Túp Lều Bác Tom
Thể loại | Tác phẩm kinh điển |
Tác giả | Harriet Beecher Stowe |
NXB | NXB Văn Học |
Công ty phát hành | Đinh Tị |
Số trang | 463 |
Ngày xuất bản | 08-2015 |
Giá bán | Xem giá bán |
Nội dung
Ra mắt độc giả vào năm 1852, tiểu thuyết Túp Lều Bác Tom đã gây ảnh hưởng mạnh mẽ tới quan điểm của những người tiến bộ trong tầng lớp da trắng cũng như nhận được sự đồng cảm sâu sắc của những người nô lệ da đen.
Thông qua nhân vật chính là bác Tom, một người nô lệ da đen trung thực phải chia lìa vợ con, phải sống cuộc sống tủi nhục, thường xuyên bị đánh đập, ngược đãi, bị bán đi bán lại như một món hàng, tác phẩm ca ngợi sự kiên quyết bảo vệ phẩm giá con người của những người nô lệ da đen, đồng thời đanh thép phê phán chế độ nô lệ tàn bạo với những điều luật bênh vực bọn chủ nô mất nhân tính, sẵn sàng vì đồng tiền mà chà đạp lên quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc của những người da đen bất hạnh.
[taq_review]
Trích đoạn
BẠN ĐỌC LÀM QUEN VỚI MỘT NGƯỜI BẠN TỐT BỤNG
Sẩm tối một ngày giá lạnh tháng hai có hai người lịch sự ngồi trong phòng ăn bày biện sang trọng tại một ngôi nhà ở thành phố P – bang Kentucky. Một cốc rượu đặt trước mặt họ: hai chiếc ghế bành kéo sát vào nhau; kẻ ăn người làm đã bị đuổi ra khỏi phòng; hình như họ đang bàn luận với nhau một chuyện gì rất quan trọng.
Xem xét họ kĩ hơn thì một người chẳng đáng được gọi là “người lịch sự.” Khổ người hắn ta thấp bé phè phè ngắn ngủn, nét mặt thô lỗ, điệu bộ hợm hĩnh. Đúng là hắn ta thuộc loại những kẻ từ hai bàn tay trắng đã huých kẻ nọ người kia để leo lên bậc thang xã hội. Hắn ăn mặc lòe loẹt, bận một chiếc gi-lê sặc sỡ, choàng một cái khăn màu xanh nhạt lốm đốm vàng trên cái cổ áo kiểu lãng mạn(1) Những ngón tay xù xì đầy những nhẫn là nhẫn. Hắn đeo một chiếc dây đồng hồ nặng trĩu những đồ trang sức bằng vàng; trong lúc hăng say trò chuyện, hắn thích làm cho kêu leng keng. Hắn ăn nói cũng sỗ sàng đúng như con người hắn; hắn hay chêm vào câu chuyện của mình lắm tiếng chửi rủa tục tằn, dù có muốn tôn trọng sự thực đến đâu cũng chẳng thể kể ra đây được.
Trái lại, ông chủ nhà, ông Shelby, thoáng nhìn cũng biết ngay là một người lịch sự; ngay cách xếp đặt ngăn nắp và vẻ sang trọng kín đáo của ngôi nhà cũng đủ chứng tỏ điều đó. Trong khi người khách nâng cốc rượu lên, ông nói ý kiến của ông:
– Thế nhưng tôi tha thiết muốn giải quyết việc này.
Gã kia đáp:
– Không thể được, thưa ngài Shelby. Tôi không thể thỏa thuận trên cơ sở này được.
Ông Shelby nhấn mạnh thêm:
– Tom là một người đặc biệt. Ông Haley ạ, bất kì ở đâu bác ta cũng đáng cái giá ấy; bác ta đứng đắn, trung thực và có năng lực. Nhờ bác ta, công việc ở trại của tôi chạy chính xác như một chiếc đồng hồ.
Haley mỉa mai hỏi lại:
– Trung thực à? Trung thực kiểu một thằng da đen!
Hắn nốc cạn cốc rượu, và không đợi mời, hắn rót thêm một cốc nữa. Ông Shelby nói tiếp:
– Ông cứ tin ở tôi. Tom thật thà, lại rất biết điều và rất ngoan đạo. Cách đây bốn năm, bác ta đã quy đạo. Tôi chắc rằng bác ta ngoan đạo lắm! Tôi hoàn toàn tín nhiệm bác ta. Tiền bạc, nhà cửa, đàn ngựa, tôi đều giao cho bác ta cả. Tôi để mặc bác ta được tự do đi lại trong vùng này.
Haley dõng dạc nói:
– Thưa ngài Shelby, chẳng thiếu gì người không chịu tin bọn da đen ngoan đạo. Nhưng tôi, thì tôi tin đấy – hắn ta vừa nói vừa để tay lên ngực, vẻ thơ ngây giả dối tôi cũng có một thằng da đen ngoan đạo, trong cái bọn da đen tôi đưa sang New Orleans chuyến trước. Cứ nghe cái ngữ ấy cầu kinh thì y như nghe một bài giảng đạo. Bán nó, tôi vớ được một món hời: lãi sáu trăm đô la đấy nhé, bởi vì tôi mua của một anh chàng vỡ nợ, gần như chẳng mất đồng nào. Tôi rất đồng ý với ngài: một thằng da đen ngoan đạo quả là một món khá đấy, nhất là khi lòng tin của nó chân thành. Tất nhiên, phải thật sự như vậy.
Ông chủ nhà quả quyết:
– Tôi có thể cam đoan với ông rằng Tom chính là một người như vậy. Mùa thu vừa qua, tôi sai bác ta một mình đi Cincinnati để giải quyết một việc cho tôi. Lần ấy bác ta phải mang về cho tôi năm trăm đô la. Trước khi bác ta đi, tôi bảo: “Tom, tôi tin ở bác, tôi tin bác là một con chiên ngoan đạo, bác chẳng bao giờ lừa dối tôi.” Thế là Tom trở về, mang theo món tiền đúng như đã định trước. Hình như có những kẻ không tốt đã xui bác ta trốn sang Canada nhưng Tom không chịu nghe. Phải bán bác ta, tôi thật không vui chút nào ông Haley ạ, ông nên trừ tất cả món nợ của tôi mà lấy bác ta về, thế mới là có lương tâm.
Gã con buôn đùa cợt trả lời:
– Vâng, thì cần có bao nhiêu lương tâm trong việc buôn bán, tôi xin đưa ra cả. Vừa đủ để tuyên thệ, ngài hiểu đấy! Thường thường, tôi hay sẵn sàng giúp đỡ bạn bè. Nhưng ngài xem, trong việc này, như thế là đòi hỏi quá nhiều, thật thế.
Hắn thở dài một cái, và lại tự rót cho mình một cốc rượu nữa. Sau một lát yên lặng lúng túng, ông Shelby hỏi:
– Thế ông muốn ăn giá thế nào?
– Ngài có thể thêm cho tôi một đứa bé trai hoặc gái, được không?
– Ôi chà… Tôi chẳng có đứa trẻ nào để bán cho ông cả; bần cùng bất đắc dĩ, tôi mới phải bán nô lệ của tôi. Tôi không thích gì cái cảnh họ phải chia li.
Cửa phòng mở, một chú bé lai da đen độ bốn, năm tuổi chạy vào. Chú bé xinh xắn lạ thường và rất dễ thương; những mớ tóc xoăn đen lánh, mịn như tơ, tỏa vòng tròn trên đôi má phình lúm đồng tiền; dưới hàng mi dài và cong, đôi mắt chú mênh mông, thăm thẳm vừa long lanh, vừa dịu hiền; chú tò mò nhìn xem người ta làm gì trong phòng khách. Bộ quần áo bằng vải kẻ ô đỏ và vàng, đường kim mũi chỉ khéo léo, rất ăn khớp với vẻ xinh xắn của chú bé da đen. Cái vẻ vừa tự tin một cách ngộ nghĩnh, vừa rụt rè của chú, chứng tỏ ông chủ thường hay nuông chiều và săn sóc đến chú. Ông Shelby ra lệnh:
– Chú Qua Jim, chào!
Ông lấy một chùm nho ở một cái đĩa quăng cho chú bé, rồi ông huýt sáo miệng như gọi một con chó con, bảo chú:
– Này, cho mày, bắt lấy.
Đôi chân ngắn ngủn chạy hết tốc lực, chú bé bắt lấy chùm nho, ông chủ vừa cười vừa bảo chú bé leo lên đùi mình. Ông vuốt ve mớ tóc xoăn, bấu cằm chú và ra lệnh:
– Chú Quạ con này, bây giờ chú khoe với ông khách là chú biết múa, biết hát đi nào!
Chú bé cất tiếng ca một điệu hát lạ lùng của những người da đen. Giọng chú trong và êm ái. Chú vừa hát vừa múa chân, múa tay, người chú uốn éo nhịp nhàng theo điệu bài ca.
Haley vứt cho chú bé một miếng cam, miệng khen:
-Hay!
Ông chủ lại ra lệnh:
– Chú Qua Jim, bây giờ chú thử bắt chước bác Cudjoe khi bác đi thấp khớp xem nào!
Tức thì chú bé khòm khòm đôi chân, lưng còng xuống, tay chống chiếc gậy của ông chủ, khập khiễng đi trong phòng, mặt co rúm lại vì đau đớn, nhổ toẹt sang bên phải, sang bên trái, giống hệt một ông cụ già.
Hai người phá lên cười.
– Bây giờ chú giả làm cụ Robbins hát bài hát kinh Thánh xem nào.
Cái mặt phình phính của chú bé bỗng dài thuỗn ra, và chú bé lấy giọng mũi ca một bài Thánh ca, vẻ hết sức nghiêm trang. Haley khoái quá, vỗ tay khen:
– Hay, hay tuyệt! Thằng bé mới tuyệt làm sao! Kì diệu thật!
Hắn lấy tay đập vào vai ông Shelby, reo lên:
– Này ngài, nếu ngài để cho tôi thằng bé, thì công việc coi như xong. Ngài thấy đấy, tôi là người biết nhân nhượng.
Cùng lúc đó, cánh cửa từ từ mở, một thiếu phụ lai da đen, chừng hai mươi lăm tuổi, bước vào. Thoạt trông thấy cũng biết chị là mẹ của chú bé. Cũng con mắt ấy, cũng hàng mi dài ấy, cũng những mớ tóc xoăn mịn như tơ ấy. Đôi má màu nâu nhạt bỗng đỏ ủng lên, khi chị thấy con mắt láo xược của người khách lạ trâng tráo chằm chằm nhìn chị. Chiếc áo cắt chẽn làm nổi tấm thân của chị; toàn thân chị từ hai bàn tay đến đôi mắt cá chân xinh xinh không thoát khỏi con mắt của gã tay buôn đã quen đánh giá món hàng phụ nữ bằng một cái liếc mắt nhìn qua.
Thấy chị dừng lại, rồi nhìn mình một cách rụt rè, ông Shelby cất tiếng hỏi:
– Cái gì thế, Eliza?
Chị xin lỗi:
– Xin lỗi ông, cháu tìm cháu bé Harry.
Tức khắc, chú bé chạy đến bên chị; chú khoe với mẹ mấy món quà chú đựng trong vạt áo. Ông Shelby gật đầu:
– Chị đưa nó về được đấy.
Eliza vội vàng ôm lấy chú bé, bế đi.
Gã con buôn nói khẽ:
– Mẹ kiếp! Con bé mới đẹp làm sao! Ở New Orleans thì có thể làm giàu với cái của ấy. Tôi đã từng thấy những đứa không xinh bằng mà người ta dám trả tới trên một nghìn đô la.
Ông Shelby lạnh lùng đáp:
– Tôi không ưa làm giàu bằng cách buôn bán con người.