Chuyên ngành

Câu Chuyện Do Thái

1. THÔNG TIN SÁCH/EBOOK

Tác giả : Đặng Hoàng Xa

Download sách Câu Chuyện Do Thái ebook PDF/PRC/MOBI/EPUB. Tải miễn phí, đọc online trên điện thoại, máy tính, máy tính bảng.

Danh mục : Chuyên Ngành

Đọc thử Xem giá bán

2. DOWNLOAD

Download ebook                      

File ebook hiện chưa có hoặc gặp vấn đề bản quyền, Downloadsach sẽ cập nhật link tải ngay khi tìm kiếm được trên Internet.

Bạn có thể Đọc thử hoặc Xem giá bán.


Bạn không tải được sách ?  Xem hướng dẫn nhé : Hướng dẫn tải sách


3. GIỚI THIỆU / REVIEW SÁCH

LỜI NÓI ĐẦU

▪ Quốc gia chính thức hiện nay của người Do Thái là Israel, thủ đô là Jerusalem.

▪ Thời điểm thành lập Nhà nước Israel hiện đại: ngày 14 tháng Năm năm 1948.

▪ Biểu tượng Do Thái giáo và Nhà nước Israel: ngôi sao sáu cánh (ngôi sao David).

▪ Dân số Israel ngày nay: 8.180.000 (thống kê năm 2014).

Bản đồ Israel hiện đại

Israel đứng ở ngã ba của châu Âu, châu Á và châu Phi. Về mặt địa lý, Israel thuộc về châu Á. Lãnh thổ Israel nằm ở rìa phía Đông của Biển Địa Trung Hải thuộc bán đảo Ả Rập ngay giữa trung tâm của vùng Trung Đông(1). Vị trí địa lý của Israel là một nghịch cảnh: một đất nước nhỏ mang tín ngưỡng Do Thái giáo, vây quanh là các láng giềng Ả Rập Hồi giáo đầy thù hận. Chính sự khác biệt và thù nghịch mang nặng màu sắc tôn giáo của các nước Ả Rập Hồi giáo láng giềng đối với Israel là một trong những lý do chính châm ngòi cho những bất ổn chính trị cho cả khu vực Trung Đông cả trăm năm nay.

Tại sao Israel ngày nay lại là một điểm “nóng” tại Trung Đông và là tâm điểm chú ý của toàn thế giới, cả về những xung đột đầy bạo lực cũng như những thành tựu về kinh tế, văn hóa và con người đến ngạc nhiên như thế?

Một vài học giả phương Tây nhận định rằng một phần ba nền văn minh phương Tây mang dấu ấn của tổ tiên Do Thái. Chúng ta có thể cảm nhận sức nặng của nhận định này từ những tên gọi như Abraham Lincolh(2) – tên của tổng thống thứ 16 của nước Mỹ, cho đến bức tượng nổi tiếng David(3) của điêu khắc gia người Ý Michaelangelo; từ tên tuổi các tư tưởng gia đã làm thay đổi tư duy của thế giới như Albert Einstein, Sigmund Freud; các chính trị gia lỗi lạc Henry Kissinger, Thủ tướng Áo Bruno Kreisky, Thủ tướng Pháp Pierre Mendès…; các văn sĩ nổi tiếng Franz Kafa, Isasc Asimov, Shai Agnon…; các nhạc sĩ cổ điển Isaac Stern, Yascha Heifetz, Arthur Rubinstain… Cho đến năm 2011 giải Nobel đã được trao cho trên 800 nhân vật và các tổ chức xã hội thì trong đó xấp xỉ trên 180 người là người gốc Do Thái, tức là chiếm 22% số nhân vật được coi là những trí tuệ hàng đầu của nhân loại. Ở nước Mỹ hiện nay có 1/3 triệu phú và 20% giáo sư các trường đại học hàng đầu thế giới là người Do Thái.

Những tên tuổi và những con số rất ấn tượng này phần nào đã nói lên tầm ảnh hưởng của trí tuệ Do Thái đối với văn minh phương Tây. Song trên thực tế ảnh hưởng thực sự của trí tuệ Do Thái cổ đối với văn minh phương Tây lại nằm ở một phạm vi sâu rộng hơn rất nhiều, đặc biệt trong việc văn minh phương Tây tiếp nhận quan điểm của người Do Thái trong cách kiến giải những vấn đề sâu sắc của đời sống, đặt nền móng cho việc xây dựng một cơ cấu xã hội ổn định và hiệu quả. Ngay những văn kiện sáng lập của nước Mỹ, trong đó có Tuyên ngôn Độc lập, Hiến pháp và Tuyên ngôn Nhân quyền, đều dựa trên những nguyên tắc đạo đức của Kinh Torah. Hệ thống pháp luật của các tiểu bang, liên bang và các địa phương ở Mỹ cũng đều có nguồn gốc từ Kinh Torah.

Văn minh Do Thái không để lại những kiến trúc nổi tiếng như những kim tự tháp, điện Pantheon hoặc Vạn Lý Trường Thành, nhưng nó lưu lại mãi mãi một di sản phi vật thể vô giá mà ít có nền văn minh nào có thể sánh được về tầm ảnh hưởng lâu dài, sâu sắc đối với văn minh toàn nhân loại.

Với những ảnh hưởng sâu sắc như thế, chúng ta dễ mường tượng rằng đất nước, con người, và lịch sử Do Thái phải vô cùng ấn tượng và kỳ vĩ. Thực tế lại hoàn toàn trái ngược. Theo thời gian, người Do Thái là những kẻ đến muộn trên sân khấu lịch sử. Mảnh đất Canaan(4) cổ nhỏ bé là nơi định cư cuối cùng của người Do Thái khi quốc gia Israel được Liêp Hợp Quốc chấp nhận thành lập vào năm 1948 với diện tích ước chừng 15.000 km2. Còn lịch sử của dân tộc Do Thái, nhìn từ bên ngoài, có thể nói là rất khiêm nhường, cũng giống như lịch sử của muôn vàn những dân tộc nhược tiểu khác.

Vậy thì chìa khóa của những thành tựu của người Do Thái nằm ở đâu nếu không phải là nằm ở nơi những cổ vật quí giá hay ở kích thước địa lý của đất nước và lịch sử. Lần theo câu hỏi này chúng ta phát hiện ra rằng cái đã nâng người Do Thái từ tăm tối lên tới vĩ đại chính là sự khao khát của họ trong việc truy cầu những ý nghĩa lớn lao của cuộc sống. Trong các chương sau chúng ta sẽ cùng nhau ôn lại lịch sử lập quốc và sự hình thành của Do Thái giáo để tìm xem những ý nghĩa đó là gì.

Khác với các tôn giáo khác, điểm đặc biệt trong lịch sử hình thành Do Thái giáo là tôn giáo này gắn liền với lịch sử lập quốc đầy chông gai của dân tộc Do Thái. Không những vậy, đó còn là một lịch sử lập quốc chịu nhiều cay đắng. Năm lần bảy lượt bị nô lệ, quốc gia bị diệt vong, dân chúng bị xua đuổi lang thang kiếm sống khắp thế giới, vậy mà người dân Do Thái vẫn giữ được bản sắc dân tộc và bảo tồn được tôn giáo của mình cho đến tận ngày nay. Trong khi đó, những nền văn minh cổ đại láng giềng xung quanh Israel như nền văn minh Ai Cập cổ đại, dân tộc đã xây dựng nên những kim tự tháp vĩ đại; Người Hy Lạp khởi đầu cho nền văn minh dân chủ, đã sản sinh cho thế giới những Plato(5), Aristotle(6) danh tiếng; Người La Mã với thời kỳ cổ đại hoàng kim, tất cả nay đã không còn. Những quốc gia văn minh cổ đại đó trong quá khứ đã từng xâm lăng giày xéo lên mảnh đất thiêng liêng của người Do Thái, cho đến nay tất cả chỉ còn lại là những dấu tích đổ nát và mãi mãi chỉ còn trong ký ức. Riêng dân tộc Do Thái, trải qua biết bao nhiêu chìm nổi, vẫn còn cho đến ngày nay, hiên ngang và kiêu hãnh.

Hãy đọc những câu thơ trong một bài thánh vịnh của vua David cách đây ba ngàn năm:

Thiên Chúa là mục tử tôi, tôi không mong muốn gì hơn,

Thiên Chúa đặt tôi nằm nghỉ trên đồng cỏ xanh

Thiên Chúa dẫn tôi đi bên mặt nước yên tĩnh

Thiên Chúa khôi phục linh hồn tôi

Thiên Chúa dẫn tôi đi trên đường công chính vì danh Ngài

Dù có bước qua thung lũng bóng tối của sự chết

tôi cũng không sợ cái ác vì Thiên Chúa đang ở với tôi…

Những lời thơ ấy được cất lên trong suốt hành trình gian nan của người dân Do Thái, trong nhà riêng, nơi thánh đường, trên đồng cỏ, trong những đêm thâu vắng lặng hay giữa tiếng reo hò của lễ hội, trong các trại tập trung u ám đầy chết chóc. Hồn thơ ấy là nơi trông cậy, là niềm hy vọng và sức mạnh tâm linh của một dân tộc lưu lạc.

Chúng ta hãy cùng nhau quay lại cuốn phim lịch sử, lần bước theo hành trình kinh ngạc của dân tộc đáng ngưỡng mộ này.

Đặng Hoàng Xa

2014

ĐỌC THỬ

CHƯƠNG I
BẢN SẮC DO THÁI

“Tại Israel, để là một người thực tế, bạn phải tin vào phép lạ.” – David Ben-Gurion (Thủ tướng đầu tiên của Nhà nước Israel hiện đại)

Từ khi Nhà nước Israel tuyên bố độc lập vào năm 1948, những đánh giá lịch sử về Israel thường chỉ đặt trọng tâm xoay quanh của các cuộc chiến nẩy lửa, các xung đột Ả Rập- Israel không bao giờ hết và các cuộc đàm phán ngoại giao bế tắc. Trọng tâm đó rất gây hiểu lầm. Israel đã trải qua nhiều cuộc chiến; Israel cũng luôn là mục tiêu của các cuộc tấn công khủng bố nhiều hơn bất kỳ một quốc gia nào khác; cũng là một thành viên tích cực trong nỗ lực kiến tạo hòa bình của Trung Đông trong nhiều thập niên. Tuy nhiên, các xung đột và thương lượng, mặc dù thường xuất hiện với tần suất rất cao trên các tiêu đề truyền thông hàng ngày, chỉ là một phần nhỏ của câu chuyện. Cuốn sách này “Câu chuyện Do Thái: Lịch sử thăng trầm của một dân tộc” cho chúng ta nhìn thấy một bức tranh quan trọng hơn và bao quát hơn: thực tế của đất nước này và con người của nó là gì?

Câu trả lời là Israel hiện đại đã và đang xây dựng một hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa với một ý thức rõ ràng – mặc dù không hoàn hảo và chưa trọn vẹn. Đó là một quốc gia bình thường như mọi quốc gia khác, độc đáo, đặc sắc, và mang nhiều màu sắc khác lạ.

Tuy rằng Israel hiện đại khởi nguồn từ một trong những nền móng xã hội và văn hóa lâu đời nhất trên trái đất, di sản cổ xưa của nó đã không giúp cho công cuộc xây dựng quốc gia Israel hiện đại dễ dàng hơn. Ngược lại, tôn giáo và chủ nghĩa duy vật, ngôn ngữ đa dạng, dân chúng với nhiều trình độ phát triển kinh tế, kinh nghiệm lịch sử khác nhau, trong số các yếu tố khác, đã khiến cho công cuộc xây dựng quốc gia của Israel đặc biệt phức tạp và đầy thử thách. Một mảnh đất nhỏ bé và khô cằn, tài nguyên thiên nhiên ít ỏi, bao quanh bởi các nước láng giềng thù địch, cùng với những câu chuyện thành công ngoạn mục đã làm cho Israel trở nên một đất nước như huyền thoại.

BẢN SẮC DO THÁI

VÀ ĐỊNH NGHĨA ISRAEL HIỆN ĐẠI

Ý tưởng cho rằng người Do Thái là “chỉ là” một nhóm tôn giáo là một khái niệm bắt đầu với cuộc Cách mạng Pháp năm 1789, nhưng đã không gây ảnh hưởng ở Tây Âu cho đến giữa thế kỷ 19. Khái niệm này hoàn toàn không đứng vững trong các cộng đồng người Do Thái ở Đông Âu hay Trung Đông. Ở Tây Âu, những người có cảm tình với người Do Thái và những người Do Thái muốn mình hòa đồng với nền văn hóa của đa số, đã tìm cách mô tả người Do Thái như những công dân bình thường về mọi mặt ngoại trừ trong khu vực cá nhân hạn hẹp của tôn giáo. Không tự coi mình là một dân tộc đặc biệt với một nền văn hóa, ngôn ngữ, và bản sắc riêng biệt là một cách làm của người Do Thái trong cố gắng đạt tới bình đẳng và loại bỏ chủ nghĩa bài xích Do Thái. Nhưng cách tiếp cận này đã không phản ánh được thực tế lịch sử và mâu thuẫn với chính hình ảnh bản thân của họ.

Trong Thời Kỳ Thánh Kinh [3000 TCN – 538 TCN],(1) và cho đến thời điểm quốc gia Israel cổ đại bị người La Mã hủy diệt vào năm 70 CN, người Do Thái đã sinh hoạt như một quốc gia, được cho là đầu tiên trong lịch sử. Sau đó, suốt trong hơn 19 thế kỷ, người Do Thái lưu vong (gọi là Do Thái Diaspora), trên những vùng đất mà họ cư ngụ, đã hình thành nên một dân tộc tách biệt với những tổ chức quản lý phi-nhà nước theo cung cách riêng của mình, với ngôn ngữ duy nhất, phong tục độc đáo, những ý tưởng khác lạ, và một nền văn hóa rất khác biệt, chưa kể đến những thứ như trang phục quần áo và nghệ thuật. Những từ như “Hebrew” và “Israeli”, sử dụng phổ biến hơn từ “Jews” – ngay trong thời hiện đại – đã phản ánh rằng bản sắc dân tộc và con người Israel, đã tự mở rộng vượt ra ngoài phạm vi của tôn giáo.

Tôn giáo, như thế, chỉ là một dấu hiệu trong bản sắc người Do Thái, giống như một quốc gia trong tự nhiên. Không có mâu thuẫn nào giữa bản sắc tôn giáo và bản sắc dân tộc. Trong thế giới cổ đại và cũng ở ngay thời hiện đại, ở nhiều nơi, một tôn giáo khác biệt là một trong những điểm nổi bật chính của nhà nước quốc gia. Điều này đặc biệt đúng tại khu vực Trung Đông thời hiện đại, nơi mà Israel là một điển hình.

Trong suốt lịch sử, hành động đầu tiên đánh dấu rằng người Do Thái có một bản sắc dân tộc đặc biệt mạnh mẽ chính là việc họ đã từ chối các vị thần và các phong tục tôn giáo của ngay cả những dân tộc đã từng thống trị họ như người La Mã và sau đó người Kitô giáo và Hồi giáo. Trong nhiều trường hợp khác, có những dân tộc chấp nhận tôn giáo, ngôn ngữ, và bản sắc của những người cai trị hoặc hàng xóm để rồi cuối cùng biến mất khỏi lịch sử. Điều đó cho thấy rằng một bản năng yếu kém không có chỗ tồn tại trong thế giới của quyền lực. Cái bản sắc tôn giáo-dân tộc kéo dài của người Do Thái đã tỏ ra mạnh hơn so với hầu như bất kỳ một dân tộc nào khác trên trái đất.

Khả năng sinh tồn này đã được định hình không phải chỉ do đặc tính “bướng bỉnh” và “bất chấp” của người Do Thái, cũng không phải do những o ép đối với họ bằng vũ lực. Thay vào đó, người Do Thái đã hành động giống như một quốc gia hiện đại, dù rằng đã mất quyền kiểm soát hoặc hiện diện trong những vùng lãnh thổ đặc biệt. Thật vậy, việc ngăn cấm tôn giáo đối với người Do Thái bằng cách pha loãng tập tục của họ hay tích hợp từ tập tục của những dân tộc khác trong thời cổ đại đã dẫn đến cuộc nổi dậy thành công của người Do Thái vào năm 166 TCN chống lại người Syria dòng Seleucid để lập nên vương quốc Hasmoneans độc lập; và ngược lại là cuộc khởi nghĩa thất bại chống lại người La Mã và dẫn đến sự hủy diệt của Jerusalem vào năm 70, buộc người dân Do Thái sống cuộc đời lưu vong trong gần 2000 năm.

Sau khi dịch chuyển trung tâm sinh hoạt từ Vùng đất Israel đến các cộng đồng Do Thái Diaspora, rời xa khỏi quê hương lịch sử ở Trung Đông, người Do Thái vẫn tiếp tục cố gắng sinh hoạt như một quốc gia, mặc dù buộc phải chấp nhận những thiệt thòi của lối sống tách biệt, đó là sự phân biệt đối xử và thậm chí bách hại dưới bàn tay của các nước láng giềng. Qua nhiều thế kỷ, trong khuôn khổ lãnh đạo của các giáo sĩ Do Thái, người Do Thái vẫn duy trì một hình thức chính phủ cộng đồng của riêng mình, cùng với pháp luật, lịch, ngôn ngữ, các quan điểm triết học, có thể nhìn thấy trong các văn bản lớn của giáo hội và đặc biệt là qua đồ ăn, tập quán, và trang phục quần áo.

Đây không phải là một hoạt động mang tính cục bộ. Các cộng đồng cá nhân của người Do Thái, ngay khi cách xa nhau ngàn vạn cây số và sống trong những điều kiện rất khác biệt, vẫn duy trì kết nối trong suốt thời gian dài thời Trung cổ và tiếp tục trong thời kỳ hiện đại. Thật vậy, đó chính là lý do giải thích tại sao người Do Thái vẫn có thể thành công trong việc duy trì thương mại ở tầm xa, giữ được những tập quán khá đồng nhất, và một đối thoại trí tuệ thống nhất.

Tất cả người Do Thái, ngay cả những người nghèo và ít học nhất sống ở các thôn xóm cô lập nhất, vẫn ý thức được nguồn gốc của họ tại Vùng đất Israel trong Thánh Kinh; nhiều người vẫn duy trì quan hệ với cộng đồng rất nhỏ người Do Thái đang còn sống ở đó và luôn tin rằng số phận sẽ dẫn họ trở về khi Đấng Cứu Thế xuất hiện.

Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái (Zionism – Chủ nghĩa Zion) xuất hiện ở châu Âu vào cuối thế kỷ 19 đã cập nhật tất cả những ý tưởng hiện có trên tinh thần tự giác và chủ nghĩa dân tộc đương đại. Nó đề xuất câu trả lời cho “câu hỏi Do Thái”, rằng làm thế nào để người Do Thái, bao gồm cả những người có cuộc sống không bị bao bọc bởi giới luật tôn giáo, đáp ứng những thách thức và cơ hội của thế giới hiện đại? Câu trả lời là không phải sự đồng hóa, cũng không phải là sự tồn tại thuần túy tôn giáo có thể đáp ứng những thách thức của thế giới hiện đại, mà chính là sự tồn tại của quốc gia: đó là sự cần thiết tạo ra một nhà nước Do Thái ngay trên quê hương lịch sử. Các nhà Zionist cũng lập luận rằng việc thay thế sự kiên nhẫn của lòng tin bằng hành động của con người sẽ bảo tồn cuộc sống của chính những người Do Thái và sự thịnh vượng cho tôn giáo của họ.

Ở Đông Âu, nơi mà đại đa số người Do Thái châu Âu tập trung, trên thực tế một đời sống quốc gia của người Do Thái vẫn tồn tại trong suốt thế kỷ 19 và kéo dài sang thế kỷ 20 ở nhiều nơi. Hầu hết người Do Thái châu Âu nói tiếng Yiddish, một ngôn ngữ có nguồn gốc từ tiếng Do Thái và tiếng Đức. Họ cầu nguyện hàng ngày trong các hội đường, lấy Vùng đất Israel là trung tâm tôn giáo, và sinh hoạt như một cộng đồng hoàn toàn tách biệt với các láng giềng. Vụ giết người hàng loạt của Đức Quốc Xã, cùng với sự đồng hóa cưỡng chế ở một số quốc gia châu Âu và Liên Xô cũ, đã kết thúc lối sống này.

Một bức tranh gần như song song ở Trung Đông. Ở đây, người Do Thái sống gần như hoàn toàn cô lập trong cộng đồng của họ, tuân theo các lề luật tôn giáo riêng, có trang phục và nghề nghiệp khác biệt, và nói một ngôn ngữ đặc biệt đó là Arabic-Hebrew hoặc Spanish-Hebrew tương tự như tiếng Yiddish.

Với lịch sử như thế, nhận thức chung của nhiều người ngoài cuộc là người Do Thái luôn là người ngoài lề, không tự nguyện hội nhập hoàn toàn vào những cộng đồng đa số nơi họ sống. Đối với người Do Thái ở châu Âu Kitô giáo hoặc Trung Đông với đa số Hồi giáo, chưa bao giờ – hoặc chỉ rất gần đây – có bất kỳ lời đề nghị hội nhập hoàn toàn. Tuy nhiên, đại đa số người Do Thái không nhìn bản sắc khác biệt của họ với ý nghĩ tiêu cực mà vẫn coi mình đơn thuần là “hướng nội”. Nói cách khác, người Do Thái tự coi họ là một phần của cộng đồng Do Thái rất gắn kết của riêng mình, trong khi vẫn chia sẻ thế giới quan với các thành viên của các cộng đồng khác bất kể vị trí địa lý và hoàn cảnh kinh tế của họ.

Thật vậy, Israel hiện đại không phải là một tác phẩm tùy ý hoặc ngẫu nhiên – nó không chỉ đơn thuần là kết quả của những thảm họa, ví dụ như, Holocaust. Thay vào đó, nó là sự tiếp nối của một quá trình lịch sử lâu dài. Sự ra đời của Nhà nước Israel là không thể tránh khỏi và chỉ là một logic hợp lý cũng như bất kỳ nhà nước nào trên thế giới hiện nay, được tạo ra bởi một cộng đồng của những người có chung một thế giới quan, lịch sử, và ước muốn được chia sẻ số phận của mình.

Sự tồn tại của những cảm tình đối với Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái trong xã hội, tôn giáo và thế giới quan Do Thái có lẽ sẽ không đi tới đâu nếu không có một phong trào có tổ chức. Những nhà tư tưởng tiên phong giữa thế kỷ 19 – Moses Hess [1812-1875], Leon Pinsker [1821-1891], và những người khác – đã cung cấp cái nhìn thoáng qua về ý tưởng lãn mạn của một nhà nước Do Thái, nhưng Theodor Herzl [1860-1904] và Ben-Gurion [1886-1973] mới là những nhà cách mạng đã đưa ý tưởng phục quốc trở thành hiện thực vào những năm 1890 khởi đầu với khái niệm “Vùng đất Israel” (Land of Israel).

Cuộc di cư rải rác của những người dân Do Thái lưu vong về lại Vùng đất Israel và tham gia với cộng đồng tôn giáo truyền thống đã có ở đó dẫn đến sự ra đời của Yishuv. Đây là tên gọi cộng đồng người Do Thái ở Vùng đất Israel giữa những năm 1880 và 1948, khi Israel tuyên bố trở thành một nhà nước độc lập. Cộng đồng Do Thái Yishuv đóng vai trò quan trọng trong việc đặt nền móng cho một Nhà nước Israel đã được trù liệu. Trong khi truyền thống và lịch sử Do Thái là lớp nền móng đầu tiên trong việc định hình Nhà nước Israel hiện đại, Yishuv là lớp thứ hai.

Những thuộc tính văn hóa và cơ cấu kinh tế-chính trị được tạo ra trong thời kỳ Yishuv đã trở thành những thuộc tính cơ bản của nhà nước và xã hội Israel hiện đại sau này. Các đặc trưng tiền-nhà nước được biết đến nhất bao gồm: sự hồi sinh của ngôn ngữ Hebrew, sự thành lập các tổ chức tự vệ, việc thành lập một nền tảng kinh tế công nghiệp theo cấu trúc xã hội chủ nghĩa, sự phát triển của một hệ thống dịch vụ xã hội toàn diện, sự hòa hợp của một nền văn hóa nẩy sinh chủ yếu từ chất men trí thức của Đông Âu, việc lập ra các làng cộng đồng sáng tạo “Kibbutz” và các hợp tác xã “Moshav”, và việc xây dựng một khuôn khổ quốc gia căn bản là thế tục với các khía cạnh tôn giáo lớn. Nhiều yếu tố khác từ những năm Yishuv trong giai đoạn tiền-nhà nước vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến Israel rất lâu sau khi Nhà nước Israel được thành lập.

Hãy xem xét, ví dụ, vai trò của tôn giáo. Để nói rằng Israel là một nhà nước Do Thái không có nghĩa là chỉ đơn thuần là một bản tuyên bố về bản sắc tôn giáo. Nó trước tiên phải là một tuyên bố về bản sắc dân tộc. Đại đa số các nhà lãnh đạo Yishuv, và sau đó các nhà lãnh đạo Israel, là thế tục (có nghĩa là không ràng buộc vào tôn giáo nào). Họ đồng thời công nhận tầm quan trọng của tôn giáo trong việc gắn kết người Do Thái lại với nhau, tôn trọng tín ngưỡng của các nhóm thiểu số, nhưng cũng muốn đảm bảo rằng tôn giáo không có quá nhiều quyền lực đối với xã hội và văn hóa dân tộc.

Vì vậy, thế hệ lãnh đạo thống trị Yishuv và Nhà nước Israel ban đầu đã sớm đạt được một thỏa hiệp với các lãnh đạo tôn giáo – vào thời điểm đó là Chính Thống (Orthodox) – chấp nhận quyền lực của tôn giáo ở một số khía cạnh của xã hội. Ngày nay các tổ chức nhà nước vẫn tuân theo luật lệ về chế độ ăn chay (Kosher) của người Do Thái; các cửa hàng thường đóng cửa vào ngày Sabbath (mặc dù thực tế này đã bị xói mòn theo thời gian); nhà nước nghỉ làm việc trong các ngày lễ tôn giáo của người Do Thái; kết hôn, ly hôn, và chôn cất được các giáo sĩ Do Thái điều khiển; sinh viên của các chủng viện Yeshiva(2) được hoãn nghĩa vụ quân sự. Thỏa hiệp này đảm bảo duy trì sự cân bằng quyền lực của cả hai phía thế tục và tôn giáo.

Tuy nhiên, thực tế thì Israel là một xã hội nghiêng về thế tục. Nói chính xác thì Israel được đặc trưng là một đất nước trong đó các khái niệm, phong tục và lịch sử có nguồn gốc tôn giáo đã được đặt vào trong một khuôn khổ thế tục và quốc gia. Trong một ý nghĩa tương tự, quá trình này cũng đã diễn ra trong nền văn minh phương Tây Kitô giáo.

Trong ba hoặc bốn thập niên đầu tiên của Nhà nước Israel độc lập, người Israel Do Thái tiếp tục tự cho rằng họ được phân chia rõ ràng thành hai nhóm tôn giáo và thế tục. Đến những năm 1990, tuy nhiên, người Israel Do Thái nhận ra sự tồn tại của một chuỗi rộng các quan điể m cũng như trình độ của việc thực hành tôn giáo. Khi xã hội đã trở thành thế tục hơn và ít ý thức hệ hơn, một thành phần khá lớn dân số gọi là “truyền thống” xuất hiện; họ vẫn duy trì các yếu tố của giới luật tôn giáo nhưng lại cam kết cho một lối sống cơ bản thế tục. Cách tiếp cận này đặc biệt mạnh trong nhóm người Do Thái Mizrahi là những người Do Thái đến từ Trung Đông và Bắc Phi.

Các đảng phái chính trị tôn giáo vẫn tồn tại sau sự ra đời của Chủ nghĩa Zion hiện đại. Tuy nhiên, các đảng phái này không tìm cách thay đổi thể chế. Thay vào đó, họ là các nhóm lợi ích với mục tiêu đơn thuần là cung cấp công ăn việc làm và kinh phí cho các cộng đồng của riêng họ, trong khi vẫn cố gắng giữ nguyên trạng trật tự của xã hội. Mục tiêu của họ, khi đó, là không thay đổi, nhưng tiếp tục. Kết quả là, các xung đột tôn giáo-thế tục, mặc dù đôi lúc nóng bỏng, đã giảm dần về tầm quan trọng theo thời gian.

Mặc dù có rất nhiều thách thức, Israel ngày nay có một hệ thống dân chủ đa nguyên được kiến trúc để có thể dung chứa các cộng đồng và các quan điểm khác nhau, mặc dù không đại diện về địa lý.

Hệ thống kinh tế của Israel trong nửa đầu thế kỷ 20 cũng đã được phát triển hòa điệu với các điều kiện đặc biệt trong khi phải đối mặt với hoàn cảnh của một dân tộc thiếu vốn tài chính, thiếu các tổ chức hiện đại và cố gắng tạo dựng trong hoàn cảnh của một đất nước kém phát triển. Các công ty và doanh nghiệp nhà nước, ban đầu được hỗ trợ vốn từ người Do Thái ở nước ngoài, là những công cụ đầu tiên đã giúp thiết lập nên nền kinh tế của Yishuv và tạo ra công ăn việc làm. Trong những thập niên đầu tiên sau khi trở thành nhà nước độc lập, nền kinh tế của Israel được các Histadrut (nghiệp đoàn) và các công ty liên kết của nó, chi phối phần lớn cũng như bởi các doanh nghiệp hợp tác xã.

Nhưng đến năm 1990, khi đất nước phát triển vượt quá mức mà cơ cấu kinh tế của hệ thống xã hội chủ nghĩa có thể chịu đựng, Israel đã thực hiện một quá trình chuyển đổi khéo léo từng bước sang cơ cấu dân chủ với mức độ tư nhân hóa lớn hơn. Israel cũng đã xây dựng một nền kinh tế dựa trên những điểm mạnh của mình – công nghệ máy tính, nông nghiệp, y tế, khoa học đời sống – mặc dù trong hoàn cảnh khó khăn về tài nguyên thiên nhiên, thương mại với các nước láng giềng Ả Rập rất hạn chế, và thiếu một thị trường nội địa rộng lớn. Giai cấp và các vấn đề kinh tế – thường là chủ đề chính trong sinh hoạt chính trị của các nước khác – không phải là vấn đề cốt lõi trong sinh hoạt chính trị Israel.

Một thách thức lớn khác là việc thành lập các lực lượng vũ trang và cơ cấu an ninh quốc gia để đối phó với các mối đe dọa hủy diệt từ các nước Ả Rập láng giềng, một hoàn cảnh hy hữu không thấy có trong số 200 quốc gia trong thế giới đương đại. Và nhiệm vụ này lại phải được thực hiện bởi một dân tộc hầu như không có chút kinh nghiệm quân sự nào trong quãng thời gian 2000 năm trước. Trong giai đoạn Yishuv, bốn lực lượng vũ trang ngầm đã được phát triển trong đó hai lực lượng đối lập với lãnh đạo Israel. Tuy nhiên việc giải thể thành công của hai lực lượng này hợp nhất vào các lực lượng vũ trang quốc gia sau khi Israel giành được độc lập đã cung cấp cho Israel một cơ cấu tổ chức quân sự lấy dân sự làm chủ đạo (civilian-directed military) đã tồn tại khá ổn định suốt từ khi đó cho đến ngày nay.

Đảm bảo rằng quân đội phản ánh đúng nguyên tắc dân chủ của đất nước, hoạt động hiệu quả và gián đoạn tối thiểu đến đời sống kinh tế xã hội, và cuối cùng có thể bảo vệ Israel chống lại thù nghịch là một nhiệm vụ lớn. Một hệ thống quân sự độc đáo đã được thiết lập cách bằng cách kết hợp nghĩa vụ quân sự có thời hạn bắt buộc với một lực lượng dự bị lớn và linh hoạt có thể được huy động bất cứ lúc nào. Thêm vào đó, Israel đã phát triển thành công một ngành công nghiệp quốc phòng tiên tiến để bù đắp cho sự vượt trội về số lượng của các lực lượng thù địch bên ngoài, cộng với một chiến lược quân sự thông minh sẵn sàng đối phó với các mối đe dọa tiềm năng trên tất cả các vùng biên giới của đất nước.

Hệ thống quân sự này trên thực tế qua các cuộc chiến đã chứng minh sự thành công vượt trội trong việc bảo vệ đất nước chống lại các mối đe dọa bên ngoài. Hơn nữa, nó bắt buộc phải như thế vì, như những bài học xương máu trong lịch sử Israel, chỉ cần một thất bại xảy ra thì có thể sẽ là dấu chấm hết của Nhà nước Israel, và tiếp theo sẽ lại là thảm sát và xua đuổi.

Tuy nhiên, mặc dù tầm quan trọng đặc biệt của các vấn đề an ninh quốc phòng, Israel lại không phải là một xã hội đặt quá nặng trọng tâm vào quân sự. Israel có quá nhiều những vấn đề khác phải quan tâm, đó là đảm bảo ổn định xã hội, việc hòa nhập của dân nhập cư, an sinh, và phát triển đất nước.

Trong 40 năm đầu tiên của nền độc lập Israel, các lực lượng quân đội chính quy của tất cả các nước láng giềng – trực tiếp như Ai Cập, Syria và Jordan và gián tiếp như Ả Rập Saudi và Iraq – là mối đe dọa chiến tranh hàng ngày. Bằng việc ký kết hiệp ước hòa bình với Ai Cập đầu tiên vào năm 1979 và sau đó với Jordan vào năm 1994, Israel đã loại bỏ hai trong số ba lực lượng thù địch Ả Rập chính mà Israel phải đối mặt. Sự yếu kém của Syria đã tự nhiên loại bỏ lực lượng thứ ba còn lại và làm giảm khả năng chiến tranh quy ước trên các vùng biên giới của Israel xuống bằng zero. Thêm vào đó, sự tan rã của nước Liên Xô cũ vào năm 1991, Iraq lo việc đối nội sau chiến tranh vùng Vịnh 1990-1991, các quốc gia Ả Rập thì bận tâm với Iran và mối đe dọa của cách mạng Hồi giáo, tất cả đã giúp Israel giảm thiểu nguy hiểm ở mặt trận này.

Tuy nhiên, vào năm 2011, tình hình có vẻ như đổi hướng. Các nhóm Hồi giáo cực đoan Hamas(3) ở dải Gaza và Hezbollah(4) ở biên giới phía Bắc đẩy mạnh chiến tranh tên lửa trên các vùng biên giới của Israel; cuộc nổi dậy năm 2011 tại Ai Cập có thể dẫn đến hủy bỏ hiệp ước hòa bình 1979; tiến trình hòa bình Israel-Palestine ngưng trệ; cùng với sự phát triển của cách mạng Hồi giáo, tất cả cho thấy các vấn đề an ninh của Israel còn rất xa mới đến hồi kết. Không nghi ngờ gì nữa, các mối đe dọa đối với Israel vẫn ở mức cao so với bất kỳ quốc gia nào khác trên thế giới. Tuy nhiên, người Israel chủ yếu vẫn hướng tới giải pháp hòa giải với các quốc gia láng giềng như đã làm trong những thập niên trước.

Đối mặt với thực tế đó, tinh thần quốc gia của người dân Israel tỏ ra rất cao. Trong các cuộc thăm dò hàng năm, số người bày tỏ sự hài lòng với cuộc sống của họ và hy vọng vào tương lai đạt tới mức cao một cách khác thường. Gần 80% người Israel nói rằng họ sẽ chiến đấu cho đất nước, trái ngược với 60% của người Mỹ và 40% của người Anh. Tỷ lệ những người trẻ tuổi sẵn sàng tình nguyện tham gia các đơn vị chiến đấu đã thách thức mọi dự đoán bi quan về tính ích kỷ và thái độ hưởng lạc trong giới trẻ.

Một yếu tố khác đã ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của Israel là những người nhập cư Do Thái đến từ nhiều quốc gia và các nền văn hóa khác nhau đã hòa nhập thành công trong một xã hội thống nhất. Trước và sau độc lập của Israel vào năm 1948, những người nhập cư đến đầu tiên từ châu Âu, sau đó chủ yếu là từ Trung Đông, sau này từ Liên Xô cũ, và với số lượng nhỏ hơn, từ Ethiopia. Hầu hết những người nhập cư là người tị nạn nghèo, mất hết tài sản, cũng như bị chấn thương tâm lý do điều kiện sống khắc nghiệt và khủng bố ở các quốc gia họ đã bỏ trốn. Họ đã tìm thấy đời sống mới trên Vùng đất Israel. Họ hy vọng.

Xã hội Israel đã giúp những người nhập cư hòa nhập trên cơ sở bình đẳng, mặc dù dưới những áp lực kinh tế khủng khiếp của thời kỳ hậu độc lập, và ngay cả khi chính phủ Israel buộc phải tiến hành chính sách thắt lưng buộc bụng và chia khẩu phần. Tuy nhiên, sau đó đã phát sinh khiếu nại rằng quá trình hội nhập là cưỡng chế và có sự phân biệt đối xử giữa các sắc dân. Điều này đã trở thành một vấn đề chính trị và văn hóa khá nóng bỏng vào những năm 1980, tuy nhiên sau đó nó đã nhạt dần với sự ra đời của một thế hệ mới hòa nhập hơn và thường thông qua việc kết hôn giữa các sắc dân nhập cư khác nhau.

Mặc dù Israel được định nghĩa là một nhà nước Do Thái, nó lại hoạt động giống như một quốc gia Trung Đông truyền thống đa nguyên – với một tôn giáo nhà nước và các nhóm thiểu số tự trị một phần – hơn là một nhà nước châu Âu dân tộc chủ nghĩa (mono-nationalist) của thế kỷ 20 đã xóa bỏ tất cả các nhóm thiểu số trong quá trình cưỡng bức đồng hóa. Ở Israel, mỗi cộng đồng tôn giáo có quyền kiểm soát đối với các vấn đề riêng của cộng đồng mình về tình trạng cá nhân, có quyền duy trì văn hóa, tôn giáo, và, ở một mức độ nào đó, tự chủ về tư pháp.

Hệ thống nhà nước theo mô hình này của Israel, cũng như cách tiếp cận với tôn giáo nói chung, được thể hiện trong sự tồn tại của năm hệ thống trường học: hệ thống các trường nhà nước-thế tục, hệ thống các trường nhà nước-tôn giáo (Datim, hoặc Chính Thống hiện đại), hệ thống các trường Haredi (Chính Thống truyền thống), hệ thống các trường dùng ngôn ngữ Ả Rập (cho những người nói tiếng Ả Rập), và Shas(5) (các trường cho những người ủng hộ đảng chính trị này, chủ yếu là cho người Do Thái Mizrahi nghèo).

Israel nổi lên từ những năm trước và sau độc lập của mình với một thách thức chính trị, thế giới quan, kinh tế, văn hóa trộn lẫn từ nhiều yếu tố khác nhau. Trong số các ảnh hưởng chính là xã hội Do Thái truyền thống cùng với những cải cách Yishuv và những vay mượn từ các nền văn hóa Đông Âu, Tây Âu và Trung Đông. Bổ sung theo thời gian là các yếu tố văn hóa của Bắc Mỹ, Địa Trung Hải, và Nga hiện đại, cũng như một môi trường văn hóa Ả Rập tự trị. Pha trộn tất cả các yếu tố dân tộc, ngôn ngữ, tôn giáo và văn hóa này với nhau đã tạo nên một môi trường xã hội phong phú, những ý thức hệ chính trị đa dạng và nhiều giai tầng về địa vị xã hội.


Giang Vi

Tôi là một người yêu sách cuồng nhiệt và đã hơn 20 năm. Tôi dành cả ngày để đọc, viết blog về sách và viết bình luận. Tôi tin rằng sách là công cụ mạnh mẽ nhất trong cuộc sống để mở mang đầu óc cho những ý tưởng và quan điểm mới. Các thể loại yêu thích của tôi bao gồm tiểu thuyết lịch sử, giả tưởng, khoa học viễn tưởng và phi hư cấu. Tôi cũng thích tìm hiểu về các nền văn hóa khác nhau thông qua văn học.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts:

Back to top button