Review

Lolita

Thể loại Văn học nước ngoài
Tác giả Vladimir Nabokov
NXB NXB Hội Nhà Văn
Công ty phát hành Nhã Nam
Số trang 362
Ngày xuất bản 09-2015
Giá bánXem giá bán

“Lolita, ánh sáng của đời tôi, ngọn lửa nơi hạ bộ của tôi. Tội lỗi của tôi, tâm hồn của tôi. Lo-lee-ta: đầu lưỡi lướt xuống ba bước nhỏ dọc vòm miệng, khẽ đập vào răng ba tiếng. Lo. Li. Ta.

Buổi sáng, em là Lo, ngắn gọn là Lo thôi, đứng thẳng cao một mét bốn mươi sáu, chân đi độc một chiếc tất. Mặc quần thụng trong nhà, em là Lola. Ở trường học, em là Dolly. Trên dòng kẻ bằng những dấu chấm, em là Dolores. Nhưng trong vòng tay tôi, bao giờ em cũng là Lolita.”

Lolita, hiện tượng bất thường bậc nhất của văn chương thế kỷ 20, được xuất bản lần đầu vào năm 1955 tại Paris, mặc dù viết bằng tiếng Mĩ. Cũng như mọi tác phẩm kỳ vĩ và có độ lệch chuẩn lớn, như tiểu thuyết của D. H. Lawrence hay của Anthony Burgess, khởi đầu của Lolita không hề suôn sẻ.

Giờ đây khi thực sự được đọc Lolita, ta hiểu tại sao Vladimir Nabokov nâng niu nó đến vậy. Thoạt tiên bị nhìn nhận một cách giản đơn quá mức, Lolita dần thoát khỏi cái định kiến coi nó là tác phẩm thuần túy gợi dục, bởi Lolita chứa đựng nhiều, rất nhiều hơn thế: nó tinh vi dò xét tâm lý con người (dù không cần viện tới tâm phân học, mà thậm chí Nabokov còn luôn luôn tìm cách bài xích Sigmund Freud), và nó còn là những nước cờ ngôn từ kiệt xuất của một trong những thiên tài văn chương lớn nhất.

Đến giờ, dù cho bao năm tháng đã qua đi, Lolita vẫn cứ là một hiện tượng bất thường, và cô bé Lolita, “ánh sáng của đời tôi, tội lỗi của tôi, tâm hồn của tôi” trong trí tưởng của Humbert. Và Lolita, vẫn bất tử trong dáng đứng thẳng cao chưa đầy một mét rưỡi và toàn bộ đặc tính của một “tiểu nữ thần” vĩnh viễn bất kham.

[taq_review]

Trích dẫn


Vừa xuất viện một cái là tôi liền kiếm một nơi trong vùng quê New England hoặc một thị trấn nhỏ thiu thiu ngủ (hàng cây du du, ngôi nhà thờ trắng) ở đó tôi có thể qua một mùa hè chăm chỉ với nguồn sinh tồn là một hòm đầy những ghi chép tôi đã tích lũy được, và tắm ở một con hồ nào đó gần nhà. Tôi lại bắt đầu quan tâm đến công việc – tôi muốn nói những nghiên cứu học thuật của tôi; còn phần việc kia: tham gia tích cực vào kinh doanh nước hoa do ông chú tôi để lại, thì lúc này đã giảm xuống mức tối thiểu.

Một nhân viên cũ của chú tôi, hậu duệ của một gia đình quyền quí, gợi ý là tôi nên đến ở vài tháng tại nhà người bà con của ông, một ông McCoo đã về hưu; vợ chồng họ, giờ đây khánh kiệt, muốn cho thuê tầng gác trên, nơi một bà cô quá cố từng sống những ngày êm đềm. Ông cho biết họ có hai con gái nhỏ, một còn ẵm ngửa, đứa kia mười hai tuổi, và một khu vườn đẹp cách một con hồ đẹp không xa, và tôi nói như vậy thì hoàn toàn trúng ý tôi.

Tôi trao đổi thư từ với những người đó, bảo đảm với họ rằng tôi rất có ý thức giữ vệ sinh, ngăn nắp trong nhà, và tôi qua một đêm huyền hoặc trên xe lửa, cố tưởng tượng ra trong mọi chi tiết có thể cô bé tiểu nữ thần bí hiểm mà sắp tới tôi sẽ kèm dạy tiếng Pháp và âu yếm vuốt ve theo phong cách Humbert. Không có ai đón tôi ở cái ga nhỏ xíu như đồ chơi, nơi tôi xuống tàu với chiếc túi du lịch mới đắt tiền và cũng chẳng ai trả Lời điện thoại; tuy nhiên, cuối cùng, một ông McCoo nhớn nhác, quần áo ướt sũng, xuất hiện ở khách sạn duy nhất của cái thị trấn Ramsdale xanh xanh hồng hồng, cho hay là nhà ông vừa cháy trụi – có thể là do xảy ra đồng thời với đám cháy lớn hoành hành trong huyết quản tôi suốt đêm qua. Ông nói gia đình ông phải dùng xe ô tô của nhà để lánh nạn tới một trang trại thuộc quyền sở hữu của ông, nhưng bạn của vợ ông, một con người cao thượng, bà Haze ở số nhà 342 phố Lawn Street, đã tình nguyện cho tôi tá túc. Một bà ở trước cửa nhà bà Haze đã cho McCoo mượn chiếc limousine của mình, một chiếc xe mui vuông lỗi mốt hết sẩy do một tài xế da đen vui tính lái. Giờ đây, khi mà lí do duy nhất khiến tôi đến nơi này đã biến mất, sự sắp xếp như trên xem ra thật phi lí. Ờ, ngôi nhà của ông ta sẽ phải xây lại hoàn toàn, thế thì sao? Ông ta có trả bảo hiểm đầy đủ cho nó không? Giận dữ, thất vọng và chán ngán, nhưng là một người châu Âu lịch sự, tôi không thể chối từ và đành để người ta đưa về phố Lawn Street trên chiếc xe nhà đòn ấy, e rằng nếu không, McCoo sẽ nghĩ ra một cách khác tinh vi hơn để rũ bỏ tôi. Tôi thấy ông hớt hải chạy đi và gã tài xế của tôi lắc đầu khẽ cười. En route* (trên đường đi), tôi thề với mình là sẽ không lưu lại ở Ramsdale trong bất kì hoàn cảnh nào, mà sẽ tếch thẳng đến Bermudas hay Bahamas hay thậm chí Địa Ngục, ngay ngày hôm đó. Từ ít lâu nay, triển vọng về những giờ phút êm đềm trên những bãi biển đầy màu sắc rực rỡ đã róc rách suốt dọc sống lưng tôi và người bà con của McCoo, trên thực tế, đã làm lệch dòng suy nghĩ ấy bằng cái đề xuất thiện ý nhưng giờ đây hóa ra hoàn toàn ngu xuẩn của ông ta.

Nói về những bước ngoặt đột ngột: khi rẽ vào phố Lawn Street, xe chúng tôi suýt chẹt phải một chú cẩu rách việc (một trong những con chó ngoại ô chuyên rình xe ô tô [1]). Xa hơn một chút, ngôi nhà bà Haze hiện ra, một khối trắng gớm guốc, cũ kĩ, tồi tàn, xám hơn là trắng – cái loại nhà ở mà ta có thể biết trước là sẽ phải lắp ống cao su vào vòi nước ở bồn tắm thay cho vòi hương sen. Tôi “boà” cho tài xế, hi vọng gã sẽ lái đi luôn để tôi khỏi phải lộ diện mà về thẳng khách sạn lấy hành lí; nhưng gã lại tạt sang bên kia đường, nơi một bà già đang gọi gã từ cổng nhà. Tôi biết làm gì đây? Tôi bấm chuông.

[1] Một thứ điềm báo cái chết của Charlotte do bị xe cán, mà nguyên nhân của tai nạn là do người lái xe cố tránh một con chó (chương 23, Phần Một).

Một hầu gái da màu đưa tôi vào nhà – và để tôi đứng trên tấm thảm chùi chân trong khi chị ta sấp sấp ngửa ngửa chạy bổ về nhà bếp, ở đó có cái gì không được để cho cháy đang cháy.

Tiền sảnh được trang trí bằng những chùm chuông hòa âm, một tượng gỗ mắt trắng chắc mua ở một cửa hàng bán đồ lưu niệm Mexico nào đó và một phiên bản bức L’Arlésienne* (Cô gái vùng Arles) của Van Gogh, thứ vưu vật tầm thường của giới trung lưu sính nghệ thuật. Một cánh cửa hé mở bên phía tay phải cho thấy một phần của một phòng khách với một tủ kính trong góc đầy những đồ tầm tầm Mexico khác và một chiếc sofa kẻ sọc kê dọc theo tường. Có một cầu thang ở cuối hành lang và trong khi tôi đứng lau mồ hôi trán (mãi lúc này, tôi mới nhận ra là ngoài trời nóng đến thế) và trân trân nhìn (chả lẽ không nhìn cái gì) vào một quả bóng tennis cũ rích màu xám lăn lóc trên một cái tủ gỗ sồi, thì từ trên đầu cầu thang vọng xuống giọng nữ trầm du dương của bà Haze, bà vịn vào lan can hỏi: “Có phải ông Humbert đấy không?” Một chút tàn thuốc lá cũng từ trên ấy rót xuống. Lúc này, đích thân nữ chủ nhân – dép xăng đan, quần thụng màu hạt dẻ, áo lụa màu vàng, mặt gần như vuông, lần lượt theo thứ tự đó – bước xuống các bậc cầu thang, ngón trỏ vẫn đập nhẹ trên điếu thuốc.

Tôi nghĩ nên miêu tả bà ngay cho dứt điểm. Phu nhân tội nghiệp của chúng ta khoảng ba mươi lăm tuổi, trán bóng loáng, lông mày tỉa, với những nét bình dị nhưng không thiếu hấp dẫn, thuộc loại có thể định nghĩa như là một dung dịch loãng của Marlene Dietrich [2]. Tay vỗ nhè nhẹ lên búi tóc màu đồng hun, bà dẫn tôi vào phòng khách và chúng tôi chuyện trò một lúc về vụ cháy nhà McCoo và cái lợi của việc cư trú ở Ramsdale. Đôi mắt màu xanh nước biển cách rất xa nhau của bà có một cách nhìn đến là lạ, nó lướt trên khắp người anh, thận trọng tránh luồng mắt của anh. Nụ cười của bà chỉ là một cái nhướn ranh mãnh của một bên lông mày; và vừa nói chuyện vừa soài mình khỏi chiếc sofa, chốc chốc bà lại phóng tay về phía ba cái gạt tàn và tấm chắn lửa bên lò sưởi (ở đó còn lăn lóc cái hột nâu nâu của một quả táo); liền đó, lại ngả người trên sofa, một chân gập lại dưới mình. Hiển nhiên bà thuộc loại phụ nữ mà có lời lẽ trau chuốt thốt ra từ miệng mang hơi hướm một câu lạc bộ đọc sách, hay một câu lạc bộ chơi bài bridge, hay bất kì thứ khuôn sáo kinh khủng nào khác, chứ không bao giờ từ tâm hồn họ; loại phụ nữ tuyệt đối không có đầu óc hài hước; loại phụ nữ mà trong thâm tâm hoàn toàn dửng dưng với khoảng một chục đề tài khả dĩ có thể luận đàm ở phòng khách, nhưng lại rất câu nệ về nghi thức của những cuộc trò chuyện kiểu này, mà qua lớp giấy bóng kính hào nhoáng của những nghi thức ấy, lộ rõ những ngán ngẩm chẳng mấy ngon lành. Tôi biết chắc rằng nếu chẳng may tôi trở thành người thuê nhà của bà, bà sẽ tiến hành từng bước chuyển hóa tôi theo cái cách mà có lẽ xưa nay bà vẫn quan niệm là một người thuê nhà phải trở thành và tôi sẽ lại mắc vào những mắt lưới của một trong những cuộc tình chán phèo mà tôi biết quá rõ.

[2] Nữ minh tinh màn bạc Mĩ gốc Đức (1901-1992), được coi là một mẫu “đàn bà định mệnh”. Những phim nổi tiếng nhất: Thiên thần xanh, Tàu tốc hành Thượng Hải, Nữ hoàng đỏ…

Nhưng đừng hòng tôi ở lại đây. Tôi làm sao có thể sung sướng trong cái loại nhà như thế này, với những tờ họa báo vương vãi khắp các ghế, với cái thứ lai phối gớm ghiếc giữa thể loại hài kịch của cái gọi là “đồ đạc công năng hiện đại” và thể loại bi kịch của những ghế xích đu ọp ẹp cùng những chiếc bàn-đế-đèn lung lay cắm toàn bóng đã cháy tóc. Bà dẫn tôi lên gác và rẽ trái – vào phòng “của tôi”. Tôi xem xét nó qua màn sương của ý định kiên quyết khước từ; tuy nhiên, tôi cũng nhận thấy bức “Bản Sonata tặng Kreutzer” của René Prinet [3] treo trên đầu giường “của tôi”. Bà ta dám gọi cái căn phòng cho con sen này là “á thư phòng”! Hãy ra khỏi đây ngay tức thì, tôi cương quyết tự nhủ như vậy trong khi giả vờ suy nghĩ về cái giá rẻ đến độ phi lí, ẩn chứa điềm chẳng lành, mà bà chủ nhà âu sầu đề xuất cho cả ăn lẫn ở.

[3] René Franҫois Xavier Prinet (1861-1946), họa sĩ Pháp thuộc trường phái ấn tượng. “Bản Sonata tặng Kreutzer”được vẽ vào năm 1898. Bản Sonata tặng Kreutzer nguyên là Sonata số 9 cung đô trưởng cho violon và piano của L. van Beethoven, được sáng tác năm 1803. Tác phẩm này, Beethoven đề tặng nghệ sĩ vĩ cầm Rodolphe  Kreutzer, nhưng ông này chê, không bao giờ chơi cả. Mỉa mai thay, chính vì rẻ rúng tác phẩm của người bạn vĩ đại của mình mà Kreutzer đã trở thành bất tử vì tên ông mãi mãi gắn liền với nó. Lev Tolstoy, đại văn hào Nga, cũng có một tiểu thuyết lấy tên là Bản Sonata tặng Kreutzer.

Giang Vi

Tôi là một người yêu sách cuồng nhiệt và đã hơn 20 năm. Tôi dành cả ngày để đọc, viết blog về sách và viết bình luận. Tôi tin rằng sách là công cụ mạnh mẽ nhất trong cuộc sống để mở mang đầu óc cho những ý tưởng và quan điểm mới. Các thể loại yêu thích của tôi bao gồm tiểu thuyết lịch sử, giả tưởng, khoa học viễn tưởng và phi hư cấu. Tôi cũng thích tìm hiểu về các nền văn hóa khác nhau thông qua văn học.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts:

Back to top button