Cánh Đồng Bất Tận
Thể loại | Văn học trong nước |
Tác giả | Nguyễn Ngọc Tư |
NXB | NXB Trẻ |
Công ty phát hành | NXB Trẻ |
Số trang | 113 |
Ngày xuất bản | 03-2015 |
Giá bán | Xem giá bán |
Nhân dịp đi coi phim Cánh đồng bất tận về, tôi muốn dành một bài viết để nói về tác phẩm truyện ngắn này. Vì đã coi 2 phiên bản, không tránh khỏi có so sánh, những ai chưa coi phim hy vọng là đừng click vào xem tiếp nha, để coi phim cho trọn vẹn, ko bị ảnh hưởng
Bối cảnh trong truyện vẫn là miền tây sông nước, nhưng miền Tây của truyện không đẹp như miền Tây trong phim. Ko có màu vàng ươm của những cánh đồng lúa cũng không có sắc nước trong veo, bầu trời xanh mát. Miền Tây trong truyện là một màu vàng cháy nắng đến khô héo của những ngày hạn, là màu vàng váng đục của nước nhiễm phèn chua, là màu đen bùn lầy và màu nâu nứt nẻ của đất. Miền Tây trong truyện không có sắc áo trắng tinh của Nương và Sương, chỉ có màu da đen sạm, lọn tóc cháy nắng và cả những nếp nhăn khó nhọc, đói nghèo của vùng quê lam lũ. Đàn vịt trong truyện không béo tròn, không cho ra những quả trứng to đẹp, đàn vịt đó héo gầy, đi trên những cánh đồng không có nước, chậm chạp và ì ịch, đẻ ra những quả trứng vỏ dày, gầy đét, dài ngoằn.
Những cánh đồng trong truyện miệt mài bất tận, nhưng qua đôi mắt của Nương, mỗi nơi đều không nhàm chán mà gắn với những kỉ niệm rơi rớt dọc con đường trưởng thành của em và Điền. Nơi có cây bưởi, cây vú sữa, cây ô môi dc trồng, nơi em có kỳ kinh đầu tiên, nơi có gò đất mà Điền gặp ma, hay nơi hai chị em bị lạc trong cánh đồng tưởng chừng dài bất tận. Ko hiểu sao, cảm giác về sự bất tận của những cánh đồng trong truyện đạt hơn rất nhiều. Một cảm giác thoáng đến vô tận, còn khi lên phim, dù hình ảnh rất đẹp, dù khung quay tròn trịa, sắc màu ấn tượng, nhưng những hành trình trên phim lại đầy mệt mỏi, thứ mà Nương và Điền bỏ lại dọc đường là những nỗi buồn rơi rớt chứ không phải những kỉ niệm trưởng thành, những niềm vui rất riêng của cả hai.
Phim dành một khoảng thời gian rất dài để nói về Sương và cuộc sống của gia đình Út võ, vô hình chung đã biến Sương thành vai chính của phim, khiến mạch truyện trong phim khá là hẹp. Trong truyện, Sương chỉ là ng` ghé qua bên đời của ba cha con, rồi ra đi vào một buổi chiều. Cô đi cũng đột ngột như lúc cô đến, cũng như những người đàn bà khác trong hành trình của họ. Còn trong phim, Sương có vai trò khá lớn, đến nỗi khi cô đi rồi, mạch phim trở nên thật đơn điệu và nhàn nhạt.
Tôi không thích Út Võ trong phim. Dustin Nguyễn không cho tôi thấy dc một người đàn ông khắc khổ tràn ngập hận thù với đàn bà. Người đàn ông đó rất đáng thương, ông ta bị vợ bỏ rơi khi ông ta không có lỗi gì cả, ngoài chuyện làm việc chăm chỉ, quần quật để vợ con có tấm có miếng với đời. Vậy mà ông ta bị bỏ rơi. Vợ ông ta ra đi, cũng tay trắng như lúc nàng đến, không mang theo thứ gì, và giờ thì ko đem theo thứ gì. Vậy mới làm người ta đau lòng đến thế. “Nó cho thấy người đi đã chẳng suy nghĩ, đắn đo, đã không một chút trù trừ, chỉ rũ mình cái rột, sạch trơn, vậy thôi”. Thế nên Út Võ mới khóc hận, cười đau. Mà hận từ đâu, từ một tình yêu sâu sắc và niềm tin đã bị phản bội mà ông dành cho ng` phụ nữ ấy. Út Võ của Dustin khắc nghiệt, cay đắng và nhẫn tâm, bất cần gì cả, nhưng Út võ của cánh đồng bất tận không hẳn là thế. Út Võ mang vẻ ngoài dữ dội, mang “cái cười đau đớn, hoang dã, cay đắng, nghiệt ngã”, nhưng sâu tận bên trong, ông như một “chiếc bình sứ vừa qua cơn bão lửa”, tất cả đã nứt rạn, chỉ chực đỗ bể và vỡ tan mà thôi. Đôi mắt ông nhìn cuộc đời, không phải là những thờ ơ khắc nghiệt như của Dustin, mà nó là “một hố sâu đen thẳm, bến bờ mờ mịt, chơi vơi, dễ hụt chân.”
Út Võ hận đàn bà, nhưng ông không căm ghét hay mảy may có ý định bỏ rơi hai con của mình. Ông mang chúng theo, dỏi theo chúng bằng cách riêng của mình, cách ông chọn, đứng bên lề cuộc đời chúng. Út võ chưa bao giờ có hành động bỏ rơi con mình như trong phim, khi ông muốn bỏ rơi Nương hay bỏ rơi Điền, ông không làm thế. Ông là một ng` sợ bị bỏ rơi nhiều hơn. Đôi khi cái nhìn giễu cợt của ông dành cho Nương khi thấy cô bé buồn và câu ông thốt ra rất cay đắng, nhưng nó đều xuất phát từ nỗi sợ bị bỏ lại mà thôi .“Chán rồi hả, bao giờ thì đi?” Câu nói đó, mang chất tự giễu cợt mình nhiều hơn, và khiến các con ông nhìn thấu dc nỗi cô đơn như dòng nước xoáy cuộn chảy trong ông. Ông đối xử với bên ngoài thật bình thường, nhưng khi khuất bóng người, ông “hao hao người đóng tuồng vừa trút lớp. Xanh xao, lạnh lẽo đến ngơ ngác và cô đơn.” Chính vì thế mà, Nương và Điền chưa bao giờ oán trách cha của họ.
Út võ lao vào trả thù cuộc đời, ông quyến rũ những ng` đàn bà khác như cách ng` ta quyến rũ vợ ông, ông tính toán vừa đủ để họ rũ bỏ tất cả theo ông, bịt hết đường lui của họ, rồi ông bỏ rơi họ. Ông trả thù, nhưng lại không biết mình trả thù điều gì, ông trút oán hận của mình lên những ng` phụ nữ kia, nhưng nó không xóa dc sự thật là, phải yêu rất nhiều, rất chân thật ông mới hận vợ mình đến như thế. Ông như một con thú hoang trượt dài trong nỗi đau, “có lúc sự vật lộn làm vết thương cũ của con thú đau, nó liếm láp vết máu”, và “chỗ đau ấy cứ rộng thêm ra.” Lở loét chứ chẳng thể lành. Tâm hồn ông tổn thương như thế, và vì thế nên ông cần Nương và Điền biết bao, sẽ ko có chuyện ông đuổi hay bỏ rơi hai chị em họ. Chỉ có điều, ông không nhận ra họ quan trọng với ông đến thế mà thôi
Bước ngoặc cuộc đời ông là khi Điền ra đi. Ông luôn nói về chuyện mọi ng` bỏ ông đi theo một cách giễu cợt, bất cần, nhưng đến khi Điền đi rồi, ông mới nhận ra mình mất mát, ông mới nhận ra, chạy theo những cuộc tình thù, quay cuồng giữ bỏ rơi ng` và sợ bị người bỏ rơi, ông đã quên mất cách níu giữ những thứ bên cạnh, quên cả cách che chở cho các con mình. Khi Điền đi rồi, ông nhận ra mình đã đứng bên lề cuộc sống của hai đứa trẻ quá lâu, ông nhận ra, những đứa trẻ với ông quý giá biết bao. Và nhờ đó, ông dần thay đổi, nhưng sự thay đổi đó, “dường như không còn kịp nữa, để hàn gắn sự đổ nát, để sắp xếp những mảnh vỡ lạo xạo trong lòng.”
Bi kịch của Út võ lên đến cao trào khi ông mất cả đứa con còn lại, khi ông đang thay đổi và Nương đang tận hưởng cảm giác lại dc che chở bởi tía của mình. Cái ngày mà Nương bị hại, Út võ bất lực nhìn con đau đớn, và điều khiến ông còn đau hơn nữa, chính là câu nói của Nương trong lúc tuyệt vọng “Điền ơi, Điền”. Không phải là tía, không phải gọi ông, mà là Điền. Tiếng gọi đó làm ông đau đớn sững sờ, ông nhận ra “một bản năng đơn giản nhất, đứa con gái đã quên mất người cha.” Ông phải trả giá cho những năm tháng đứng bên lề cuộc sống của hai đứa trẻ.
Út võ là một nv khó, vừa đáng hận, cũng vừa đáng thương hại, với nhiều tầng lớp day dứt dằn vặt trong trái tim vá chằng vá đụp vì thương tổn, nhưng Dustin Nguyễn đã ko diễn tả dc điều đó. Ở anh chỉ có một út Võ bất cần đời, một người cha tàn nhẫn và thay đổi 1 cách không logic lắm, từ khi gặp Sương. Và tôi ko thể cảm dc Út võ của anh, thương hại thì chưa tới, căm hận cũng chằng phài, chỉ là lưng chừng, khó hiểu
Nương và Điền lại là hai nhân vật khác trong truyện, không hiểu sao, trong bi kịch cuộc đời mình, hai chị em họ vẫn hiện lên trong sáng nhường ấy trong mắt tôi. Họ là những đứa trẻ chưa thể gọi là lạc quan, nhưng không hề mang oán hờn thù hận. Mất mẹ từ năm chín, mười tuổi, theo cha lang bạt trên những con sông, sống cuộc đời du mục, nhưng họ chưa bao giờ oán ghét cha hay cuộc sống của mình. Nương trong phim kể về cuộc đời mình với vẻ u uất đượm buồn, kể về mẹ với cái giận bị bỏ rơi, ánh mắt em nhìn về những cánh đồng trong chuyến đi rất ảm đạm. Nương trong truyện không như thế. Tôi cảm nhận dc qua từng con chữ, Nương và Điền tự tìm kiếm niềm vui trong chuyến đi của họ. Họ cùng nhau lùa vịt, cùng nhau đốt đèn trò chuyện với những chú vịt, cùng nhau đi lạc, cùng nhau trồng cây, mơ về một mảnh đất làm nhà, hay mơ về một “ông ngoại” để yêu thương. Họ tự tìm niềm vui và gieo rắc kỷ niệm trong hành trình trưởng thành của mình.
Nương và Điền gắn bó theo một cách kỳ lạ, gắn bó đến nỗi, họ không cần nói thành lời vẫn có thể đọc trong tim nhau những điều muốn nói. Với Nương, Điền là một ng` bạn, ng` em trai, ng` tin cậy và là người che chở cho em, bất cứ việc gì, kể cả khi nhìn cha kêu cứu, em cũng gọi tên Điền, và Điền cũng thế, bảo vệ Nương khỏi những ánh nhìn thèm khát của đám trai thôn, che chở cho em, mãi đến ngày Điền rời xa chiếc ghe của 3 cha con và cuộc đời du mục đó. Nương không hề trách mẹ mình, thậm chí, em còn nghĩ vì mình mà mẹ mới ra đi, gia đình mới tan nát, trong suốt hành trình, em luôn dõi mắt trông ra hai bên bờ với hy vọng, gặp ai như mẹ đang ở đấy rừa bát giặc đồ. Nương và Điền thương yêu cha mình, hiểu cha mình. Họ nhìn thấy hố sâu trong mắt ông, sự lạc lõng và cô đơn trong lòng ông, họ thấy vết thương của ông và họ không hề oán hận ông. Họ đơn giản là chấp nhận ông, như một thói quen của họ. Nương trong phim oán cha mình, cô bé đã khóc mà oán cha 7 năm qua sao ko dc như thế, đến nỗi Điền ra đi, còn Nương trong truyện chỉ cười khi nhận dc chiếc nhẫn hồi môn, đơn giản, em cười vì nghĩ đến tương lai, em vui vì cha thay đổi, chứ em ko chất vấn lỗi lầm của cha ngày xưa.
Còn Điền trong phim, cậu si mê Sương, nhưng Điền trong truyện yêu Sương bằng 1 tình yêu khuyết khuyết trong sáng. Vừa là thứ tình yêu dành cho mẹ, vừa là thứ tình yêu dành cho ng` phụ nữ đon đả quyến rũ. Từ ngày nhìn thấy mẹ với ng` đàn ông khác, nhìn thấy cha trong những cuộc tình nóng bỏng mà lòng lạnh băng, Điền căm ghét nhục dục con ng`, coi đó là điều tệ hại, cậu kiềm hãm bản thân, ghê tởm bản thân, sợ hãi mình sẽ như thế, nhưng đến khi gặp Sương, bản năng trong cậu dc đánh thức, chỉ đáng tiếc “Trái tim nó chỉ là hòn than nhỏ, không thể hâm nóng lại cơ thể ngã màu tro. Sợi dây xúc cảm như lối đi lâu lắm không người lui tới, cỏ dại mọc bít mất, đường đứt, cầu gãy…” Tình yêu của Điền, vì thế mà trong sáng. Còn tình yêu của Điền trong phim đầy nhục dục, rất ko thích chi tiết đó.
Về Sương, cô gái điếm cùng đi 1 đoạn trong hành trình của 3 cha con, phim xây dựng hơi đề cao cô này. Tình cảm của cô, đến quá nhanh và quá thành tâm chân thật so với một người đàn bà dày dạn chốn giang hồ như cô. Sương trong phim thiệt giống con gái nhà lành hay ng` từng 1 lần giang dở chứ không lọc lõi, tinh ranh và chai lì như trong truyện. Sương trong truyện tỉnh dậy, giấu đau đớn vào lòng và cất giọng ngọt ngào như chưa từng bị tổn thương, cô ta không hề thều thào gọi cha gọi mẹ, xuýt xoa như thế đâu. Vừa tỉnh lại, câu nhận xét của Sương là dành cho Út võ “cha mấy cưng đẹp trai quá chừng” và từ đó, cô chinh phục Út võ, bằng mọi cách kìa. Tôi cũng ko rõ, Sương yêu Út võ từ khi nào, nhưng cái tình yêu trong truyện nó mơ hồ như sương khói vậy và nó ko có sức lay động Út Võ như trong phim. Trong phim, tôi có cảm giác út võ cũng có tình cảm cho Sương, cũng có xót thương, lay động. Giá trị Sương trong phim là làm thay đổi Út Võ và Điền, nhưng theo hướng tiêu cực đi, tôi ko thích thế. Sương trong truyện thất bại trước sự nhẫn tâm tột cùng của Út võ, nhưng sự ra đi của cô đã mang theo 1 phần máu thịt của ông, là Điền, mất Điền mới là điều khiến ông chợt tỉnh, ko phải là Sương. Phim dựng Điền vì Sương mà giết ng` rồi đi mất, tôi thất vọng quá chừng
Nói chung, so với truyện, tôi ko thích cả 4 nv của phim. Sự biến đổi khiến tác phẩm tròn trịa hơn, nhưng mất đi cái thần trong truyện của chị Tư. Cái cảm giác bi nhưng ko lụy, cái nhìn đầy bàng quan nhưng không vô tâm cùng những tầng vỏ bóc trần con người trong nỗi đau của cuộc sống. Phim hoàn toàn ko mang dc những thứ này vào, đáng tiếc. Nhưng dù sao, coi nó là 1 bộ phim độc lập, thì nó là phim hay rồi, đòi hỏi cao quá =_=
Mọi ng` nói, cái kết trong phim trong sáng hơn, hy vọng hơn, nhưng bản thân tôi thích cái kết trong truyện hơn, vì cơ bản từ đầu tôi ko cho là tác phẩm này u tối. Nó ko bi lụy, nó có cái nhìn hướng về phía trước đó chứ, thế nên tôi thích cái kết của truyện. Cái kết phim, tôi ko thích, Nương nằm đó trên mặt đất mà Út Võ chỉ ngửa mặt kêu trời, trời ở đâu, xa lắm, từ 7 năm nay nó đã quá xa rồi, từ 7 năm nay, tội lỗi của ông còn có đủ để ông kêu trời hay sao. Mâu thuẫn lắm.
Còn cái kết truyện, nó đúng 1 mạch với cá tính Nương, luôn tha thứ, chấp nhận, và hướng về phía trước
“Đứa bé đó, nhất định nó sẽ đặt tên là Thương, là Nhớ hay Dịu, Xuyến, Hường… Đứa bé không cha nhưng chắc chắn được đến trường, sẽ tươi tỉnh và vui vẻ sống đến hết đời, vì được mẹ dạy, là trẻ con, đôi khi nên tha thứ lỗi lầm của người lớn.”
(*) In nghiêng là trích trong tác phẩm
Cáo xinh
[taq_review]
Trích dẫn
CHƯƠNG 1 –
Con kinh nhỏ nằm vắt qua một cánh đồng rộng. Và khi chúng tôi quyết định dừng lại, mùa hạn hung hãn dường như cũng gom hết nắng đổ xuống nơi này. Những cây lúa chết non trên đồng, thân đã khô cong như tàn nhang chưa rụng, nắm vào bàn tay là nát vụn. Cha tôi tháo cái khung tre chắn dưới sàn ghe, bầy vịt lúc nhúc chen ra, cuống quýt, nháo nhào quẫy ngụp xuống mặt nước váng phèn. Một lớp phèn mới, vàng sẫm quánh lại trên bộ lông của những con vịt đói, nhớp nháp bám trên vai Điền khi nó trầm mình bơi đi cặm cọc, giăng lưới rào bầy vịt lại. Tôi bưng cái cà ràng lên bờ, nhóm củi.
Rồi ngọn lửa hoi hót thở dưới nồi cơm đã lên tim, người đàn bà vẫn còn nằm trên ghe. Ngay cả ý định ngồi dậy cũng xao xác tan mau dưới những tiếng rên dài. Môi chị sưng vểu ra, xanh dờn. Và tay, và chân, và dưới cái áo mà tôi đã đắp cho là một cái áo khác đã bị xé tả tơi phơi những mảng thịt người ta cấu nhéo tím ngắt.
Và những chân tóc trên đầu chị cũng đang tụ máu. Người ta đã lòn tay, ngoay chúng để kéo chị lê lết hết một quãng đường xóm, trước khi dừng chân một chút ở nhà máy chà gạo. Họ giằng ném, họ quăng quật chị trên cái nền vương vãi trấu. Vai nữ chính, một người đàn bà xốc xếch đã lạc giọng, đôi lúc lả đi vì ghen tuông và kiệt sức. Nhưng đám đông rạo rực chung quanh đã vực tinh thần chị ta dậy, họ dùng chân đá vói vào cái thân xác tả tơi kia bằng vẻ hằn học, hả hê, quên phứt vụ lúa thất bát cháy khô trên đồng, quên nỗi lo đói no giữa mùa giáp hạt. Cuộc vui hẳn sẽ dài, nếu như không có một ý tưởng mới nảy ra trong cơn phấn khích. Họ dùng dao phay chạt mái tóc dày kia, dục dặc, hì hục như phạt một nắm cỏ cứng và khô. Khi đuôi tóc dứt lìa, được tự do, chị vùng dậy, lao nhanh xuống ghe chúng tôi như một tiếng thét, lăn qua chân tôi, đến chỗ cha, làm đổ những bao trấu cha vừa mới xếp.
Đám người ngơ ngác mấy giây để chấp nhận việc con mồi bỏ chạy. Tôi mất mấy giây để háo hức thấy mình nghĩa hiệp như Lục Vân Tiên, tôi lồm cồm xô ghe dạt khỏi bờ, sợ hãi và sung sướng, tôi cầm sào chống thục mạng ra giữa sông, mắt không rời đám người đang tràn ra mé bờ chực lao xuống, nhảy nhót điên cuồng. Rồi tiếng chửi rủa chói lói chìm đi, tiếng bầy vịt tao tác kêu dưới sạp chìm đi, trong tôi chỉ có âm thanh của chiếc máy Koler4 nổ khan, rung bần bật dưới tay Điền, khạc ra những đám khói khét lẹt, đen ngòm. Khói trôi về phía sau chúng tôi, mờ nhoè những bóng người đang tuyệt vọng ngó theo, bàn tay nào đó cầm nắm tóc của chị vẫy lên phơ phất phơ phất … Cha tôi không đóng vai trò gì trong cuộc tháo chạy ấy, ông im lặng, khi đã đi khá xa, cha ra đằng mũi cầm sào. Tôi bò vào trong ghe, lấy áo đắp lên người chị, sao cho che được đôi vú rách bươm và khoảng đùi rướm máu. Chị cười mếu máo, nói cảm ơn bằng mắt và thiếp đi.
Suốt một quãng đường, chị không hề thay đổi thế nằm, im lìm, lạnh ngắt như người chết. Trong ghe chỉ trôi mênh mang những tiếng rên khi dài, khi ngắn, khi thiu thỉu buồn xo, lúc nghe như tiếng nấc nghẹn ngào… Nhờ vậy mà chúng tôi biết chị còn sống, để đi với chúng tôi gần hết con sông Bìm Bịp, đến cánh đồng hoang vắng này. Điền hơi lo lắng khi nghe chị vẫn còn rên rỉ, nghĩ là chị đã đói, nó hối tôi nấu cơm mau. Nó thấy tiếc vì trên ghe chỉ còn mấy con khô sặt mặn chát, “tui nuốt còn không vô, nói chi…” Nhưng chiều hôm đó và cả ngày sau, chị không ăn. Chị từ chối cả uống nước, đợi đôi môi khô đã bắt đầu nứt ra, chị mới chịu hớp một vài ngụm ít ỏi, dường như chỉ đủ ướt môi. Đói và khát, nhưng chị còn sợ đau hơn. Người ta đã đổ keo dán sắt vào cửa mình của chị… Tôi nói lại với cha và Điền trong bữa cơm. Tôi nghe hai người lặng đi, tiếng đũa tre khua vào miệng chén ngưng bặt. Điền ngó tôi và tôi thì đọc được sự ghê sợ, kinh tởm cồn lên trong mắt cha. Điền chan nước vào chén, lua vội vàng rồi men theo con đường đất dọc mé kinh, nó đi vào trong xóm. Tôi dặn vói theo, ghé tiệm mua giùm ngàn rưỡi đường cát.
Chắc gió đã bạt mất lời tôi, khi quay về, Điền không mang theo gì, nó lẳng lặng xòe tay trước mặt tôi, tay nó dính một lớp gì đó, bóng mượt, trong suốt, và đang khô quánh lại, khiến những ngón tay đơ ra như đá. Điền bảo, “Keo dán sắt…”. Dường như những người sản xuất ra loại keo này cũng không ngờ nó nhiều công dụng đến thế. Hai chị em tôi tỉ mẩn lột lớp keo ra, mảng da non trên bàn tay nó bỏng đỏ nhừ, tươm máu. Chúng tôi cùng ngó về chỗ khoang ghe, nghe tiếng thở thênh thang cùng gió…
CHƯƠNG 2 –
Cánh đồng không có tên. Nhưng với tôi và Điền, chẳng có nơi nào là vô danh, chúng tôi nhắc, chúng tôi gọi tên bằng những kỷ niệm mà chúng tôi có trên mỗi cánh đồng. Chỗ chị em tôi trồng cây, chỗ Điền bị rắn cắn, chỗ tôi có kỳ kinh nguyệt đầu tiên… Và mai này khi trôi dạt đến một nơi nào khác, nhắc đến cánh đồng này với cái tên của chị, chắc chúng tôi sẽ xốn xang.
Sáng sớm ngày thứ ba, chị ngồi dậy được, ngó quanh, chị hỏi, “Trời đất ơi, chỗ nào mà vắng tanh vậy nè”. Làng xóm xa xa đằng phía những rặng dừa xanh thẩm. Đồng đất trống trơn, trên đôi bờ kinh chơ vơ những cây gòn. Hai đứa nhỏ đầu mướt sương đang hí húi trộn thức ăn cho vịt, nhìn chị ngạc nhiên đến ngây ngất. Giọng nói chị không bị thương tích gì hết, trong vắt và ngọt ngào.
Chị hỏi “Tắm ở đâu, mấy cưng?”. Tôi chỉ xuống kinh. Chị ngó những váng phèn, ngao ngán. Điền nói, đằng kia có một cái ao.
Đó là một hố bom cũ, bình bát mọc quanh, rau muống chằng chịt phủ kín mặt nước, cọng rau ốm nhằng, đỏ au. Chỗ này, hôm qua, Điền đã câu được những con cá thát lát ú mềm. Chị trầm mình dưới đó rất lâu, chẳng kỳ cọ gì, chỉ để nước lạnh chườm dịu lại những chỗ đau. Lúc chị lên bờ, tôi thấy máu lợn cợn theo những giọt nước nhỏ xuống giữa hai đùi, chắc chị đã làm gì với chỗ keo dán ác nghiệt ấy. Rồi cũng lâu lắc, cũng cà nhắc từng bước ngắn như lúc đi, chị với tôi quay lại bờ kinh. Điền hí hửng khi thấy chị chịu mặc chiếc áo sơ-mi thẫm phèn và cái quần cụt quăn queo của nó.
Chỉ có cha lầm lì dọn cỏ quanh chòi. Chỉ có cha là hờ hững với thành quả của hai chị em tôi. Không chấp thái độ lạt lẽo của cha, chị ngó về phía người đàn ông đang vồng lưng trong nắng sớm, chếnh choáng: “Ba mấy cưng đẹp trai dễ sợ…”.
Vì lẽ đó? Có phải vì cha mà chị ở lại với chúng tôi, trên một cánh đồng vắng ngắt. Những vết thương đã lành rất mau. Chị cười, bị đánh hoài riết cũng quen. Tôi hỏi chị làm gì để bị đánh. Chị cười, “Làm đĩ”. Rồi có lẽ chị áy náy vì quá sỗ sàng với chúng tôi, chị vò đầu Điền “chắc mấy cưng không biết đâu…”.
Điền nhìn tôi cười. Chúng tôi đã gặp nhiều, rất nhiều người phụ nữ giống chị. Cứ mỗi mùa gặt, họ lại dập dìu trên đê, lượn lờ quanh lều của những thợ gặt, những người đàn ông giữ lúa và bọn nuôi vịt chạy đồng. Họ cố làm ra vẻ trẻ trung, tươi tắn nhưng mặt và cổ đã nhão, nhìn kỹ phát ứa nước mắt. Đêm đến, sau các đụn lúa, họ thả tiếng cười chút chít, tiếng thở mơn man… lên trời, làm nhiều người đàn bà đang cắm cúi nấu cơm, cho con bú trong lều thắt lòng lại. Tối nào mua rượu cho cha, chúng tôi cũng đi ngang qua những đôi người. Chúng tôi nhận ra họ ngay, khi không còn mảnh vải nào trên người họ vẫn điềm nhiên cười khúc khích và uốn éo thân mình chứ không trơ ra ngượng ngịu, cam chịu như những người phụ nữ quê. Sáng sau, họ xiêu xiêu biến mất, đem theo mớ tiền công ít ỏi suốt một ngày làm việc quần quật của đám đàn ông.
Chị, cũng giống như họ, chớm tàn tạ, đói rã ruột ở thị thành mới chạy xuống quê, cất cái quán nhỏ, giả đò buôn bán bánh kẹo lặt vặt, thực chất là làm nghề. Ở đó đàn ông dễ tính và thiệt thà. Chị sống nhờ những món tiền họ cắm câu đêm đêm, bằng tiền bán lúa, dừa khô hay những buồng chuối chín. Cũng có lúc thu hoạch bất ngờ, khi chị mồi chài một người đàn ông vào trò chơi giường chiếu, suốt hai ngày đêm, và chị được một triệu hai. Đó là vốn vay xoá đói giảm nghèo, khi về tới nhà, với tám trăm ngàn còn lại trong túi, hẳn người đàn ông ấy não nề biết bao nhiêu, oán chị biết bao nhiêu khi thấy vợ con nheo nhóc bu quanh nồi khoai luộc trong nhập nhoạng nắng chiều.
– Ăn trên mồ hôi nước mắt của người ta nên lâu lâu bị đánh cũng đáng đời, hen mấy cưng?
Chị nói, và ngã nghiêng cười, dường như chị thấy mình trả giá vậy cũng vừa. “Mà hên nghen, nhờ vậy mà gặp được mấy cưng, được ở chung vầy, vui thiệt vui…”.
Cha không vui, vì có thêm một miệng ăn. Bầy vịt cũng không vui, chúng mổ vào chân chị mỗi khi chị bước qua rào, “bà ở đây làm chi để phần ăn của tụi tui bị xén bớt, trong máng độn toàn là trấu ngán thấy ông thấy cha, đã vậy còn bắt tụi tui đẻ trứng để nuôi bà”. Chị nhảy xổm ra, la oai oái, sau lại cười (mà con mắt đung đưa phía cha) “mai mốt mấy con vịt quỷ này sẽ khoái chị, mấy hồi…”.
Nhưng tôi và Điền biết thể nào chị cũng ra đi, trong mỏi mòn. Quãng thời gian chị bên chúng tôi, vì thế cũng mong manh. Nhiều khi lùa vịt ăn mót một đỗi đồng, nghĩ chị bỏ đi, Điền thảng thốt chạy về.
– Mấy cưng thương chị thiệt hả? Tội chưa…!?? ”.
Chị ngạc nhiên, thấy nước mắt ràn rụa trên má thằng Điền (mà chị không biết là nó bị bệnh chảy nước mắt sống từ hồi chín tuổi). Thật cảm động khi đời đánh ta tả tơi bầm dập, vậy mà hai đứa nhỏ này lại trìu mến, quyến luyến lạ lùng. Thêm một lý do nữa để chị ở lại với chúng tôi, trong một mùa hạn nóng bỏng, bất thường.
Mùa đến sớm. Vì vậy mà nắng rất dài. Mới rồi, chúng tôi dừng chân ở một xóm nhỏ bên bờ sông lớn mênh mang. Mỉa mai, người ở đây lại không có nước để dùng (như chúng tôi đi trên đất dằng dặc mà không có cục đất chọi chim). Người họ đầy ghẻ chóc, những đứa trẻ gãi đến bật máu. Họ đi mua nước ngọt bằng xuồng chèo, nín thở để nước khỏi sánh ra ngoài vì đường xa, nước mắc. Buổi chiều đi làm mướn về, họ tụt xuống ao tắm táp thứ nước chua lét vì phèn, rồi xối lại đúng hai gàu. Nước vo cơm dùng để rửa rau, rửa rau xong dành rửa cá. Con nít ba tuổi đã biết quý nước, mắc lắm cũng ráng chạy ra vườn đái vô chậu ớt, chậu hành (báo hại cây rụi lá). Ở đó, có người con trai bảo, “ước làm sao trước lúc má tui chết, bà được tắm một bữa đã đời”. Câu nói này làm tôi thương anh ta quá chừng. Hôm tôi đi, anh tần ngần đứng bên hè, hỏi nhỏ “Không biết em có muốn ở lại với… má tui?!”. Tôi lắc đầu, hai gàu nước ít ỏi của má anh, tôi nỡ nào sẻ nửa?
Tôi giục cha rời khỏi cái xóm tàn tạ đó. Những cánh đồng chúng tôi qua, lúa chết khô khi mới trổ bông. Người ta không thể trồng đậu, trồng dưa vì thiếu nước. Bầy con nít giỡn nhoi trên những con kinh khô trơ lòng.
Chỗ chúng tôi cắm lều cầm vịt, nước đã sắc lại thẫm một màu vàng u ám. Nhưng chúng tôi chẳng có chỗ nào để đi nữa, từ bờ bên kia của sông Bìm Bịp là vùng đệm cho những cánh rừng tràm lớn. Mùa này, người ta lấy nước từ tất cả các dòng sông nhỏ, các con kinh để bơm vào rừng, chống cháy. Chúng tôi cũng không thể ngược sông Bìm Bịp băng qua vùng Kiên Hà, ở đó họ kiểm dịch thú y rất gắt gao. Và dịch cúm gia cầm nghe đâu vẫn còn bùng phát khắp đồng bằng.
Để bầy vịt khỏi bị chôn sống (điều đó đồng nghĩa với việc đứt vốn cho mùa sau), bọn tôi quyết định vẫn cầm chúng ở đây. Chúng được nuôi trong sự mỏi mòn. Ngày ngày, tôi lùa vịt đi ăn mót những bông lúa khô quắt queo trên đồng, không có nước chúng bì bạch, chậm rì và chẳng thể đi xa. Trứng thưa thớt, những quả trứng chúng đẻ ra cũng chai ngắt, dài nhằng, nhẹ tênh, vỏ dày sần sượng. Đòi hỏi gì nữa ở những con vịt đã già, đã đẻ quần quật suốt ba mùa trước, đã vô vọng vì ngày càng khó tìm lúa và cám trong máng thức ăn. Ngay cả nước để chúng tắm táp cũng chua lét vì phèn.
Mà, mùa mưa vẫn còn xa lắm.
Ngày ngày, Điền rủ chị đi giăng lưới, nhắp cá và tát những cái mương cạn. Cá ăn không hết, chị đem vô xóm bán và hãnh diện đưa cho cha vài mươi ngàn thừa sau khi đã sắm ít quần áo. Mắt chị nhìn cha đầy khiêu khích, “Cuộc đeo đuổi vẫn còn dài, cưng à…”.
Chị đổ lì. Chị tìm mọi cách để sà vào cha. Một bữa chị bảo Điền xuống ghe ngủ với tôi, còn chị sẽ lên chòi. Đó là một đêm tối nhờ nhờ, trôi trên trời một mảnh trăng mỏng leo lét. Điền ngọ nguậy, xoay trở liên tục, nó kêu khó ngủ, đòi nghe tôi hát, bài gì cũng được. Nhưng Điền vẫn thao thức, dường như giọng hát tôi không át được tiếng sột soạt rạo rực trong cái chòi nhỏ trên bờ. Điền chê ngủ ghe chòng chành quá chừng. Tôi biết lòng nó đang chao.
Điền có những ngày bối rối. Nó hay hỏi tôi, “người ta thương mẹ ra làm sao?”. Mặt nó dãn ra, khi biết cây kẹp tóc, trái dừa tươi hay con cá thác lác… mà nó dành cho chị cũng giống hệt như người ta vẫn thường cho mẹ. Và niềm nhớ lúc đi xa, nỗi khao khát được nằm gần, được dụi mũi mình vào da thịt người đó… cũng tự nhiên như ý nghĩ bình thường nhất của những đứa con. Nhưng những nghi hoặc vẫn loay hoay trong mắt Điền, và nó quyết định chịu đựng một mình, khám phá một mình. Thí dụ như đêm nay, cái gì khiến tim ta đau nhói, cái gì làm cho ta cảm thấy giận dữ, nặng nề?
Khi tôi thức dậy, Điền đã mệt mỏi thiếp đi, nó nằm co quắp, hai tay kẹp giữa đùi, mặt buồn như phủ một lớp sương giá. Chị bước ra khỏi chòi, khoan khoái vươn vai. Sự ưng ý, mãn nguyện lấp lánh trên khoé mắt. Khuôn mặt chị tràn ngập ánh sánh, như chị vừa mở ra một cánh cửa mặt trời. Có một con đường nào đó trãi dài trước chị. Chị cười, bảo:
– Hồi hôm sương nhiều ghê, nó nhiểu lên mặt chị hoài, nhột gần chết.
Rồi chị giành nấu cơm. Chị xoắn tay áo lên hì hụi thổi lửa, đầu tóc xấp xãi dính đầy vảy cá. Trông chị như bà vợ tảo tần. Hình ảnh ấy làm tôi ứa nước mắt, nhưng cha tôi chỉ lạt lẽo nhếch cười. Vì cái cười đó mà tôi ứa nước mắt thêm lần nữa.
Cha đưa chị một ít tiền ngay trong bữa cơm, khi nhà đủ mặt, “Tôi trả cho hồi hôm…”. Rồi cha điềm nhiên phủi đít đủng đỉnh đứng lên, sự khinh miệt và đắc thắng no nê trong mắt. Chị nhét tiền vào trong áo ngực, cười, “Trời ơi, ba mấy cưng sộp quá chừng”.
Điền và tôi rủ chị đi câu (Chúng tôi cho là chị buồn, dù chuyện đó khá tức cười, làm điếm được trả tiền mà buồn nỗi gì). Suốt buổi, không dính con cá nào, chị nói, “Mắc cười quá, tới mấy con cá quỷ này còn chê chị”. Câu nói nghe tỉnh bơ, bâng quơ mà tủi vô phương. Điền lặng bắt con cá rô lội xuống mương, lặn sâu, móc cá vô lưỡi câu của chị. Lúc nó trồi đầu lên thì đã thấy chị cười.
Trưa ấy chúng tôi trầm nghịch dưới nước rất lâu. Chị cười nôn khi thấy bùn bám dưới mũi tôi xám xanh như bộ râu củ ấu. Tự dưng nét mặt chị bỗng âu yếm lạ, như đang nựng nịu một đứa bé con và thằng em trai mười bảy tuổi của tôi đứng đực ra, chết lặng trong nỗi ngượng ngùng. Nước cồn cào chỗ bụng nó, tôi biết chị đang táo tợn làm gì đó phía dưới. Rồi phát hiện ra một mất mát lớn lao, chị thảng thốt kêu lên:
– Trời đất ơi, sao vầy nè, cưng?
Chị toàn hỏi những câu hỏi khó. Chỉ nghe thôi đã đau, nói chi trả lời. Thí dụ như có lần chị hỏi “Má mấy cưng đâu?”, “Nhà mấy cưng ở chỗ nào?”, thằng Điền đổ quạu:
– Biết chết liền!