Review

Bill Gates – Tham Vọng Lớn Lao Và Quá Trình Hình Thành Đế Chế Microsoft

Thể loại Sách kinh doanh
Tác giả James Wallace & Jim Erickson
NXB NXB Thời Đại
Công ty phát hành Alphabooks
Số trang 465
Ngày tái bản 12-2011
Giá bánXem giá bán

Giới thiệu sách

Cuốn sách này mở ra một câu chuyện sinh động và chân thực nhất về sự nổi lên của một thiên tài độc đoán, cách thức ông làm thay đổi cả một nền công nghiệp máy tính, và lý do tại sao mọi người quyết tâm tìm hiểu ông bằng được.

Trong tiết lộ thú vị này, hai phóng viên điều tra Wallace và Erickson đã lần theo bước chân của Gates từ những ngày còn là một hacker 13 tuổi tóc tai bù xù đến địa vị trở thành CEO lừng danh của một tập đoàn hàng đầu thế giới – Microsoft. Một phần doanh nhân, một phần lập dị, Gates đã trở thành nhân vật quyền lực nhất, giàu có nhất và cũng đáng sợ nhất trong ngành công nghiệp máy tính. Hai tác giả đã nói chuyện với tất cả những ai biết bất cứ điều gì đó về Gates và Microsoft – từ những người bạn thời thơ ấu cho tới những nhân viên và các đối thủ kinh doanh, những người có thể thiết lộ thông tin về chiều cao, những hạn chế, và cả những ma thuật của Gates.

Từ những thành tích xuất sắc của Gates cho đến sự thô lỗ, ngạo mạn không kém bất thường của ông, và cả sự thù địch (không khí rất căng thẳng tại Microsoft tới nỗi những lập trình viên phải cho nổ bom tự tạo để giảm bớt căng thẳng), đây là một tiết lộ độc đáo thể hiện cái nhìn về một con người đã nổi lên như một ông vua của một ngành công nghiệp nổi tiếng tàn bạo.

Trong cuốn sách này đầy ắp những phân tích khách quan về chiến thắng trong kinh doanh của một tập đoàn hàng đầu và chân dung người lãnh đạo cừ khôi nhưng cũng lập dị đáng kinh ngạc đứng sau tất cả những thành quả đó.

[taq_review]

Trích đoạn sách

Những chàng trai Microsoft

Khách sạn Sundowner ở Albuquerque, bang New Mexico nằm ở một khu nhếch nhác của thành phố nổi tiếng về nạn mại dâm và những quán cà phê mở cửa suốt đêm hơn các công ty kỹ thuật cao. Nó nằm cạnh Đại lộ Trung tâm, tên gọi của đường số 66 khi nó đi xuyên qua thành phố sa mạc nóng như thiêu như đốt này của vùng Rio Grande. Khi Paul Allen đến khách sạn này vào mùa xuân 1975, anh bảo người quản lý rằng anh không biết chắc chắn mình sẽ ở lại bao lâu, nhưng có lẽ cho đến lúc người bạn ở Harvard tìm đến sau vài tháng nữa. Allen chẳng màng chỗ ở rẻ tiền hay khung cảnh buồn bã quanh khách sạn. Điều quan trọng là anh đang ở cách MITS, nơi anh sẽ dành hầu hết thời gian để soạn BASIC cho máy Altair, chỉ có năm phút đi bộ. Phải tìm kiếm và khử các lỗi của ngôn ngữ này trước khi tung nó ra thị trường.

So với công việc của anh ở Honeywell, Allen gặp phải tình trạng hỗn độn náo nhiệt ở MITS. Mặc dù chức danh của anh là giám đốc phần mềm của MITS, thực chất cả bộ phận phần mềm chính là anh. Những người khác do công ty tuyển dụng đang làm việc hối hả về phần cứng của Altair. Bài báo trên tờ Điện tử Phổ thông là một sự kiện gần như trọng đại. Nó kích thích trí tưởng tượng của những tay chơi điện tử và những tay mày mò máy tính khắp trong nước đã từng mơ đến một ngày được làm chủ một chiếc máy tính. Giờ đây họ đã toại nguyện, với cái giá rất hợp túi tiền là 397 đô-la.

“Bạn phải biết rằng ngày ấy, ý tưởng làm chủ một chiếc máy tính, một chiếc máy tính của riêng mình, cũng kinh khủng chẳng kém gì ý tưởng ngày nay bạn làm chủ một chiếc tàu ngầm hạt nhân. Nó vượt quá sức tưởng tượng”, lời Eddie Curry, người gia nhập MITS trong vai trò phó chủ tịch ngay sau khi Allen đến. Họ nhanh chóng trở thành bạn bè. “Máy tính là những thứ được đặt trong các toà nhà lớn và chiếm nhiều tầng lầu cũng như cần có đội ngũ bảo trì và người trông nom chúng. Phần lớn sự thành công của Altair và máy tính sau đó là do mọi người ước muốn được làm chủ một chiếc máy. Chuyện họ có làm gì được với máy tính ấy hay không là điều không quan trọng. Ai cũng biết chúng ta có thể làm gì đó với máy tính nhưng không ai biết đó là việc gì. Chỉ riêng việc có một chiếc máy tính cũng đã đủ oai rồi.”

Curry, một người bạn thời thơ ấu của Roberts, đang học đại học thì Roberts bàn với anh ý tưởng về một chiếc máy tính nhỏ dành cho đại chúng. Họ đã nói chuyện rất nhiều qua điện thoại, tốn kém cả trăm đô-la hàng tháng. Mặc dù thay phiên nhau thanh toán, Curry không kham nổi khoản tốn kém quá mức trong khi còn đi học, cho nên anh ta và Roberts bắt đầu trao đổi băng từ, hoá ra chúng lại là những sản phẩm dày công sáng tạo, gồm có cả hiệu ứng âm thanh, nhạc nền, thơ trào phúng và những bài đọc truyền cảm.

“Chúng tôi trao đổi về công việc qua hình thức này”, Curry cho biết, “và tôi hỏi anh ấy qua băng đâu là mục tiêu của ta đối với MITS và anh ta muốn gì ở MITS. Anh ta đã bảo tôi rằng giấc mơ của anh ta là chế tạo một chiếc máy tính để ai cũng có thể sở hữu được một chiếc máy tính”. Anh ta và Roberts đã thảo luận về chi tiết kỹ thuật, thậm chí đến cả giá cả mà Roberts sẽ bán ra đối với Altair.

Do MITS gần phá sản, Roberts đã đánh liều mọi thứ với Altair. Anh ta đã vay được một khoản 65.000 đô-la trước đó bằng cách trấn an các chủ ngân hàng ở Albuquerque rằng có một thị trường hàng trăm máy tính. Thực tế, MITS được nhiều người hỏi mua Altair trong vòng vài ngày sau khi số báo Điện tử Phổ thông đăng tải về Altair được ấn hành. Trong vòng vài tuần lễ, hơn 4000 đơn đặt hàng máy tính này đã đổ về. Hầu như chỉ trong một đêm, mức tiền mặt của công ty từ thâm hụt 300.000 đô-la đã thặng dư 250.000 đô-la. Cơ hội sở hữu một chiếc máy tính có sức cuốn hút đến độ hàng nghìn người đã gửi ngân phiếu đến một công ty họ chưa từng nghe nói đến. Một số tay hăng máu còn bay đến Albuquerque bằng máy bay riêng, hy vọng khi đích thân tìm đến sẽ có được máy trước những người khác.

Les Solomon, nhà biên tập kỹ thuật thấp người, đầu hói của tờ Điện tử Phổ thông, người in hình chiếc máy Altair giả lên bìa, đã kể lại những phản ứng diễn ra sau kỳ ấn hành ấy trong cuốn Hacker của tác giả Steven Levy:

“Chỉ có một từ duy nhất có thể nói sự kiện này là thần kỳ… Hầu như người ta chẳng ai chịu phí 15 xu để gọi điện vô bổ cho một công ty, bạn có đồng ý không? Khoảng 2.000 người, không hề thấy mặt, đã gửi ngân phiếu, chi phiếu, ba, bốn, năm trăm đô-la mỗi đơn đặt hàng, đến một công ty nhỏ ở một thành phố ít biết đến, thuộc một tiểu bang chẳng có tiếng tăm gì về kỹ thuật. Những người này hoàn toàn không biết nhau. Họ là những kẻ phiêu lưu trong một vùng đất mới. Họ giống như những kẻ phiêu lưu trong một vùng đất mới. Họ giống như những người đến miền Tây vào thuở sơ khai của nước Mỹ. Có trời biết họ sẽ đến California, Oregon hay đi đâu.”

Trong phần quảng cáo của mình, MITS hứa hẹn giao máy tính trong vòng hai tháng. Nhưng công ty chưa chuẩn bị cho số lượng đơn đặt hàng nhiều đến mức choáng váng mà họ nhận được. Khách hàng nôn nóng đã gửi tiền đặt mua Altair cứ gọi điện đến tìm hiểu vì lý do gì mà họ chưa nhận được máy tính như đã hứa. Họ được cho biết MITS có hồ sơ đặt hàng rất lớn và họ phải chờ đợi. Một tay hacker nôn nóng đã lái xe xuyên quốc gia đến ở nhiều tuần lễ trong một chiếc rờ moóc đậu gần MITS, chờ nhận máy Altair của mình.

Với 397 đô-la bỏ ra, những người phiêu lưu này không thu được nhiều nhặn gì. Họ nhận được máy Altair dưới dạng một bộ linh kiện. Khách hàng phải hình dung cách lắp ráp chúng lại với nhau, một công việc mất nhiều giờ đồng hồ và không đơn giản. Hầu hết các bộ linh kiện đều không lắp ráp, máy tính này cũng chẳng làm được gì nhiều lắm. Nhưng chiếc máy đầu tiên được bán đầu năm 1975 không có mạch giao tiếp cho phép kết nối với máy teletype. Mạch mở rộng bộ nhớ cũng chưa có, cho nên máy Altair chỉ là một chiếc máy không có não, với chỉ 256 byte bộ nhớ. Các chương trình thô sơ bằng thứ ngôn ngữ nhị phân phức tạp của máy chỉ có thể nhập vào máy bằng cách gạt các công tắc trên bảng điều khiển hàng trăm lần theo đúng trình tự. Chỉ một lần sai sót là người sử dụng phải làm lại toàn bộ từ đầu.

Ngôn ngữ máy tính BASIC 8080 mà Gates và Allen đang tạo lập ở Harvard vẫn chưa hoàn tất khi những bộ linh kiện Altair được chuyển giao. Cho dù phần mềm đã có sẵn, MITS vẫn chưa thiết kế các mạch nhớ nhằm cho phép người sở hữu có đủ bộ nhớ bổ sung để chạy BASIC. Trách nhiệm của Paul Allen trong vai trò giám đốc phần mềm của MITS năm 1975 là tiếp tục nâng cao BASIC và hoàn chỉnh để chuyển giao. Anh ta và Gates nói chuyện điện thoại liên tục về các vấn đề kỹ thuật nảy sinh. Cả hai đều nhận thức một thị trường phần mềm mới đã ra đời cùng với Altair, và họ hy vọng kiếm được bộn tiền nhờ bán BASIC của mình. Yếu tố mà giờ đây họ cần đến là một pháp nhân chính thức.

* * *

Có lúc, Gates đã cố gắng mào đầu với bố mẹ mình về việc cuối cùng anh sẽ bỏ học Harvard để lập một doanh nghiệp máy tính với Allen. Nhưng tin mới nhất đã làm bố mẹ anh bất ngờ. Anh muốn lập một công ty không phải tại Seattle, quê nhà, nơi anh có thể sống gần gia đình, mà lại ở Albuquerque, khuất nẻo giữa những sa mạc của bang New Mexico.

Dưới mắt Mary Gates, cậu con trai 19 tuổi của bà sắp sửa làm một chuyện chẳng khác nào tự kết liễu con đường học vấn. Bà cực lực phản đối chuyện con trai bỏ học trước khi tốt nghiệp. Dan Evans, thống đốc bang Washington và là một người bạn thân của gia đình, vừa đề cử Mary Gates làm thành viên Hội đồng Quản trị đại học Washington, một trong những địa vị chính trị có uy tín nhất của tiểu bang. Giờ đây, con trai bà bỏ học ở Harvard thì bà chẳng biết sự thể ra sao nữa. Cha của Gates cũng phản đối mạnh mẽ chuyện anh lập công ty trước khi ra trường. Nhưng mặc dù cả ông và Mary đều thúc ép con tiếp tục học, cả hai cũng nhận thấy mình không có đủ hiểu biết chuyên môn để phân tích lý lẽ của việc thành lập một công ty phần mềm.

Vì thế, Mary Gates đã nhờ đến một người bạn mới, Samuel Stroum, một nhà lãnh đạo kinh doanh đáng kính và có thanh thế mà bà đã gặp trong một chiến dịch của tổ chức United Way, giúp đỡ về việc con bà. Bà đã thu xếp cho Bill nói chuyện với Stroum, với hy vọng Stroum sẽ thuyết phục cậu con trai từ bỏ ý định lập một công ty, ít ra cũng trong giai đoạn hiện tại, để tiếp tục việc học ở Harvard.

Là một nhà triệu phú tự lập, một người nhân ái và một nhà lãnh đạo quần chúng, Samuel Stroum thường được mọi người xin ý kiến, thậm chí ngay cả những người cầm trịch có thế lực nhất trong vùng. Cũng như Mary Gates, Stroum là một thành viên của Hội đồng Quản trị Đại học Washington, Stroum chưa bao giờ học đại học. Sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai, ông thành lập một công ty phân phối hàng điện tử ở Seattle và sau đó tích luỹ được một cơ nghiệp từ việc kinh doanh Shuck’s Auto Supply, đầu mối phụ tùng xe hơi danh tiếng nhất miền Tây Bắc. Vào thời điểm 1975, ông là một trong số vài người trong cộng đồng doanh nghiệp Seattle không am hiểu về công nghệ máy tính nhưng có tầm nhìn thấu đáo về tương lai của ngành này.

Khi Gates từ Harvard về nhà vào kỳ nghỉ, Stroum đưa anh đi ăn trưa ở Câu lạc bộ Rainier, trung tâm quyền lực và kinh doanh của thành phố. Sáng lập năm 1888 và có bề dày truyền thống, câu lạc bộ tư nhân này được xem là nơi ăn trưa trong giới chính khách, các nhà môi giới chính trị và các vị chức sắc các công ty. “Rõ ràng tôi đã bị thuyết giáo”, Stroum hồi tưởng mấy giờ đồng hồ mà ông đã ngồi khai thác suy nghĩ của Gates. “Anh chàng đã giảng giải cho tôi nghe anh đang làm gì, anh ta hy vọng sẽ làm gì. Tôi đã từng bước chân vào ngành từ lúc còn trẻ. Anh chàng chỉ cần nói về những gì anh ta đang làm… bất cứ ai biết chút ít về điện tử đều thấy rằng vấn đề rất hứng thú và một kỷ nguyên mới đang mở ra.”

Gates đã nói về tầm nhìn của anh và Paul Allen. Cuộc cách mạng máy tính cá nhân chỉ mới đang bắt đầu, anh nói với Stroum. Rồi sẽ đến lúc tất cả mọi người đều có một chiếc máy tính. Hãy tưởng tượng đến những khả năng thu lợi nhuận… vô số máy đều chạy phần mềm của anh.

Stroum không những không thuyết phục cậu từ bỏ kế hoạch lập một doanh nghiệp mà sau khi lắng nghe chàng thanh niên tâm huyết này ông còn khuyến khích Gates thực hiện. “Mary và tôi đã đùa về chuyện ấy suốt bao nhiêu năm”, lời kể của Stroum, nay đã 70 tuổi. “Tôi bảo bà ấy tôi đã phạm một sai lầm khủng khiếp – tôi đã không đưa cho anh chàng một ngân phiếu trống để điền vào. Người ta đánh giá tôi là một nhà đầu tư khôn ngoan, nhưng quả là tôi đã không nhận ra vụ này.”

Khi Gates học hết năm thứ hai ở Harvard, anh cùng tham gia với Paul Allen ở Albuquerque, dù anh vẫn chưa quyết định về chuyện bỏ học. Đó là một quyết định mà một năm rưỡi sau đó anh mới thực hiện.

Microsoft – viết tắt từ Microcomputer Software (phần mềm máy vi tính) – ra đời vào mùa hè năm 1975. (Tên ban đầu là “Micro-Soft”, dấu nối được bỏ đi sau đó không lâu). Một số nguồn tin cho rằng Gates và Allen lập nên Microsoft từ Traf-O-Data đơn giản bằng cách đổi tên. Không phải như thế. Hai công ty này lúc nào cũng có tỷ lệ ăn chia riêng biệt. Thỏa thuận ăn chia ban đầu của Microsoft quy ước là 60/40 nghiêng về phía Gates, vì anh cho rằng anh đã bỏ công nhiều hơn trong giai đoạn đầu phát triển BASIC. Tỷ lệ này về sau được đổi thành 64/36. (Vào lúc Microsoft phát hành cổ phiếu ra công chúng vào năm 1986, Gates sở hữu hơn 11 triệu cổ phần công ty còn Allen hơn 6 triệu cổ phần).

Mặc dù Gates giàu có nhờ bố mẹ và di chúc ông ngoại để lại cho anh, anh quyết tâm phải tự kiếm tiền và không dựa vào số tiền đó để tài trợ cho doanh nghiệp của anh và Allen. Bố mẹ và ông bà anh đã dạy anh rằng phải thận trọng về tài chính và đó là cách mà anh muốn điều hành công ty của mình. Người ta không hề thấy Microsoft có những khoản chi tiêu nào phung phí. Khi Gates đến Albuquerque, anh và Allen ở cùng phòng tại Motel Sand & Sage, chỉ khá hơn Sundowner chút ít. Sau đó, họ chuyển đến một căn hộ rẻ tiền dưới phố.

Đầu mùa hè ấy, MITS tổ chức một chuyến đi quảng cáo cổ động Altair. Nhiều kỹ sư phần cứng của công ty đã dồn vào căn nhà di động màu xanh của Roberts và đi xuyên nước Mỹ. Nhà di động MITS, hay “Ngỗng xanh”, như người ta nhanh chóng đặt biệt danh cho nó, mang theo một chiếc Altair hoàn chỉnh với cả những thứ không có trong những bộ máy tính đã bán cho người sử dụng. Máy Altair này được kết nối với máy teletype và máy đọc băng giấy, chạy phiên bản BASIC 4K do Gates và Allen soạn. Đó là một chuyến đi vận động tạo mối quan hệ. Bất cứ nơi đâu nhà di động MITS dừng lại, cuộc trình diễn Altair liền được dựng lên. Các hội thảo được tổ chức trong phòng motel. Những người hâm mộ máy tính rủ nhau thành lập các câu lạc bộ máy tính trong các nhà để xe, tầng hầm và bất cứ nơi đâu họ có thể gặp gỡ để trao đổi thông tin không biết chán về máy tính và chia sẻ niềm đam mê đối với cuộc cách mạng mới mẻ này và những tiềm năng của nó. Đoàn lữ hành MITS cũng đóng vai trò đoàn bác sĩ phẫu thuật lưu động. Các chuyên gia phần cứng sửa chữa kỹ thuật cho những sở hữu chủ Altair có máy gặp trục trặc không hoạt động được. Chính Gates cũng tham gia chuyến đi trong nhà di động MITS vào mùa hè đầu tiên anh đến Albuquerque. Anh thấy đó cũng là một chiến lược tiếp thị tốt để quảng cáo cho tên tuổi của BASIC.

Nhà di động MITS không phải là chiến thuật tiếp thị duy nhất Roberts áp dụng để cổ vũ cho Altair. Anh và David Bunnell, cây viết kỹ thuật của công ty, đã thành lập một câu lạc bộ toàn quốc với quyền hội viên miễn phí dành cho những người sở hữu Altair. Bunnell cũng bắt đầu ấn hành một bản tin gọi là Bản tin Máy tính. Roberts viết một mục thường kỳ cho bản tin và Gates cùng Allen trở thành những cây viết thường xuyên có bài về phân tích phần mềm của họ. Bunnell, người đã bỏ công việc dạy học ở vùng đất bảo tồn của người da đỏ tại South Dakota để gia nhập MITS năm 1972, đã trở thành bạn thân của Gates. Bunnell đã thiết kế biểu tượng và tiêu đề đầu tiên cho Microsoft. Anh sẽ trở thành một trong những nhà xuất bản hàng đầu về tạp chí máy tính cá nhân.

Gates, khi không lên đường với nhà di động MITS thì thức suốt đêm với Allen để tiếp tục cải tiến BASIC. Đến giữa mùa hè, họ đã có một phiên bản BASIC 8K đi với phiên bản 4K và họ đang thực hiện một phiên bản BASIC “mở rộng” đòi hỏi 12K hay 16K bộ nhớ. Ngày 22/7/1975, họ ký một thỏa thuận bản quyền chính thức với Ed Roberts về các quyền lợi đối với BASIC của họ dành cho mạch máy tính 8080. Bản thỏa thuận này, do Gates soạn với sự giúp đỡ của bố và một luật sư của Albuquerque, là một bước đột phá mới. Gates, mới chỉ 19 tuổi, không chỉ am hiểu kỹ thuật phức tạp mà còn nắm được khía cạnh pháp lý của việc bảo hộ phần mềm. Bản thỏa thuận, có giá trị mười năm, cho phép MITS độc quyền trên toàn thế giới trong việc sử dụng và cấp giấy phép BASIC, trong đó có quyền cấp giấy phép cho bên thứ ba. MITS thỏa thuận không cấp giấy phép cho bên thứ ba nào trước hết không chịu cam kết bảo mật BASIC. Điều khoản về sau tỏ ra là phần quan trọng nhất trong thỏa thuận có đoạn ghi: “Công ty (MITS) thỏa thuận nỗ lực tối đa để cấp giấy phép, cổ động và thương mại hoá chương trình (BASIC). Việc Công ty không chịu nỗ lực hết mức… sẽ là cơ sở và nguyên do hữu hiệu để chấm dứt thỏa thuận…” Bản hợp đồng với MITS đóng vai trò mô hình cho những bản thỏa thuận bản quyền phần mềm trong tương lai của ngành máy vi tính và nó đã góp phần thiết lập những tiêu chuẩn của ngành này.

Bạn đọc cảm nhận

Nguyễn Linh Vân

Bill Gate luôn là thần tượng trong lòng mình nên mua cuốn sách này mình nghĩ là một lựa chọn đúng đắn của mình. Cuốn sách hay và bổ ích viết về các kinh nghiệm từng trải của ông, về cuộc đời và con đường đi đến thành công hôm nay. Chất lượng sách khá tốt với bìa cứng không dễ hỏng, giấy dày tuy nhiên hơi tôi khó để đọc. Cuốn sách cho ta biết để thành công cần kiên trì, vượt qua khó khăn, biết ước mơ và dám thực hiện bên cạnh đó còn cần biết mắn bắt cơ hội và một chút yếu tố may mắn.

Hà Liên

Bill Gates và những thành công của ông thì chắc khỏi phải nói tới, chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đều biết đến. Bản thân tôi cũng vậy. Cái sự tò mò về cuộc đời, về sự trưởng thành, về quá trình hình thành nên đế chế Microsolf đã cuốn hút tôi tìm đọc cuốn sách này. Và nó đã giúp tôi vỡ lẽ ra nhiều điều, về điều gì làm nên thành công của Gates. Bên cạnh thiên tài về máy tính, về phần mềm, về lập trình, thì chính là tài kinh doanh ngay từ lúc còn rất nhỏ của Bill Gates đã giúp ông nhận ra được đâu là cơ hội vàng. Đây là một cuốn sách các bạn nên tìm đọc.

Nguyễn Liên

Nếu bạn đang quan tâm đến máy tính , bạn sẽ tìm thấy ở cuốn sách này những hiểu biết kì thú. Nếu bạn đang quan tâm đến tiền bạc, đây là một nghiên cứu trường hợp về việc làm thế nào để tạo ra nó. Còn nếu con người là điều hấp dẫn bạn nhất , thì việc khám phá ra điều gì có thể làm Bill Gates dao động sẽ hoàn toàn thu hút sự chú ý của bạn.

Đúng như tiêu đề, cuốn sách cho ta thấy cái nhìn đầy đủ và khái quát nhất về cuộc đời, hành trình trở thành nhà tỉ phú và bậc thầy tronh ngành công nghệ máy tính.

Sách dày khoảng 500 trang gồm 5 chương theo chân Bill Gates từ khi còn là một cậu bé 11 tuổi đến khi trở thành một tỉ phú lạnh lùng và đầy quyền lực.

Giang Vi

Tôi là một người yêu sách cuồng nhiệt và đã hơn 20 năm. Tôi dành cả ngày để đọc, viết blog về sách và viết bình luận. Tôi tin rằng sách là công cụ mạnh mẽ nhất trong cuộc sống để mở mang đầu óc cho những ý tưởng và quan điểm mới. Các thể loại yêu thích của tôi bao gồm tiểu thuyết lịch sử, giả tưởng, khoa học viễn tưởng và phi hư cấu. Tôi cũng thích tìm hiểu về các nền văn hóa khác nhau thông qua văn học.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts:

Back to top button