Kỹ năng mềm

Phương Pháp Luận Sáng Tạo Và Đổi Mới

1. THÔNG TIN SÁCH/EBOOK

Tác giả : Thụy Khuê

Download sách Phương Pháp Luận Sáng Tạo Và Đổi Mới ebook PDF/PRC/MOBI/EPUB. Tải miễn phí, đọc online trên điện thoại, máy tính, máy tính bảng.

Danh mục : Sách kỹ năng mềm

Đọc thử Xem giá bán

2. DOWNLOAD

File ebook hiện chưa có hoặc gặp vấn đề bản quyền, Downloadsach sẽ cập nhật link tải ngay khi tìm kiếm được trên Internet.

Bạn có thể Đọc thử hoặc Xem giá bán.

Bạn không tải được sách ?  Xem hướng dẫn nhé : Hướng dẫn tải sách


3. GIỚI THIỆU / REVIEW SÁCH

Lời giới thiệu

Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới (viết tắt là PPLSTVĐM, tiếng Anh là Creativity and Innovation Methodologies) là phần ứng dụng của Khoa học về sáng tạo (Sáng tạo học, tên cổ điển – Heuristics, tên hiện đại – Creatology), gồm hệ thống các phương pháp và các kỹ năng cụ thể giúp nâng cao năng suất và hiệu quả, về lâu dài tiến tới điều khiển tư duy sáng tạo (quá trình suy nghĩ giải quyết vấn đề và ra quyết định) của người sử dụng.
Suốt cuộc đời, mỗi người chúng ta dùng suy nghĩ rất nhiều, nếu không nói là hàng ngày. Từ việc trả lời những câu hỏi bình thường như “Hôm nay ăn gì? mặc gì? làm gì? mua gì? xem gì? đi đâu?…” đến làm các bài tập thầy, cô cho khi đi học; chọn ngành nghề đào tạo; lo sức khỏe, việc làm, thu nhập, hôn nhân, nhà ở; giải quyết các vấn đề nảy sinh trong công việc, trong quan hệ xã hội, gia đình, nuôi dạy con cái…, tất tần tật đều đòi hỏi phải suy nghĩ và chắc rằng ai cũng muốn mình suy nghĩ tốt, ra những quyết định đúng để “đời là bể khổ” trở thành “bể sướng”.
Chúng ta tuy được đào tạo và làm những nghề khác nhau nhưng có lẽ có một nghề chung, giữ nguyên suốt cuộc đời, cần cho tất cả mọi người. Đó là “nghề” suy nghĩ và hành động giải quyết các vấn đề gặp phải trong suốt cuộc đời nhằm thỏa mãn các nhu cầu chính đáng của cá nhân mình, đồng thời thỏa mãn các nhu cầu để xã hội tồn tại và phát triển. Nhìn dưới góc độ này, PPLSTVĐM giúp trang bị loại nghề chung nói trên, bổ sung cho giáo dục, đào tạo hiện nay, chủ yếu, chỉ đào tạo các nhà chuyên môn. Nhà chuyên môn có thể giải quyết tốt các vấn đề chuyên môn nhưng nhiều khi không giải quyết tốt các vấn đề ngoài chuyên môn, do vậy, không thực sự hạnh phúc như ý.

Các nghiên cứu cho thấy, phần lớn mọi người thường suy nghĩ một cách tự nhiên như đi lại, ăn uống, hít thở mà ít khi suy nghĩ về chính suy nghĩ của mình xem nó hoạt động ra sao để cải tiến, làm suy nghĩ của mình trở nên tốt hơn, như người ta thường chú ý cải tiến các dụng cụ, máy móc dùng trong sinh hoạt và công việc. Cách suy nghĩ tự nhiên nói trên có năng suất, hiệu quả rất thấp và nhiều khi trả giá đắt cho các quyết định sai. Nói một cách nôm na, cách suy nghĩ tự nhiên ứng với việc lao động bằng xẻng thì PPLSTVĐM là máy xúc với năng suất và hiệu quả cao hơn nhiều. Nếu xem bộ não của mỗi người là máy tính tinh xảo – đỉnh cao tiến hóa và phát triển của tự nhiên thì phần mềm (cách suy nghĩ) tự nhiên đi kèm với nó chỉ khai thác một phần rất nhỏ tiềm năng của bộ não. PPLSTVĐM là phần mềm tiên tiến giúp máy tính – bộ não hoạt động tốt hơn nhiều. Nếu như cần “học ăn, học nói, học gói, học mở” thì “học suy nghĩ” cũng cần thiết cho tất cả mọi người.

PPLSTVĐM dạy và học được như các môn học truyền thống: Toán, lý, hóa, sinh, tin học, quản trị kinh doanh… Trên thế giới, nhiều trường và công ty đã bắt đầu từ lâu và đang làm điều đó một cách bình thường. Dưới đây là vài thông tin về PPLSTVĐM trên thế giới và ở nước ta.

Từ những năm 1950, ở Mỹ và Liên Xô đã có những lớp học dạy thử nghiệm PPLSTVĐM. Dưới ảnh hưởng của A.F. Osborn, phó chủ tịch công ty quảng cáo BBD & O và là tác giả của phương pháp não công (Brainstorming) nổi tiếng, Trung tâm nghiên cứu sáng tạo (Center for Studies in Creativity) được thành lập năm 1967 tại Đại học Buffalo, bang New York. Năm 1974, Trung tâm nói trên bắt đầu đào tạo cử nhân khoa học và năm 1975 – thạc sỹ khoa học về sáng tạo và đổi mới (BS, MS in Creativity and Innovation).

Ở Liên Xô, G.S. Altshuller, nhà sáng chế, nhà văn viết truyện khoa học viễn tưởng và là tác giả của Lý thuyết giải các bài toán sáng chế (viết tắt theo tiếng Nga và chuyển sang ký tự Latinh – TRIZ) cộng tác với “Hiệp hội toàn liên bang các nhà sáng chế và hợp lý hóa” (VOIR) thành lập Phòng thí nghiệm các phương pháp sáng chế năm 1968 và Học viện công cộng về sáng tạo sáng chế (Public Institute of Inventive Creativity) năm 1971. Người viết, lúc đó đang học ngành vật lý bán dẫn thực nghiệm tại Liên Xô, có may mắn học thêm được khóa đầu tiên của Học viện sáng tạo nói trên, dưới sự hướng dẫn trực tiếp của thầy G.S. Altshuller.

Chịu ấn tượng rất sâu sắc do những ích lợi PPLSTVĐM đem lại cho cá nhân mình, bản thân lại mong muốn chia sẻ những gì học được với mọi người, cùng với sự khuyến khích của thầy G.S. Altshuller, năm 1977 người viết đã tổ chức dạy dưới dạng ngoại khóa cho sinh viên các khoa tự nhiên thuộc Đại học tổng hợp TpHCM (nay là Trường đại học khoa học tự nhiên, Đại học quốc gia TpHCM). Những khóa PPLSTVĐM tiếp theo là kết quả của sự cộng tác giữa người viết và Câu lạc bộ thanh niên (nay là Nhà văn hóa thanh niên TpHCM), Ủy ban khoa học và kỹ thuật TpHCM (nay là Sở khoa học và công nghệ TpHCM)… Năm 1991, được sự chấp thuận của lãnh đạo Đại học tổng hợp TpHCM, Trung tâm Sáng tạo Khoa học – kỹ thuật (TSK) hoạt động theo nguyên tắc tự trang trải ra đời và trở thành cơ sở chính thức đầu tiên ở nước ta giảng dạy, đào tạo và nghiên cứu PPLSTVĐM.

Đến nay đã có vài chục ngàn người với nghề nghiệp khác nhau thuộc mọi thành phần kinh tế, xã hội, từ Hà Nội đến Cà Mau tham dự các khóa học từng phần hoặc đầy đủ chương trình 120 tiết của TSK dành đào tạo những người sử dụng PPLSTVĐM.

TSK cũng tích cực tham gia các hoạt động quốc tế như công bố các công trình nghiên cứu khoa học dưới dạng các báo cáo, báo cáo chính (keynotes) tại các hội nghị, các bài báo đăng trong các tạp chí chuyên ngành và giảng dạy PPLSTVĐM cho các cán bộ quản lý, giảng dạy, nghiên cứu ở nước ngoài theo lời mời.

Năm 2000, tại Mỹ, nhà xuất bản Kendall/ Hunt Publishing Company xuất bản quyển sách “Facilitative Leadership: Making a Difference with Creative Problem Solving” (Tạm dịch là “Lãnh đạo hỗ trợ: Tạo sự khác biệt nhờ giải quyết vấn đề một cách sáng tạo”) do tiến sỹ Scott G. Isaksen làm chủ biên. Ở các trang 219, 220, dưới tiêu đề Các tổ chức sáng tạo (Creativity Organizations) có đăng danh sách đại biểu các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực sáng tạo và đổi mới trên thế giới. Trong 17 tổ chức được nêu tên, TSK là tổ chức duy nhất ở châu Á.

Bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” gồm những quyển sách trình bày tương đối chi tiết và hệ thống dựa theo giáo trình môn học dành đào tạo những người sử dụng PPLSTVĐM, được các giảng viên của Trung tâm Sáng tạo Khoa học – kỹ thuật (TSK) dạy ở nước ta trong các lớp do TSK mở và theo lời mời của các cơ quan, trường học, tổ chức, công ty. Những quyển sách này được biên soạn nhằm phục vụ đông đảo bạn đọc muốn tìm hiểu môn học PPLSTVĐM trong khi chưa có điều kiện đến lớp học và các cựu học viên muốn có thêm các tài liệu giúp nhớ lại để áp dụng các kiến thức đã học tốt hơn.

PPLSTVĐM, tương tự như các môn học đòi hỏi thực hành và luyện tập nhiều như thể thao chẳng hạn, rất cần sự tương tác trực tiếp giữa các huấn luyện viên và học viên mà đọc sách không thôi chắc chắn còn chưa đủ. Tuy đây không phải là những quyển sách tự học để sử dụng PPLSTVĐM, lại càng không phải để trở thành cán bộ giảng dạy, nghiên cứu, người viết không loại trừ, có những bạn đọc với các nỗ lực của riêng mình có thể rút ra và áp dụng thành công nhiều điều từ sách vào cuộc sống và công việc. Người viết cũng rất hy vọng có nhiều bạn đọc như vậy.

Các quyển sách của bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” không chỉ trình bày hệ thống các phương pháp và các kỹ năng cụ thể dùng để sáng tạo và đổi mới mà còn có những phần được biên soạn nhằm tác động tốt lên nhận thức, quan niệm, thái độ và xúc cảm của bạn đọc, là những yếu tố rất cần thiết thúc đẩy những hành động áp dụng PPLSTVĐM vào cuộc sống, công việc. Nói cách khác, PPLSTVĐM còn góp phần hình thành, xây dựng, củng cố và phát triển những phẩm chất của nhân cách sáng tạo ở người học.

ĐỌC THỬ

1.1. Vai trò của khái niệm

Trong đời sống hàng ngày, chúng ta thường xuyên giao tiếp: trao đổi các ý nghĩ của mình với những người khác. Các ý nghĩ phản ánh các đặc tính của một hay nhiều đối tượng (hiểu theo nghĩa rộng: Bất kỳ cái gì cũng có thể coi là đối tượng) là các khái niệm. Rất tiếc và có thể rất may, bằng các giác quan, người ta chưa thể nhìn, nghe, sờ, ngửi hoặc nếm được các ý nghĩ một cách trực tiếp. Do vậy, ngôn ngữ (hiểu theo nghĩa rộng như nói, viết, ký hiệu, hình vẽ, cử chỉ) được loài người sáng chế ra để phản ánh các ý nghĩ (các khái niệm). Từ ngữ là các tên gọi cụ thể của các khái niệm, phản ánh các ý nghĩ mà chúng ta muốn truyền đạt đến những người khác và ngược lại.

Một trong những yêu cầu quan trọng để giao tiếp thành công là những người tham gia giao tiếp cần hiểu, theo dõi được cách trình bày và lập luận của nhau, tránh việc “ông nói gà, bà nói vịt”. Để làm điều đó, trước hết, họ cần có sự thống nhất về các định nghĩa, chỉ ra nội dung, bản chất của từng khái niệm được dùng trong quá trình giao tiếp hoặc người này cần phải dùng định nghĩa của người kia. Định nghĩa của khái niệm cho trước giúp những người tham gia giao tiếp “nhận dạng” đúng khái niệm cho trước và phân biệt nó với các khái niệm khác. Chúng ta thử hình dung, có hai người ngồi cạnh nhau trên xe buýt. Một người nói: “Xe gì mà chạy nhanh thế không biết”. Người kia đáp lại: “Nhanh gì, chậm như rùa thì có”. Khái niệm “nhanh” ở hai người này được định nghĩa không giống nhau và mang nặng tính chủ quan, cho nên chắc chắn hai người không hiểu nhau.

Thiếu sự nhất trí giữa những người sử dụng về định nghĩa của khái niệm cho trước không chỉ gây hiểu lầm, tranh cãi mà còn dẫn đến thực hiện sai các quyết định. Ở mức nghiêm trọng hơn có thể tạo ra sự tranh chấp, kiện tụng và các phiên tòa khó xử, nếu như định nghĩa khái niệm cho trước không thống nhất như đã nói ở trên, được sử dụng trong các bản thỏa thuận, hợp đồng hoặc trong các văn bản mang tính chất pháp lý.

Cùng với sự hình thành và phát triển của các khoa học, nhiều khái niệm mới xuất hiện. Lịch sử phát triển của các khái niệm cho thấy, trong rất nhiều trường hợp, các nhà khoa học lấy những từ ngữ có sẵn để đặt tên cho các khái niệm mới bằng cách tạo ra các định nghĩa mới tương ứng với chúng. Chẳng hạn, trong đời sống chúng ta có thể nghe những câu: “Anh ấy gây áp lực đối với tôi” hoặc “Áp lực công việc thật là nặng nề”. Trong khi đó, khái niệm “áp lực” trong vật lý học lại được định nghĩa khác cách hiểu thông thường. Khoa học mang tính khách quan nên các định nghĩa của các khái niệm khoa học phải phản ánh các đối tượng một cách khách quan, chính xác hơn so với định nghĩa ban đầu của các từ ngữ có sẵn. Chưa kể, nếu các định nghĩa của các khái niệm khoa học được xây dựng tốt, chúng không chỉ tạo nên ngôn ngữ giao tiếp thống nhất chung để hiểu nhau mà còn giúp mở ra những khả năng mới cho các nhà khoa học, như đại lượng tương ứng với khái niệm cho trước có thể định lượng, đo lường được hoặc dẫn đến những kiến thức mới. Đi tìm các khái niệm, xây dựng và hoàn thiện định nghĩa của chúng luôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng của bất kỳ khoa học nào, mặc dù, đối với những khái niệm phức tạp, xây dựng định nghĩa của chúng để được tất cả các nhà nghiên cứu chấp nhận là vấn đề rất khó. Do vậy, để hiểu một nhà nghiên cứu cụ thể, bạn cần hiểu theo nội dung các định nghĩa của những khái niệm cùng cách lập luận mà người đó sử dụng. Sau đó, bạn có thể phát biểu các ý kiến tranh luận, nếu bạn thấy cần thiết.

Ngoài ra, với thời gian, sự tăng thêm kiến thức của loài người còn làm những khái niệm ban đầu có khuynh hướng, một mặt, cụ thể hóa, đa dạng hóa, mặt khác, trừu tượng hóa, khái quát hóa. Nói cách khác, nội dung của khái niệm không phải là bất biến theo thời gian, trong khi tên gọi của chúng nhiều khi không thay đổi (ý tại ngôn ngoại). Do vậy, khi đọc sách nói chung, người đọc cần lưu ý hiểu nội dung các khái niệm được trình bày, tránh chỉ căn cứ tên gọi của các khái niệm mà suy diễn theo ý chủ quan của mình.

Liên quan đến việc học nói chung, học Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới (PPLSTVĐM – Creativity and Innovation Methodologies) nói riêng, người học thường muốn có được những kiến thức với phạm vi áp dụng rộng, đồng thời dễ sử dụng trong đời sống, công việc. Dưới đây là vài ý người viết muốn trao đổi với bạn đọc về vấn đề này. Bạn đọc thấy câu nào trong hai câu dưới đây mang tính cụ thể hơn? Câu nào mang tính khái quát hơn?

1. Trái táo có khối lượng 200 g rơi do sức hút bằng 2 N của Trái Đất.
2. Hai vật có khối lượng tương ứng m1 và m2 thì hút nhau bởi lực với k là hệ số, r – khoảng cách giữa hai vật đó.

Bạn đọc nhận ra ngay, câu một cụ thể hơn và câu hai khái quát hơn. Có câu hỏi tiếp theo: “Câu nào có phạm vi áp dụng rộng hơn?” Chắc bạn đọc sẽ chọn câu hai là câu có tính khái quát cao hơn.

Thông thường, những kiến thức mang tính khái quát cao, phản ánh những điều mang tính quy luật nên có phạm vi áp dụng rộng hơn những kiến thức hoặc kinh nghiệm cụ thể. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, người học khó sử dụng chúng vào thực tế vì thiếu khả năng cụ thể hóa những cái khái quát.

Ngược lại, những cái cụ thể tuy dễ hiểu, dễ dùng nhưng quá nhiều, quá đa dạng, người học khó mà nắm hết được tất cả chúng. Để khắc phục điều đó, người học cần có khả năng tách ra khía cạnh cần thiết và phát hiện sự giống nhau giữa những cái cụ thể khác nhau (thấy được cái chung giữa những cái riêng) để quy về những kiến thức khái quát đã học. Điều này làm tăng sự tự tin của bạn: bạn đang đi đúng theo quy luật, được phản ánh trong những kiến thức khái quát.

Nói cách khác, ngoài sự hướng dẫn của người dạy, người học cần có rất nhiều nỗ lực luyện tập các khả năng nói trên để thiết lập chiếc cầu nối hai chiều thông suốt từ những kiến thức khái quát đến những trường hợp cụ thể và ngược lại để vừa thấy cây và vừa thấy rừng. Có như thế, những kiến thức của bạn mới thực sự phát huy tác dụng tối đa: vừa dễ sử dụng trong các tình huống cụ thể, vừa có phạm vi áp dụng rộng phù hợp với quy luật mà không cần phải nhớ nhiều.

1.2. Một số khái niệm cơ bản và các ý nghĩa của chúng

Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới (viết tắt là PPLSTVĐM) là bộ môn khoa học liên ngành, có các khái niệm của mình và các khái niệm lấy từ các bộ môn khoa học khác.

Trong mục 1.2 này, người viết sẽ trình bày một số khái niệm cơ bản của PPLSTVĐM để bước đầu có ngôn ngữ chung giữa người viết và người đọc. Những khái niệm khác sẽ dần dần được đưa vào ở những mục sau, khi cần dùng đến.

Phương pháp (tiếng Anh là Method) là cách thức, quá trình thực hiện một công việc nào đó với hiệu quả cao.

Từ gốc Hy Lạp của “phương pháp” là “methodos”, có nghĩa đen là “con đường dẫn đến một cái gì đó” và được hiểu theo nghĩa thông dụng là “cách đạt đến mục đích”.

Vai trò quan trọng của phương pháp trong các hoạt động của con người đã được các dân tộc đánh giá cao từ rất lâu. Điều này thể hiện trong nội dung của nhiều câu tục ngữ. Ví dụ, ở nước ta có câu “Cho vàng không bằng chỉ đàng làm ăn”. Có người còn nói chệch là “Thà rằng cho vàng chứ nhất định không chỉ đàng làm ăn”. Ở Trung Quốc có câu tục ngữ “Cho một người một con cá và người đó ăn được một ngày – Dạy người đó cách bắt cá, sẽ có cá ăn hàng ngày”. Sau này, các danh nhân, các nhà khoa học lại càng coi trọng phương pháp. René Descartes, nhà toán học, triết học nổi tiếng, cách đây bốn thế kỷ, đã nhấn mạnh: “Thà rằng đừng nghĩ đến chuyện tìm kiếm chân lý gì cả còn hơn làm điều đó mà không có phương pháp”. Từ câu này, chúng ta có thể suy rộng ra: “Thà rằng đừng làm bất cứ công việc gì, còn hơn làm mà lại không có phương pháp”. Lev Tôlxtôi nhắc nhở: “Điều quý báu cần biết không phải quả đất tròn mà là làm cách nào để đi đến kết luận ấy”. Lev Lanđau, người được giải Nobel về vật lý khẳng định: “Phương pháp quan trọng hơn phát minh, bởi vì phương pháp nghiên cứu đúng sẽ dẫn đến những phát minh mới, giá trị hơn”.

Rất tiếc, tình hình nhiều người, nhiều nơi làm việc không có phương pháp hoặc được học phương pháp rồi không chú ý dùng, thậm chí cố ý làm sai phương pháp không phải là hiếm ở nước ta. Hai trong các ví dụ điển hình về điều đó là xây dựng hầm chui Văn Thánh 2 ở Tp. Hồ Chí Minh và tượng đài kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, bị báo chí, dư luận xã hội phê phán rất nhiều.

Trên thực tế, công việc có nhiều và đa dạng nên các phương pháp tương ứng với chúng cũng nhiều và đa dạng. Chưa kể, có thể có nhiều phương pháp dùng để thực hiện cùng một công việc nào đó. Tùy theo loại công việc, có những phương pháp đơn giản, dễ học, dễ dùng, ví dụ như phương pháp làm tính cộng, trừ, nhân, chia hoặc phương pháp nấu một món ăn gia đình. Có những phương pháp phức tạp, học lâu, đòi hỏi kiến thức nhiều lĩnh vực, trang thiết bị đắt tiền và nhiều người phối hợp mới thực hiện được. Ví dụ các phương pháp nghiên cứu, chế tạo trong các ngành khoa học và công nghệ cao. Có những phương pháp cụ thể đến từng chi tiết và có nhiều phương pháp trừu tượng, mang tính khái quát cao, ví dụ như các phương pháp triết học.

Giang Vi

Tôi là một người yêu sách cuồng nhiệt và đã hơn 20 năm. Tôi dành cả ngày để đọc, viết blog về sách và viết bình luận. Tôi tin rằng sách là công cụ mạnh mẽ nhất trong cuộc sống để mở mang đầu óc cho những ý tưởng và quan điểm mới. Các thể loại yêu thích của tôi bao gồm tiểu thuyết lịch sử, giả tưởng, khoa học viễn tưởng và phi hư cấu. Tôi cũng thích tìm hiểu về các nền văn hóa khác nhau thông qua văn học.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts:

Back to top button