm rồi cũng tan vỡ.

Duy còn một người cố gắng cưỡng lại, triệu tập ít nhiều anh em đồng chí, rót dầu nhiệt huyết vào trong cây đèn dân tộc tự lập, khêu cao ngọn lửa ái quốc còn bừng đỏ lên ở một góc Hà Tĩnh, Quảng Bình 10 năm sau nữa mới tắt.

Ấy là Phan Đình Phùng.

Người làng Đông Thái, huyện La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, Phan Đình Phùng sinh năm Đinh Mùi (1874), dòng dõi nhà Nho.

Đông Thái vốn là một làng nổi tiếng nhất trong tỉnh Hà Tĩnh, vì xưa nay có người đậu đạt lớn, làm quan to rất nhiều. Khởi lên từ đời nhà Lê, phát một ông Quận công, nhà giàu có lớn, hay làm việc phúc đức, dân trong địa phương đều được nhờ cậy, cho nên người ta sùng bái lắm, tôn ông là “Kiều Quận công”.

Đến đời gần đây, làng Đông Thái lại càng đại phát, thi đậu hay làm quan cũng vậy. Tức như Quận công Hoàng Cao Khải, và hai Tổng đốc Hoàng Mạnh Trí, Hoàng Trọng Phu, ba cha con hiển hách một thời; còn nhớ lúc ông quận Hoàng bày tiệc thọ bẩy mươi, có người mừng câu liễn như vầy đúng lắm: “Con cái một nhà hai Tổng đốc, Pháp Nam hai nước một công thần”.

Họ Phan thì từ ông Phan Như Tính, làm Tổng đốc tỉnh Hải Dương hồi còn thuộc về Nam triều và chính là thầy học của cụ Phan Đình Phùng cho tới các ông Tiến sĩ Phan Đình Du, Phan Trọng Mưu, Phan Huy Nhuận… đều là người đồng hương thời với cụ Phan.

Người ta vẫn bảo hai cái thái cực không gặp nhau. Đằng này chúng ta thấy hai cái thái cực cùng ở một làng Đông Thái: Họ Hoàng phò tá Bảo hộ được vinh hiển đến tột bậc, họ Phan chống cự Bảo hộ cũng quyết liệt tột bậc!

Họ Phan, từ thủy tổ ở đời Lê, truyền đến Đình Phùng là 12 đời, mà đời nào cũng có người thi đậu lớn, làm quan to, cho nên người ta thuở trước đã từng đặt tên cho xóm họ Phan ở là “Ô y hạng”1, tỏ ý là một xóm toàn người đậu đạt cao sang.

Ông thân sinh ra Phan Đình Phùng là Phan Đình Tuyển, đậu Phó bảng khoa Giáp Thìn (1814) về thời vua Thiệu Trị. Làm quan tới Phủ Doãn phủ Thừa Thiên, sau vâng mệnh vua sai ra Bắc làm chức Tán lý Quân vụ dẹp giặc ở tỉnh Lạng Sơn, bị tử trận.

Phan Đình Phùng có năm anh em đồng bào.

Anh cả là Phan Đình Thông, đậu Tú tài, làm Phó Quản đốc một đội thuyền chiến; thứ hai là Phan Đình Thuật, đậu Cử nhân làm Giáo thọ; thứ ba là Phan Đình Tuấn mất sớm; cụ tức là thứ tư; còn người em út là Phan Đình Vận, đậu Phó bảng làm Tri phủ. Cụ lại còn hai em khác mẹ nữa, nhưng không ai thành đạt gì.

Phan Đình Phùng phu nhân là con gái một quan phủ ở làng Thọ Tường cũng thuộc về tổng Việt Yên, lấy cụ sinh ra được bốn người con trai. Về sau, phu nhân và mấy người con trai lớn, đều mất sớm về bệnh điên, nhằm lúc Phan đang cầm quân kháng cự binh Pháp ở núi Vụ Quang, cho nên cụ đã có câu than thở:

− Mình sinh gặp phải lúc gia biến, quốc biến, thê biến, tử biến.

Trong bốn người con trai của cụ, duy có người sót lại là Phan Đình Cừ có tiếng thông minh can đảm.

Phan Đình Cừ tự là Bá Ngọc, hồi nhỏ theo cụ ở luôn trong quân. Đến năm Bính Thân (1896), nghĩa là sau khi cụ mất một năm, thì trốn đi du học ở Nhật Bản, đứng vào hạng thanh niên anh tuấn trong đám Việt Nam chí sĩ vong mệnh qua Đông Kinh lúc bấy giờ. Nhiều người tưởng chắc mai sau Bá Ngọc có thể nối được chí lớn của cha. Nhưng về sau xoay đổi xu hướng, có lẽ suy nghĩ việc nước không thể cứu lại được nữa, dầu có làm gì, chẳng qua cũng như “Dã tràng xe cát biển Đông, nhọc lòng mà chẳng nên công chuyện gì”, rồi người ta thấy Nguyễn Bá Trác về trước đưa Bá Ngọc về sau, quy thuận Chính phủ Bảo hộ.

Tôi nhớ có một lần được gặp Bá Ngọc ở Hà Nội, nét mặt tỏ ra người hiền lành cứng cỏi; nhưng hỏi chuyện chi cũng ngập ngừng không muốn nói ra; hình như có một tâm sự gì uẩn khúc khó nói lắm vậy. Lúc ấy sau cuộc Âu chiến 1914-1918 vừa tan ít lâu.

Cách sau đó một năm, nghe tin Bá Ngọc lại đi sang Tầu, song lần này đi một cách đường hoàng. Không biết Bá Ngọc lại đi như thế có mục đích gì, chỉ biết cuối năm 1921, có tin ngoài báo về rằng một hôm Bá Ngọc đang dạo chơi ở Hồng Khẩu công viên tại Thượng Hải, thình lình bị một người cầm súng lục chĩa ngay Bá Ngọc mà bắn bảy phát chết tươi. Không nói, ai cũng đủ biết người bắn Bá Ngọc chính là một người đồng bào Việt Nam.

Nhân đó, mà đương thời có dư luận phân vân nổi lên, kẻ bàn vầy, người nói khác. Nhưng mà thôi! Chúng ta nên để người dưới suối vàng yên nghỉ là hơn.

Cụ Phan lại còn một bà vợ thứ nữa, tức là em ruột ông Lại bộ Tham tri Trần Trạm. Bà này về ở với cụ sinh được một người con trai là Phan Đình Cam mất sớm; sau lại sinh hạ một người trai nữa, hồi 1925-1926, tôi tới Hà Tĩnh nghiên cứu tài liệu để viết cuốn sách này, được thấy bà và cậu thứ nam đó ở làng Đông Thái. Sau đó tới giờ, tin tức ra sao không rõ.

Hồi cụ Phan cầm quân khởi nghĩa, những lúc lên ghềnh xuống thác, xông pha hòn đạn mũi gươm, sớm tối đều có bà truy tùy ở trong quân cho tới khi chung cuộc, nên người ta gọi bà là “cố nguếch rừng”. Nguếch là một tiếng ở Nghệ – Tĩnh dùng để chỉ người đàn bà nào đẻ con đầu lòng là gái; rừng cốt để chỉ tỏ rằng bà theo hầu cụ Phan ở trong rừng rú vậy.

Đáng tiếc những giấy tờ và thủ bút của họ Phan bị tiêu tán thất lạc hết sạch. Phần thì mất ngay trong lúc binh hỏa bôn ba, phần thì mất bởi những dư đảng bị hàng đầu bắt bớ, những nhà đồng chí bị khám xét tịch thâu. Có nhà phải ngậm ngùi tự động đốt đi, kẻo sợ liên lụy. Phải biết, với Khâm sai Nguyễn Thân lúc bấy giờ, một chữ của Phan Đình Phùng còn nằm sót lại ở trong tay ai, cái đầu người ấy chỉ là củ chuối!

Thành ra công việc sưu tầm tài liệu nhiều nỗi gian nan.

Còn chăng, chỉ là dăm ba mảnh đoạn giản tàn biên, mực đã mờ, giấy đã nát. Đến nỗi ống kính hòm ảnh phải từ chối, không chịu bắt sang, và nếu ta đưa lên nặng tay, sợ giấy rời rã. Nhưng mấy cái di tích mong manh sứt mẻ ấy cũng còn lập lòe chút ít tia sáng để cho kẻ sưu tầm có thể hiểu thêm được ít nhiều về quân sự bố trí của cụ Phan. Và một đôi phần về ý kiến cụ đối với thời cuộc.

***

Có người nói sinh thời cụ Phan cũng nghiện nha phiến. Tôi không thể tin. Mặc dầu bảo đó là sự mục kích của một vị cố lão, người Bắc, đã truy tùy cụ Phan rất lâu và mới qua đời ở Hà Nội độ dăm năm nay.

Những bậc kỳ cựu đáng kính ở đất Lam Hồng mà tôi đã được phỏng vấn, xưa kia hoặc đồng niên cộng sự, hoặc giao thiệp thân mật với cụ Phan, không nghe một ai nói cụ có cái ác tật đó.

Vẫn biết thuở ấy người Anh đã đem súng bắn đạn thuốc phiện vào nước Tầu (Nha phiến chiến tranh năm 1840) và tất người Tầu đã truyền bá sang bên ta rồi, nhưng vua ta có lệnh cấm đoán rất nghiêm. Thật thế, quân chủ Việt Nam ngày xưa không nỡ lòng lợi dụng món thuế thuốc độc hại dân để làm một nguồn lợi cho công khố.

Hai triều Thiệu Trị, Tự Đức, vua nhiều lần hạ dụ cấm ngặt quan lại hút nha phiến, ai không tuân lệnh có thể bị cách chức và kết án bị đồ2, bị lưu3.

Cụ Phan là một nhà Nho trì trọng, một vị quan thanh liêm mực thước, không lẽ đâu tự hại sức khỏe mình và phạm phép nhà vua?

Hay là năm ba tháng trước khi anh hùng mạt lộ, cụ Phan ta ở quân thứ mắc phải bệnh lị trầm trọng, không chừng trong bộ hạ có kẻ hiến kế dùng một vài điếu thuốc phiện để họa may cứu nguy, rồi những người bàng quan vì đấy tưởng rằng bình thời cụ vẫn có cái lạc thú ấy chăng?

Toan liều chết vì chưa được thi hành

Những người được gần cụ Phan, đều nói cụ tướng mạo rất xấu, nếu cứ lấy ngoài da mà xét người, thì không có ai ngờ đâu về sau cụ làm nên được anh hùng. Nhà tướng số nói cụ chỉ khác người được một quý tướng, là khi nằm ngủ thì mình mẩy ửng đỏ hồng hào lên, đó là một tướng lạ.

Thuở còn nhỏ, đi học đần độn tối tăm, đến nỗi học trước quên sau, thầy học đã nói mai sau tất Phùng không làm gì nên thân. Nhưng cụ nhờ có tính rất tự hùng, thấy anh em mình ai cũng thông minh học giỏi, thì lấy làm phẫn uất vô cùng, cố gắng học để theo kịp mới nghe.

Thành ra ròng rã trong bốn năm năm, trong tay không rời quyển sách, chân không bước ra đường, chỉ mài miệt nơi án sách ngọn đèn, quyết chí lập được công danh sự nghiệp. Cậu bé thường nói với bạn đồng học:

− Ta cố học để mai sau chiếm được khôi nguyên mới nghe.

Chẳng qua cũng chí khí khoa cử như ai! Cố nhiên, thời đại nào kỷ cương ấy. Thời đại thường uốn chí khí con người theo khuôn của nó, mấy ai hồ dễ thoát được ra ngoài.

Nước ta, từ đời nhà Trần, cách kén chọn nhân tài chỉ có từ chương khoa cử. Ai không ở trong vòng đó bước ra thì không thể là nhân tài, mà cũng khó có ngõ nào để xuất thân cho được.

Cái lối từ chương khoa cử, truyền về đời sau, chẳng những không bớt đi mà lại càng thêm bày vẽ thịnh hành lên mãi.

Sau khi vua Gia Long vừa thống nhất trong nước xong, tức thời gươm giáo xếp xó, thi phú lên đàn. Vua quan làm gương và khuyến khích dân: luôn mấy triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, toàn là Thiên tử thi phú; bầy tôi danh vọng như Hà Tôn Quyền, Doãn Uẩn, toàn là quần thần từ chương. Vua tôi chỉ tưởng trong nước có bờ cõi, có nhân dân, thế là trời Nam định phận, không biết bên ngoài có cường lân, có địch quốc, thường để mắt đến ta. Mọi việc khư khư chẳng chịu cải cách. Quan ải không khai, cửa bể đóng chặt, thời thế chẳng hiểu, võ bị lôi thôi, triều đình chỉ lo ngâm thi đặt phú với nhau, tưởng đâu “mấy vần thi phú” cho hay, đủ sức trị dân giữ nước. Kén người, thì khinh võ bị mà trọng văn chương. Dạy dân, thì bỏ thực học mà chuộng khoa cử. Bởi thế, người đời ấy ai không học từ chương không nên người, học mà không thi đậu cũng không nên người, thi đậu mà không làm được quan cũng không nên người.

Giữa lúc thiên hạ đâu đó văn minh tiến hóa rầm rầm, kẻ thì đang ra tay chinh phục đất xa, người thì biết lo thân tự cường cải cách, thế mà ở nước mình vua quan vẫn kềm giữ nhân dân ở chặt trong vòng học cũ thói xưa. Người ta lo mở mang những thương mại, những công nghệ, những cơ khí, những khoa học, còn mình đây thì khi đứng, khi ngồi, khi tỉnh, khi mê, chỉ lo có một việc từ chương khoa cử.

Chính nhà vua có trách nhiệm sửa nước dạy dân, ôm giữ mãi chế độ từ chương khoa cử, buộc dân phải theo đó mà đi, bảo rằng ai đi đến chỗ “khoa hoạn” mới là tới mục đích nhân sinh, hễ ai đi trái con đường ấy, thì không ngõ xuất thân nào khác. Tự nhiên, những người ở dưới cái chế độ giáo hóa đó, bao nhiêu tư tưởng, bao nhiêu hy vọng, bao nhiêu chí khí, đều quanh quất sa đà, ở trong có bốn chữ; bốn chữ ấy chia ra làm hai đoạn, là: thi đậu và làm quan.

Cụ Phan, sinh ra nhằm giữa hoàn cảnh như thế, thì cách lập chí xuất thân của cụ trừ khoa cử ra, không còn có đường nào hơn, vậy ta thấy cụ có cái chí “học quyết khoa”, chẳng nên lấy gì làm lạ.

Vì lập chí mai sau phải chiếm được giải khôi nguyên, cho khỏi phụ lời mình đã nói cứng cáp, đến nỗi có một phen Phùng đã liều chết.

Năm 21 tuổi cùng em là Phan Đình Vận, thọ nghiệp với ông bác là Phan Đình Tuân, đậu Tú tài, gặp giữa năm ấy có khoa thi, Phùng năn nỉ bà thân mẫu đến xin bác cho mình được cùng em đi thi. Ông bác nói:

− Phùng học hãy còn kém sút, nó chưa đi thi khoa này được, hãy đợi khóa sau.

Cậu năn nỉ xin đi thi không được, đâm ra bực mình phẫn chí, lén sai đầy tớ ra chợ mua một lượng hương nhu là vị thuốc độc về, viện cớ mua để thử chế thuốc pháo, nhưng kỳ thật là đem trộn vào ly rượu, rồi gọi em là Phan Đình Vận tới bảo rằng:

− Sinh ra làm trai, cốt được học, học cốt đi thi, học mà không được đi thi, thì còn sống làm gì. Phen nầy anh liều chết cho rồi đời, nghe em.

Em sợ quá, kiếm lời an ủi can ngăn mãi, song anh không nghe, một hai đòi uống thuốc độc tự tử mà thôi. Cực chẳng đã, Phan Đình Vận phải chạy mau mau tìm kiếm bà thân mẫu để nói cho bà nghe rằng anh Phùng đang uống rượu độc tự tử. Trong khi ông Vận chạy đi kêu mẹ, thì Phùng đã uống thuốc độc mà mê man bất tỉnh rồi. Sau bà thân mẫu tới, hô hoán người nhà, hàng xóm lại cứu cấp. Họ lấy nước đậu xanh và cam thảo cạy miệng ra mà đổ, một lúc lâu mới tỉnh. Ấy lúc nhỏ, vì chút khoa danh mà Phan đã có can đảm khinh sinh liều chết đến thế, thảo nào sau ra làm quan, mắng Tôn Thất Thuyết giữa triều đình, cùng là khởi nghĩa trong 10 năm trời, lấy sức châu chấu đá voi, tỏ ra một người can đảm đầy mình làm việc gì cũng toàn là coi chết như không.

Đến mãi khoa thi Bính Tý (1876) là năm cụ 39 tuổi mới đậu Cử nhân. Qua năm sau (1877) vô kinh thi Hội đậu Đình nguyên Tiến sĩ. Lời thề “thế nào cũng chiếm giải khôi nguyên” ngày xưa, bây giờ làm được như nguyện vậy.

Tuy đậu Tiến sĩ, nhưng tài học cũng chỉ ở trong bờ cõi từ chương cử nghiệp mà thôi, không phải làm một nhà học vấn uyên bác lỗi lạc, hay khua bút múa văn như người ta. Cho nên sinh bình không có sự nghiệp gì về văn chương; suốt đời không có câu đối nào tuyệt, bài thi nào hay, lưu hành ở đương thời và truyền tụng về sau.

Xem bài văn sách thi Đình của cụ làm trong khoa thi đậu, cùng là sau này, những lúc cầm quân ở trong đám lửa dọc đạn ngang, rừng sâu núi thẳm, cũng có nhiều khi ngẫu hứng mà phát ra ngâm vịnh, nhưng xem lời văn đều là thật thà chất phác thế thôi, không có vẻ chi hùng hào hay xuất sắc như văn chương của nhiều nhà Nho khác. Có khi một vài câu liễn, bài thi của cụ, người ta có thể không lấy làm thích ý nữa là khác.

Nhất sinh cụ Phan lấy đức thuần phác trung hậu làm gốc sự học, cho nên phát ra văn chương cũng vậy. Lại được một tính cách thật thà mạnh dạn hơn người là điều gì biết thì nói biết, điều gì không biết thì nói ngay không biết, không có thói đấp điếm lòe đời như ai. Đến nỗi khoa đi thi Đình, đầu bài chính tay vua ra, có vấn đề nào cụ chưa học tới, chưa từng nghiên cứu, thì trong bài làm, tới chỗ đó, cũng viết ngay rằng: “sĩ vị tằng đọc, bất cảm mạo tấu”, nghĩa là “chỗ này tôi chưa học, tôi không dám tâu càn”. Thế cho biết trong sự học của cụ có đức thận trọng và tự khiêm.

Sau làm nên được bậc người oanh oanh liệt liệt trong 10 năm trời, nước non ỷ thác, bạn phục dân theo, chính vì có dũng cảm, có nghĩa khí, hơn là vì có cờ biển Tiến sĩ. Bởi thế ta xem cụ, đừng trông vào phương diện văn học. Vì cụ cũng là ông Nghè, nhưng không phải là ông Nghè hay chữ, mà cốt là ông Nghè yêu nước.

Ra làm quan

Sinh bình, cụ Phan vốn có hai tính cách đặc biệt là: thẳng và gan.

Khi còn là học trò ở nhà quê, một làng bên cạnh đắp con đường đi xuyên thẳng qua làng Đông Thái, theo lẽ mê tín phong thủy của ta ngày xưa, thì việc mở con đường này tất nhiên có hại cho cuộc lạc nghiệp an cư của dân Đông Thái; nhưng không ai dám đứng lên cản trở. Cậu học trò Phùng ngang tàng đảm nhận việc ấy. Cậu xách gươm ra, ngồi lì ở bên đường, nói rằng hễ ai đi qua đường này thì chém chết. Thế mà con đường ấy sau phải bỏ rêu phong cỏ mọc, không ai lai vãng nữa.

Nhân có bản tính khảng khái cương cường như vậy, cho nên lúc ra làm quan, phàm gặp việc gì ngang tai trái mắt, mà thiên lương bảo phải làm để sửa lại, là mạnh bạo làm ngay, dẫu biết rằng làm việc đó sẽ có hại đến tước lộc hay nguy đến tính mệnh mình cũng mặc.

Cụ làm quan, không như những kẻ tham quyền cố vị kia, động gặp việc gì khó khăn – mà chính là việc nên làm và chính họ có sức làm được – thì co đầu thụt cổ lại không dám làm. Rất đỗi có khi không dám mở miệng ra để nói lẽ phải nữa. Trong ý họ chỉ lo sợ nếu như việc phải đó mà mình làm ra hay nói ra, e thiệt hại cho vợ con mình, thân danh mình, sẽ mất cả áo ấm cơm no, lên xe xuống võng. Họ nghĩ thà cứ chiều đời ngậm miệng cho được vinh thân phì gia là hơn.

Trái lại, cụ Phan không phải là hạng làm quan như thế.

Bởi vậy, khi làm Tri phủ Yên Khánh ở Ninh Bình, thấy một ông cố đạo bản xứ hay ỷ thế tôn giáo, hà hiếp lương dân, cụ Phan không kiêng nể ngần ngại gì, cứ việc hô lính đè cổ giáo sĩ đó xuống hỏi tội và đánh thẳng tay.

Giáo sĩ bị trận đòn ấy tức là cụ Trần Lục, tục gọi là cụ Sáu, mấy năm sau nhờ thế lực Pháp mà được triều đình phong làm Tuyên Phủ Sứ có oai quyền lừng lẫy một lúc ở vùng Phát Diệm, Ninh Bình, ai cũng phải sợ. Người ta nói ông có cái đức giết người như rạ, không kém gì Tôn Thất Thuyết.

Cụ Phan đánh một ông cố đạo là đánh kẻ có tội hà hiếp người, chớ không phải bầy tỏ thâm ý ghét đạo Thiên Chúa.

Bọn Văn thân ta lúc đó cùng có một ý nghĩ chung, cùng ôm một mối thù chung; gặp đâu có nhà thờ là đốt phá, gặp đâu có ông “mặc áo dài thâm” là vặt râu, gọt đầu, bắt bước qua cây thánh giá, thích chữ vào mặt, rồi giết chết. Bởi các ông Văn thân lầm tưởng phàm những người theo đạo Thiên Chúa đều là quân nội công của người Pháp và đạo Thiên Chúa là tả đạo hoặc người. Ấy, đời xưa từ vua đến quan, từ quan đến dân, đều tin tưởng như thế cho nên đã gây nên không biết bao nhiêu việc lương giáo đánh giết nhau, rắc rối lôi thôi mãi.

Nhưng cụ Phan suy nghĩ thế khác.

Với kẻ thân tín, cụ vẫn thường nói:

− Đạo Thiên Chúa lấy Gia Tô làm trời, cũng như Thích Ca Mâu Ni là Trời của đạo Phật hay Khổng Phu Tử là Trời của nhà Nho. Hễ ai đã tín ngưỡng điều gì, thì điều ấy là Trời của mình. Mình muốn người ta đừng xâm phạm đến sự tín ngưỡng của mình, thì mình đừng xâm phạm đến sự tín ngưỡng của người ta. Thiên Chúa cũng là một thứ tôn giáo, mặc ai tin thì theo.

Còn như thuở ấy người ta bảo giáo dân là quân nội công của người Pháp, thì cụ nói:

− Ấy là tại nước mình hèn yếu, không có nhân tài, không có tầu bền, súng lớn, quân mạnh tướng giỏi, chớ lỗi chi ở giáo dân. Chồn mượn oai hùm, dê đeo dạ cọp, ấy là thường tình của con người ta, có lấy chi làm lạ. Xứ nào mà không có hạng người hèn ấy.

Giữa lúc nhà Nho đều cố chấp mà cụ Phan có tư tưởng rộng lượng được thế, quả thật đạt quan4.

Có người nói bởi cụ đã có dịp gặp gỡ đàm luận về vấn đề ấy với Nguyễn Trường Tộ, một danh sĩ ở Nghệ theo đạo Gia Tô.

Nhưng vậy mà có một giáo sĩ cậy thế làm xằng và hiếp người bên lương thì cụ làm phận sự chăn dân, vẫn nọc kẻ ấy ra mà đánh, không tha.

Sự thật ở đời bấy giờ, ngoài ra những ông chuyên tâm giảng đạo, bất can thế sự ra, thật cũng có ít nhiều giáo sĩ quá ỷ thế lực người Pháp hùng cường sẵn lòng bênh vực mấy ông, rồi mấy ông được trớn làm quá giới hạn. Họ ỷ vào thế lực đó để giữ gìn quyền lợi của nhà chung và tự do truyền giáo, đã đành là lẽ tự nhiên rồi, nhưng có nhiều ông được trớn rồi hà hiếp những dân vô cô5. Giáo dân lại cũng ỷ thế mấy ông cố, ông cha mình để bắt nạt anh em đồng loại bên lương. Do đó mà đôi bên sinh ra lắm sự đánh giết nghịch thù lẫn nhau. Tình tệ như vậy, khiến cho phận sự làm quan phụ mẫu địa phương, bảo cụ phải trừ tệ an dân, dù một ông cố đạo có lỗi cũng không dung thứ. Như trên kia đã nói, cụ đánh một ông cố đạo chỉ là trị một kẻ “ỷ thế hiếp người”, không phải có ác cảm gì với đạo Thiên Chúa như tất cả người đồng thời.

Về sau cụ khởi nghĩa, có một lúc kéo cờ đề chữ “Bình Tây Diệt Tả” là vâng theo huấn lệnh của triều đình lúc bấy giờ thường hạ chiếu khuyến khích bọn Văn thân đánh phá chém giết giáo dân. Nhưng sau cụ suy nghĩ thế là không nên, vì giáo dân cũng là đồng bào có thù nghịch gì với mình đâu, cho nên khi đóng đại binh ở núi Vụ Quang, cụ vẫn hiểu dụ bọn giáo dân rằng: “lương dân hay giáo dân đều là xích tử6 của triều đình, chớ nên vì lẽ gì mà hại lẫn nhau”.

Xem thế thì cụ Phan thật không có lòng ghét đạo Thiên Chúa, chỉ ghét những giáo sĩ hay giáo dân nào ỷ thế làm càn đó thôi.

Song, ở đời ấy, đánh một ông cố đạo, là một việc dễ làm, nhưng cũng là một việc khó xử.

Dễ, là bọn Văn thân lúc ấy đang có thanh thế to, bè đảng lớn, thì đánh hay giết ngay một ông cố đạo, cũng như là đánh hay giết một người dân thường vậy thôi. Nhưng khó, là khó cho triều đình trong việc giao thiệp với nước Pháp.

Một cớ trước hết, mà nước Pháp và nước Nam có cuộc giao binh, sau thành ra cuộc Bảo hộ, là tự triều đình ta làm ngăn trở việc truyền giáo, bao nhiêu năm hạ chiếu thúc giục quân dân phải ngược sát giáo dân. Triều đình thấy trong mọi việc Pháp Việt giao thiệp đều có giáo dân làm duyên cớ ở trong, thì bảo: “À, quân này rước voi về giầy mồ”, bèn ra tay cấm, giết đạo. Đến khi thấy vì cấm đạo giết đạo quá lố, mà việc giao thiệp hai nước càng thêm nguy hiểm khó khăn cho mình, thì triều đình lại bảo: “À, quân này mạnh gớm”, bèn trở lại trị tội những quan những dân nào đã xâm phạm đến người đạo. Triều đình cốt làm vậy để chiều lòng người Pháp. Thế là, khi nào nước Pháp nhịn thì triều đình ta làm tới, khi nào nước Pháp giận thì triều đình ta thụt lui, tự triều đình, không có chủ trương nhất định gì cả.

Bởi thế, cụ Phan Đình Phùng, Tri phủ Yên Khánh vì cái lỗi đã đánh một ông cố đạo, mà bị triều đình trị tội, phải triệu về kinh, sung vào viện Đô Sát, làm Ngự sử. Năm ấy là năm Tự Đức thứ 31.

Cụ được về kinh sung vào chức này, lại càng nhằm chỗ thích hợp với tính cách thiên nhiên là tính cương trực. Gặp lúc bấy giờ việc nước lôi thôi, chính sự rối bét, vua thì nằm cao ở chốn thâm cung, giặc thì tung hoành khắp trong bờ cõi, thế nước hồ nguy, tình dân khổ sở, thế mà các quan đại thần, tiểu thần, trong triều, ngoài quận, trên đã không giúp được vua yên nước, dưới lại không có lòng thương dân; tóm lại các ông ấy chỉ biết lo có bản thân và làm toàn những việc dối trên hiếp dưới, cơ hồ không còn có kỷ cương phép tắc gì nữa. Chức Ngự sử đặt ra cốt để can ngăn vua chúa sửa đổi tật hư, và hạch lỗi trăm quan về những việc làm bậy. Làm Ngự sử về thời trị đã khó khăn, vì thấy nhiều ông Ngự sử khiếp sợ oai quyền rõ biết vua sai quan lỗi mười mươi, mà không dám nói; huống chi làm Ngự sử thời loạn, khôn sống mống7 chết, nhưng mà trên thì khổ gián được vua chúa, dưới thì nghiêm hặc8 được trăm quan, khiến ai nấy trúng khuôn phải phép, lợi nước an dân, như vậy Ngự sử chẳng phải là chức khó lắm sao?

Cụ Phan thật là xứng đáng một quan Ngự sử ở thời loạn. Vì gặp việc sai lầm, cụ đều dám nói.

Thứ nhất là việc tập bắn ở cửa Thuận An.

Nguyên là hồi ấy, nhà vua có lập ra một sở tập bắn ở cửa biển Thuận An, cách xa kinh thành 14 cây số bắt buộc tất cả các quan văn võ đại thần ở kinh đều phải ra đó tập bắn. Cái bản ý của nhà vua lập ra trường tập bắn cho các quan, chắc vì lúc ấy trong nước đang có binh đao, nhà vua muốn rằng bất cứ quan dân, ai cũng có thể làm quân lính được cả, cho nên định luyện tập lấy một đội quân “các quan” để rồi ra hộ vệ kinh thành, chống cự binh Pháp chăng?

Ai cũng đủ biết trong chốn triều miếu kinh đô, ai làm nên đến bậc đại thần là vào hạng “các cụ” rồi. Đã làm bậc “các cụ”, thì có oai quyền to, thanh thế lớn, không muốn cho ai nịnh hót cũng có người nịnh hót, không muốn ai sợ hãi cũng có người sợ hãi; nhân vậy mà có thiếu gì kẻ bưng bợ oai quyền và khúm núm ton hót ở đằng sau các cụ. Các cụ nói câu gì, dầu cho dở khẹt cũng là nói gang thép, các cụ làm việc gì dầu cho bậy bạ cũng là việc làm hơn người. Rất đỗi là con cháu các cụ dốt mấy, rồi đi thi cử cũng phải đậu, ngu mấy rồi cũng được viện lệ hay tập tước để làm quan. Tóm lại các cụ ở đời bấy giờ tiếng là phò vua giúp nước mà kỳ thật là dối vua hại nước không biết bao nhiêu.

Chính việc tập bắn ở Thuận An là một chứng cớ.

Nhà vua đã định lệ, hễ cụ này bắn trúng mấy phát, cụ kia bắn trúng mấy phát, thì viên chấp sự trông nom việc tập bắn phải ghi vào sổ hẳn hoi để tâu vua xem. Các cụ đã quen áo dài vai rộng, võng lọng ngựa xe, đời nào mó tay đển khẩu súng tập bắn. Không may gặp lúc trong nước có nạn đạo binh, nhà vua bắt buộc quan lớn cũng phải sắn tay áo lên, tập tành cái nghề của tên lính, thì hình như là việc cực chẳng đã cho các cụ; các cụ chỉ làm cho xong chuyện, khỏi trái mạng vua thì thôi. Có khi các cụ bắn mười phát đều lên mây xanh, không có được một phát trúng đích, thế mà viên chấp sự cũng ghi vào sổ cho nhiều, làm như là các cụ đều bắn giỏi cả.

Việc tập bắn man trá như vậy, các ông Ngự sử ở Đô Sát viện đều biết dư, nhưng ai cũng kiêng nể sợ hãi các cụ, không dám đàn hặc bao giờ. Duy đến cụ Phan không thèm kiêng nể sợ hãi ai, vì cụ suy nghĩ họ làm như thế là dối vua, bèn làm sớ tâu vua Tự Đức ngự giá ra cửa Thuận An, để xem các quan tập bắn cho rõ hư thực. Vua Tự Đức ngự ra xem, quả thấy trước kia sổ sách biên chép tâu lên là láo cả, trong bá quan tập bắn mười phần chỉ có một hai phần bắn trúng mà thôi. Bởi vậy ngài châu phê rằng: “thử sự cửu bất phát, phùng Phùng nãi phát” (việc này là không có ai phát giác ra, nay gặp Phùng mới phát), rồi thăng chức cho cụ làm Hình khoa Chưởng ấn. Cả triều đình bấy giờ, ông quan nào cũng phải kiêng nể cụ về tính cương trực cảm ngôn.

Những việc cụ dám đàn hặc bá quan hồi ấy còn nhiều, song cũng không quan hệ chi mấy, cho nên lược đi.

Vua Tự Đức thương cụ là người cương trực, sau ngài giáng chỉ phái cụ làm quan Khâm mạng ra thanh tra tình hình quan lại ở Bắc kỳ. Cụ đi thanh tra rồi, dâng sớ về tâu vua, hạch tội ông Thiếu bảo Nguyễn Chánh, Kinh lược Bắc kỳ, chỉ ôm tiết việt vua ban làm món đồ bày trước mặt cho oai vệ, còn sự lợi hại của dân gian, thật chẳng để tâm gì tới. Vua Tự Đức truyền cho cụ thâu lấy tiết việt của Nguyễn Chánh về, không cho ông làm Kinh lược nữa.

Ở ngoài Bắc trở về kinh, cụ Phan lại sung chức Ngự sử.


Giang Vi

Tôi là một người yêu sách cuồng nhiệt và đã hơn 20 năm. Tôi dành cả ngày để đọc, viết blog về sách và viết bình luận. Tôi tin rằng sách là công cụ mạnh mẽ nhất trong cuộc sống để mở mang đầu óc cho những ý tưởng và quan điểm mới. Các thể loại yêu thích của tôi bao gồm tiểu thuyết lịch sử, giả tưởng, khoa học viễn tưởng và phi hư cấu. Tôi cũng thích tìm hiểu về các nền văn hóa khác nhau thông qua văn học.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts:

Back to top button