Chuyên ngành

Trái Tim Thiền Tập

1. THÔNG TIN SÁCH/EBOOK

Tác giả : Sharon Salzberg

Download sách Trái Tim Thiền Tập ebook PDF/PRC/EPUB/MOBI. Tải miễn phí, đọc online trên điện thoại, máy tính, máy tính bảng.

Danh mục : Tâm linh – Tôn giáo

Đọc thử Xem giá bán

2. DOWNLOAD

Download ebook                      

File ebook hiện chưa có hoặc gặp vấn đề bản quyền, Downloadsach sẽ cập nhật link tải ngay khi tìm kiếm được trên Internet.

Bạn có thể Đọc thử hoặc Xem giá bán.


Bạn không tải được sách ? Xem hướng dẫn nhé : Hướng dẫn tải sách


3. GIỚI THIỆU / REVIEW SÁCH

Lời giới thiệu

Từ những ngày đầu bước chân vào con đường tu học Phật, tôi đã cảm thấy chắc chắn rằng thế nào tôi cũng sẽ tìm được cho mình một lối sống chân thật và an lạc. Vào thời ấy, cuộc sống của tôi bị chi phối bởi nhiều rối ren và sợ hãi. Tôi cảm thấy xa lạ với tất cả mọi người, với thế giới chung quanh, và ngay cả với những kinh nghiệm của chính mình. Trong thế giới của tôi có một sự phân biệt rõ rệt: tôi và người, đúng và sai. Và tất nhiên, lối nhìn ấy chỉ làm tăng thêm nỗi sợ hãi và đau khổ của tôi mà thôi.

Khi bước chân vào con đường tu tập, tôi ý thức rằng ta có khả năng giải thoát ra khỏi cái cảm giác cách biệt ấy, rằng chúng ta có thể sống trong một sự nối liền không giới hạn, bằng một con tim bao la vô tận. Cuộc đời của đức Phật đã thể hiện được điều ấy. Hành động của đức Phật lúc nào cũng là một biểu hiện của tình thương và tuệ giác; dù ngài sống một mình hay với người khác, dù đang ở yên một chỗ hay trong khi đi hành đạo, dù đang giảng đạo hay ngồi yên thiền định, dù trong lúc tiếp xúc với người sùng mộ hay kẻ hủy báng ngài. Không một hoàn cảnh nào có thể giới hạn được lòng từ bi của đức Phật. Trái tim của ngài rộng lớn và bao dung như thế giới này.

Tinh túy của đạo Phật là tất cả chúng ta, ai cũng đều có một khả năng từ bi và an lạc đó. Tiềm năng ấy không có gì là trừu tượng hoặc viển vông. Nó không phải để dành riêng cho những người sống trước ta mấy ngàn năm ở một nơi chốn xa xôi nào khác. Một cuộc sống nối liền và chân thật có thể là một hiện thực của chính ta, ngay bây giờ và ở đây. Nó là thuộc về ta. Khám phá được rằng con tim ta có thể thật sự rộng lớn đủ để ôm trọn hết mọi kinh nghiệm trong cuộc đời này – khổ đau và hạnh phúc – chính là nền tảng của con đường tu tập. Từ đó ta sẽ tìm được một niềm an lạc và thảnh thơi trọn vẹn.

Lối sống ấy đã được nhà thơ Rilke diễn tả thật đẹp:

Tôi sống đời tôi giữa những vòng tròn nới rộng

chúng vươn ra ôm trọn thế giới này

Có lẽ tôi sẽ không hoàn tất được vòng chót

nhưng tôi sẽ hết lòng.

Tôi hy vọng quyển sách này sẽ khuyến khích được bạn đem chánh niệm, tình thương và tuệ giác vào cuộc sống bằng sự tu tập của mình. Và bạn sẽ khám phá ra rằng trái tim của mình có thể rộng lớn, bao la như thế giới. Hoặc như Rilke nói: chỉ cần ta hết lòng mình mà thôi.

Sharon Salzberg

Phần một

TINH THẦN THIỀN TẬP

Tôi có cái mà bạn muốn

Tại một khu vực ở thành phố cổ Jerusalem, có một khu chợ trời khá lớn. Sinh hoạt nơi đây rất náo nhiệt – những âm thanh, hình ảnh và những món hàng mua bán tới tấp ngập tràn giác quan ta. Có một lần khi tôi đến Israel hướng dẫn một khóa tu, tôi có đi với vài người bạn đến thăm khu vực ấy. Trong khi chúng tôi đang đi bộ trong một hẻm nhỏ, có một người bán hàng gọi với theo tôi, “Này này, tôi có cái mà bà cần đây!” Tôi chợt thấy như có một cảm giác rộn ràng chạy rần khắp châu thân.”Ôi hay quá, ông ta có cái mà mình đang cần.” Tôi dừng ngay, quay lại, và đi về phía ông ta. Nhưng rồi tôi chợt nghĩ, “Mà khoan đã. Trước hết, mình đâu có cần gì đâu, và kế nữa, làm sao ông ta biết là ông có cái mà mình muốn?”

Mà cuộc sống này nhiều khi cũng giống hệt như thế, nó gọi với theo ta luôn: “Tôi có cái mà anh chị cần! Tôi có cái mà anh chị muốn đây!” Và khi nghe những lời mời gọi ấy, ta lại chuyển dịch ra thành: “Tôi cần. Tôi đang cần một cái gì đó. Tôi đang thiếu thốn và tôi đang bị thua kém.” Nó cũng giống như là chúng ta đột nhiên bị biến thành một nhân vật hoạt hình, với đôi mắt lúc nào cũng vọt ra ngoài như có lò xo. “Nó ở đâu? Nó ở đâu nào? Cái mà tôi cần đang ở đâu?” Hai tay ta với ra trước. Những ngón tay thật dẻo, cố gắng nắm bắt, bám giữ hết đối tượng này đến đối tượng khác. Đôi mắt ta lúc nào cũng nhìn đăm đăm, dán chặt về phía có đối tượng mà mình ham muốn, như sợ lạc mất bóng dáng của nó. Thân ta nghiêng tới trước chờ đợi. Thật là một tình cảnh rối ren.

Và dù vậy, chúng ta vẫn cứ bị lôi cuốn chạy theo những sự mời gọi này. Chúng ta có thể cảm nhận được sự đeo đuổi không ngừng của ta theo những tiếng gọi bên ngoài ấy, qua sự căng thẳng trong thân tâm mình. “Tôi có cái mà bạn cần!” chúng nói với ta. “Bạn không có cái bạn cần đâu, tôi mới có cái mà bạn cần đây!” Nhưng cái mà ta cần đó là cái gì mới được chứ?

Có phải tất cả mọi người trong chúng ta, ai cũng muốn có hạnh phúc. Chúng ta ai cũng muốn được thảnh thơi, an vui trong cuộc đời. Chúng ta muốn cảm thấy mình là một phần của một cái gì to tát hơn là cái tôi giới hạn và nhỏ bé này. Chúng ta cần một cảm giác sung túc trong nội tâm để ta có thể đi san sẻ với những người khác. Chúng ta cần một ý thức trọn vẹn về sự liên hệ giữa ta với những sự sống khác, để ta biết thương yêu hết tất cả mọi người. Nhưng trong khi ta bận rộn đeo đuổi, chạy theo bên ngoài để tìm kiếm một sự thỏa mãn, ta vô tình bỏ quên nơi mà niềm hạnh phúc sâu sắc nhất của mình đang thật sự có mặt. Người Tây Tạng thường nói, “Nằm dưới căn nhà của một anh nhà nghèo là một kho châu báu vô tận. Nhưng anh ta không hề biết đến, mà kho tàng ấy cũng không bao giờ nói, ‘Tôi ở đây này.’ Cũng tương tự như thế, kho tàng châu báu của chân tâm ta, nó trong sáng vô cùng, nhưng đang bị vùi lấp và ta phải chịu sự bần cùng nghèo khó.”

Những tiếng réo gọi bên ngoài lôi ta đi mỗi ngày một xa, quên rằng ta đã thật sự có đủ hết những gì mình cần. Qua sự thực tập thiền quán, ta sẽ khám phá lại được kho tàng châu báu trong tâm mình. Ta sẽ học cách buông bỏ những tiếng réo gọi tới tấp bên tai, nhắc nhở những thiếu thốn của ta. Ta sẽ không còn bị mắc lừa, cố chạy theo nắm bắt những gì mà mình không bao giờ cần đến.

Nhờ thực tập thiền quán, ta sẽ nhận thấy mình có khả năng buông xuống cái gánh nặng mà mình đã mang vác bấy lâu nay. Nhà thơ Rumi có nói: “Chúng ta còn cố làm đầy túi mình, như những đứa trẻ con với cát và đá, cho đến bao lâu nữa? Hãy buông thả cuộc sống này. Nắm giữ nó, ta sẽ không bao giờ hiểu được chính mình, ta sẽ không bao giờ bay cao được.” Thực tập thiền quán chính là thực tập buông bỏ. Chúng ta buông bỏ sự dính mắc của mình đối với một số đối tượng hoặc kinh nghiệm nào đó, buông bỏ cái tin lầm vào những tiếng réo gọi chung quanh. Và chúng ta buông bỏ những kiến thức giới hạn của mình về hạnh phúc, về những gì ta thật sự cần, về ta là ai. Khi khám phá được tự tính chân thật của mình, ta sẽ cất cánh bay cao. Ta có thể sống tự tại.

ĐỌC THỬ

Sống dậy

Không lâu trước đây, một người bạn của tôi, bình thường rất khỏe mạnh, đột nhiên bị sưng phổi rất nặng, và lần đó anh gần như không qua khỏi. Một thời gian sau khi anh khỏi bệnh, tôi về nhà nghe tiếng anh nhắn lại trong máy trả lời điện thoại của tôi. Khi tôi vừa mới định gọi lại anh thì điện thoại reo. Người gọi là một người bạn quen biết với cả hai chúng tôi. Khi tôi bảo là tôi cần cúp máy để gọi lại anh bạn, thì chị nói: “Chị có biết suýt nữa là anh ta chết rồi không?” Tôi đáp rằng tôi biết, rồi chào chị để gọi lại cho anh bạn. Khi tôi vừa gác máy thì điện thoại lại reo. Lần này cũng lại là một người bạn quen khác, quen biết cả hai chúng tôi. Và khi nghe nói tôi cần cúp máy để gọi cho anh bạn, chị ta cũng nói: “À, chị có biết là anh ta vừa suýt chết không?”

Cuối cùng khi tôi gọi được cho anh bạn, tôi bảo anh: “Tôi nghĩ là bây giờ tôi có thể chính thức gọi anh là ‘người gần chết.'” Anh bạn trả lời, “À, cũng được. Như vậy còn đỡ hơn bị gọi là ‘người gần sống.'”

“Anh nói vậy có nghĩa là sao?” Tôi hỏi.

Anh bạn đáp, “Tôi muốn nói nghĩa là chúng ta có thể bỏ trọn cuộc đời của mình ra để chỉ mà gần sống thôi, chứ chưa thật sự là sống.”

Mà sự thật nhiều khi là vậy! Chúng ta sống phần lớn cuộc đời như thể mình đã chết rồi vậy. Khi ta không có ý thức và bị cắt lìa với thực tại, thì một sự sống mầu nhiệm đầy sinh động, với tất cả những nỗi vui buồn, sẽ chìm sâu vào sự chết, cho dù là ta đang sống. Sự sống sẽ trở thành một “cuộc đời gần như thật.” Đức Phật có nói, “Những ai sống trong thất niệm thì cũng giống như kẻ đã chết rồi vậy.” Và có một số người trong chúng ta, vì cảm thấy rằng mình chỉ “gần sống” thôi và muốn được hoàn toàn tỉnh thức, đã tìm đến với con đường tu tập thiền quán. Muốn thật sự biết được mình, muốn thật sự sống, ta cần phải biết nuôi dưỡng năng lực chánh niệm – tức một ý thức sáng tỏ.

Chánh niệm khơi dậy trong ta một năng lượng mãnh liệt và thiết yếu. Trong tiếng Pali, ngôn ngữ của kinh điển Phật giáo nguyên thủy, danh từ dùng để diễn đạt tính chất này là tejos. Chữ ấy có nhiều nghĩa. Nó có thể có nghĩa là lửa, sức nóng hoặc là ánh sáng. Và nó cũng có thể chuyên chở một hình ảnh hào quang tỏa chiếu, sáng ngời và huy hoàng. Tejos nói về một năng lượng sáng chói, một sức mạnh, một năng lượng tỏa sáng.

Khi thực tập thiền quán, chúng ta mời gọi cái năng lượng tỏa chiếu, trong sáng và mãnh liệt này vào trong những sinh hoạt thường ngày của mình. Chúng ta thực tập thiền quán để mình có ý thức, có chánh niệm, cho dù ta đang làm bất cứ một công việc gì. Chánh niệm ta càng sâu sắc bao nhiêu, nó càng tỏa sáng bấy nhiêu. Thực tập thiền quán giúp ta thật sự tiếp xúc với cuộc đời, để rồi một ngày nào đó khi đối diện với cái chết của mình, ta sẽ không phải tiếc nuối như một “người gần sống.”

Tình thương của đức Phật

Lần đầu tiên tôi tham dự khóa tu thiền quán là tại Bodh-gaya, một ngôi làng ở Ấn Độ, gần cội Bồ đề nơi đức Phật thành đạo. Lúc ấy tôi mới được 18 tuổi. Trong lòng rất buồn chán và bối rối, tôi sang Ấn Độ với mục đích để tìm học thiền. Tôi đang còn nhiều ràng buộc bởi những điều kiện của tuổi thơ và nền văn hóa của mình – như là tự ti và phán xét, lúc nào cũng muốn mình được như người khác. Tôi nghĩ, trong thời gian ấy tôi cũng đã thầm hy vọng là mình sẽ được trở thành một con người hoàn toàn đổi mới sau khi tập thiền.

Vì tôi là một người Tây phương trẻ tuổi nhất ở đó, nên có rất nhiều người tò mò: “Tại sao cô lại thích đi tu thiền?” Khi nghe câu hỏi ấy, trong đầu tôi chợt nghĩ đến hình ảnh của một tượng Phật trong một ngôi chùa lớn gần cội Bồ đề, và tôi đáp, “Tôi tập thiền vì muốn có được tình thương rộng lớn của đức Phật, để tôi có thể thương yêu hết tất cả mọi người như ngài.” Tôi đã thật sự giật mình khi nghe mình trả lời như thế. Nhưng tôi biết, câu trả lời ấy phát xuất từ một nơi rất sâu thẳm trong tôi.

Khi tôi muốn có được một tình thương rộng lớn như đức Phật, thật ra là tôi đang tìm một khả năng tự yêu mình, trước hết, mà tôi nghĩ đức Phật chắc chắn phải có – với một cái nhìn sáng tỏ mà lòng từ bi vẫn không hề suy giảm. Thật ra, chính giáo pháp của đức Phật là một biểu hiện của tình thương ấy, một sự tỏa chiếu của lòng từ bi vô lượng. Không cần buông bỏ tuệ giác, mà vẫn không có một chúng sinh nào và không một trạng huống nào lại bị bỏ ra ngoài tình thương rộng lớn ấy. Nó bao trùm trọn vẹn hết tất cả.

Khi bước vào con đường thiền quán, tôi đã nhiều lần khám phá là tôi không thể nào thực tập chân chính được khi mình vẫn còn bị lòng tự ti, mặc cảm ghét bỏ, hoặc là nắm bắt, chạy theo một “cái Tôi” ảo tưởng nào đó thúc đẩy. Tu tập dựa trên những yếu tố đó là tự biến nội tâm mình thành một bãi chiến trường, một cuộc thánh chiến cho một lý tưởng toàn thiện, mà trong đó mảy may không có một sự thương xót nào hết. Tôi chỉ có thể thật sự thực tập khi tôi tiếp xúc được với cái ước muốn ban đầu – để yêu mình và yêu người trọn vẹn hơn. Việc nhớ được điều này mang lại trong tôi một niềm êm ái và một không gian rộng lớn.

Trong tu tập, nếu ta vẫn còn một thái độ phán xét, nó sẽ dẫn ta đến sự trốn tránh và chối bỏ. Vì đôi khi, sự phê phán về những gì phát khởi lên trong tâm sẽ gây nên một cơn đau quá lớn mà ta không kham nổi. Có lần, một người bạn của tôi tham dự một khóa tu thiền ba tháng tổ chức hằng năm tại trung tâm Insight Meditation Society ở Barre, Massachusetts. Năm ấy, một vị thầy mà chúng tôi rất thương và kính là bà Dipa Ma, có ghé qua thăm. Người bạn này, trong thời gian ấy đã gặp nhiều khó khăn trong sự thực tập của anh, liên tiếp nhiều ngày. Và sau cùng, anh quyết định rời khóa tu, tìm vào một quán trọ gần đó, để xem một trận đá bóng đang chiếu trên ti vi.

Khi anh trở lại – mà tôi biết chắc anh cũng chẳng an lạc gì hơn hồi trước khi anh bỏ đi – anh đột nhiên cảm thấy một mặc cảm tội lỗi ghê gớm và tự trách mình nặng nề. Anh ta cũng sợ, vì không biết phải giải thích sao với bà Dipa Ma về hành động của mình. Ngày qua ngày, anh sống với nỗi thống khổ đó. “Làm sao mà mình có thể kể cho bà ta nghe chuyện mình làm được? Điều đó ngu ngốc quá đi, yếu đuối quá đi! Bà ta thế nào cũng sẽ trách móc và khinh thường mình, và rồi bà biết là mình cũng chẳng phải là một thiền sinh giỏi giang gì! Làm sao mà mình có thể kể cho bà nghe được?” Nhưng sau cùng rồi anh đã thu hết can đảm và đi đến phòng bà. Anh ngồi xuống và thú nhận hết tội. Bà Dipa Ma nhìn anh. Bà cúi xuống nắm tay anh, và nói, “Không sao cả. Bây giờ thì mình có thể bắt đầu lại.”

Đó chính là tình thương của Phật. Bạn hãy thử dừng lại và tưởng tượng đến cái trạng thái tâm thức ấy đi, một tâm hiền dịu và rộng lớn đủ để nhìn sự việc không phê phán, mà vẫn thấy được mọi sự như chúng là. Trong cái tâm thức ấy, ta không có một sự ghét bỏ nào, cho dù chúng có là hành động, lời nói, ý nghĩ, ham muốn hay nỗi sợ hãi của chính ta. Khi ta quán chiếu thế giới nội tâm của mình bằng con mắt từ bi của Phật, ta sẽ không hề cảm thấy tự ti, tội lỗi, hay sợ hãi nào hết. Sự buông bỏ hết những chướng ngại cho cái nhìn sáng tỏ này sẽ đem lại cho ta một sức mạnh của lòng can đảm và thành thật, khi ta quay lại quán chiếu chính mình. Và hiểu biết ấy sẽ dẫn đến tình thương, thay vì mặc cảm ghét bỏ. Từ đó chúng ta có thể chuyển hóa đời sống của mình, hướng về một nơi tự do và hạnh phúc.

Cũng thế, khi nhìn người khác, ta sẽ không còn cảm thấy xa cách hoặc thù ghét; chúng ta có thể nhìn với sự hiểu biết và bằng một tình thương rộng lớn. Điều ấy không có nghĩa là ta sẽ trở nên thụ động, dửng dưng trước những tình trạng bất công và khổ đau của cuộc đời, nhưng ta sẽ không để cái năng lượng của sự phán xét sai sử mình nữa. Bằng sự tu tập thiền quán, ta sẽ có thể phát triển khả năng tự thương mình trọn vẹn hơn và yêu người chung quanh chín chắn hơn, tán dương tình thương của một đức Phật mà cũng chính là tiềm năng nhiệm mầu của chính ta.

Chuyển hóa khổ đau

Thầy của tôi, bà Dipa Ma, đã phải nhận chịu những khổ đau rất lớn trong cuộc đời, và chính chúng là lý do đã đưa bà vào con đường thiền tập. Nhờ hết lòng tu tập, bà đã chuyển hóa những khổ đau cá nhân trở thành tình thương đối với mọi loài. Cuộc đời của bà giúp tôi hiểu rằng, khổ đau có thể giúp ta tiếp xúc được với những sự thật mà ta có thể sẽ không bao giờ biết đến. Cũng như nhờ trải qua những đớn đau ta mới khám phá được sự có mặt của niềm tin và tình thương ngay giữa những khốn khó. Bà Dipa Ma cũng đã chỉ cho tôi thấy, khổ đau có thể giúp ta ý thức được mối liên kết thân thiết giữa ta và người khác.

Theo phong tục của Ấn Độ, Dipa Ma được hứa hôn khi bà vừa mới 12 tuổi. Lúc 14 tuổi bà rời gia đình, theo chồng về Rangoon (Miến Điện). Nơi đây chồng bà làm trong một ngành dân sự giúp việc cho chánh quyền Miến Điện. Là một người vợ trẻ tại xứ lạ quê người, xa nhà, xa quê hương, bà vô cùng cô đơn và cứ khóc cả ngày đêm. Chồng bà rất hiền lành, theo thời gian hai người trở nên gần gũi và rồi thật sự yêu nhau. Nhưng rồi hạnh phúc của hai người bị một thử thách lớn khi bà thấy rằng mình không thể có con. Gia đình bên chồng khuyên ông ta nên lấy thêm một người vợ lẽ. Nhiều năm trôi qua, bà Dipa Ma vẫn không có được một đứa con, bà cảm thấy xấu hổ và buồn tủi vô cùng.

Cuối cùng, sau 20 năm trời chờ đợi, đứa con gái đầu lòng của hai vợ chồng chào đời. Nhưng niềm vui ấy không kéo dài được bao lâu, đứa bé mất khi mới vừa được ba tháng. Bốn năm sau, bà sinh thêm một cháu gái thứ hai. Năm kế tiếp, bà lại có mang, nhưng đứa con trai, bà không hề thấy mặt, chết trong lúc sanh nở. Ngày tháng khóc thương những đứa con khiến sức khoẻ bà Dipa Ma trở nên suy sụp.

Vừa khi bà mới lấy lại được chút an ổn, bà lại khám phá ra là mình đang bị một chứng bệnh tim rất nặng, bà có thể chết bất cứ lúc nào. Trong khi sức khỏe của bà rất mỏng manh với một cái chết có thể xảy ra bất kỳ, chồng bà, một người thường ngày rất khỏe mạnh, một hôm từ sở về nhà, cảm thấy khó chịu và lên cơn sốt. Và thật không ai ngờ được, ông ta qua đời chiều hôm ấy.

Tâm thần của bà Dipa Ma từ đó hoàn toàn tan nát. Bà cảm thấy như mình đang chết lần mòn vì những khổ đau cứ tiếp đến dồn dập. Bà không ngủ được, mà cũng không có đủ sức bước ra khỏi giường. Bà không thể làm gì nhưng biết rằng mình vẫn còn một đứa con nhỏ cần nuôi nấng. Một hôm, vị bác sĩ hiểu rõ nỗi khổ đau cùng cực của bà, khuyên “Bà sẽ chết chứ không còn sức để sống đâu, trừ khi bà làm một việc gì để chuyển đổi tinh thần của mình. Bà nên học thiền đi.”

Bà Dipa Ma lắng nghe lời khuyên của vị bác sĩ, bà suy ngẫm thật kỹ lời ông nói. Bà kể, giây phút đó bà bắt đầu tự hỏi, “Khi chết tôi sẽ đem theo mình được những gì đây?” Suy nghĩ thật lâu, bà nói tiếp, “Tôi nhìn chung quanh tôi. Tôi nhìn lại những của hồi môn của mình – những bộ áo sarisđắt tiền, những vòng vàng, châu báu – tôi biết tôi không đem theo mình về cõi chết được. Tôi nhìn đứa con gái tôi, tôi biết mình cũng sẽ không thể đem nó theo. Vậy thì tôi sẽ đem theo được gì đây? Tôi tự nhủ, ‘Thôi, mình cần đi đến những thiền viện. May chăng, mình có thể tìm được ở nơi ấy những gì mình có thể mang theo khi mình chết.’ ”

Thời gian ấy, bà Dipa Ma vẫn còn đang ở Miến Điện. Bà tìm được một tu viện nơi bà có thể đến học thiền. Nhưng khi bà đến nơi, sức khỏe bà sút kém đến nỗi bà phải bò lên những bậc thang tu viện để đi vào thiền đường. Dù vậy, nỗi khổ đang mang trong lòng đã là một năng lượng thúc đẩy bà tinh tấn thực tập. Trong khi hành thiền, bà quán chiếu nỗi khổ của mình một cách sâu sắc, và cuối cùng bà tìm được cho chính mình một tình thương rộng lớn, và còn cho cả mọi người và mọi loài nữa. Tình thương của bà là một biểu hiện của một vết thương được chữa lành. Trải qua những khốn khó cùng cực, bà Dipa Ma đã khám phá ra được tính chất mong manh của cuộc sống, và sự thật là không ai có thể tránh khỏi được những mất mát và đớn đau. Và sự tu tập đã đem lại cho bà một niềm an lạc.

Bà Dipa Ma đã trở thành một vị thầy đáng kính và uyên thâm mà tôi có duyên may được theo học tại Ấn Độ. Khi Dipa Ma khuyên tôi nên trở về Hoa Kỳ để đi dạy thiền, tôi hoài nghi lời bà nói. Tôi không hề cảm thấy mình hội đủ điều kiện để đi hướng dẫn thiền tập. Nhưng bà quả quyết với tôi, “Cô thật sự hiểu nhiều về khổ đau, vì vậy cô nên đi dạy.”


Giang Vi

Tôi là một người yêu sách cuồng nhiệt và đã hơn 20 năm. Tôi dành cả ngày để đọc, viết blog về sách và viết bình luận. Tôi tin rằng sách là công cụ mạnh mẽ nhất trong cuộc sống để mở mang đầu óc cho những ý tưởng và quan điểm mới. Các thể loại yêu thích của tôi bao gồm tiểu thuyết lịch sử, giả tưởng, khoa học viễn tưởng và phi hư cấu. Tôi cũng thích tìm hiểu về các nền văn hóa khác nhau thông qua văn học.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts:

Back to top button