Kỹ năng mềm

Làm Chủ Bộ Não

1. THÔNG TIN SÁCH/EBOOK

Tác giả : David Rock

Download sách Làm Chủ Bộ Não ebook PDF/PRC/MOBI/EPUB. Tải miễn phí, đọc online trên điện thoại, máy tính, máy tính bảng.

Danh mục : KỸ NĂNG SỐNG

Đọc thử Xem giá bán

2. DOWNLOAD

Download Ebook         

File ebook hiện chưa có hoặc gặp vấn đề bản quyền, Downloadsach sẽ cập nhật link tải ngay khi tìm kiếm được trên Internet.

Bạn có thể Đọc thử hoặc Xem giá bán.

Bạn không tải được sách ? Xem hướng dẫn nhé : Hướng dẫn tải sách


3. GIỚI THIỆU / REVIEW SÁCH

Lời giới thiệu


Hàng loạt email đến dồn dập. Sự quá tải thông tin.

Một lịch họp hành khiến bạn mệt mỏi. Nhiều sự đổi thay và bất định.

Thắng lợi hiếm hoi chỉ để giúp bạn tiếp tục công việc của mình.

Nếu những điều này nghe có vẻ giống một ngày làm việc bình thường của bạn thì đây chính là cuốn sách bạn cần.

Cuốn sách này sẽ giúp bạn làm việc thông minh, tập trung và năng suất hơn, luôn bình tĩnh trước áp lực, giảm bớt thời gian các cuộc họp, và kể cả xử lý thách thức lớn nhất: gây ảnh hưởng đến những người khác. Xa hơn nữa, cuốn sách sẽ giúp bạn trở thành một người cha/mẹ hay vợ/chồng tốt hơn, và có thể giúp bạn sống lâu hơn nữa. Thôi được rồi, có thể câu cuối cùng chưa đúng lắm, nhưng những cái còn lại thì tôi nói nghiêm túc đấy.

Cuốn sách này sẽ làm thay đổi năng suất làm việc của bạn bằng cách đưa ra những nghiên cứu mới và quan trọng nhất về bộ não người. Bạn sẽ có cơ hội lấy lại sự tập trung và có hiệu suất làm việc cao hơn thông qua hiểu biết về bộ não khi làm việc. Chỉ bằng cách hiểu về bộ não của mình mới khiến bạn thay đổi nó được. (Bộ não có thể tự thay đổi bản thân nó thế nào cũng là một trong những điều bạn sẽ học được trong cuốn sách này nữa.)

Tôi hiểu rằng bộ não có thể dễ dàng trở nên quá tải như thế nào, thế nên tôi cũng không có ý định nhấn chìm bạn trong một đống những nghiên cứu phức tạp trong cuốn sách này. Thay vào đó, bạn sẽ hiểu về bộ não của mình theo cách mà nó muốn: đó là đọc một câu chuyện. Câu chuyện này có hai nhân vật, Emily và Paul, kể về cách họ trải nghiệm hàng loạt các khó khăn thách thức trong một ngày làm việc bình thường. Trong khi bạn xem Emily và Paul trải qua một ngày của họ, những nhà thần kinh học giỏi nhất thế giới sẽ lý giải cho bạn tại sao hai người này lại phải vật vã với hàng đống email, lịch làm việc và cả đồng nghiệp của họ. Hơn thế nữa, bạn còn hiểu rằng Emily và Paul đã có thể làm khác đi nếu họ hiểu được hơn về bộ não của mình.

Trước khi nói về cách thức tổ chức của cuốn sách này, tôi sẽ cung cấp cho bạn một chút kiến thức nền tảng về cuốn sách. Tôi không phải là một nhà thần kinh học. Tôi là một cố vấn doanh nghiệp. Tôi giúp các tổ chức như Accenture, EDS, Ericsson và NASA nâng cao năng suất làm việc cho nhân viên của họ. Qua hơn một thập kỷ làm nghề này, tôi tình cờ khám phá ra rằng, việc dạy các nhân viên về bộ não của họ đã tạo nên một sự khác biệt rất lớn không những đối với năng suất làm việc mà còn với cả cuộc sống của họ nữa. Khi tôi không thể tìm ra cuốn sách nào giải thích những khám phá hữu ích nhất về não bộ với một ngôn ngữ dễ hiểu cho mọi người, tôi đã quyết định viết một cuốn như thế.

Tôi viết cuốn sách này trong ba năm, mặc dù một số phần trong cuốn sách tôi đã phải nghiên cứu lâu hơn khoảng thời gian ấy. Cuốn sách được dựa trên những bài phỏng vấn với ba mươi nhà khoa học thần kinh hàng đầu đến từ Mỹ, Châu Âu, Châu Á Thái Bình Dương, ngoài ra còn từ hơn ba trăm bài nghiên cứu về bộ não và tâm lý trong những năm vừa qua. Khi viết cuốn sách này, tôi được một cố vấn khoa học đã giúp đỡ mình chọn lọc các nghiên cứu, đó là nhà thần kinh học Tiến sĩ Jeffrey M. Schwartz. Tôi thậm chí còn tổ chức ba hội nghị về bộ não ở Ý, Úc và Mỹ. Thông qua việc tổ chức các hội nghị này, tôi đã lập nên một tạp chí học thuật để phát tặng cho hàng trăm giảng viên và các buổi hội thảo trên toàn thế giới. Những quan điểm trong cuốn sách này là những ý tưởng nổi bật nhất được đúc rút từ rất nhiều các hoạt động như vậy.

Nói về bản thân tôi như thế là đủ rồi. Giờ chúng ta hãy cùng nói về cách tổ chức cuốn sách. Tôi đã mong muốn cuốn sách trở nên hữu ích với mọi người. Khá là khó khăn khi bạn phải làm việc với thứ phức tạp nhất trái đất, đó là bộ não con người. Sau một vài cố gắng để giải thích bộ não theo các cách khác nhau, tôi đã quyết định cấu trúc cuốn sách như một vở kịch.

Vở kịch này có bốn hoạt cảnh. Hai hoạt cảnh đầu tiên là nói về bộ não của chính bạn. Hai hoạt cảnh sau tập trung vào việc tương tác với bộ não của những người khác. Cũng có một đoạn tạm nghỉ giữa các hoạt cảnh để nói rõ về các chủ đề sâu xa hơn nổi bật lên trong câu chuyện.

Hoạt cảnh 1 được gọi là “Các vấn đề và quyết định”, trong đó có sự tham gia của những quy tắc cơ bản trong việc suy nghĩ. Hoạt cảnh 2: “Giữ bình tĩnh dưới áp lực” khám phá về các xúc cảm, các động lực và sự ảnh hưởng của chúng đến việc suy nghĩ. Hoạt cảnh 3: “Hợp tác với mọi người” giới thiệu các nghiên cứu về việc làm cách nào để chúng ta sống với nhau tốt hơn. Hoạt cảnh 4: “Tạo điều kiện thay đổi” tập trung vào việc tạo nên sự thay đổi ở người khác, một trong những thứ khó làm nhất.

Mỗi một hoạt cảnh có vài cảnh đơn, và mỗi cảnh đơn lại bắt đầu với việc Emily và Paul đối mặt với các thách thức trong công việc và trong gia đình, kiểu như xử lý một núi email chẳng hạn. Tôi lựa chọn những khó khăn thách thức cụ thể hàng ngày của các nhân vật bằng cách thu thập mọi thông tin qua một bản điều tra trên mạng của một trăm người, những người mà cuối cùng có thể sẽ đọc cuốn sách này. Sau đó, tôi kết hợp dữ liệu kết quả đó với các điều tra về văn hóa tổ chức.

Sau khi xem Emily và Paul trải qua một thách thức ở mỗi cảnh đơn, bạn sẽ hiểu chuyện gì đang diễn ra trong đầu của họ mà khiến cho cuộc sống trở nên khó khăn như thế, đồng thời bạn cũng nghe ý kiến trực tiếp từ các nhà thần kinh học mà tôi đã phỏng vấn và từ các nghiên cứu có liên quan khác. Phần thú vị nhất của cuốn sách là “quay lại lần hai” ở cuối mỗi cảnh. Ở mỗi cảnh quay lại, Emily và Paul hiểu thêm về bộ não của mình và từ đó đưa ra những quyết định từng lúc khác nhau. Sự khác biệt giữa lần đầu và quay lại lần hai tuy đến từ những thay đổi nhỏ trong hành vi nhưng lại tạo ra kết quả khác nhau rất lớn. Những thay đổi nội tại rất tinh vi này chỉ xảy ra trong một phần nhỏ của một giây đồng hồ và có thể chẳng ai nhận ra được, nhưng đôi lúc chính nó lại làm thay đổi mọi thứ. Cuốn sách này sẽ giúp bạn hiểu, tách biệt và tái lập được những thay đổi đó.

Ở cuối mỗi cảnh, tôi sẽ tóm tắt lại những bất ngờ lớn từ các nghiên cứu về não bộ. Nếu bạn muốn sử dụng cuốn sách nhằm thay đổi sâu sắc bộ não của mình, ở mỗi cảnh sẽ có một danh sách cụ thể các thứ bạn có thể thử nghiệm cho chính mình.

Cuốn sách được kết thúc bằng một kết luận ngắn trong đó tóm lược khía cạnh khoa học và nhận định về những kết quả to lớn hơn của các nghiên cứu. Tôi đã đưa vào đây một danh sách các nguồn thông tin và một danh mục chú giải bao quát về những nghiên cứu mà tôi đã sử dụng. Tôi cũng làm rõ nguồn gốc và cách thức đã đưa đến những kết luận của mình. Mặt khác, những ý tưởng nêu ra ở đây được đúc rút từ hàng trăm các nghiên cứu khoa học mà bạn có thể đọc nếu thích.

Buổi trình diễn sẽ bắt đầu trong giây lát, thế nên hãy cùng tìm hiểu một chút về các nhân vật chính và bối cảnh câu chuyện. Emily và Paul cùng ở độ tuổi khoảng bốn mươi. Họ sống trong một thành phố cỡ trung với hai đứa con tuổi teen, Michelle và Josh. Emily là viên chức ở một công ty chuyên tổ chức các hội thảo lớn. Paul làm công việc của một chuyên viên tư vấn công nghệ thông tin và có nhiều năm kinh nghiệm ở một công ty lớn.

Hành động xảy ra xuyên suốt một ngày thứ Hai bình thường, ngoại trừ việc đây là tuần thứ hai kể từ khi Emily được thăng chức. Giờ đây cô có một khoản ngân sách nhiều hơn và một nhóm lớn hơn để quản lý. Cô rất háo hức với vai trò mới này và muốn bắt đầu mọi thứ thật tốt, tuy có một số kỹ năng mới cô phải học thêm. Paul thì đang tập trung vào một dự án mới với hy vọng nó sẽ giúp anh vượt ra được khỏi cái văn phòng bé nhỏ anh đã làm được năm năm. Cả hai người đều có hàng đống những hy vọng và ước mơ khác, bao gồm cả việc nuôi dưỡng con cái thật tốt bất kể việc họ có những lịch làm việc cực kỳ bận rộn.

Hãy cùng kéo rèm lên để vở diễn được bắt đầu.

ĐỌC THỬ

Màn INHỮNG VẤN ĐỀ VÀ CÁC QUYẾT ĐỊNH

N

gày nay có nhiều người được trả tiền để suy nghĩ, thay vì chỉ đơn giản làm các công việc đều đặn hàng ngày. Vậy nên việc đưa ra các quyết định phức tạp và giải quyết những vấn đề mới nảy sinh là công việc khó khăn trong bất kỳ khoảng thời gian nào, đó là do những hạn chế sinh học của bộ não. Ngạc nhiên thay, một trong những cách tốt nhất để tăng năng suất trí tuệ lại là bằng cách hiểu biết về những hạn chế này.

Ở cảnh 1, Emily khám phá ra tại sao việc suy nghĩ lại mất nhiều năng lượng, và cô đã phát triển thêm những kỹ năng mới để đối phó với vấn đề có quá nhiều việc phải làm. Paul học được những giới hạn không gian của não bộ, và tìm ra cách xử lý việc bị quá tải thông tin. Emily biết được tại sao khó có thể làm cùng lúc hai việc, và từ đó cô đã suy nghĩ lại về cách tổ chức công việc của mình. Paul khám phá ra lý do anh hay bị phân tâm, để từ đó biết cách tập trung hơn. Tiếp đó Paul còn tìm ra cách để luôn giữ được bộ não hoạt động hiệu quả nhất. Ở cảnh cuối, Emily hiểu ra rằng những kỹ năng giải quyết vấn đề của cô cần phải được phát triển hơn nữa, và cô học được cách để có sự đột phá khi cô cần nó nhất.

CẢNH 1

Buổi sáng sớm ngập tràn email

7 giờ 30 phút sáng thứ Hai. Emily đứng dậy khỏi bàn sau bữa sáng, hôn tạm biệt Paul và lũ trẻ, đóng cửa nhà rồi đi ra xe. Sau khi giải quyết xong những cãi vã của hai đứa trẻ trong nhà suốt những ngày cuối tuần, cô rất mong có thể tập trung hơn cho công việc mới của mình. Trên đường cao tốc, cô suy nghĩ tới tuần làm việc trước mắt và việc cô muốn có một khởi đầu tốt đẹp như thế nào. Đi được nửa đường, cô chợt nảy ra ý tưởng cho một buổi hội thảo mới, và phải tập trung cao độ để giữ ý tưởng ấy trong đầu khi vẫn đang lái xe.

Emily ngồi vào bàn làm việc lúc tám giờ. Cô mở máy tính lên và chuẩn bị ghi ra ý tưởng về hội thảo mới ấy. Tuy nhiên, khi chờ một trăm cái email tải về máy, một cơn sóng của sự bồn chồn lo lắng ập lên đầu cô. Chỉ việc trả lời các email thôi có thể mất nguyên một ngày, mà cô lại có những cuộc họp kéo dài hàng giờ đồng hồ và ba dự án phải xong lúc sáu giờ chiều. Sự hưng phấn của cô về việc được thăng chức bắt đầu nhạt phai dần. Cô thích có thêm tiền và trách nhiệm, nhưng cô lại không chắc về việc mình sẽ đối mặt với lượng công việc tăng lên như thế nào.

Ba mươi phút sau, Emily nhận ra rằng cô mới chỉ trả lời được hai mươi email. Cô cần phải làm nhanh hơn nữa. Cô cố gắng trả lời email trong khi lắng nghe hộp thư thoại của mình. Có lúc cô chuyển sang nghĩ tới vấn đề giờ làm việc dài của mình sẽ ảnh hưởng tới lũ trẻ như thế nào. Cô nhớ lại trong quá khứ mình đã cáu bẳn với chúng ra sao khi công việc trở nên quá bận bịu. Sau đó, cô lại nghĩ về một lời hứa cô đã tự nhủ với bản thân – trở thành một hình mẫu tốt đẹp bằng việc thực lòng với những hoài bão về nghề nghiệp. Mải lạc trong những suy nghĩ, cô vô tình xóa mất một thư thoại của sếp.

Sự bùng nổ của hormone làm tim đập nhanh gây ra bởi việc xóa nhầm thư thoại đã nhanh chóng đưa cô quay trở về hiện tại. Cô dừng gõ máy tính và cố nghĩ về những công việc sẽ phải xong trong hôm nay: viết một đề xuất mới cho buổi hội thảo, chỉnh sửa lại vài kế hoạch marketing, và quyết định sẽ tuyển trợ lý nào. Sau đó sẽ là rất nhiều email với hàng tá các vấn đề khác nhau cần phải theo sát. Cô dành ra vài giây cố gắng mường tượng thứ tự ưu tiên các công việc, nhưng lại chẳng suy nghĩ được gì hết. Cô cố nhớ những hướng dẫn cụ thể đã học được ở một khóa quản lý thời gian lâu lắm rồi, nhưng sau vài giây tập trung cô cũng không thể tìm được một luồng suy nghĩ nào. Cô tiếp tục quay trở lại với đống email và cố gắng gõ nhanh hơn.

Cuối giờ, Emily trả lời được 40 email, tuy rằng từ lúc bắt đầu làm việc tới giờ đã có 20 email đang chờ cô trả lời. Cô chẳng còn chút thì giờ nào để nghĩ về ý tưởng cho buổi hội thảo mới nữa. Mặc dù đã có quyết tâm rất cao nhưng rõ ràng đây không phải là một khởi đầu tốt đẹp cho một ngày mới, một tuần mới hay một vị trí mới của cô.

Emily không phải là trường hợp duy nhất. Rất nhiều người ở khắp mọi nơi đều đang trải qua sự quá tải này. Đối với một số người, đây là áp lực để thăng tiến, còn đối với những người khác thì lại là sự thu hẹp quy mô hay tái cơ cấu. Nhưng với đa số mọi người thì mỗi một ngày đều phải xử lý một khối lượng công việc khổng lồ, quá tải và kéo dài liên miên. Khi thế giới trở nên số hóa, toàn cầu hóa, không rào cản và được tổ chức lại thì việc có quá nhiều thứ phải làm trở thành điều phiền toái lớn nhất.

Để Emily có thể làm việc hiệu quả hơn mà không gây tổn hại tới sức khỏe và gia đình, cô cần thay đổi cách thức làm việc của bộ não chính mình. Cô cần có hệ thống mạch dây thần kinh mới để quản lý được một danh sách những việc cần làm lớn và phức tạp hơn.

Vấn đề là, khi cần ra quyết định và xử lý các vấn đề giống như những gì Emily đã làm sáng nay, bộ não cần có giới hạn năng lực tốt hơn nữa. Mặc dù bộ não đã rất mạnh mẽ rồi nhưng vẫn có thể biến bộ não của một cử nhân tốt nghiệp Havard thành bộ não của một đứa trẻ tám tuổi chỉ đơn giản là bằng cách khiến cho nó có thể làm hai việc song song đồng thời với nhau. Trong phần này và những phần tiếp theo, Emily và Paul sẽ khám phá những giới hạn sinh học tạo nên năng lực trí tuệ, và từ đó phát triển thêm cách tiếp cận não bộ thông minh để đối đầu với những thử thách hàng ngày. Trong khi xem cách họ thay đổi bộ não, bạn cũng sẽ có cơ hội để thay đổi não bộ của mình nữa.

NHỮNG GOLDILOCK TRONG MỖI CHÚNG TA

Việc đưa ra quyết định và giải quyết vấn đề phụ thuộc rất nhiều vào một vùng trên não bộ gọi là vỏ thùy trước. Vỏ não là phần bao ngoài của não, nó chính là phần màu xám có nhiều nếp nhăn bạn thường thấy trong các bức hình về bộ não. Nó chỉ dày một phần mười inch và bao phủ lên toàn bộ bộ não. Vỏ não trước, phần nằm ngay sau trán của bạn chỉ là một phần nhỏ của toàn bộ vỏ não tổng thể. Đây là phần chính phát triển cuối cùng trong suốt lịch sử tiến hóa của loài người, tuy nó chỉ chiếm 4 tới 5 phần trăm thể tích những phần còn lại của não.

a

Bạn đừng nên bị điều đó đánh lừa. Giống như những viên kim cương và những ly café espresso, những thứ tốt đẹp chỉ có trong hình hài nhỏ nhắn. Nếu không có vỏ thùy trước của não bạn sẽ không thể đặt ra được bất cứ mục tiêu nào. Chỉ riêng việc nghĩ đến “mua sữa ở cửa hàng” đã là điều không thể rồi. Bạn cũng sẽ không thể có bất kỳ kế hoạch nào. Không thể “đi qua ngọn đồi, đến cửa hàng tạp hóa, mua ít sữa và quay trở về”. Bạn sẽ không có khả năng kiểm soát những thôi thúc bản năng của mình, thế nên nếu bạn cảm thấy rất muốn nằm dài ra trên con đường ngập tràn nắng ấm trong một ngày lạnh lẽo, thì có nghĩa bạn đang có vấn đề đấy. Hơn nữa bạn cũng chẳng thể giải quyết các vấn đề, ví như nghĩ cách tìm đến bệnh viện sau khi bị một chiếc xe hơi cán qua người chẳng hạn. Bạn cũng sẽ có vấn đề với việc hình dung ra những tình huống chưa bao giờ gặp phải, thế nên bạn sẽ không biết được phải làm gì để đi đến bệnh viện. Và cuối cùng, bạn sẽ không có khả năng sáng tạo, vì vậy mà bạn sẽ chẳng bao giờ nghĩ ra được chuyện gì tốt đẹp hơn để kể với vợ mình sau khi từ bệnh viện trở về nhà.

Vùng vỏ não trước trán là công cụ sinh học giúp ý thức của bạn tương tác với thế giới bên ngoài. Đây là phần trung tâm não bộ giúp suy nghĩ mọi việc một cách thấu đáo, thay vì chỉ đóng vai trò như một “chương trình lái tự động” trong cuộc sống của bạn. Trong thập kỷ trước, các nhà khoa học thần kinh, cụ thể là nhóm của Amy Arnsten, đã có những khám phá quan trọng về phân khu này của não. Arnsten là Giáo sư Sinh học Thần kinh tại trường Y Khoa Yale. Giống như người thầy của mình, Pa- tricia Goldman-Rakic, Arnsten đã cống hiến toàn bộ sự nghiệp để giải mã những bí ẩn của vỏ não trước trán. “Vỏ não trước trán lưu giữ tất cả trí tuệ của bạn ở mọi thời điểm”, Arnsten lý giải. “Đó là nơi chúng ta có những ý nghĩ không được tạo nên bởi những tác động bên ngoài hay từ các giác quan. Chính tự chúng ta tạo ra chúng”.

Dù phần vỏ não trước trán quan trọng như vậy nhưng nó cũng có những giới hạn nhất định. Để nhìn nhận rõ hơn những giới hạn này, hãy tưởng tượng rằng các nguồn lực xử lý để tạo ra các ý nghĩ trong đầu tương đương với những đồng xu mà bạn đang có trong túi quần. Nếu giả sử như thế thì năng lực xử lý của những phần còn lại trong bộ não cũng sẽ tương đương với toàn bộ nền kinh tế Mỹ (trước khủng hoảng tài chính năm 2008). Hoặc, như Arnsten giải thích, “phần thùy trước cũng giống như chìa khóa vàng của bộ não. Nó bắt buộc phải làm đúng mọi thứ hoặc nó sẽ không hoạt động tốt”. Làm cho mọi thứ “vừa đủ đúng” đối với vỏ não trước trán là việc mà Emily cần phải học, nhằm giúp cô nắm rõ hết các thông tin mới có được ở công việc mới này.

SÂN KHẤU

Tôi sẽ đưa ra một phép ẩn dụ về vỏ não trước trán và nó sẽ được dùng xuyên suốt toàn bộ cuốn sách. Hãy nghĩ về thùy trước như là sân khấu trong một rạp hát nhỏ mà ở đó các diễn viên thể hiện vai diễn của mình. Những diễn viên trong trường hợp này chính là hiện thân cho những thông tin mà bạn nắm được qua sự chú tâm. Thỉnh thoảng những diễn viên này bước vào sân khấu theo cách mà những diễn viên bình thường khác vẫn làm, đó là từ hai bên cánh gà. Đây là trường hợp thông tin từ thế giới bên ngoài chạm đến sự chú ý của bạn, giống như lúc Emily ngồi xem hàng trăm email được tải xuống máy tính vậy.

Tuy vậy, sân khấu này không phải giống hệt như sân khấu ở một rạp hát bình thường. Đôi khi diễn viên lại có thể trở thành khán giả và lên sân khấu diễn. Khán giả đại diện cho thông tin đến từ thế giới bên trong của bạn: những suy nghĩ, ký ức và tưởng tượng. Sân khấu là cái bạn cần phải luôn tập trung vào và nó có thể giữ các thông tin đến từ thế giới bên trong hoặc bên ngoài, hay tập hợp của cả hai loại thông tin này.

Một khi diễn viên đã lên sân khấu của sự tập trung thì sẽ có rất nhiều thứ thú vị bạn có thể làm với chúng. Để hiểu một ý tưởng mới, bạn đưa diễn viên lên sân khấu và giữ họ ở đó đủ lâu để xem cách họ kết nối với khán giả như thế nào – đó chính là kết nối với những thông tin trong não bộ của bạn. Emily làm điều đó khi cô đọc từng email một để hiểu nội dung của nó, và tôi cũng hy vọng bạn làm điều đó ngay khi đang đọc cuốn sách này. Để có được một quyết định, bạn xem xét các diễn viên trên sân khấu và so sánh năng lực giữa họ, rồi đưa ra những đánh giá xác đáng. Emily làm điều này khi cô đọc email và quyết định sẽ trả lời chúng thế nào.

Để thu hồi lại thông tin, nghĩa là gợi lại ký ức từ quá khứ, bạn cần đưa một khán giả lên sân khấu. Nếu ký ức đã quá cũ, nó có thể nằm ở cuối hàng ghế khán giả, trong bóng tối. Sẽ cần thời gian cùng nhiều nỗ lực để tìm những khán giả này, và bạn có thể bị phân tâm trong lúc đi tìm họ. Emily vật lộn với việc cố gắng nhớ các nguyên tắc trong việc quản lý email mà cô học được từ một khóa huấn luyện, tuy nhiên những thông tin này nằm lẫn quá sâu trong hàng ngũ khán giả, thế nên cô bỏ cuộc. Để ghi nhớ thông tin, bạn cần đưa diễn viên xuống sân khấu và đưa họ vào ngồi ghế khán giả. Emily cố gắng ghi nhớ một ý tưởng cho buổi hội thảo trong khi vẫn đang lái xe, tuy nhiên, cô cảm thấy khá mệt mỏi với nỗ lực này.

Đôi khi quan trọng là phải làm sao không tập trung vào diễn viên để giữ anh ta tránh xa sân khấu. Ví dụ, có thể bạn đang có công việc phải xong gấp trước giờ ăn trưa và đang phải rất tập trung vào một dự án, nhưng ý nghĩ về bữa trưa lại xâm chiếm sự tập trung của bạn, khiến bạn mất tập trung nửa phút mỗi lần như thế. Quá trình kiềm chế nhằm giữ cho các diễn viên tránh xa sân khấu đòi hỏi rất nhiều nỗ lực. Đây cũng là trung tâm giúp cho cuộc sống vận hành hiệu quả. Emily bị phân tán tư tưởng khi ngẫm nghĩ về cách mình sẽ đối phó với công việc mới như thế nào, và kết quả là cô đã lỡ tay xóa mất một tin nhắn hộp thư thoại.

Năm chức năng: hiểu, quyết định, gợi lại, ghi nhớ và kiềm chế, tạo thành phần lớn các suy nghĩ có ý thức. Những chức năng này được kết hợp lại với nhau để lên kế hoạch, giải quyết vấn đề, giao tiếp và thực hiện những tác vụ khác nữa. Chúng sử dụng vỏ não trước trán một cách tích cực và đòi hỏi phải có những nguồn lực quan trọng để hoạt động, nhiều hơn những nguồn lực mà Emily có thể nhận ra được.

SÂN KHẤU CẦN RẤT NHIỀU ÁNH SÁNG

Mới đây tôi cùng vợ mình đi qua ngọn đồi để đến cửa hàng tạp hóa mua một ít sữa và vợ tôi đã hỏi một câu khiến tôi phải dừng lại để trả lời cô ấy. Ai cũng biết rằng đi lên đồi cao thì mất năng lượng. Nhưng những hoạt động thần kinh có ý thức cũng mất sức lắm chứ, và tôi thì không đủ năng lượng để làm cùng lúc cả hai việc này.

Các hoạt động thần kinh có ý thức làm hao tổn rất nhanh những nguồn cung cấp sức lực, những chất bổ có trong máu, nhanh hơn rất nhiều so với các chức năng tự động của não như giữ nhịp đập của trái tim và phổi thở ra hít vào. Sân khấu này đòi hỏi rất nhiều năng lượng để hoạt động. Nó giống như các ngọn đèn được đặt ở cách xa phía sau sân khấu, cho nên bạn sẽ phải cần rất nhiều ánh sáng ở mức cao nhất để có thể thấy được diễn viên. Nhưng một điều tệ hại là, nguồn điện để thắp sáng sân khấu lại có hạn và yếu dần theo thời gian sử dụng, tương tự như mấy viên pin cần phải liên tục được sạc lại vậy.

Bằng chứng y học đầu tiên về giới hạn này được đưa ra vào năm 1898. Nhà khoa học J. C. Welsh đã đo khả năng hoạt động tay chân của con người trong khi vẫn suy nghĩ. Bà đưa ra cho những người tham gia một vấn đề khiến họ phải động não, đồng thời ngay lúc đó bắt họ phải tác động một lực mạnh nhất có thể lên một máy đo lực. Những kết quả đo lường của bà chỉ ra rằng tất cả những tác vụ về thần kinh đều làm giảm lực tối đa mà một người có thể tác động được xuống còn khoảng 50%.

Làm những công việc tiêu tốn năng lượng, như lên kế hoạch cho các buổi họp chẳng hạn, có thể khiến bạn mệt mỏi chỉ sau khoảng một tiếng đồng hồ. Để so sánh, một tài xế xe tải có thể lái xe suốt ngày đêm, khả năng lái của anh ta chỉ bị hạn chế bởi nhu cầu ngủ mà thôi. Lái xe tải không đòi hỏi phải sử dụng quá nhiều vỏ não trước trán (trừ khi đó là một tài xế mới, lái chiếc xe mới, hay đi trên cung đường mới). Việc lái xe có sự tham gia của một bộ phận trong não gọi là hạch nền. Hạch nền gồm bốn khối nằm trong vùng não, có chức năng điều khiển các hoạt động thường nhật mà không đòi hỏi nhiều sự chú tâm tư duy tích cực. Nhìn từ khía cạnh tiến hóa, hạch nền là phần não có trước các phần khác. Phần này hoạt động khá tiết kiệm năng lượng và có ít các hạn chế tổng thể hơn so với vỏ não trước trán. Khi bạn lặp lại một hoạt động nào đó dù chỉ vài lần, hạch nền sẽ ngay lập tức tham gia vào việc điều khiển. Hạch nền cùng với nhiều phần khác nữa của não bộ hoạt động bên dưới sự nhận thức ý thức, điều này lý giải tại sao Emily có thể vừa lái xe vừa nghĩ về buổi hội thảo cùng một lúc.

Vỏ não trước trán sẽ làm tiêu hao năng lượng cho quá trình trao đổi chất như glucozo và ô-xy nhanh hơn nhiều người nghĩ. “Ta có một thùng các nguồn năng lượng cho những hoạt động như ra quyết định và điều khiển nhịp tim”, Tiến sĩ Roy Baumeister ở đại học Florida giải thích, “và khi ta dùng cạn hết chúng rồi, thì những hoạt động tiếp theo sẽ không có đủ để sử dụng nữa”. Khi đã đưa ra một quyết định khó khăn rồi, thì các quyết định tiếp theo sẽ càng khó nữa. Vấn đề này có thể được giải quyết bằng cách uống một ly nước đường glucozo. Baumeister đã kiểm tra giả thuyết này bằng cách sử dụng một ly nước chanh được làm ngọt bằng đường glucozo hoặc chất ngọt thay đường, và rõ ràng nó đã tạo ra ảnh hưởng đến năng suất làm việc.

Nghiên cứu của Baumeister là một khám phá quan trọng về cấu tạo não bộ. Khả năng thực hiện một tiến trình có những giới hạn riêng bởi quá trình đó cần rất nhiều năng lượng để hoạt động. Nó đòi hỏi phải có nhiều sức lực để vận hành, và sức lực ấy sẽ cạn dần theo quá trình bạn sử dụng nó. Điều này lý giải rất nhiều hiện tượng diễn ra hàng ngày ví dụ như tại sao chúng ta lại dễ bị phân tán tư tưởng khi mệt hoặc đói. Khi bạn thức tới hai giờ sáng và có vẻ như không thể suy nghĩ, đó không phải là bạn – đó là bộ não của bạn. Khả năng suy nghĩ tốt nhất của bạn kéo dài trong một khoảng thời gian giới hạn. Câu trả lời không chỉ đơn giản là “cố gắng hơn nữa”.

Tại sao trạng thái tinh thần đòi hỏi quá nhiều năng lượng để vận hành như vậy? Một vài nhà khoa học nghĩ rằng vỏ não trước trán đòi hỏi năng lượng bởi vì nó vẫn còn mới trong thuật ngữ tiến hóa và cần phải tiếp tục phát triển để đáp ứng được nhu cầu thông tin hiện nay. Đây là một góc nhìn khác. Khi bạn hiểu những quy trình của não bộ tham gia vào một hoạt động như việc ra quyết định, có thể bạn sẽ bị bất ngờ trước khả năng bạn thực sự sở hữu. Bạn có thể tuân thủ những giới hạn của mình hơn là đấu tranh với chúng. Hãy cùng khám phá ý tưởng này thông qua việc quay lại trong chốc lát với một bước khác trong câu chuyện của Emily.

Emily bước vào một phòng hội thảo lúc 9 giờ sáng. Bộ não của cô tiếp nhận một trận lụt dữ liệu: âm thanh khó chịu từ ba người nói cùng một lúc, một hỗn hợp rực rỡ các màu sắc từ bảng kẹp giấy, trang phục, vô số hình thù và cử động của hàng tá khuôn mặt. Khối lượng và độ phức tạp của thông tin đưa tới bộ não cô lúc đó đủ để làm treo bất cứ chiếc siêu máy tính nào, cô sử dụng trí nhớ ngắn hạn để xử lý thông tin đưa tới. Khối lượng lớn dữ liệu đưa tới não bộ của cô, nhưng hai mươi tới ba mươi giây sau, hầu hết dữ liệu này đã được xử lý. Việc này giống như hàng trăm diễn viên mới nhảy nhót trên sân khấu trong chốc lát và sau đó chạy ra vậy. Nếu bạn hỏi Emily một phút sau về điều cô ấy vừa trông thấy, cô ấy không thể trả lời xem ai mặc đồ gì, hoặc miêu tả những gì có trên bảng kẹp giấy, trừ khi cô ấy dừng lại để tập trung và ghi chú những điều này một cách cụ thể.

Một lúc sau, Emily nhớ ra tại sao ban đầu cô ấy lại tới đó – để uống cà phê cùng một đồng nghiệp mới tên là Madelyn. Bộ não của cô hiện giờ phải quản lý ba quy trình tiêu hao năng lượng cùng một lúc. Ba quy trình này liên quan tới nhiều phần trong bộ não của cô, nhưng vỏ não trước trán quản lý quy trình tổng thể. Đầu tiên dữ liệu nạp vào về căn phòng, cả hình ảnh lẫn âm thanh, tiếp tục được đưa vào trí nhớ ngắn hạn, tuy nhiên lúc này dữ liệu phải được quan sát, theo cách giống như bạn nhìn một chiếc ô tô trong bãi đậu xe để xem đó có phải chiếc xe của bạn không vậy. Bạn phải giữ dữ liệu ở giai đoạn này, một việc đòi hỏi phải nỗ lực. Nỗ lực này tiêu tốn năng lượng.

Bước hai, Emily phải mang hình ảnh của Madelyn vào giai đoạn não bộ của cô hiện tại để so sánh thông tin về căn phòng. Hình ảnh khuôn mặt của Madelyn đã vét sạch rất nhiều dữ liệu được lưu trữ trong trí nhớ dài hạn của Emily. Emily cần phải duy trì việc trình diễn liên tục hình ảnh về Madelyn, để giữ diễn viên này trên sân khấu, việc này cũng đòi hỏi năng lượng, rất nhiều năng lượng.

Cuối cùng, Emily phải giữ trong đầu ý nghĩ về “cà phê”. Nếu không, khi gặp được Madelyn, Emily sẽ quên mất tại sao mình đang tìm cô ấy.

Ba quy trình này – “dữ liệu đưa tới não bộ được quan sát kỹ lưỡng”, “Madelyn”, và “cà phê” – tất cả cần phải duy trì hiện hữu tích cực cùng một lúc. Trong khi đó, dữ liệu mới tiếp tục được đưa vào trí nhớ ngắn hạn có thể ngắt quãng những quy trình này. Lúc này có ba nhóm diễn viên đòi hỏi năng lượng để Emily có thể giữ họ trên sân khấu, và với những diễn viên mới đang chen nhau lên cần phải được giữ lại dưới sân khấu.

Emily tìm thấy Madelyn. “Chúng ta nên đi đâu?”, Madelyn hỏi khi họ rời khỏi phòng. “Tôi chưa biết. Tôi không nghĩ được gì ngay lúc này cả,” Emily trả lời, “Hãy đi vòng vòng và xem liệu chúng ta có thể tìm nơi nào đó để ngồi và nghĩ xem sao”.

Câu chuyện của Emily có ý nghĩa gì? Có lẽ bạn đang “nhìn thấy” (thực ra bạn đang giữ một số thứ trên sân khấu của mình) rằng cái sân khấu ý thức này là một con thú đang đói. Bạn có thể nắm bắt thông tin này trong vài ngày. Một lựa chọn nào đó sẽ bao gồm luôn việc gợi lại trạng thái hoạt động chức năng con người. Lựa chọn khác có thể sẽ gửi trợ lý của bạn đến lấy đường glucozo hoặc một giải pháp đã có sẵn: uống côca. (Lựa chọn này có thể sẽ có ích, mặc dù sẽ có một số tác dụng phụ như tăng cân, thêm chi phí chăm sóc răng miệng, hay tăng khả năng bị tiểu đường loại 2). Lựa chọn thứ ba, và đây cũng là cái tôi khuyên dùng, đó là suy nghĩ lại xem bạn đánh giá và sử dụng một nguồn tài nguyên có tên là giai đoạn nhận thức.

Nếu giai đoạn nhận thức là một nguồn tài nguyên có hạn, thì nó cũng sẽ như tài sản dự trữ, vàng hoặc tiền mà thôi. Thử tưởng tượng nếu Emily đối xử với năng lực tư duy cũng giống như cách công ty cô quản lý tài sản, kèm theo việc thắt chặt chi tiêu thì sẽ ra sao. Thay vào đó, Emily cứ lãng phí những nguồn tài nguyên của mình bằng cách cố giữ ý tưởng về buổi hội thảo trong đầu khi đang lái xe, khiến cho não mệt mỏi trước cả khi cô đến chỗ làm. Sau đó, cô lại bắt đầu buổi sáng bằng cách trả lời các email. Việc xử lý một khối lượng lớn thông tin sẽ tiêu tốn rất nhiều các nguồn lực, đây có lẽ không phải là cách khôn ngoan để sử dụng tài sản quan trọng nhất lúc này.

Đây là một cách nhìn nhận mới: mỗi một lần bạn sử dụng giai đoạn nhận thức, hãy gán nó với một việc gì đó quan trọng. Nó là một nguồn lực có hạn nên không thể phung phí được. Không cần biết bạn đã bỏ ra nhiều nỗ lực như thế nào, bạn không thể chỉ ngồi một chỗ và suốt ngày đưa ra những quyết định xuất chúng như cách một tài xế lái xe tải chạy trên đường được.

ƯU TIÊN VIỆC SẮP XẾP THỨ TỰ ƯU TIÊN

Nếu Emily biết công việc của mình tiêu tốn năng lượng như thế nào chắc hẳn cô đã bắt đầu buổi sáng thứ hai của mình theo một cách khác. Sự khác biệt lớn ở đây là cô có thể ưu tiên trình tự công việc. Cô sẽ lập ưu tiên công việc đầu tiên, trước khi thực hiện bất cứ những việc đòi hỏi sự tập trung cao độ như đọc và trả lời email chẳng hạn. Lý do là việc ưu tiên sắp xếp công việc là một trong những việc tốn năng lượng nhất của não bộ.

Chỉ sau vài hoạt động thần kinh là bạn đã có thể không còn chút sức lực nào để dành cho việc ưu tiên thứ tự công việc nữa rồi. Sử dụng sân khấu cho những việc hao tốn năng lượng như ưu tiên công việc cũng giống như điều khiển những chiếc trực thăng đồ chơi bạn thường thấy trong công viên, những chiếc trực thăng đáng lẽ dành cho trẻ con chơi nhưng thực ra lại thường do các ông bố điều khiển. Khi các ông bố cho chiếc trực thăng bay khỏi mặt đất vài lần, nó sẽ khó cất cánh tiếp bởi nguồn năng lượng đã trở nên quá thấp. Lúc đó nó sẽ chỉ có thể nhấc cao khoảng hơn một mét và lại rơi xuống mặt đất. Bạn càng cố gắng cất cánh nó lên thì năng lượng lại càng ít dần đi. Cách tốt nhất là sạc điện cho nó và thử lại sau. Cũng theo cách tương tự, ngồi đọc và trả lời email trong mười phút có thể làm cạn năng lượng mà đáng lẽ nên dùng cho việc ưu tiên sắp xếp công việc. Emily đã rút ra kinh nghiệm này khi cô không thể “nhìn thấy” cách sắp xếp ngày làm việc của mình và cuối cùng lại phải ngồi xử lý tiếp các email. Để hiểu được tại sao sắp xếp công việc lại là một con quái vật khát mồi, hãy cùng khám phá một ý tưởng mới: mức độ khó biến thiên khi đưa các diễn viên lên sân khấu.

MỘT SỐ DIỄN VIÊN KHÓ LÊN SÂN KHẤU HƠN NHỮNG DIỄN VIÊN KHÁC

Đây là một hiểu biết rất có ích về não bộ với nhiều ẩn ý lớn, thế nên bạn hãy cố gắng hiểu nhé. Thật dễ dàng để nhận biết một điều vừa mới xảy ra. Khá dễ để truy cập bộ não lúc đó bởi sự kiện đó đang còn rất mới, cũng giống như tìm ra một khán giả đang ngồi ở hàng ghế đầu vậy. Hãy cùng thử một thí nghiệm để hiểu hơn vấn đề này. Hãy cố gắng nhìn, bằng con mắt của nhận thức, thứ bạn đã ăn trong bữa ăn gần đây nhất. Thông thường để làm được vậy sẽ cần một chút thời gian và nỗ lực. Đưa những sự kiện xảy ra gần đây lên sân khấu là một hoạt động nhanh và ít hao năng lượng. Nó cũng giống như việc mang một khán giả từ hàng ghế đầu lên sâu khấu vậy.

Còn bây giờ hãy cố vẽ ra trong đầu xem bạn đã ăn gì vào buổi trưa cách đây mười ngày. Trừ khi bạn có sẵn một mẫu cố định để vẽ (“Tôi luôn ăn bánh sandwich cá ngừ”), việc vẽ ra bữa ăn này sẽ mất thời gian và cần nhiều nỗ lực hơn là nghĩ lại xem mình vừa ăn gì gần đây. Các mạch thần kinh tham gia vào việc vẽ lại bữa ăn này nằm ở khá xa sau hàng ghế khán giả, thế nên bạn phải tốn thời gian hơn để tìm ra chúng trong đám đông ấy. Những nhà nghiên cứu trí nhớ đã chỉ ra rằng việc gợi lại quá khứ đòi hỏi có sự tham gia của việc truy ngược theo thời gian, gợi lại theo trình tự thời gian các sự kiện diễn ra giữa hiện tại và thời điểm trong trí nhớ về việc ấy bắt đầu được hình thành. Theo những gì Emily học được từ khóa huấn luyện xử lý email, trí nhớ này càng ở xa thì việc đó sẽ càng mất nhiều thời gian hơn, và sẽ đòi hỏi thêm nhiều năng lượng cùng sự tập trung hơn.

Bây giờ bạn hãy thử vẽ ra cảnh bạn đang chuẩn bị bữa trưa cho sáu người khách trong một nhà hàng Nhật ở Trung Quốc. Điều này sẽ thật dễ dàng, nếu bạn là một đầu bếp người Nhật đã từng làm việc ở Trung Quốc! Còn với tất cả chúng ta, nếu chưa hề có những hình ảnh đã được định sẵn trong hàng ngũ khán giả, ta sẽ phải tìm ra những khán giả thích hợp và tập hợp họ lại với nhau để cùng tạo nên hình ảnh của bữa ăn trưa ấy. Bạn sẽ phải tìm một hình ảnh về nhà hàng, hình ảnh về sáu người khách, và sau đó là hình ảnh của Trung Quốc. Nó giống như việc mang hai mươi nhân vật lên sân khấu thay vì chỉ một nhân vật thôi. Cần bỏ ra nhiều thời gian và công sức hơn. Bộ não thích giảm thiểu mức độ sử dụng năng lượng vì nó đã được phát triển trong thời kỳ mà năng lượng trao đổi chất vô cùng khan hiếm. Thế nên sẽ hơi khó chịu trong việc cố gắng suy nghĩ, hoặc bất cứ hoạt động nào sử dụng các nguồn năng lượng trao đổi chất. (Nếu nỗ lực là một trò vui, thì hầu hết các hộ gia đình sẽ không có điều khiển từ xa cho tivi, cửa sổ chống trộm trên xe hơi, hay máy rửa chén).

Hãy thử tưởng tượng ra những thứ bạn chưa từng nhìn thấy là một hoạt động cần rất nhiều năng lượng và cố gắng. Điều này phần nào lý giải tại sao con người dùng nhiều thì giờ để suy nghĩ về các vấn đề (những thứ họ đã thấy) hơn là về các giải pháp (những thứ họ chưa bao giờ thấy). Nó cũng lý giải tại sao việc đặt ra mục tiêu lại trở nên khó khăn đến vậy (khó để mà hình dung ra tương lai). Cuốn sách xuất bản năm 2006 của Daniel Gilbert, Stumbling on Happiness, khai thác sâu vào các khía cạnh của phát hiện này, minh họa rằng con người thật kém cỏi trong việc đánh giá các xúc cảm trong tương lai, một khái niệm mà ông gọi là dự báo xúc cảm (affective forecasting). Gilbert đã chỉ ra làm thế nào con người xác định cách họ cảm nhận ở tương lai dựa trên phần nhiều ở cách họ cảm nhận thực tại, thay vì ước định một cách chính xác trạng thái tinh thần họ có thể gặp trong tương lai. Lý do là vì điều này khó để thực hiện.

Điều đó cũng lý giải tại sao đưa ra ưu tiên công việc lại trở nên khó khăn. Việc sắp xếp này bao gồm cả công đoạn tưởng tượng và làm việc với các khái niệm mà bạn chưa từng có kinh nghiệm. Làm thế nào Emily có thể biết việc tuyển một trợ lý mới có trở nên dễ dàng hơn việc viết một bản kiến nghị cho buổi hội thảo hay không? Cô cũng chưa từng nhìn thấy sự kiện này trong thực tế, thế nên sự kiện đó cũng không tồn tại trong đám khán giả của cô. Hơn nữa, việc ưu tiên công việc bao gồm những chức năng mà tôi đã từng đề cập: hiểu ý tưởng mới, cũng như ra quyết định, ghi nhớ, và ngăn chặn, tất cả cùng một lúc. Nó cũng tương tự như cuộc thi ba môn phối hợp dành cho các tác vụ thần kinh vậy.

Giống như những mã màu sử dụng trong những chặng trượt tuyết để diễn tả độ khó, các tác vụ thần kinh cũng có màu xanh lá cây, xanh dương và đen. Việc ưu tiên công việc, ít ra là trong một nền kinh tế tri thức đầy các dự án khái niệm, là một đường chạy màu đen. Hãy làm nó khi bạn cảm thấy khỏe khoắn tràn đầy năng lượng, nếu không bạn sẽ cảm thấy mệt mỏi và trượt dốc đấy.

SỬ DỤNG THỊ GIÁC

Rõ ràng việc đưa ra danh sách ưu tiên là việc quan trọng cần phải làm trước. Bây giờ hãy giả sử như Emily đã sắp xếp thứ tự công việc trước tiên với một trí tuệ sảng khoái và có nhiều đường glucozo, lúc đó cô có thể làm gì để tối đa hóa khả năng ưu tiên công việc của mình? Một cách để giảm mức năng lượng cần thiết cho xử lý thông tin là bằng cách sử dụng thị giác, để thấy thực tế những điều đang diễn ra trước mắt. Ví dụ, ngay lúc này bạn đang học về một vấn đề khoa học phức tạp, đó là chức năng của vỏ não trước trán, bằng cách sử dụng phép ẩn dụ là một cái sân khấu. Việc vẽ ra trong đầu một khái niệm sẽ kích hoạt vỏ não điều khiển thị giác ở thùy chẩm, là bộ phận nằm phía sau não. Vùng này có thể được kích hoạt thông qua các hình ảnh, hay qua các ẩn dụ, và kể chuyện, bất cứ thứ gì có thể tạo ra hình ảnh trong ý thức.

Có một số lý do tại sao thị giác lại rất hữu ích. Thứ nhất, chúng là những cấu tạo có hiệu suất thông tin cao. Nếu bạn tưởng tượng ra phòng ngủ của mình, lúc bạn có hình ảnh về nó trong đầu, thì hình ảnh đó sẽ chứa đựng một lượng thông tin rất lớn bao gồm cả những mối quan hệ phức tạp giữa hàng tá các vật thể, kích cỡ, vị trí tương ứng của chúng và nhiều thứ khác nữa. Việc diễn tả những thông tin này bằng chữ có thể sẽ mất nhiều năng lượng hơn là tưởng tượng ra chúng.

Một lý do khác là bộ não đã có một lịch sử phát triển lâu dài trong việc tạo ra các hình ảnh ý thức mà trong đó có cả con người và các vật thể tác động qua lại lẫn nhau. Các tiến trình thị giác đã tiến hóa trong hàng triệu năm, thế nên chúng hoạt động với hiệu quả cao, đặc biệt là khi so sánh với khả năng ngôn ngữ. Các nghiên cứu cho thấy khi bạn đưa ra một vấn đề về lôgíc cho mọi người, họ sẽ xử lý nó cực kỳ nhanh nếu như vấn đề đó được giải thích theo cách con người tương tác với nhau thay vì theo các ý nghĩ khái niệm rời rạc.

GẠT BỎ MỘT SỐ THỨ RA KHỎI ĐẦU

Việc tạo ra các hình ảnh thị giác cho những suy nghĩ phức tạp là một cách để tối đa hóa những nguồn năng lượng hữu hạn. Có một cách khác nữa là giảm tải hoạt động cho vỏ não trước trán bất cứ khi nào có thể. Nếu Emily chụp lấy một mẩu giấy và ghi ra bốn công việc quan trọng của ngày hôm đó, cô đã có thể dành bộ não cho việc so sánh các yếu tố công việc thay vì sử dụng năng lượng để giữ chúng trong đầu. Những lợi ích tương tự cũng có thể đạt được bằng cách sử dụng những vật thể như cái bấm ghim, bút, thước kẻ để làm đại diện cho mỗi một công việc. Cách làm này là để đưa các khái niệm ra khỏi đầu bạn và đi vào thực tế, và cũng để dành sân khấu cho những chức năng quan trọng nhất. Giảm thiểu tối đa việc sử dụng năng lượng chính là để tăng tối đa hiệu suất.

Nếu Emily biết ưu tiên việc phải làm đầu tiên vào buổi sáng, và biến những thứ trong suy nghĩ thành thực tế bên ngoài, thì vẫn còn có một thứ khác nữa mà cô cần phải thực hiện để có thể làm việc hiệu quả nhất. Sân khấu sử dụng năng lượng quá nhanh, sau đó ánh sáng đèn trở nên yếu đi khiến việc giữ cho diễn viên ở đúng chỗ và ngăn chặn những người khác không cho lên sân khấu trở nên khó khăn. Bạn cần thiết lập thời gian biểu cho các tác vụ đòi hỏi sự tập trung cao độ khi đầu óc bạn còn tỉnh táo và sảng khoái. Bạn có thể làm việc này vào buổi sáng sớm, sau khi nghỉ giải lao hoặc sau một bài tập vận động cơ thể. Vỏ não trước trán có rất nhiều điểm chung với những bộ phận tiêu tốn năng lượng khác của cơ thể như các hệ thống cơ chẳng hạn. Nó sẽ bị mệt mỏi sau khi sử dụng và sau một lúc nghỉ ngơi nó lại có thể hoạt động tốt hơn. Việc đưa ra một quyết định khó khăn có thể sẽ phải mất ba mươi giây khi bạn còn tỉnh táo, còn khi bạn mệt mỏi thì chuyện này gần như là không thể.

Thật tốt nếu bạn chú ý hơn tới những nhu cầu năng lượng cho thần kinh của mình và từ đó thiết lập thời gian biểu cho đúng. Hãy thử nghiệm với những tính toán về thời gian khác nhau. Có một kỹ thuật là chia công việc ra thành nhiều khung thời gian dựa trên các cách sử dụng não bộ, thay vì dựa trên chủ đề công việc đó. Ví dụ, nếu bạn phải viết lách gì đó cho một số dự án khác nhau, điều mà đòi hỏi một trí tuệ minh mẫn sảng khoái, thì bạn nên làm vào ngày thứ Hai. Nhiều người không có xu hướng làm thế này – họ có xu hướng hoặc chỉ tập trung làm một dự án trong một thời điểm, hoặc xử lý khi xảy ra các vấn đề, thỉnh thoảng suy nghĩ ở một mức độ trừu tượng cao, đôi lúc lại ở mức độ rất chi tiết, có khi lại làm nhiều việc cùng một lúc và thay đổi liên tục. Thay vào đó, bạn có thể chia một ngày của mình ra thành các khối thời gian khi bạn cần làm những việc phải suy nghĩ thấu đáo như viết lách, một khối thời gian cho các cuộc họp, và một khối khác lại dành cho các hoạt động thường nhật như trả lời email chẳng hạn. Suy nghĩ sâu sắc có xu hướng yêu cầu nhiều nỗ lực hơn, thế nên hãy cố tập trung suy nghĩ chỉ trong một khối thời gian, có lẽ là vào lúc sáng sớm hoặc đêm khuya. Phương pháp này có một lợi thế lớn là bạn có thể thay đổi quanh những thể loại công việc mình làm, mục đích để giúp cho bộ não hồi phục lại. Nếu tập thể dục bạn sẽ không thể nào tập nâng tạ suốt ngày được. Bạn đẩy tạ một lúc, rồi tập bài tập cho tim mạch, và sau đó là căng giãn cơ thể. Mỗi lần thay đổi bài tập, các hệ thống cơ sẽ được luân phiên, một số cơ nghỉ và một số cơ khác sẽ làm việc. Nó cũng giống như trộn lẫn các loại tư duy với nhau. Hãy cho não nghỉ một chút mỗi khi có thể bằng cách pha trộn các thứ với nhau.

Điều cuối cùng về ưu tiên công việc là lập trật tự cho những thứ bạn không đưa lên sân khấu. Nghĩa là đừng suy nghĩ nếu như bạn không phải suy nghĩ, không chú ý vào các tác vụ chưa cần làm cho đến khi nó trở thành quan trọng. Việc học cách nói không với những công việc không nằm trong danh sách ưu tiên là một việc làm khó nhưng lại rất hữu ích. Có một kỹ năng khác để giúp nghĩ bớt đi cho những tác vụ không cần thiết là bằng cách giao phó thật tốt. Nhưng làm thế nào để biết cái gì nên giao phó và cái gì thì không? Công việc này, giống như ưu tiên sắp xếp, sẽ cần rất nhiều năng lượng, thế nên sẽ phải làm lúc đầu óc còn tỉnh táo. Một kỹ năng nữa là không hề nghĩ về dự án nào đó cho đến khi bạn đã có đầy đủ hết mọi thông tin. Đừng phí năng lượng để giải quyết một vấn đề mà chính bạn biết rằng một thời gian nữa mình sẽ có đầy đủ thông tin cho nó. Vấn đề này có thể được chốt lại bằng một câu: Khả năng đưa ra những quyết định tuyệt vời của bạn là một nguồn lực hữu hạn. Hãy duy trì nguồn lực này nếu có bất kỳ cơ hội nào.

Còn bây giờ, hãy mang những ý tưởng trong màn này lại với nhau và khám phá xem Emily đã có thể xử lý công việc như thế nào nếu cô hiểu được những hạn chế của vỏ não trước trán.

BUỔI SÁNG NGẬP TRÀN EMAIL, QUAY LẠI LẦN HAI

Lúc này là 7 giờ 30 phút sáng thứ Hai. Emily đứng dậy rời khỏi bàn sau bữa sáng, hôn tạm biệt Paul và bọn trẻ, rồi cô đi ra xe của mình. Sau hai ngày cuối tuần đầy những mâu thuẫn vụn vặt giữa những đứa trẻ trong gia đình, cô rất trông mong mình có thể tập trung vào công việc mới. Trên đường cao tốc, cô nghĩ về việc làm thế nào để làm việc một cách năng suất nhất cho tuần này. Cô chợt nảy ra một ý tưởng thú vị về buổi hội thảo mới và nhanh chóng ghi lại những suy nghĩ ấy bằng một máy thu âm nhỏ cô luôn để trong xe để dành cho những lúc thế này. Cô biết rằng không nên làm mệt mỏi đầu óc bằng việc cố ghi nhớ mọi thứ. Cô bật radio lên và tận hưởng mấy bản nhạc hay, cảm giác rất thư thái.

Emily ngồi vào bàn làm việc lúc 8 giờ. Cô mở máy tính lên và chuẩn bị làm tiếp về buổi hội thảo mới đó. Ngay sau đó, hàng trăm email liên tục được tải về máy và cô bắt đầu bị sự lo lắng xâm chiếm. Áp lực của khối lượng công việc trước mặt bắt đầu lấn át cảm giác hứng khởi vì mới được thăng chức của cô. Cô thích có thêm tiền và thêm trách nhiệm nhưng lại không chắc lắm về việc mình sẽ đương đầu với nó như thế nào. Chỉ riêng những email này thôi đã có thể làm mất một ngày rồi, dù lúc đó cô còn có tới bốn tiếng họp hành và ba việc phải xong ngay trước năm giờ chiều.

Sự lo lắng bắt đầu tăng lên rõ rệt, Emily thấy cần thiết phải lập thứ tự ưu tiên công việc, nhưng cô cảm thấy việc này sẽ mất rất nhiều công sức. Cô tắt máy tính, tắt luôn cả điện thoại và chỉ sử dụng bảng trắng. Dù rất tò mò về nội dung các email nhưng cô vẫn hiểu rằng không thể có cái gì mà không thể đợi thêm một lúc được. Cô chủ động thôi không chờ đợi các email nữa. Cô bắt đầu viết lên bảng ba ô nhỏ tượng trưng cho ba công việc cần làm: “hội thảo”, “tuyển trợ lý”, “viết” và một ô nữa có chữ “xử lý email”. Sau đó cô nhớ ra mình có ý tưởng mới cho buổi hội thảo, và cũng viết nó lên bảng luôn.

Emily đã tiết kiệm năng lượng để dành cho việc so sánh, thay vì cố giữ những khái niệm ở trên sân khấu. Chỉ chuyện nhỏ này thôi nhưng cũng tạo ra sự khác biệt lớn: tất cả năng lực xử lý của cô dành cho việc xem xét mối quan hệ giữa các vấn đề với nhau. Cô nhìn từng ô và bước lùi ra sau để xem có thể tìm được một cách thức nào không. Công việc khó nhất cô nhận ra là việc tuyển trợ lý mới. Cô quyết định tập trung vào cái này trước tiên. Cô dành ra bốn mươi phút để hoàn tất bản đánh giá các ứng cử viên cho công việc này để cuối ngày sẽ đưa ra quyết định chính thức. Cô sẽ dành ra mười phút cuối để kiểm tra email xem có gì khẩn cấp không.

Đến cuối giờ, Emily đã tìm ra được ứng viên sáng giá nhất cho chức danh trợ lý và đồng thời sắp xếp một buổi phỏng vấn với ứng viên tên Joanne vào ngày hôm sau. Cô cũng đã trả lời được vài email. Dù có nhiều email đang đợi xử lý nhưng cô vẫn quyết định sẽ dành ra giờ cuối cùng của ngày để làm việc ấy. Cô cũng định thời gian phải viết xong kế hoạch cho buổi hội thảo là vào trước giờ ăn trưa, lúc mà cô tắt máy tính và điện thoại. Cô dự định sẽ làm việc với ý tưởng cho khâu marketing vào ngày mai. Với việc suy nghĩ thông suốt hơn trước, cô thấy rằng có nhiều thời gian hơn cho vấn đề khó nhất và rằng hạn cuối của công việc này không còn trở nên khẩn cấp nữa. Đó quả là một khởi đầu tốt đẹp cho ngày mới, tuần mới và vị trí mới nữa.

NHỮNG ĐIỀU BẤT NGỜ VỀ NÃO BỘ

• Tư duy ý thức bao gồm cả những tương tác sinh học phức tạp sâu bên trong não bộ, giữa hàng tỉ tế bào thần kinh.

• Mỗi khi bộ não hoạt động với một suy nghĩ nào đó, nó sẽ sử dụng một lượng tài nguyên hữu hạn và có thể đo lường được.

• Một số tiến trình thần kinh sử dụng năng lượng nhiều hơn các tiến trình khác.

• Những tiến trình thần kinh quan trọng nhất, ví dụ như việc lập ưu tiên công việc, cần đòi hỏi nỗ lực cao nhất.

MỘT VÀI BÍ QUYẾT CÓ THỂ ÁP DỤNG:

• Nghĩ đến tư duy ý thức như một nguồn tài nguyên cần được bảo tồn

• Ưu tiên việc lập thứ tự công việc nên làm trước vì đây là một hoạt động rất tiêu hao năng lượng.

• Tiết kiệm năng lượng thần kinh cho ưu tiên công việc bằng cách tránh các hoạt động ý thức làm tiêu hao năng lượng như xử lý các email chẳng hạn.

• Lên kế hoạch cho các công việc đòi hỏi tập trung cao độ những lúc đầu óc bạn đang tỉnh táo và sảng khoái.

• Dùng bộ não để tương tác với thông tin thay vì cố gắng lưu trữ thông tin trong đầu, bằng cách tạo ra các hình ảnh thị giác cho những ý tưởng phức tạp và liệt kê ra các công việc.

• Lập ra các khối thời gian cho những trạng thái tư duy khác nhau.

CẢNH 2

MỘT DỰ ÁN ĐAU ĐẦU

Lúc ấy là 10 giờ 30 phút sáng, Paul cầm trên tay một xấp giấy còn ấm vừa chạy từ máy in ra. Đó là một bản tóm tắt dày năm mươi trang cho dự án phần mềm lớn nhất anh từng làm từ trước tới nay. Đó là tin tốt lành. Còn tin xấu là trong vòng chưa tới một tiếng nữa khách hàng sẽ phải nhận được bản đề xuất để chuẩn bị cho cuộc họp vào trưa hôm nay.

Paul đã muốn bắt đầu làm bản đề xuất lúc nhận được phần tóm tắt bốn hôm trước. Ngay lúc đó, anh đọc lướt qua tài liệu này, nhưng trông nó có vẻ quá phức tạp, và rồi anh bị phân tán bởi một vấn đề gì đó. Do bình thường chỉ cần khoảng một tiếng để viết bản đề xuất nên anh không cảm thấy lo lắng trong việc này lắm. Anh đã không để ý rằng dự án này lớn hơn những dự án bình thường như thế nào.

Paul đọc tài liệu kỹ hơn một chút. Bây giờ là 11 giờ sáng. Chỉ còn ba mươi phút để viết bản đề xuất, anh bắt đầu làm nó trên một bảng tính. Anh vô tình đánh mất mười phút chỉ để sửa các công thức tính toán lại cho đúng. Anh cảm giác như cần phải mất mấy tiếng nữa mới xong bảng tính này trước khi có thể đưa ra một báo giá chính xác.

Vấn đề của bản đề xuất này là ở chỗ công việc đòi hỏi Paul phải giữ quá nhiều thông tin trong đầu cùng một lúc. Nó khiến anh thấy nhức đầu mỗi khi nghĩ đến, khiến cho anh không tiếp tục thực hiện và giờ nó lại càng làm anh đau đầu hơn nữa. Nó quá phức tạp khiến anh không biết nên phải bắt đầu từ đâu. Trong chốc lát anh lại làm mất thêm một khoảng không gian trong cái sân khấu vốn đã quá chật chội của mình bằng một suy nghĩ: có phải anh đang trì hoãn vấn đề không. Sau đó anh quyết định cố làm theo những gì mình vẫn thường làm. Anh mở một bảng tính và cố gắng xây dựng ngân sách cho dự án, từng dòng một. Sau vài phút anh vẫn thấy mình cần hàng giờ nữa mới xong được. Anh cần một chiến lược mới.

Paul quyết định thử viết nhanh một bản thảo cho đề xuất và để việc định giá làm sau cùng. Anh hy vọng sẽ có thêm chút cảm hứng khi soạn tài liệu này. Đến 11 giờ 25, chỉ còn năm phút nữa, anh cuống quýt lên và dự đoán bừa phần chi phí. Anh dự đoán cao hơn mức an toàn một chút, nhưng lại thấy lo vì có thể mình đã bỏ qua một phần chi phí nào đó. Sau đó anh đặt mức tăng giá là 100 phần trăm. Ngay lúc chuẩn bị gửi bản đề xuất đi thì anh phát hiện ra một lỗi đánh máy. Khi đang chuẩn bị sửa lỗi đó thì máy tính phụt tắt. Những phút giây quý giá đã vụt mất. Anh gửi email kèm bản đề xuất muộn mất năm phút và hy vọng rằng phía khách hàng sẽ không để ý chuyện này. Vài phút sau đó, lúc đang in bản đề xuất, anh lại phát hiện có hai lỗi chính tả. Chán nản, anh cố đẩy những cảm xúc ấy sang một bên và chuẩn bị đi đến cuộc họp, nhưng cảm giác thất vọng vẫn không hề tiêu tan đi chút nào.

Như bạn đã khám phá ra ở cảnh 1, năng lực ra quyết định và xử lý vấn đề của bạn bị hạn chế bởi vỏ não trước trán luôn khát năng lượng. Ở đây Paul đã chạm đến giới hạn thứ hai của vỏ não trước trán: đó là giới hạn của việc có bao nhiêu thông tin sẽ được chứa bởi tư duy và được sử dụng vào bất cứ thời điểm nào. Đó là vì sân khấu quá nhỏ bé, nhỏ hơn những gì đa số chúng ta hiểu được. Để đưa ra được một chuỗi các quyết định quan trọng vào buổi sáng, Paul phải nhanh chóng nhận ra sự đồ sộ của khối lượng thông tin. Để làm được điều đó, anh cần phải học cách tối đa hóa không gian xử lý hữu hạn của vỏ não trước trán.

SÂN KHẤU CHẬT HẸP

Sân khấu tư duy nhỏ hơn là bạn mong đợi. Nó giống như một cái sân khấu trong phòng ngủ của một đứa trẻ hơn là sân khấu ở Hội trường Car- negie. Nó chỉ có thể chứa được vài ba diễn viên cùng một lúc. Nếu đưa quá nhiều diễn viên lên, sẽ có nhiều người bị rơi khỏi sân khấu. Chỉ với rất ít chỗ trống như vậy, nó có thể bị quá tải và gây ra sai lầm.

Vậy bạn có bao nhiêu chỗ trống ở đây? Câu hỏi này đã làm nhức đầu các nhà khoa học một thời gian. Có thể bạn chưa từng nghe tới George A. Miller, nhưng có thể bạn đã biết tới kết quả nghiên cứu mà ông thực hiện năm 1996. Miller phát hiện ra rằng số lượng tối đa các sự việc mà một người có thể giữ trong đầu cùng một lúc là bảy. Vấn đề khiến nghiên cứu của Miller trở nên nổi tiếng là vì nó đã sai, hoặc ít ra là bị diễn đạt sai. Sự diễn đạt sai này có thể là nguyên nhân của sự lo lắng: nhiều người nghĩ mình có vấn đề bởi họ không thể chứa nhiều thông tin như thế trong đầu.

Đây là một chút hy vọng cho những linh hồn bị tra tấn này. Một cuộc điều tra trên diện rộng năm 2001 thực hiện bởi Nelson Cowan ở đại học Missouri-Columbia đã cho thấy số lượng tối đa các sự việc mà bạn có thể chứa trong đầu không phải con số bảy. Nó chỉ khoảng bốn thôi, đó là chưa kể nó còn phụ thuộc vào độ phức tạp của bốn sự việc ấy. Bốn con số, không vấn đề gì. Bốn chữ dài, bắt đầu khó hơn một chút. Bốn câu, trừ khi chúng tương tự nhau – như một câu cầu nguyện hay một bài hát quảng cáo – rất khó để nhớ trong đầu. Và tất cả những người tham gia vào những nghiên cứu này đều là những người trẻ tuổi. Nghĩ mà xem. Bốn câu thôi. Chẳng phải nhiều nhặn gì. Không trách tại sao các buổi họp lại trở nên hỗn loạn như thế. Không ai có thể hiểu được những gì đang diễn ra.

Một tư tưởng khác về sự hạn chế này đến từ việc tạo ra bất cứ ý nghĩ nào bạn muốn giữ trong đầu. Thật dễ để nhớ một chuỗi các từ như catch, dream, ringer, Fred. Nhưng thử cố nhớ chuỗi thirl, frugn, sulogz, esdo, bốn từ này cũng chỉ sử dụng số lượng ký tự tương đương trong bảng chữ cái mà thôi. Về mặt thực tiễn thì không khả thi khi nhớ bốn từ không phải trong ngôn ngữ của bạn, hoặc là bốn từ lung tung vô nghĩa. Vấn đề là, sân khấu làm việc rất hiệu quả khi bạn mang những sự việc được tạo ra bởi các yếu tố thuộc về trí nhớ dài hạn đến cho nó. Điều này cũng lý giải tại sao khó để nghĩ về ý tưởng mới trừ khi chúng có liên hệ với các ý tưởng đã có sẵn. Không có kết nối dài hạn làm nền cho ý nghĩa của một phạm trù mới, bạn không thể mang các phạm trù lên sân khấu một cách dễ dàng.

Điều này còn trở nên tồi tệ hơn. Một nghiên cứu thực hiện bởi Brian McElree ở Đại học New York chỉ ra rằng số lượng các khối thông tin bạn có thể nhớ được một cách chính xác chỉ duy nhất là một mà thôi. Nghiên cứu này cho thấy, “có bằng chứng rõ ràng và thuyết phục về việc một đơn vị được duy trì trong sự tập trung chú ý và không có bằng chứng trực tiếp nào cho việc có hơn một mục thông tin đã mở rộng ra theo thời gian”. Hiển nhiên bạn có thể nhớ nhiều hơn một thứ cùng một lúc, nhưng trí nhớ của bạn về từng thứ một sẽ giảm sút khi bạn có quá nhiều việc phải nhớ ở trong đầu.

Rõ ràng đây là một giới hạn đáng được trân trọng. Tuy vậy cũng có rất nhiều người muốn đi ngược lại giới hạn này. Trí nhớ dài hạn dường như rất lớn, và chẳng phải bộ não là đỉnh cao công nghệ của vũ trụ mà chúng ta đã biết sao? Nghe có vẻ không đúng lắm. Thử xem xét câu chuyện viễn tưởng về một cậu sinh viên mới tốt nghiệp và không muốn chấp nhận sự hữu hạn của trí nhớ của mình. Cậu tự nhốt mình trong một căn phòng cách âm một thời gian để cuối cùng xem mình có thể làm tăng trí nhớ về âm thanh hay không. Thật không may cái duy nhất tăng lên lại là nhu cầu tâm lý trị liệu của cậu.

Có những giới hạn thực sự đối với lượng thông tin có thể lưu trữ được cùng một lúc ở vỏ não trước trán. Nhưng nếu bạn cố làm việc gì đó với thông tin ở trên sân khấu, ví dụ như ra quyết định giữa hai diễn viên thì sao? Có hẳn cả một ngành nghiên cứu tên là phức hợp có quan hệ để trả lời cho câu hỏi này. Những nghiên cứu trong lĩnh vực phức hợp có quan hệ đã liên tục chỉ ra rằng khi có càng ít biến số trong tư duy của bạn, thì bạn sẽ càng ra các quyết định một cách hiệu quả hơn.

QUÁ NHIỀU BẢN ĐỒ

Để hiểu rõ tại sao sân khấu lại nhỏ bé như vậy, hãy cùng xem thử thách của Paul trong việc cố viết ra bản đề xuất dựa vào cách nhìn nhận của bộ não. Khi Paul đọc phần tóm tắt của khách hàng, anh cố giữ hàng tá các biến số ở trên sân khấu cùng một lúc. Bên khách hàng, một chuỗi bán lẻ, yêu cầu báo giá cho việc thiết kế và cài đặt phần mềm mới. Họ muốn khách hàng có thể quẹt thẻ tín dụng ngay trước khi họ bước chân vào cửa hàng, sau đó nhặt đồ, và bước ra khỏi cửa hàng mà không cần dừng lại để trả tiền (nếu có vấn đề gì thì lập tức chuông báo sẽ reo lên). Việc của Paul là thiết kế phần mềm cho hệ thống này và cài đặt nó cho năm trăm cửa hàng. Paul đã thực hiện dự án tương tự trước đây, và đó cũng chính là lý do vì sao khách hàng gọi cho anh. Bản thân dự án không phải quá lớn; anh nghĩ mình có thể làm được. Vấn đề ở đây là lượng thông tin Paul cần giữ trên sân khấu để làm báo giá trở nên quá nhiều cùng một lúc, đặc biệt nếu anh phải hoàn tất trong thời gian ngắn. Anh đang cố nhồi nhét ba mươi diễn viên trong một khoảng không gian được thiết kế chỉ cho tối đa bốn người mà thôi. Kết quả là vở diễn không bắt đầu được. Đây là một thử thách mà hiện nay nhiều người phải đối mặt trong công việc – không chỉ là một núi thông tin, mà còn là việc chúng ta phải xử lý chúng thật nhanh nữa.

Để hiểu tại sao đây lại là một vấn đề đối với sân khấu của Paul, hãy lấy ví dụ: ý tưởng cho việc lưu trữ thông tin chi tiết thẻ tín dụng. Khái niệm này sẽ kích hoạt một bản đồ phức tạp chứa đựng hàng tỉ kết nối trong toàn bộ não của Paul, chứ không chỉ trong vỏ não trước trán (bản đồ cũng được hiểu tương tự như một mạng lưới hay một bảng mạch điện). Bản đồ cho “việc xử lý thẻ tín dụng” kết nối với các bản đồ khác trong mạch ngôn ngữ của Paul; ví dụ như kết nối chữ thẻ tín dụng với các từ như lãi suất, không trả đúng hạn, và thời hạn. Bản đồ “xử lý thẻ tín dụng” kết nối với trí nhớ dài hạn. Nó liên kết tới bộ nhớ về cái thẻ tín dụng đầu tiên mà Paul có, mỗi thẻ mà Paul đã từng sử dụng và lần cuối thẻ của anh bị dùng vượt hạn mức. Ngoài ra ở đây còn có các kết nối với vỏ não vận động, với một đoạn mạch điều khiển sự chuyển động để lấy thẻ tín dụng từ trong ví ra, quét qua máy và bỏ lại vào ví (một bản đồ rõ ràng đến mức Paul có thể nhắm mắt mà vẫn làm được). Nếu bạn có thể vẽ bản đồ cho “việc xử lý thẻ tín dụng” trên giấy, thì bản đồ có sự tham gia của các mạch trong não bộ sẽ phức tạp hơn nhiều so với sách chỉ dẫn các đường phố trên toàn nước Mỹ.

Một lần nữa, những gì trông đơn giản thì khi xem xét kỹ lại trở nên phức tạp vô cùng. Thực tế, bạn có thể nhớ trong đầu bảy con số nếu bạn chỉ tập trung nhớ tới chúng và liên tục lặp lại những con số ấy (cho tới khi chúng in sâu vào bộ nhớ dài hạn của bạn). Điều bạn không thể làm là mang một nắm các bản đồ phức tạp lên sân khấu cùng một lúc. Quá nhiều để bộ não có thể quản lý được.

ĐÓ LÀ MỘT CUỘC CẠNH TRANH

Một trong những lý do tạo ra giới hạn không gian của vỏ não trước trán là ở nguyên lý cạnh tranh. Việc lưu giữ một khái niệm phức tạp trên sân khấu thường sẽ bao gồm luôn cả việc kích hoạt mạch thị giác. Khi bạn suy nghĩ, bạn sẽ hình dung cách mà một khái niệm kết nối với các khái niệm khác (bộ nhớ đang hoạt động luôn luôn hoặc là thị giác không gian hoặc là thính giác và cái nào bắt đầu trước thì đều hiệu quả hơn). Nhận thức thị giác làm việc theo một cách cạnh tranh hơn. Các mạch cạnh tranh với nhau để tạo nên đại diện tiêu biểu nhất ở bên trong cho một thực thể bên ngoài. Robert Desimone, một trong những nhà khoa học hàng đầu ở Viện McGovern về Nghiên cứu não bộ thuộc MIT đã khám phá ra rằng bộ não có khả năng lưu trữ chỉ một đại diện cho một thực thể thị giác trong một thời điểm. Cũng giống như ảo giác quang học nổi tiếng mà khi thì bạn thấy một bình hoa, khi thì là một người phụ nữ già trong cùng một hình ảnh. Bộ não phải bám vào một tri giác nào đó bất cứ lúc nào; cùng một lúc bạn không thể nhìn được hai thứ. Tuy nhiên bạn có thể chuyển đổi giữa các nhận thức thị giác vượt trội tùy theo ý muốn, vốn là một khía cạnh lý thú của những ảo giác này.

Đối với Paul, bản đồ cho “việc xử lý thẻ tín dụng” có thể kích hoạt nhiều bản đồ nhỏ giống nhau dùng cho các khái niệm khác ví dụ như “làm hóa đơn cho khách hàng”. Bộ não không muốn các mạch bị kéo đi theo nhiều hướng cùng lúc. Nó không cần quá nhiều thứ để có thể kích hoạt trước khi bạn có vài triệu mạch giống nhau để sử dụng bởi những bản đồ khác nhau. Kết quả là mâu thuẫn xảy ra.

LÀM MỌI ĐIỀU TỐT NHẤT TRONG MỘT KHÔNG GIAN CHẬT HẸP

Do có những hạn chế ở số lượng các khái niệm có thể được lưu trữ trong đầu cùng một lúc nên bạn càng giữ ít bao nhiêu thì lại càng tốt bấy nhiêu. Số lượng lý tưởng của các ý tưởng mới mà bạn cố gắng lĩnh hội cùng một lúc dường như chỉ là một. Nếu bạn phải ra một quyết định, số lượng hiệu quả nhất cho các biến số là hai: Tôi nên rẽ trái hay rẽ phải? Nếu bạn phải nhớ thêm nhiều thông tin, cố gắng hạn chế các suy nghĩ xuống còn ba hay bốn cùng một lúc.

Tôi thích sự liên tưởng về việc tối đa hóa bộ nhớ giống như có một căn hộ chung cư nhỏ, và bạn phải sáng tạo một chút để sử dụng tốt không gian ấy, ví dụ như lắp cái giường có thể gấp gọn cho vào tường được, sử dụng nhiều gương, và treo các giá sách cao hơn. Nếu bạn nghe tới những cải tiến dựa trên kinh nghiệm đến từ những trò chơi luyện trí não, thì những việc này không đến từ việc làm cho căn hộ lớn hơn thêm, mà đến từ việc cải tiến hiệu năng của các kỹ năng nhỏ, ví dụ như đưa thông tin lên hay xuống khỏi sân khấu một cách hiệu quả bằng cách giản lược và tăng thêm; và lựa chọn tốt hơn trong việc đưa cái gì hay không đưa cái gì lên sân khấu, nghĩa là học để chọn diễn viên một cách cẩn trọng. Con người lúc nào cũng sử dụng ba kỹ thuật trên một cách trực giác. Qua việc hiểu rõ hơn những kỹ thuật này, bạn có thể sẽ thấy mình sử dụng chúng nhiều hơn, bởi mạch não nền tảng của các kỹ thuật này sẽ lớn hơn và vì thế dễ tìm ra hơn.

ĐƠN GIẢN HÓA

Hãy tưởng tượng bạn đang làm việc trên một máy tính với lượng RAM hạn chế, (nghĩa là nó không thể lưu trữ được nhiều thông tin ngắn hạn cùng một lúc). Bạn muốn tạo một tài liệu nhỏ có bốn bức hình màu với độ phân giải cao. Mỗi lần bạn di chuyển các bức hình, máy tính mất vài giây để vẽ lại tất cả mọi thứ. Để tìm vị trí tốt hơn cho các bức hình trên trang tài liệu, bạn nên di chuyển mọi thứ sử dụng các bức hình có độ phân giải thấp trước đã. Sau khi mọi thứ đã đúng vị trí, lúc đó bạn có thể chèn vào những bức hình màu độ phân giải cao. Những nhà thiết kế đồ họa luôn luôn sử dụng kỹ thuật “phác thảo” các khái niệm. Những nhà biên kịch sử dụng “kịch bản bằng hình vẽ” để mô tả các diễn biến của một câu chuyện, với mỗi tấm bảng là một hình vẽ đơn giản tóm tắt những sự kiện phức tạp. Những tấm bảng có thể được sắp xếp qua lại dễ dàng hơn là tổ chức lại một kịch bản tổng thể. Việc sử dụng một đại diện ít xác định của một ý nghĩ sẽ làm giải phóng những nguồn lực cần cho những chức năng quan trọng như đưa ra những cách nhìn nhận khác nhau, thêm hay bớt các yếu tố, hoặc sắp xếp lại các thứ.

Khả năng đơn giản hóa những ý nghĩ phức tạp thành những yếu tố cốt lõi của nó là một thói quen mà hầu hết những nhà điều hành các doanh nghiệp đều tập luyện được. Đây thường là cách duy nhất giúp họ có thể đưa ra những quyết định phức tạp. Ở Hollywood chẳng hạn, lời giới thiệu lý tưởng cho một bộ phim mới thường rất ngắn gọn để một xưởng phim có thể đưa nó vào trong một câu (bộ phim Alien được giới thiệu qua một câu “Jaws in space”, lời giới thiệu sử dụng những yếu tố mà mọi người đã biết đến rất rõ, ở dạng tóm tắt với mức độ cao, đòi hỏi ít nhất năng lượng có thể để đưa ý tưởng lên sân khấu). Đơn giản là tốt; đơn giản nhất là tốt nhất. Khi bạn rút gọn những suy nghĩ phức tạp xuống thành một vài khái niệm, nó sẽ trở nên dễ dàng hơn khi xử lý những khái niệm ấy trong đầu bạn và cả trong đầu mọi người nữa. Điều này đơn giản là vì sân khấu quá nhỏ bé. Nếu như Paul biết được nó nhỏ như thế nào, chắc hẳn anh đã đơn giản hóa công việc càng nhiều càng tốt. Anh đã có thể cắt giảm bản tóm tắt xuống để chỉ còn lại những điểm nổi bật, mỗi dòng cho một vấn đề chính, để làm cho nó dễ hiểu hơn. Thay vào đó anh đã làm ngược lại, đi quá sâu vào chi tiết bằng nỗ lực để dựng lên từng dòng một trong bảng tính.

NHÓM THÔNG TIN THÀNH CỤM

Hãy làm một thí nghiệm nhỏ. Hãy nhớ chuỗi mười số này trong vòng mười giây: 3659238362.

Bạn có thể lặp lại chuỗi này một cách dễ dàng không? Giờ hãy thử nhớ chuỗi mười số mới cũng trong mười giây, 7238115649, nhưng lần này hãy gộp các số lại thành từng đôi, ví dụ “bảy mươi hai, ba mươi tám”: 72 38 11 56 49.

Nếu bạn thử thí nghiệm này cùng với một đồng hồ bấm giờ bạn sẽ thấy dễ dàng như thế nào khi ghi nhớ theo cách thứ hai. Một số các nghiên cứu, kể cả của Giáo sư Fernand Gobet thuộc Đại học Brunel ở Anh, đã chỉ ra rằng bộ não học những thủ tục phức tạp bằng cách tự động nhóm thông tin lại thành từng cụm. Kích cỡ các cụm này có liên quan đến lượng thời gian bạn cần để tự đọc mỗi sự vật, sự việc. Ví dụ, sẽ dễ dàng hơn khi nói “bảy mươi hai, ba mươi tám, mười một, năm mươi sáu, bốn mươi chín”, hơn là “bảy ngàn hai trăm ba mươi tám, một ngàn một trăm bốn mươi chín” hay những điều tương tự thế. Các cụm được tạo nên khi bạn cố nhớ số có bốn chữ số vốn khá lớn để có thể đưa lên sân khấu một cách dễ dàng. Chìa khóa cho vấn đề này là tính toán thời gian: những cụm tốt nhất sẽ mất ít hơn hai giây để nghĩ đến hay để đọc to lên.

Một bài báo năm 2005 có tên “Trí Tuệ Chuyên Gia”, của Philip E. Ross, trong Tạp chí Scientific American Mind đã mô tả việc các nhà vô địch cờ vua thể hiện xuất sắc như thế nào trong các ván chơi. Bài viết tranh luận rằng các nhà vô địch cờ vua phát triển các tên gọi (ví dụ như các cụm) để có các bố trí hoàn chỉnh trên bàn cờ. Họ có thể có sẵn một cụm cho một ván chơi mà ở đó đối thủ bắt đầu và di chuyển con tốt ở góc trái lên một nước và một cụm khác là khi đối thủ đi con tốt đó lên hai nước. Họ đã thấy cả hai trường hợp này quá nhiều lần đến nỗi mỗi trường hợp đều được ghi nhớ lại và được gọi ra ngay tức thì. Điều này cho phép họ so sánh hai cụm một cách dễ dàng. Những chuyên gia cờ vua không nghĩ trước hàng trăm nước đi trong đầu. Họ cũng như chúng ta chỉ giữ một vài trường hợp cụ thể trong bộ nhớ cùng một lúc mà thôi, nhưng những cụm này lại có thể đại diện cho hàng chục các nước đi. Việc trở thành một chuyên gia trong bất cứ lĩnh vực nào có vẻ sẽ bao gồm cả việc tạo ra một số lớn các cụm, cho phép bạn đưa ra những quyết định nhanh và tốt hơn những người nghiệp dư. Việc tư duy hiện tại là kết quả của mười năm luyện tập để phát triển những cụm đủ khả năng trong bất kỳ lĩnh vực nào để đạt được “ưu thế làm chủ”.

Khi gom cụm, mỗi một nhóm bốn sự việc được giữ trên sân khấu có thể đại diện cho một khối lượng thông tin khổng lồ. Thử tưởng tượng bạn đang cố nghĩ về những ưu tiên trong cuộc sống của mình. Bạn có thể tạo ra các cụm cho “công việc”, “gia đình”, “sức khỏe” và “sự sáng tạo”. Việc tạo ra những thay đổi trong cuộc sống sẽ trở nên dễ dàng hơn khi sắp xếp lại trật tự các cụm này, thay vì cố để hiểu và suy nghĩ lại lịch sử cuộc đời bạn vừa trải qua hay tính những kế hoạch cho tương lai, vốn là những thứ không thể làm được trên một sân khấu nhỏ. Việc gom cụm này cho phép bạn tương tác với các kiểu mẫu phức tạp không chỉ trên một bàn cờ và còn trên nhiều lĩnh vực của cuộc sống, kể cả cuộc sống nội tâm của bạn.

Việc gom cụm đã giúp Paul làm xong việc định giá đúng thời hạn. Anh có thể chia nhỏ công việc ra thành nhiều hơn là bốn cụm, và sau đó lại chia tiếp các cụm ấy ra thêm cho đến khi anh bắt đầu tạo các liên kết quanh việc làm thế nào để định giá riêng biệt cho dự án này. Ba hay bốn cụm có vẻ là con số lý tưởng để giữ trong đầu cùng một lúc.

Một cách tự nhiên bộ não luôn muốn gom nhóm bất cứ lúc nào bạn chạm tới giới hạn của những thứ có thể được giữ trên sân khấu. Đây là việc làm hoàn toàn một cách vô thức. Giống như đơn giản hóa, việc có một hiểu biết rõ ràng về quá trình này thay vì chỉ ngầm hiểu nó sẽ giúp bạn gom nhóm công việc thường xuyên hơn và hiệu quả hơn.

CẨN THẬN LỰA CHỌN DIỄN VIÊN

Nếu sân khấu của Paul có thể giữ được khoảng bốn diễn viên cùng một lúc, thì mỗi một diễn viên có thể là một cụm chứa các diễn viên khác, vậy thì câu hỏi tiếp theo sẽ là, bốn diễn viên nào sẽ trở nên hữu dụng nhất mọi thời điểm?

Ở cảnh 1, tôi đã giới thiệu ý tưởng về việc sẽ mất năng lượng hơn khi đưa một số diễn viên lên sân khấu hơn là các diễn viên khác. Các diễn viên thường lên sân khấu bởi họ ở ngay hàng ghế đầu tiên, chứ không phải vì họ là những diễn viên hữu ích nhất cho thời điểm đó. Khi lần đầu tiên Paul cố định giá cho dự án trong vòng nửa tiếng, anh nhanh chóng làm đầy sân khấu bằng các chi tiết về dự án và cảm thấy đờ người ra, sân khấu của anh quá đầy để có thể xử lý công việc.

Hãy tưởng tượng bạn đang tổ chức một buổi họp với sáu đồng nghiệp và phải đưa ra một quyết định lớn về việc có nên đầu tư vào một doanh nghiệp mới hay không. Bốn thứ tốt nhất để giữ trên sân khấu có thể là:

1. Những mục tiêu tổng thể của tổ chức

2. Kết quả mong muốn có được từ cuộc họp, ví dụ như quyết định xem làm hay không làm

3. Lý lẽ chính để đầu tư

4. Lý lẽ chính để không đầu tư.

Theo những điều rút ra được từ cảnh đầu tiên, sẽ dễ dàng hơn nếu bốn điểm trên không được giữ trên sân khấu và được đặt ở đâu để bạn dễ thấy, ví dụ như trên giấy hoặc trên bảng chẳng hạn.

Thay vì lựa chọn diễn viên tốt để đưa lên sân khấu, điều thường xảy ra trong hoàn cảnh tương tự là sân khấu của mọi người sẽ trở nên chật kín với những chi tiết về doanh nghiệp mới này. Đó là bởi vì những chi tiết ấy đang còn rất mới và dễ để đưa lên sân khấu. Còn những vấn đề đưa ra ở đây, dù rất quan trọng, lại có vẻ khá mơ hồ; thế nên chúng cần phải mất công hơn để xem xét. Tất cả chúng ta thường nghĩ về những thứ dễ dàng, thay vì nghĩ về những thứ đúng.

Bạn làm thế nào để chọn xem ai là những diễn viên tốt nhất để đưa lên sân khấu bất cứ lúc nào? Từ những gì chúng ta đã vừa được học về bộ não cho thấy, bản thân quyết định này sẽ tiêu tốn rất nhiều năng lượng và khoảng trống. Thế nên tốt nhất là nên làm lúc sáng sớm, khi bạn còn có nhiều năng lượng trí tuệ, sử dụng thị giác cũng như đơn giản hóa và gom cụm. Nhưng hiện giờ có lẽ đã đủ kiến thức nền tảng cho những thách thức của cái sân khấu hữu hạn một cách tệ hại này. Hãy cùng quay ngược lại câu chuyện để bạn có thể hình dung xem Paul đã có thể làm gì khác nếu anh hiểu được những giới hạn không gian của vỏ não trước trán của mình.

DỰ ÁN ĐAU ĐẦU, QUAY LẠI LẦN HAI

10 giờ 30 phút sáng, Paul ngồi ở bàn làm việc và nhìn thất thần vào bản tài liệu trên tay. Khách hàng thì đang kỳ vọng một bảng báo giá đầy đủ trong một tiếng nữa. Paul bắt đầu mở một bảng tính để dựng nên một bản dự toán ngân sách, tuy nhiên một giọng nói từ bên trong bảo với anh rằng việc này sẽ mất nhiều thời gian lắm; quá trình này quá chi tiết. Anh đã được học cách đơn giản hóa và gom nhóm khi phải xử lý với rất nhiều thông tin.

Paul quyết định dừng lại và suy nghĩ về một chiến lược khác. Để giảm bớt lượng thông tin được lưu trữ cả trong máy tính và vỏ não trước trán của mình, anh tắt hết các chương trình đang làm việc và mở một tài liệu mới, một tờ giấy trắng. Anh nghĩ xem mình cần giữ cái gì nhất trong đầu. Anh biết mình có thể dễ dàng bị lạc trong các chi tiết, điều có thể ngăn cản không cho anh hoàn tất bản báo giá đúng thời hạn, vậy nên anh viết ra “một tiếng” lên máy tính, để giữ cho mình được tập trung hoàn thành công việc trong một giờ nữa. Sau đó anh nhìn vào dự án và cố định hình xem anh cần đạt được cái gì, đơn giản hóa mục tiêu thành một câu duy nhất. Ban đầu anh lại bị lạc hướng sang suy nghĩ về việc lập trình, sau đó anh cố gắng tập trung vào mục tiêu cụ thể cho một tiếng đồng hồ này. Anh thấy “định giá chính xác” sẽ là mục tiêu chính. Anh cố định nghĩa dự án này trong chỉ một câu mà thôi. Anh đưa ra câu “phần mềm cho hàng ngàn giao dịch nhỏ”. Anh đã đơn giản hóa dự án thành những điểm quan trọng nhất. Giờ đây anh có ba suy nghĩ trong đầu: “một tiếng”, “định giá chính xác”, và “phần mềm cho hàng ngàn giao dịch nhỏ”, và xem có những liên kết nào có thể xuất hiện giữa ba ý nghĩ này không.

Có những suy nghĩ ấy trong đầu, Paul nhanh chóng nhận ra mình nên chia việc định giá dự án thành các giai đoạn. Sau đó anh xác định bốn công việc cho dự án này:

1. Xây dựng một kế hoạch dự án chi tiết.

2. Nghiên cứu phần mềm có sẵn hay xây dựng từ đầu.

3. Viết phần mềm.

4. Cài đặt.

Khi viết ra bốn công việc này, anh thấy có một mô hình kiểu mẫu. Anh muốn nghĩ về tất cả những chi tiết của phần mềm – bộ não của anh muốn làm thế một cách tự nhiên – nhưng anh biết mình sẽ lạc lối ngay nếu làm như vậy. Thay vào đó, anh ngăn chặn các diễn viên không cho lên sân khấu và cố đưa lên chỉ một diễn viên là: “Xây dựng một kế hoạch dự án chi tiết”. Đưa khái niệm này lên sân khấu một lúc là tất cả những gì anh cần để nhớ về hệ thống của mình dành cho việc định giá sản phẩm. Anh nhớ rằng thường mất một tuần để làm một bản kế hoạch dự án chính xác cùng với khách hàng, và anh biết định giá cho thời gian của mình trong một tuần như thế nào. Tiếp theo anh nghĩ về nhóm thứ hai: “Nghiên cứu phần mềm có sẵn hay xây dựng từ đầu”. Chỉ cần giữ khái niệm này trong đầu, anh nhớ tới kiểu công việc này mất bao nhiêu thời gian trước đây.

Anh phác thảo ra một bản kế hoạch định giá, sau đó làm tương tự với ba bước tiếp theo, đưa một khái niệm lên sân khấu cùng lúc. Anh đi đến giai đoạn thứ ba “viết phần mềm” và nhận ra rằng không có cách nào để định giá giai đoạn này cho đến khi anh hoàn tất hai giai đoạn đầu tiên. Anh quyết định mô tả các chi phí của giai đoạn này cho hai dự án tương tự trước đó, thay vì đưa ra một con số chắc chắn. Việc đưa ra sơ đồ này tiết kiệm cho anh hàng giờ tính toán dựa trên các biến số chưa biết đến. Với nhóm “cài đặt”, anh có thể tính toán từ những lần cài đặt trước đó thời gian cần để cài cho mỗi cửa hàng, thời gian hỗ trợ, và các thứ khác. Từ đây anh có thể đưa ra một ước tính hợp lý để có thể tiếp tục công việc với các điều khoản miễn trừ trách nhiệm.

Trong vòng ba mươi phút anh đã dựng nên một bảng tính đơn giản kèm theo một bảng chi tiết các chi phí. Anh in tài liệu ra để kiểm tra lỗi chính tả, sửa một số chỗ, và gửi bản báo giá chính thức mười lăm phút trước thời gian hạn định. Paul cảm nhận khách hàng sẽ hài lòng khi nhận được tài liệu đúng giờ và còn thấy được cả bản chi tiết các chi phí thay vì chỉ là một con số. Hài lòng với công việc, anh có thời gian để xử lý các email trước khi rời công ty.

Hãy xem xét cả hai trường hợp trên. Ở trường hợp thứ nhất, Paul gửi bản đề xuất với một số lỗi chính tả, sau hạn chót thời gian và chỉ có một con số vốn có được do đoán mò. Sự đoán mò này có thể sẽ phải trả giá đắt. Trong lần “thử lại” của Paul, anh gửi bản đề xuất sớm hơn, chia nhỏ thành các bước hợp lôgíc để khách hàng dễ hiểu và không có lỗi nào hết. Sự khác biệt về tài chính với Paul có thể là cực kỳ lớn. Sự khác biệt về xử lý não bộ lại không lớn như vậy. Paul nhận ra rằng cơ chế não bộ của anh đã không làm việc anh muốn, và anh đã thay đổi chức năng não của mình để đạt được mục tiêu. Tất nhiên, sự thay đổi này, đòi hỏi rất nhiều nỗ lực đồng thời phải chú tâm và cũng yêu cầu Paul hiểu những kiểu mẫu trong bộ não của mình để không làm những thứ mà bộ não của anh tự động muốn làm. Đôi khi dường như những thay đổi nhỏ trong bộ não lại có thể tạo ra những ảnh hưởng lớn đối với thế giới.

Những điều bất ngờ về bộ não:

• Sân khấu rất nhỏ, nhỏ hơn những gì mọi người nhận ra.

• Bạn càng giữ ít thứ trong đầu thì càng tốt.

• Những khái niệm mới chiếm nhiều không gian trên sân khấu hơn là những thứ bạn đã biết rõ rồi.

• Trí nhớ bắt đầu giảm sút khi bạn cố nhớ nhiều hơn một sự việc trong đầu.

• Khi cố gắng đưa ra quyết định giữa các sự việc, số lượng sự việc tối ưu là hai.

• Số lượng tối ưu của các ý nghĩ khác nhau để giữ trong đầu cùng một lúc không vượt quá ba hoặc bốn.

Bạn có thể thử:

• Đơn giản hóa thông tin bằng cách ước chừng và tập trung vào những yếu tố mấu chốt của vấn đề.

• Nhóm thông tin lại thành các cụm bất cứ khi nào bạn phải xử lý quá nhiều thông tin.

• Luyện tập việc đưa những diễn viên quan trọng nhất lên sân khấu trước tiên, chứ không phải đưa lên những diễn viên dễ dàng nhất trước.

CẢNH 3

TUNG HỨNG NĂM THỨ MỘT LÚC

giờ sáng, Emily đi đến một cuộc họp với những người điều hành cấp cao. Đây là buổi họp đầu tiên của cô với nhóm này, thế nên cô phải hỏi đường đi đến phòng họp qua một người trợ lý ở chỗ thang máy. Trên đường đi xuống một sảnh dài, điện thoại của cô đổ chuông. Đó là một trong những ứng cử viên bị loại cho công việc mà Emily tuyển ngày hôm nay. Trong khi cố gắng nói chuyện để không làm người này thất vọng, Emily nhận ra mình đã lạc đường từ lúc nào. Cô không hề có trong đầu một bản đồ nào cho vị trí của các phòng cả. Cô kết thúc nhanh cuộc gọi, xác định phương hướng và đến cuộc họp trễ năm phút, cảm thấy rất giận chính mình.

Emily rất thông minh, tuy thế cô không thể vừa đi theo chỉ dẫn vừa nói chuyện điện thoại cùng một lúc được. Sự bất lực này có vẻ lạ lùng qua những hiểu biết về sân khấu chúng ta có được tới giờ, bởi chỉ có hai sự việc nằm trong sự chú ý của cô: “tìm phòng” và “nói chuyện điện thoại”. Tại sao chỉ có hai sự việc mà lại có thể làm quá tải vỏ não trước trán?

Khi tất cả mọi người trong phòng họp đã ổn định chỗ ngồi, Emily để ý thấy một đồng nghiệp đang mở điện thoại của anh ta ra xem trong khi điện thoại của cô rung lên. Cô không quen việc để điện thoại “luôn sẵn sàng”. Thiết bị này cô có được là nhờ sự thăng chức. Cô có thể tắt nó đi, nhưng lại sợ sẽ bỏ lỡ điều gì đó khẩn cấp. Email đó là từ Joanne, người mà Emily muốn tuyển vào vị trí trợ lý. Cuộc họp của họ cần phải được thay đổi về thời gian. Emily trả lời ngay tức thì, tuy vẫn để mắt một chút đến cuộc họp. Khi đang gõ tin nhắn, cô cảm thấy hơi mệt, kiểu giống như việc cố đọc sách trên xe hơi vậy. Não của cô đang phải làm việc mà nó không muốn làm. Cô nhanh chóng hoàn tất và hướng sự chú ý trở lại cuộc họp. Điện thoại của cô được tắt đi.

Đó là Joanne với một câu hỏi khác. Cảm giác buồn nôn nhẹ lại xuất hiện khi Emily cố trả lời thật nhanh.

“Emily?” – một giọng nói phá vỡ sự chú ý của cô. Đó là từ vị CEO. “Tôi muốn hỏi xem liệu cô có muốn giới thiệu bản thân mình với những người ở đây không”

“Chắc chắn rồi” – cô dừng lại, cảm giác mất phương hướng. Cô lắp bắp chữ “cảm ơn” vì được thăng chức và nói rằng cô có những kế hoạch lớn cho năm nay. Cô lo lắng rằng mọi người sẽ nghĩ cô là người không đáng tin cậy và không nói được trước đám đông.

Emily là một diễn giả xuất sắc, người luôn sẵn sàng để tạo ra một ấn tượng tốt ở bất kỳ thời điểm nào. Điều làm cô thất bại ở đây chính là một hạn chế khác của vỏ não trước trán, cái mà loài người không bao giờ muốn có, đặc biệt là những người có nhiều việc phải làm. Emily khám phá ra rằng hạn chế này không chỉ đối với lượng thông tin bạn có thể nắm bắt được cùng một lúc, giống như những gì Paul hiểu ra ở cảnh cuối, mà còn đối với cả việc bạn làm được gì với lượng thông tin đó vào bất cứ lúc nào. Cố vượt qua giới hạn này, bạn sẽ đạt được điều gì đó, chẳng hạn như sự chính xác hay chất lượng tốt. Do có quá nhiều việc phải làm mỗi ngày, Emily cần lập trình lại bộ não để trở nên hiệu quả hơn trong việc xử lý nhiều tác vụ thần kinh mà không làm ảnh hưởng đến năng suất làm việc.

MỖI DIỄN VIÊN CHỈ CÓ THỂ DIỄN MỘT VAI DUY NHẤT

Dù bạn có thể lưu trữ vài tập hợp thông tin trong đầu cùng một lúc, bạn vẫn không thể thực hiện nhiều hơn một hành vi có ý thức một lúc với các tập hợp thông tin này mà không làm ảnh hưởng năng suất được. Giờ chúng ta có ba sự hạn chế: sân khấu cần rất nhiều năng lượng để hoạt động, nó chỉ có thể chứa được một nhóm diễn viên tại một thời điểm và những diễn viên này chỉ có thể diễn mỗi cảnh một lúc mà thôi.

Về mặt thể chất thì có thể làm vài tác vụ thần kinh cùng một lúc, tùy độ chính xác và năng suất sẽ giảm đi nhanh chóng. Những hậu quả nó gây ra có thể sẽ không dễ chịu chút nào. Một cuộc điều tra về vụ tai nạn tàu hỏa thảm khốc năm 2007 cho thấy người lái tàu đã nhắn tin điện thoại vào chính thời khắc mà con tàu đột nhiên tăng tốc khi vào khúc cua.

Hầu hết mọi người đều có những kinh nghiệm trực tiếp về giới hạn này. Thật dễ dàng để vừa lái xe vừa nói chuyện với một người bạn khi đi trên cung đường bạn đã quen thuộc. Tuy nhiên nếu đi đến một địa điểm mới thì cuộc nói chuyện sẽ chậm lại ngay lập tức. Khi lái xe trên con đường trong một đất nước xa lạ bạn sẽ phải tập trung cao độ để không đi sai làn đường. Việc chuyển kênh radio khi lái xe cũng trở nên không thể cho đến khi cách lái xe mới này đã in sâu vào bộ nhớ dài hạn. Tương tự như vậy, chỉ đơn giản là thay đổi một chữ cái trên bàn phím thôi cũng làm bạn gõ chậm lại đi thấy rõ. Bộ não lúc đó phải làm hai việc cùng lúc: nhớ vị trí các phím và tập trung vào việc gõ.

Như tôi đã nói đến ở cảnh 1, những tiến trình thần kinh chính thích hợp để hoàn tất công việc là hiểu, quyết định, gọi lại, ghi nhớ và ngăn chặn. Để hiểu tại sao các diễn viên chỉ có thể diễn một cảnh cùng một lúc, hãy cùng khám phá sâu hơn về những tiến trình này.

Hiểu là một ý tưởng mới bao gồm việc tạo ra các bản đồ trong vỏ não trước trán để đại diện cho các thông tin mới thu thập vào và kết nối các bản đồ này với các bản đồ đã có sẵn trong bộ não. Nó giống như việc giữ diễn viên trên sân khấu để xem liệu họ có kết nối với khán giả không. Đưa ra một quyết định sẽ bao gồm cả việc kích hoạt một chuỗi các bản đồ ở vỏ não trước trán và phải lựa chọn giữa các bản đồ này. Nó cũng tương tự như việc giữ các khán giả trên sân khấu và quyết định chọn ai trong số họ, như trong buổi thử giọng cho dàn đồng ca vậy. Gọi lại là tìm kiếm qua hàng tỉ bản đồ có trong bộ nhớ và mang ra chỉ những cái đúng để đưa vào vỏ não trước trán. Ghi nhớ là việc giữ các bản đồ nằm trong sự chú tâm ở vỏ não trước trán đủ lâu để in chúng vào bộ nhớ dài hạn. Ngăn chặn bao gồm việc cố gắng không kích hoạt một số bản đồ nhất định. Nó giống như giữ cho một số diễn viên không lên sân khấu vậy.

Mỗi một tiến trình sẽ có những vận dụng phức tạp của hàng tỉ mạch dẫn truyền thần kinh. Mấu chốt vấn đề ở đây là bạn phải hoàn thành một thao tác trước khi bắt đầu cái tiếp theo. Lý do cũng tương tự như giải thích tại sao sân khấu lại nhỏ: mỗi tiến trình sử dụng một năng lượng khủng khiếp và rất nhiều các mạch thần kinh giống nhau, thế nên dễ xảy ra sự cạnh tranh giữa các mạch. Điều này cũng tương tự như sử dụng máy tính: bạn không thể nhân và chia hai số cùng một lúc được.

Khi tham gia vào các hoạt động có ý thức, bộ não của bạn làm việc theo kiểu chuỗi: cái này tiếp sau cái kia. Đây là một kinh nghiệm khác có được từ chuyện bạn quan sát một việc nhưng không chú ý lắm tới việc đó, giống như lúc Emily tìm kiếm Madelyn để đi uống café lúc 9 giờ sáng. Trong khoảnh khắc đó não của cô đã “xử lý song song” – đưa vào rất nhiều dòng dữ liệu, nhưng lại không làm gì mấy với chúng.

NHIỄU LOẠN TÁC VỤ KÉP

Ý nghĩ về việc các tiến trình có ý thức cần phải được hoàn thành từng cái một đã được nghiên cứu trong hàng trăm thí nghiệm kể từ những năm 1980. Ví dụ, nhà khoa học Harold Pashler chỉ ra rằng khi con người thực hiện hai tác vụ liên quan đến nhận thức cùng một lúc, năng lực hiểu biết của họ có thể giảm sút nhanh chóng từ một người có bằng MBA ở Har- vard xuống thành một đứa bé tám tuổi. Đó là một hiện tượng được gọi là nhiễu loạn tác vụ kép. Trong một thí nghiệm, Pashler yêu cầu những người tham gia nhấn vào một trong hai phím trên một cái bảng tương ứng với việc ánh sáng nháy lên ở phía bên trái hay bên phải cửa sổ. Một nhóm chỉ liên tục làm đi làm lại tác vụ này. Nhóm kia phải xem xét màu sắc của một vật thể cùng lúc đó, bằng cách chọn lựa giữa ba màu khác nhau. Ở đây chỉ có những biến số đơn giản: trái hay phải và ba màu khác nhau. Tuy vậy việc làm cả hai tác vụ lại lâu gấp đôi, khiến họ chẳng thể tiết kiệm được chút thời gian nào. Khám phá này áp dụng cho bất kể thí nghiệm là về hình ảnh hay âm thanh, và không quan trọng chuyện những người tham gia luyện tập nhiều thế nào. Nếu không quan trọng chuyện họ có trả lời đúng câu hỏi hay không, thì họ có thể đã làm việc đó nhanh hơn. Bài học ở đây rất rõ ràng: nếu sự chính xác là quan trọng thì đừng để bị phân tán tư tưởng.

Một thử nghiệm khác yêu cầu những người tham gia nhấn thật nhanh vào một trong hai bàn đạp chân để thể hiện âm thanh thấp hay cao khi nó kêu lên. Bài thử này đòi hỏi phải tập trung rất nhiều. Khi các nhà nghiên cứu thêm vào một tác vụ cơ học, kiểu như thêm vòng đệm vào một cái ốc vít, mọi người vẫn có thể làm được, mà chỉ bị giảm có chừng 20 phần trăm năng suất. Tuy nhiên khi thêm một tác vụ thần kinh đơn giản vào bài tập đạp chân kia, ví dụ như thêm vào hai con số (đơn giản như 5 + 3 = bao nhiêu), năng suất giảm ngay 50 phần trăm. Thử nghiệm này hé lộ rằng vấn đề không phải là làm hai việc cùng lúc nhiều như thực hiện hai tác vụ thần kinh có ý thức cùng lúc, trừ khi bạn thấy ổn với việc bị giảm sút năng suất nghiêm trọng. Tôi học được bài học này gần đây một cách khó khăn. Tôi đã vừa nghe điện thoại cầm tay và vừa tìm kiếm một đồ vật trong phòng cùng một lúc. Kết quả là ngón chân tôi bị kẹt dưới cửa, một vết thương mà phải mất hàng tuần mới lành lại.

Kể cả có ba mươi năm liên tục tìm hiểu về nhiễu loạn tác vụ kép đi chăng nữa, nhiều người vẫn cố gắng làm vài ba việc cùng một lúc. Các công nhân viên trên toàn thế giới bị bắt phải làm việc đa tác vụ từ rất lâu rồi. Linda Stone, nguyên là một nhân vật quan trọng ở Microsoft, đã đưa ra thuật ngữ chú tâm cục bộ liên tiếp vào năm 1998. Điều này xảy ra khi con người chỉ liên tục chú tâm vào những thứ tách riêng rời rạc. Kết cục là sự mệt mỏi trí óc xảy ra thường xuyên và nặng nề. Như Stone giải thích: “Chú tâm cục bộ liên tiếp là việc giữ sự tập trung cho những vấn đề cấp cao, và liên tục quét ra xung quanh trong trường hợp có thứ gì đó quan trọng hơn xuất hiện”.

ẢNH HƯỞNG CỦA LÀM VIỆC QUÁ TẢI

Một nghiên cứu ở Đại học London cho thấy việc liên tục trả lời email và tin nhắn làm suy giảm khả năng trí tuệ xuống trung bình khoảng mười điểm IQ. Chính xác là năm điểm cho nữ giới và mười lăm điểm cho nam giới. Kết quả này cũng tương tự như mất ngủ một đêm vậy. Đối với đàn ông, tác hại của nó gấp khoảng ba lần so với hút ma túy. Tuy sự thật này có thể sẽ trở thành một chủ đề thú vị để thảo luận trong bữa ăn, nhưng nó lại không mang tính tiêu khiển đến thế khi mà một trong những “công cụ năng suất” phổ biến nhất lại có thể khiến cho một người trở nên đần độn như một kẻ nghiện ma túy (gửi lời xin lỗi đến những nhà sản xuất đồ công nghệ: có những cách tốt để sử dụng công nghệ này, chính xác hơn là việc có thể “tắt máy” đi trong vài giờ). “Luôn sẵn sàng” có thể chưa phải là cách làm việc năng suất nhất. Một trong những lý do cho việc này sẽ được làm sáng tỏ trong màn giữ bình tĩnh dưới áp lực; tuy nhiên, nói một cách tóm tắt, bộ não bị bắt phải luôn “cảnh giác” quá nhiều. Điều này làm gia tăng thứ được biết đến với tên gọi quá tải “thay đổi để ổn định”, là chỉ số các hormon căng thẳng và các yếu tố khác liên quan đến cảm giác đe dọa. Sự hao mòn và hư hỏng từ việc này cũng gây ra tác hại. Như Stone nói: “Điều này luôn hiện hữu, bất kể ở đâu, bất cứ lúc nào thời đại đã tạo ra những cảm giác giả tạo về sự khủng hoảng triền miên. Điều xảy ra với động vật có vú ở trạng thái liên tục khủng hoảng là có sự tham gia của cơ chế đánh hay bỏ chạy. Nó sẽ có ích khi chúng ta bị mấy con hổ rượt đuổi. Có bao nhiêu trong số năm trăm email một ngày là con hổ ấy?”.

Bất kể độ chuyên sâu của nghiên cứu khoa học về những vấn đề cố hữu trong chú tâm cục bộ, loài người vẫn tiếp tục căng ra để làm được nhiều việc hơn cùng một lúc kể cả những lợi ích gặt hái được là cực kỳ nhỏ. Việc trở nên “luôn sẵn sàng” có vẻ giống như một giải pháp hợp lý. Do đó, nếu bạn có nhiều email hơn là thời gian có ở bàn làm việc thì tốt nhất nên trả lời email ở tất cả mọi nơi. Hơn nữa, việc xử lý email 24/7 dễ dàng đưa lên sân khấu hơn nhiều so với một giải pháp không chắc chắn ở trong hàng ngũ khán giả, ví dụ như thay đổi thói quen sử dụng email chẳng hạn. Kết quả đáng ngạc nhiên của việc luôn sẵn sàng là bạn không chỉ có những tác động tiêu cực lên năng suất thần kinh mà còn làm tăng lượng email bạn đang có nữa. Mọi người thấy bạn trả lời email nhanh nên sẽ gửi thêm nữa để cho bạn xử lý.

Nếu bạn thúc ép mình, việc luôn sẵn sàng trong thời gian ngắn có vẻ như bạn làm việc rất năng suất. Tuy nhiên, tác động lên bộ não, có thể nặng nề, giống như Emily khám phá ra khi cô trải qua một cơn buồn nôn do ảnh hưởng của tác vụ kép trong suốt cuộc họp. Hãy nghĩ về một ai đó hỏi bạn một câu hỏi khó khi bạn cố quyết định những thứ đơn giản kiểu như sẽ ăn gì trưa nay. Bạn có thể làm được, nhưng nỗ lực ấy khá là mệt mỏi đấy.

Điều mọi người thường làm chính là những gì Emily cố làm trong cuộc họp. Họ cố giữ vài sự tập trung cùng lúc và chuyển đổi nhanh qua lại giữa chúng. Có thể bạn sẽ nghĩ đây là một ý tưởng hay. Nhưng thử xem điều gì xảy ra khi bạn giữ các tác vụ ấy chạy ngầm ở dưới. Chỉ có một bộ nhớ nhỏ, bạn giảm lượng dữ liệu xuống chỉ còn lại những thứ bạn muốn tập trung vào ở bất cứ một thời điểm nào. Thay vì bốn thứ trên sân khấu một lúc, bạn cần giảm xuống còn ba, hoặc chỉ còn hai thôi. Khoảng không gian sẽ bị chiếm dụng trong bộ nhớ dành cho các sự việc được giữ không cho lên sân khấu. Dù chưa hề được nghiên cứu, cũng có lý khi cho rằng những sự việc ngốn năng lượng nhất lại là những thứ ra khỏi sân khấu nhanh nhất. Và tệ hơn nữa, đây có vẻ là những sự việc mang tính khái niệm, kiểu như các mục tiêu trừu tượng hoặc những mục đích không rõ ràng. Xu hướng này có thể giải thích tại sao khi sân khấu bị quá tải, nó sẽ dễ bị lệch hướng khỏi những dự định tổng thể. Những diễn viên lớn sẽ bị đẩy xuống sân khấu đầu tiên.

Bất cứ lúc nào bạn làm nhiều việc cùng lúc, và có nhiều hơn một tác vụ đòi hỏi sự tập trung nhiều, thì lúc đó độ chính xác bị giảm xuống. Bên cạnh việc chỉ làm duy nhất một việc trong một khoảng thời gian (điều mà hầu hết những người nhận được hai trăm email một ngày sẽ cảm thấy mỉa mai), thì còn có những lựa chọn nào khác nữa không? Có ba câu trả lời khả dĩ cho sự tiến thoái lưỡng nan này. Một giải pháp là ghi nhớ hoặc tự động hóa nhiều hơn những việc bạn làm, nghĩa là bắt khán giả làm việc nhiều hơn. Giải pháp khả thi nữa là đưa thông tin lên sân khấu theo một trật tự tốt nhất có thể. Giải pháp thứ ba là xáo trộn sự tập trung của bạn.

BẮT KHÁN GIẢ LÀM VIỆC NHIỀU HƠN

Các doanh nhân thỉnh thoảng nói rằng họ có thể làm nhiều việc cùng lúc một cách rất tốt. Điều này đúng khi bạn có thể vừa tham dự hội thảo và vừa trả lời email cùng một lúc. Tuy nhiên, thực tế là bạn không làm hai việc mà cùng sử dụng chung sân khấu tại bất cứ thời điểm nào. Bạn đang chuyển đổi qua lại giữa các công việc thì có. Kết quả là bạn giảm tập trung cho buổi hội thảo, thế nên những điểm quan trọng có thể bị bỏ lỡ hay các ý tưởng mới có thể chưa được “hấp thụ”. Các nghiên cứu bởi những nhà khoa học về trí nhớ cũng chỉ ra rằng để bộ nhớ dài hạn hình thành được thì phải chú ý thật kỹ trước các thông tin. Bạn có thể đang nghe buổi hội thảo nhưng sau đó lại nhớ được rất ít những gì đã được thảo luận.

Có một giải pháp khả dĩ. Bạn có thể học cách tung hứng nhiều trái bóng lúc làm việc giống như một chú hề vậy: luyện tập những động tác cụ thể liên tục cho đến khi quen thuộc, nghĩa là những động tác ấy sẽ không bị điều khiển bởi vỏ não trước trán nữa. Một khi đã thuần thục những động tác ấy, bạn có thể làm thêm động tác khác cùng một lúc. Bạn có thể liên tục thêm vào nữa khi đã quen với các động tác kia rồi. Một ví dụ là ở việc học lái xe: bạn làm quen việc giữ tay lái. Sau đó làm quen việc sử dụng chân ga và phanh, thế là những động tác ấy trở nên tự động, rồi bạn có thể học thêm các kỹ năng khác như đỗ xe chẳng hạn.

Tôi mới học được các tổ hợp phím trên máy tính dùng cho việc lưu, cắt, dán và quay ngược lại, tất cả những việc này giờ tôi có thể làm chỉ với một chút chú tâm mà thôi. Điều này cho phép tôi gõ nhanh với độ chính xác cao hơn, bởi tôi không cần quá nhiều nhận thức cho những hành động thông thường. Khi ghi nhớ một tác vụ lặp đi lặp lại, bạn đưa các lề thói quen thuộc đến một vùng trên não gọi là hạch nền, đã được nói đến ở cảnh 1.

Hạch nền (có vài cái như thế) là trung tâm điều khiển việc não lưu trữ những chức năng thói quen như thế nào. Những chức năng này được gọi là lề thói bởi chúng là các bước gắn với nhau theo trật tự, giống như trong khiêu vũ vậy. Hạch nền nhận ra, lưu trữ và lặp lại các kiểu mẫu trong môi trường của bạn. Nguyên lý hoạt động cơ bản giống như hàm “nếu-thì” trong lập trình phần mềm. Ví dụ “Nếu bạn cầm một đồ uống nóng, thì đừng uống ngay một ngụm; thử nhấp môi trước xem sao đã”. Lề thói này được lưu trữ trong các bản đồ phức tạp. Mỗi bản đồ chứa đựng các chỉ dẫn để điều khiển hàng triệu dây thần kinh di chuyển hàng trăm cơ theo một trật tự chính xác, trong một độ dài thời gian cho phép và với đủ sức lực, để cầm ly đồ uống nóng kia lên, mang nó tới miệng và nhấp môi.

a

Hạch nền tham gia vào mọi chuyện. Các dòng thông tin đi vào và đi ra từ hầu hết các phần khác của bộ não qua những liên kết dài trong chất trắng. Các liên kết chất trắng này giống như các sợi cáp dài nối các phần của bộ não với nhau. Vỏ não trước trán cũng được kết nối rất tốt với các phần não khác, trong khi các bộ phận khác như a-mi-đan lại kết nối rất hữu hạn với các phần kia. Hạch nền lấy các khuôn mẫu không chỉ trong chuyển động cơ học, mà còn từ ánh sáng, âm thanh, mùi vị, ngôn ngữ, các sự kiện, ý tưởng, cảm xúc và tất cả các kích thích nhận thức được. Lần tới khi bạn vô tình ngửi thấy mùi của hộp sữa trước khi uống nó, hoặc tự động kiểm tra xem đã có danh thiếp hay chưa trước buổi họp, hãy cảm ơn hạch nền của mình.

Hạch nền rất thèm khát các khuôn mẫu. Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng chỉ cần ba lần lặp lại một lề thói thôi cũng đủ để bắt đầu quá trình gọi là tạo tiềm lực dài hạn, hay như tôi thường gọi là nối dây cứng. Hạch nền cũng là một kẻ ngấm ngầm: lấy các khuôn mẫu mà không gây bất cứ sự chú ý có ý thức nào. Trong một nghiên cứu ở Montreal, những người tham gia dùng một máy quét não và phải nhấn một trong bốn nút trên bàn phím để thể hiện xem đèn sáng chỗ nào trên màn hình. Nhóm này được chia làm đôi: một nhóm được đưa cho một chuỗi ngẫu nhiên các khuôn mẫu; nhóm kia thì được đưa một chuỗi lặp lại. Chuỗi lặp lại đủ phức tạp để những người đó không thể biết được một cách có ý thức. Tuy nhiên hạch nền của họ lại phát hiện ra. Nhóm nghe những khuôn mẫu lặp đi lặp lại đã gõ lại chuỗi nhanh hơn 10 phần trăm. Sau thí nghiệm, cả hai nhóm đều được yêu cầu nêu lên những kiểu mẫu mà họ nhận ra được, nhưng không nhóm nào làm tốt hơn nhóm nào cả. Hạch nền của họ đã ngầm chú ý tới các kiểu mẫu, tuy nhiên những người tham gia lại không xác định rõ ràng được chúng. Bạn có thể gợi lại những kinh nghiệm tương tự, ví dụ, khi bạn lái xe tới một văn phòng mới và bằng cách nào đó “nhớ” được đường đi vào ngày tiếp theo. Kiểu nhận thức này là một hiểu biết không rõ ràng. Bạn chẳng thể mô tả đường đi cho bất cứ ai cả. Một kiểu mẫu đã hình thành trong hạch nền, mặc dù bạn không thể diễn tả nó.

Hạch nền rất hiệu quả trong việc thực thi các kiểu mẫu. Hãy dùng nó theo bất cứ cách nào bạn muốn. Một khi bạn lặp lại một kiểu mẫu đủ thường xuyên, hạch nền có thể điều khiển quá trình đó, nhường lại sân khấu cho các chức năng khác. Phát triển các lề thói mà có thể lặp lại được liên tục: Bạn gọi mọi người như thế nào. Bạn mở một tài liệu mới, xóa các email hay thiết lập thời gian của mình ra sao. Bạn càng sử dụng kiểu mẫu thì càng ít phải để ý tới các tác vụ, và bạn càng có thể làm nhiều việc cùng lúc. Hiển nhiên quá trình này không thể xảy ra với các tác vụ cao cấp như viết một bức thư, bạn sẽ ngạc nhiên với việc mình ghi nhớ được bao nhiêu. Ví dụ, giờ tôi có thể sử dụng các phím bấm, mất ít hơn ba giây và không cần tập trung lắm để trả lời một email với một nụ cười, nói rằng: “Tôi nhận được email rồi, và tôi thấy rất vui”.

ĐƯA THÔNG TIN LÊN SÂN KHẤU THEO MỘT TRẬT TỰ TỐT NHẤT

Một cách khác để tối đa hóa sự tập trung của bạn là đưa các thứ lên sân khấu theo một trật tự tốt nhất có thể. Hãy tưởng tượng bạn đang cố lựa chọn địa điểm cho kỳ nghỉ ở bãi biển với mấy người bạn. Các quyết định cần phải được đưa ra theo thứ tự nhất định. Bạn không tính toán được xem cần mua bao nhiêu đồ ăn khi chưa biết bao nhiêu người sẽ tham gia. Và bạn cũng chẳng biết bao nhiêu người sẽ tham gia cho đến khi bạn chọn được một ngày phù hợp. Nếu giả sử bạn đi mua sắm trước khi xác nhận số người tham dự, bạn sẽ cảm thấy mọi thứ rất luẩn quẩn và không thể đưa ra quyết định được.

Có thể bạn đã trải qua những thứ tương tự, có khi là một dự án mà bạn phải đi liên tục đến những quyết định tương tự nhau. Đây là một trong những bản chất tự nhiên của vỏ não trước trán và quá trình thần kinh có ý thức và nó được gọi là nút cổ chai. Nút cổ chai là một chuỗi những liên kết chưa hoàn chỉnh làm tiêu hao năng lượng thần kinh, tạo thành một hàng đợi. Các quyết định khác đợi trong hàng phía sau quyết định đầu tiên. Nó hơi giống như khi một máy in vi tính bị kẹt giấy và các tài liệu khác phải xếp hàng đợi để in ra vậy. Biểu tượng máy in nhảy trên màn hình của bạn, gửi đến một “cảnh báo” để bạn biết là có vấn đề xảy ra. Theo cách tương tự, khi có một ý nghĩ trở đi trở lại, một quyết định có thể sẽ giữ các quyết định kia lại. Nếu bạn có thể làm một danh sách các suy nghĩ bạn có trong một tuần, bạn sẽ tìm ra được những suy nghĩ lặp đi lặp lại này. Các quyết định có thể bị giữ trong hàng đợi, những thứ bạn đã cố trả lời nhưng thất bại là một trong những kẻ làm lãng phí tài nguyên nhất trong não bộ của bạn.

Làm sao bạn xác định được các vấn đề nằm trong một hàng đợi? Có lẽ cần phải ra một quyết định cao hơn thế. Nếu bạn đang trang trí ngôi nhà và không thể quyết định được nên sơn tường màu gì, thì bạn có thể đang thiếu một quyết định cao hơn về việc sắp xếp màu sắc tổng thể như thế nào cho ngôi nhà. Đây có vẻ như là cách hiệu quả nhất, một con đường ít trở ngại nhất, để nghĩ về các công việc. Dành thời gian tìm ra thứ tự đúng để ra quyết định có thể giúp bạn tiết kiệm rất nhiều công sức và năng lượng, đồng thời giảm thiểu những vấn đề không thể giải quyết được ở trong hàng đợi nữa.

Việc làm giảm đi các hàng đợi sẽ ngăn không cho bạn liên tục đưa các sự việc lên hay xuống sân khấu, từ đó sẽ cho bạn nhiều năng lượng cũng như không gian hơn dành cho các thông tin khác hay nguồn lực dành cho sự tập trung ở các công việc khác.

TRỘN LẪN SỰ TẬP TRUNG CỦA BẠN

Một kỹ năng cuối cùng để thực hiện việc tung hứng là trộn lẫn cách bạn sử dụng sự tập trung của mình. Ý tưởng cho việc này cũng tương tự như những gì tôi đã nói ở cảnh 1, quanh việc sắp xếp thời gian cho công việc tùy theo loại tác vụ thần kinh cần thiết. Về cơ bản, nếu bạn phải làm mấy việc cùng lúc, hãy hạn chế thời gian dành cho việc này. Quyết định một cách tỉnh táo xem bạn sẽ chia sự tập trung của mình trong bao lâu, sau đó quay trở lại tập trung vào một việc cụ thể. Một ví dụ cho việc này là để chiếc điện thoại mở trong giới hạn mấy tiếng một ngày khi bạn đang làm việc, có thể là chỉ trong buổi chiều, khi bạn không phải làm những việc đòi hỏi sự tập trung.

Nó có thể trở nên hữu ích khi cho những người xung quanh biết bạn đang phân chia sự tập trung của mình. Bạn sẽ mất tập trung khi cố gắng xem xét ai đó có lắng nghe trong cuộc họp hay không. Khi hội thảo đang diễn ra, có thể sẽ hữu ích khi thẳng thắn nói ai đang tập trung 100% và ai thì đang làm việc riêng. Khi có một chủ đề đang được trình bày đòi hỏi sự tập trung cao độ từ một người nào đó, thì người đó cũng phải để ý rằng sự tập trung của mình là một đòi hỏi cần thiết.

Với tất cả những kiến thức này, hãy cùng xem thử Emily đã có thể làm gì khác đi nếu cô hiểu được hạn chế của bộ não mình.

TUNG HỨNG NĂM THỨ CÙNG LÚC, QUAY LẠI LẦN HAI

11 giờ sáng. Theo lịch, Emily đến tham dự cuộc họp với tất cả các lãnh đạo cấp cao, đây là lần đầu tiên cô họp với những người này. Cô được người trợ lý chỉ đường và đi xuống hội trường. Điện thoại cô rung lên. Cô biết lúc này mình chỉ có thể tập trung vào một việc, nên cô cần phải tập trung xem mình đang đi đâu. Cô chuyển cuộc gọi sang hộp thư thoại và đến cuộc họp đúng thời gian.

Trong suốt cuộc họp, Emily để ý thấy vài người đang dùng điện thoại của họ và sau đó chính điện thoại của cô cũng khẽ rung lên. Cô biết rằng nếu trả lời email, cô sẽ lạc mất chủ đề đang thảo luận. Cô nêu lên một câu hỏi về chương trình chi tiết của buổi họp, để từ đó có thể quyết định sẽ phân chia sự tập trung ra sao. Cô biết mình sẽ phải lên giới thiệu bản thân trong vài phút tới nên quyết định tắt luôn điện thoại của mình. Emily hiểu rằng sẽ cần phải hoàn toàn tập trung khi phát biểu trước nhóm người này. Mười phút trước khi lên giới thiệu bản thân, cô tập trung vào từng người trong phòng để cố đoán xem ông hay bà kia là ai. Khi hướng sự tập trung vào họ, cô cảm thấy mình biết thêm về họ một cách dễ dàng hơn. Cô nhớ lại về một buổi họp trước đây với vài người trong số họ và họ đã có một cuộc nói chuyện hay ra sao. Cô làm một ghi chú về việc gửi lời mời họ đi uống cà phê. Đến thời điểm sắp phải lên phát biểu, cô cảm thấy đề phòng nhưng lại rất bình tĩnh.

Trong suốt thời gian giới thiệu bản thân, cô thể hiện một cách mạnh mẽ và tự tin. Cô đưa thêm vào lời lẽ của mình những hiểu biết có được từ cuộc họp với hai đồng sự trong phòng và mọi người khá ấn tượng với trí nhớ về những chi tiết của cô. Sau bài phát biểu sẽ kiểm tra tin nhắn trong vòng ba phút và sau đó lại tắt điện thoại đi. Cô bắt đầu đọc email chi tiết hơn, sau đó lại cảm thấy mất phương hướng, rồi cô lại quyết định hướng sự tập trung lại cho buổi họp. Cô tắt chức năng nhận dữ liệu của điện thoại để không còn bị cám dỗ bởi việc trả lời email nữa. Gần tới cuối buổi họp, có mười phút thảo luận những thứ không liên quan trực tiếp tới cô lắm. Cô sử dụng thời gian này để xóa đi một số email mà không cần phải cố gắng làm hai việc một lúc nữa.

NHỮNG ĐIỀU NGẠC NHIÊN VỀ BỘ NÃO

• Bạn chỉ có thể tập trung vào một tác vụ duy nhất trong một thời điểm.

• Sự chuyển đổi giữa các tác vụ làm tiêu hao năng lượng; nếu bạn làm việc này quá nhiều bạn sẽ càng dễ mắc sai lầm hơn.

• Nếu làm nhiều việc cùng một lúc bạn sẽ gặp phải sự giảm sút nghiêm trọng về độ chính xác cũng như năng suất làm việc.

• Cách duy nhất để làm hai việc một cách nhanh chóng, và đạt độ chính xác cao, là làm từng việc một lúc.

• Làm nhiều việc một lúc vẫn có thể thực hiện được nếu bạn biết cách tạo ra các lề thói.

MỘT VÀI BÍ QUYẾT CÓ THỂ ÁP DỤNG:

• Nhận ra bản thân mình đang làm hai việc cùng lúc và thực ra là đang làm chậm lại mọi thứ.

• Ghi nhớ những việc lặp đi lặp lại khi có thể.

• Đưa các quyết định và các tiến trình tư duy vào một trật tự

đúng để làm giảm “hàng đợi” của các quyết định.

• Nếu bạn phải làm nhiều việc cùng lúc, hãy kết hợp việc tư duy với những thói quen đã được ghi nhớ.

CẢNH 4

NÓI KHÔNG VỚI SỰ PHÂN TÂM

giờ 30 sáng. Trong một giờ tới Paul sẽ có cuộc hẹn ăn trưa với một khách hàng tiềm năng. Trước khi đó anh phải nghĩ xem mình cần những gì để giúp thắng được dự án thẻ tín dụng này. Anh đã gửi bản đề xuất đi rồi, nhưng lại chưa làm kỹ một số chi tiết như: ai sẽ tham gia nhóm làm việc, anh sẽ cấu trúc nhóm này như thế nào và khung thời gian để hoàn tất dự án. Dù rất tự tin rằng có thể làm được công việc này, hạch nền của anh vẫn phát hiện ra một khuôn mẫu. Mặc dù không biết diễn tả ra sao nhưng anh vẫn cảm thấy có gì đó quấy rầy mình, một mối liên kết nhỏ và mờ nhạt xuất phát từ sâu trong não mình. Anh không thể chỉ ra nó lúc này, đó là một ký ức về nhu cầu được chuẩn bị kỹ càng hơn. Đó có thể là một trải nghiệm đã bị quên lãng từ lâu, về một cuộc họp với khách hàng mà không có sự chuẩn bị và kết quả là anh phải trải qua những cảm xúc mãnh liệt. Bộ não nhớ về một cảm giác có liên quan đến hoàn cảnh mà rất lâu về sau anh không thể gọi lại được các chi tiết cụ thể nữa.

Paul lấy một tờ giấy trắng và cố phác thảo xem những nhà cung cấp nào có thể tham gia vào dự án này. Hình ảnh mơ hồ về một nhà cung cấp cũ bắt đầu hiện ra. Ngay lúc đó, một nhân viên marketing gọi điện thoại cho anh. Paul mất thời gian để hiểu xem cô ta đang nói gì và để dừng cuộc nói chuyện này vì anh không muốn trở nên thô lỗ. Thật không may, việc giao tiếp với nhân viên marketing này cũng làm tiêu hao năng lượng, thứ mà anh hiện tại đang không đủ để dùng. Năm phút trôi qua, khi anh vẫn đang dán mắt vào tờ giấy trắng thì một tiếng vang lên báo hiệu có email mới. Anh định sẽ bỏ qua nó, nhưng việc bỏ qua này cũng sẽ rất cần sự nỗ lực. Email đầu tiên là của Eric, một trong các nhà cung cấp của anh, trong đó có một câu hỏi về dự án trường học của họ. Paul và Eric đang thực hiện việc nâng cấp các máy tính cho ngôi trường mà con cái của họ đang học. Paul mất mười phút để trả lời thư. Anh cảm thấy căng thẳng bởi sự phân tâm mà anh đổ lỗi cho Eric đã gây ra, đồng thời trả lời rất ngắn gọn cho các câu hỏi ấy.

Paul viết xong email cho Eric và cố tiếp tục bắt đầu nghĩ về dự án đó. Mỗi lần anh làm lại như thế lại cần nhiều công sức hơn để tập trung trong khi anh thì chỉ có một ít năng lượng dự trữ để dùng dần. Sau mỗi lần thay đổi sự tập trung, Paul cần đưa những diễn viên hiện tại xuống khỏi sân khấu và đưa các diễn viên mới lên. Những diễn viên cũ có thể liên tục nhảy lên lại sân khấu bởi họ đang ở ngay hàng ghế đầu tiên, điều này cần thiết phải ngăn chặn. Tất cả những việc này cần rất nhiều năng lượng, thứ mà hiện giờ Paul đang dần cạn kiệt.

Paul đi tới tủ lạnh để kiếm đồ ăn nhẹ. Nhìn vào thức ăn thừa từ tối qua, anh chợt nhớ về những thứ anh nghĩ ra trước khi các email kia đến và anh lập tức quay trở lại máy tính. Anh cố tìm lại nhà cung cấp mà trước đó anh đã nghĩ tới. Một lúc sau anh lại nghĩ tới cuộc chơi bài poker với hàng xóm tối nay và lại nghĩ tiếp về ván chơi tuần trước; anh ước gì mình đừng bỏ quá nhiều tiền như thế vào ván bài; anh hiểu rằng nếu không thắng được thì anh sẽ dùng hết số tiền mang theo. Sự chú tâm của anh quay trở về hiện tại. Anh để ý rằng màn hình máy tính trở nên lộn xộn và anh bắt đầu xếp các tài liệu vào từng thư mục. Trong lúc làm việc này anh chợt nhớ về dự án mình đã bỏ quên và mở file đó ra. Điện thoại reo lên. Đó là Emily. Cô có một chút thời gian rỗi và muốn nói chuyện về dự án cô đang làm. Paul như bị xẻ làm đôi giữa một bên là nói chuyện với Emily và bên kia là chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc gặp khách hàng. Emily lại hiểu nhầm thái độ của Paul là không hứng thú gì. Cô nói với anh rằng cô cần anh trợ giúp thời điểm bắt đầu công việc mới này và anh trả lời rằng anh cũng đang rất bận bịu. Anh đột ngột nhìn đồng hồ. Đã đến giờ phải đi.

Bất kể công việc mà Paul đã định làm quan trọng thế nào, anh cũng không thể bắt đầu suy nghĩ nó trong sự phân tâm như thế này. Đầu óc anh đi lang thang mọi nơi trừ nơi anh muốn tới. Để làm việc hiệu quả hơn, anh cần học cách kiểm soát sự phân tâm tốt hơn nữa, cả bên trong lẫn bên ngoài. Anh cần thay đổi bộ não để có thể tập trung hiệu quả hơn khi có những chuyện quan trọng cần làm.

NHỮNG SỰ PHÂN TÂM TỪ BÊN NGOÀI

Sự phân tâm có ở khắp mọi nơi. Và với công nghệ cao luôn hiện hữu như hiện nay thì làm việc hiệu quả càng trở nên khó khăn. Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng những sự phân tâm ở văn phòng ngốn mất 2.1 giờ trung bình mỗi ngày. Một nghiên cứu khác được công bố năm 2005 cho thấy nhân viên sử dụng trung bình 11 phút cho một công việc trước khi bị phân tâm. Sau khi bị phân tâm, họ mất 25 phút để quay lại công việc ban đầu, nếu họ thực sự làm việc. Con người chuyển đổi giữa các hoạt động mỗi 3 phút một lần, khi thì gọi điện thoại, lúc thì nói chuyện với ai đó, hoặc xử lý một tài liệu nào đó.

Microsoft có một bộ phận nghiên cứu cách thức con người làm việc, để nhằm phát triển những phần mềm làm tăng hiệu quả công việc (theo những nghiên cứu của Microsoft đến năm 2007 chỉ ra nếu bạn đang tìm kiếm một giải pháp công nghệ nhằm giúp tăng tính hiệu quả công việc thì một trong những cách tốt nhất là sắm một màn hình máy tính lớn hơn). Để giảm tác hại của việc mất tập trung, họ đã thử nghiệm các kỹ thuật khác nhau, ví dụ như các “cảnh báo” mơ hồ (kiểu như thay đổi màu của biểu tượng trên màn hình). Thách thức ở đây là bất cứ một sự phân tâm nào, dù nhỏ đến đâu, cũng đều làm cho bạn mất tập trung. Sau đó bạn lại phải nỗ lực để đưa sự tập trung quay lại từ đầu trước khi sự phân tâm xảy ra, đặc biệt là lúc mạch suy nghĩ còn mới hoặc đang yếu. Mỗi khi Paul cố bắt đầu lập kế hoạch cho dự án, anh lại phải kích hoạt hàng tỉ các mạch thần kinh còn đang mới, những mạch mà có thể dễ dàng biến mất như một làn khói trong không trung.

Sự phân tâm không chỉ gây khó chịu; nó còn gây mệt mỏi nữa. Lúc bạn quay trở lại được nơi mình bắt đầu thì khả năng tập trung của bạn còn giảm xuống một cách tệ hại hơn nữa, bởi lượng đường glucozo còn lại chẳng bao nhiêu. Khi bạn thay đổi sự tập trung mười lần một giờ (có nghiên cứu nói rằng những nhân viên văn phòng thay đổi sự tập trung khoảng hai mươi lần một giờ) thì thời gian dành cho việc suy nghĩ hiệu quả chỉ còn lại rất ít. Ít năng lượng đồng nghĩa với việc ít khả năng hiểu, quyết định, gợi nhớ, ghi nhớ và ngăn chặn hơn. Kết quả là bạn sẽ mắc sai lầm trong những công việc quan trọng. Sự phân tâm có thể khiến bạn quên đi những ý tưởng hay và đánh mất những hiểu biết có giá trị. Nghĩ ra một ý tưởng tuyệt vời nhưng không thể nhớ nổi nó là gì thì cũng rất khó chịu, giống như có chỗ ngứa mà bạn không gãi được, cũng là một sự phân tâm cần phải kiểm soát.

Một phần của giải pháp là việc quản lý những phân tâm ở bên ngoài: tiếng thông báo khi có email mới, điện thoại đổ chuông, mọi người đi vào văn phòng của bạn. Một khi hiểu được bao nhiêu năng lượng bị tiêu hao vào những việc đòi hỏi suy nghĩ kỹ càng như lập kế hoạch hay tạo lập thứ gì đó, bạn sẽ trở nên cảnh giác hơn trong việc để sự phân tâm lấy đi sự tập trung của mình. Một trong những kỹ năng quản lý phân tâm hiệu quả nhất khá đơn giản là tắt tất cả các thiết bị thông tin liên lạc lúc đang suy nghĩ. Não bộ của bạn thích tập trung vào những thứ ngay trước mắt vì nó đỡ mất công sức hơn. Nếu bạn cố gắng tập trung vào một dòng suy nghĩ mơ hồ nào đó để cho bản thân bị phân tâm thì cũng như ngăn cơn đau lại để tận hưởng một niềm vui nhỏ, thật quá khó để cưỡng lại được! Việc ngăn chặn toàn bộ các nguồn phân tâm từ bên ngoài, đặc biệt nếu bạn đang có nhiều nguồn như thế, dường như là một trong những chiến thuật tốt nhất để làm tăng năng suất thần kinh.

NHỮNG SỰ PHÂN TÂM ĐẾN TỪ BÊN TRONG

Có rất nhiều sự phân tâm mà chúng ta thường gặp, tuy thế, lại không phải lúc nào cũng đến từ bên ngoài mà ở ngay trong chính chúng ta. Khi đến tuổi thiếu niên con người trở nên chú ý hơn tới đời sống nội tâm và nhiều người để ý rằng khó để kiểm soát đầu óc mình. Những ý nghĩ lạ lùng đến trong những giây phút khác thường. Trí tuệ thích đi lang thang, giống như một chú chó nhỏ chạy loanh quanh đánh hơi nơi này, nơi kia vậy. Xu hướng này có thể trở nên khó chịu, điều đó là bình thường. Một lý do khiến trí óc bạn lang thang là vì hệ thần kinh liên tục phải xử lý, định hình và liên kết lại hàng ngàn mối nối trong não ở bất cứ thời điểm nào. Thuật ngữ cho hiện tượng này là hoạt động thần kinh xung quanh. Nếu bạn nhìn thấy được hoạt động điện não kể cả trong một bộ não đang nghỉ ngơi, nó sẽ trông như trái đất nhìn từ không gian với các chớp sáng lóe lên ở những vùng khác nhau vài lần một giây. Kết quả là một dòng suy nghĩ và hình ảnh hiện lên trong nhận thức có ý thức. Một quá trình tương tự diễn ra khi bạn nằm mơ, khi những kết nối thần kinh hình thành đằng sau bức màn nhận thức và hiện lên trong trí óc. Sự kết nối liên tiếp này cũng xảy ra khi bạn đang tỉnh, nhưng phần lớn trong hàng trăm ý nghĩ mỗi phút không bao giờ có được nhiều sự chú ý và biến mất vào phía sau. Nó giống như những vị khán giả ngẫu nhiên nhảy lên sân khấu, chiếm được hai giây nổi tiếng rồi đi xuống. Rất dễ để bị phân tâm bởi những diễn viên không mong muốn nếu bạn không cảnh giác. Có một số bằng chứng rằng bệnh tâm thần phân liệt liên quan tới loại gián đoạn này – mất khả năng để ngăn cản những tín hiệu không phù hợp với nhiệm vụ mà hầu hết chúng ta đều có khả năng dẹp xuống và bỏ qua một cách hiệu quả.

Một điều đáng mừng là những ý nghĩ ngẫu nghiên sẽ nhanh chóng biến mất, vì rất khó để giữ sự tập trung ngay cả khi không có sự xâm phạm nào. Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng con người trung bình giữ một ý nghĩ chỉ trong mười giây trước khi chuyển sang ý nghĩ khác. Các diễn viên rất dễ bị phân tâm, giống như một gánh hát rời khỏi sân khấu vài phút chỉ bởi vì ngoài kia trời đẹp hay có ai đó hắt xì, hoặc không vì lý do nào cả. Trừ khi bạn dành một chút nỗ lực để giữ chúng trên sân khấu.

Trey Hedden và John Gabrieli, hai nhà khoa học thần kinh tại MIT, đã nghiên cứu điều gì xảy ra trong não bộ khi con người bị phân tâm bởi những ý nghĩ bên trong trong lúc làm những nhiệm vụ khó khăn. Họ nhận thấy rằng những cách quãng trong sự chú ý làm giảm kết quả làm việc, bất kể nhiệm vụ đó là gì và rằng những khoảng dừng này liên quan tới việc kích hoạt vỏ não giữa trước trán. Vỏ não giữa trước trán nằm ở trong vỏ não trước trán, gần trung tâm của trán. Nó kích hoạt khi bạn nghĩ về bản thân và những người khác. Vùng này của bộ não cũng là một phần của thứ mà chúng ta gọi là mạng lưới mặc định. Mạng lưới này hoạt động khi bạn đang không làm gì nhiều, ví dụ như giữa những hoạt động não trái tập trung. Hedden và Gabrieli phát hiện ra rằng khi bạn đánh mất sự tập trung bên ngoài, mạng lưới bộ não mặc định này kích hoạt và sự chú ý của bạn hướng tới những tín hiệu bên trong, ví dụ như bạn nhận thức rõ hơn về những thứ có thể làm phiền bạn. Khi Paul bị phân tâm bởi ý nghĩ về trò bài xì phé tuần trước, anh đánh mất mạch tìm kiếm nhà cung cấp và không thể quay trở lại mạch suy nghĩ này đến khi đã quá muộn.

Trong hàng thế kỷ, các nhà triết học đã viết về những khó khăn của việc kiểm soát trí óc. Một phép ẩn dụ nổi tiếng từ triết học phương Đông liên quan tới “Con voi và người cưỡi voi”, nơi mà ý muốn có ý thức – người cưỡi voi, phải cố gắng kiểm soát trí não vô thức không thể kiểm soát được và to lớn hơn – con voi. Với vỏ não trước trán chỉ chiếm 4 phần trăm của toàn bộ dung tích bộ não, khoa học não bộ hiện đại có vẻ khẳng định sự thật của phép ẩn dụ này. Vỏ não trước trán, trung tâm của việc ra quyết định một cách có ý thức, có một mức ảnh hưởng lớn, nhưng phần còn lại của bộ não thì lớn hơn và mạnh hơn. Điều này chỉ rõ tầm quan trọng của việc gia tăng sức mạnh của những mạng lưới kết nối vỏ não trước trán với phần còn lại của bộ não.

BỊ HƯỚNG ĐẾN SỰ PHÂN TÂM

Vấn đề lớn với những sự phân tâm, dù là bên trong hay bên ngoài, thì đều làm chúng ta mất tập trung. Đó không phải chỉ bởi vì việc tập trung đòi hỏi nỗ lực, như tôi đã đề cập lúc trước. Bị phân tâm bởi những thông tin mới xung quanh bạn cũng là một hành động phản xạ kiểu “phản xạ bánh chè”. Một lý thuyết tại sao lại liên quan đến vấn đề đó là qua hàng triệu năm, bộ não của bạn học được cách hướng sự chú ý vào bất cứ thứ gì bất thường. Hoặc như nhà khoa học và triết học Jonathan Haidt của Đại học Virginia nói, chúng ta là hậu duệ của những người mà phải dành quá nhiều sự chú ý khi có một tiếng kêu xào xạc trong những bụi cây. Một hình dạng mới của một chiếc ô tô, một chớp đèn, một âm thanh kỳ quặc dưới chân, hoặc một mùi lạ – tất cả đều thu hút sự chú ý của chúng ta bởi vì chúng nổi bật, bởi vì chúng mới lạ.

Vùng bộ não quan trọng cho việc phát hiện sự mới lạ được gọi là vùng vòng cung vỏ não trước trán (xem hình, trang 50). Nó được cho rằng giống như mạch não phát hiện sai sót của bạn, bởi vì nó sáng lên khi bạn nhận ra một thứ ngược với những gì bạn kỳ vọng, ví dụ như khi bạn mắc lỗi hoặc cảm thấy đau. Đặc tính này được khai thác trong tất cả các hình thức tiếp thị và quảng cáo, cũng như bởi những người đang tìm kiếm một người bạn khác giới. Sự mới lạ thu hút bạn chú ý. Với một lượng nhỏ, sự mới lạ sẽ mang tính tích cực, nhưng nếu mạch não phát hiện sai sót này sáng lên quá thường xuyên, nó mang tới một trạng thái lo lắng hoặc sợ hãi. Điều này phần nào giải thích sự kháng cự phổ biến của con người với những thay đổi trên diện rộng: những thay đổi lớn có quá nhiều sự mới lạ.

a

Có nhiều sự phân tâm trong công việc, như Paul nhận ra trong suốt buổi sáng. Anh bị phân tâm nhiều từ bên ngoài, những email và những cuộc gọi, những tệp tin cần lưu trữ. Sau đó có những những sự phân tâm từ bên trong, ví dụ như sự gợi nhớ lại trò bài xì phé. Một vài sự phân tâm có thể được tạo ra bởi những giới hạn của chính sân khấu. Có lẽ đơn giản là không có đủ lượng đường glucose sẵn có cho việc suy nghĩ căng thẳng, vì vậy bạn liên tục đánh mất dòng suy nghĩ của mình. Bạn có lẽ đang cố gắng để lưu giữ quá nhiều thông tin trong đầu, nhiều hơn bốn khái niệm cùng một lúc, và bạn tiếp tục đánh mất thông tin. Hoặc có thể có những quyết định khác đang “xếp hàng”, những quyết định lúc trước cần được đưa ra thì cứ tiếp tục hiện ra. Hoặc có thể có những thứ trong trí nhớ ngắn hạn của bạn mà đang chiếm mất không gian não bộ, mà đơn giản là không hữu ích và cần phải được gạt sang một bên. Có lẽ lúc này bạn sẽ bắt đầu thấy tại sao Arnsten gọi vỏ não trước trán là cô bé Goldilocks của bộ não. Mọi thứ phải vừa vặn đối với cô bé thì mới suôn sẻ được.

TRÁNH XA SỰ PHÂN TÂM

Với tất cả những khả năng bị xáo trộn trên sân khấu này, bạn sẽ băn khoăn liệu có cách nào để bạn tập trung. Con người đã phát triển một tuyến thần kinh cụ thể cho quá trình này, mặc dù nó không làm việc theo cách mà bạn có thể kỳ vọng. Duy trì sự tập trung cao vào một ý nghĩ diễn ra không phải qua việc bạn tập trung tới mức nào, mà thay vào đó là bạn ngăn chặn những thứ không phù hợp đi vào sự tập trung của bạn như thế nào.

Một kiểm tra phổ biến mà các nhà khoa học thần kinh sử dụng để nghiên cứu hành động tập trung được gọi là bài tập “stroop”. Những tình nguyện viên được đưa cho những từ được in dưới những màu sắc khác nhau và được yêu cầu đọc to những màu trong đoạn chữ, không phải là bản thân chữ đó. Trong ví dụ này, bộ não có mong muốn mạnh mẽ để trả lời, “Xám”, tức là lựa chọn C, vì bộ não dễ đọc một từ hơn là xác định một màu sắc.

a. Đen

b. Xám

c. Xám

d. Đen

Để không đọc từ ‘xám’ đòi hỏi phải ngăn chặn một phản ứng tự động. Sử dụng những kỹ thuật quét ví dụ như hình ảnh chức năng từ tính, phương pháp lưu lại những thay đổi về dòng chảy của máu trong bộ não, các nhà khoa học thần kinh đã quan sát những người ngăn chặn các phản ứng tự nhiên của họ và phát hiện ra rằng các mạng lưới não bộ được kích hoạt khi việc này xảy ra. Một vùng cụ thể trong vỏ não tiếp tục thể hiện là trung tâm của tất cả các loại ngăn chặn. Nó được gọi là vỏ não trước trán (VLPFC) và nằm ngay phía sau hai bên thái dương. VLPFC ngăn chặn nhiều loại phản ứng. Khi bạn ngăn chặn một phản ứng động, một phản ứng nhận thức, hoặc một phản ứng cảm xúc, vùng này đều bắt đầu hoạt động. Có vẻ như bộ não có nhiều “dây thần kinh gia tốc” khác nhau với nhiều bộ phận của bộ não liên quan tới ngôn ngữ, cảm xúc, vận động và trí nhớ. Tuy nhiên có một hệ thống được sử dụng cho tất cả các dạng hãm phanh, VLPFC (trong khi những vùng khác của bộ não cũng liên quan tới việc hãm phanh, VLPFC có vẻ là trung tâm). Khả năng sử dụng hệ thống hãm phanh này của bạn có vẻ như liên quan chặt chẽ với khả năng tập trung của bạn.

THIẾT LẬP HỆ THỐNG HÃM PHANH

Thực tế là VLPFC nằm trong vỏ não trước trán có một ý nghĩa lớn. Nếu bạn là một công ty sản xuất ô tô và đang xây dựng một loại phương tiện đường bộ mới, bạn sẽ phải đảm bảo rằng hệ thống phanh được sản xuất từ những vật liệu bền nhất có thể, bởi vì việc phanh hỏng không phải là một việc hay ho. Trong trường hợp của bộ não người, điều ngược lại xảy ra. Hệ thống kìm hãm của chúng ta là một bộ phận mỏng manh nhất, hay thay đổi và là vùng tiêu hao năng lượng của bộ não. Bởi vì vậy hệ thống hãm phanh của bạn làm việc hết công suất mọi lúc. Nếu chiếc xe ô tô của bạn được lắp ráp như vậy, bạn sẽ không bao giờ sống sót trong lần đầu lái đến cửa hàng. Tất cả việc này đều có ý nghĩa khi bạn xem xét việc này: dừng hành động khi được yêu cầu một việc gì đó đôi khi bạn có thể làm, nhưng thường không dễ dàng như vậy. Không nghĩ về một ý tưởng khó chịu và xâm nhập vào đôi lúc có thể rất khó khăn. Và việc giữ tập trung đôi khi có vẻ hoàn toàn không thể.

a

Một ẩn ý chua cay về hệ thống hãm phanh của bạn nằm trong vỏ não trước trán chính là khả năng hãm phanh của bạn giảm xuống mỗi lần bạn làm vậy. Giống như việc sở hữu một chiếc xe mà lớp đệm phanh của nó gần như biến mất mỗi lần bạn dùng chúng, trừ khi có một quãng nghỉ dài giữa các lần sử dụng. Roy Baumeister, từ Đại học Florida, một nhà khoa học đã được giới thiệu trong cảnh 1, thiết lập một tình huống nơi mọi người phải cưỡng lại việc ăn sôcôla khi ở một mình trong phòng.

Anh phát hiện ra rằng những người cưỡng lại không ăn miếng sôcôla sẽ dễ dàng từ bỏ những nhiệm vụ khó khăn hơn sau đó. “Sự tự kiểm soát là một nguồn lực có hạn”, Baumeister nói. “Sau khi thể hiện sự kiềm chế bản thân, khả năng thể hiện sự tự kiểm soát thêm nữa của con người bị giảm xuống”. Mỗi khi bạn ngăn bản thân khỏi làm một việc gì đó, sự thôi thúc tiếp theo sẽ khó để ngăn lại. Xu hướng này giải thích rất nhiều điều, bao gồm cả việc tại sao ăn kiêng lại khó khăn tới vậy và tại sao tôi ăn quá nhiều sôcôla trong khi viết.

Hãy cùng nhìn sâu hơn một chút vào khoa học của sự kìm hãm, vì nó có vẻ là một khả năng quan trọng. Một nghiên cứu được thực hiện năm1983 bởi Benjamin Libet, từ Đại học California – San Francisco, lóe lên những tia sáng về việc gì đang xảy ra ở đây. Libet và những đồng nghiệp của ông đã nỗ lực để quyết định xem có thứ gì gọi là “tự do ý chí” không. Họ đưa ra một thí nghiệm cho phép hiểu được vấn đề tính thời gian tham gia thế nào khi con người quyết định làm một hoạt động tình nguyện, trong trường hợp này là nâng một ngón tay lên. Điều họ phát hiện ra là một nửa giây trước một cử động “tự nguyện”, bộ não gửi đi một tín hiệu được gọi là khả năng hành động, điều này liên quan tới một cử động chuẩn bị diễn ra. Khả năng hành động này xảy ra trong một khoảng thời gian dài, theo ngôn ngữ khoa học thần kinh, trước khi bất kỳ nhận thức có ý thức nào về mong muốn cử động ngón tay. Bộ não quyết định “Tôi sẽ cử động ngón tay của tôi bây giờ” khoảng 0.3 giây trước khi bạn nhận thức được việc đó. Khi bạn có dũng khí để nói với một người rất hấp dẫn đi ngang qua phòng, bộ não của bạn đã dũng cảm hơn bạn trước đó 3/10 giây.

a

Một khi bạn nhận thức được mong muốn chuyển động– trong trường hợp này là cử động ngón tay hoặc di chuyển bản thân ngang qua phòng để nắm bắt cơ hội của mình – bộ não của bạn đưa ra quyết định này sử dụng hàng triệu các kết nối trước đó. Tại thời điểm này, có 0,2 giây trong đó bạn nhận thức được việc mình chuẩn bị cử động, nhưng vẫn chưa hành động. Có một khe hở 0,2 giây là một khoảng thời gian phù hợp, đủ dài cho bộ não, với một vài luyện tập, để nhận ra một nhu cầu và có lẽ để can thiệp.

Đây là điểm quan trọng. Bạn không có nhiều khả năng để can thiệp vào những tín hiệu được bộ não gửi ra ngoài. Với tất cả các hoạt động thần kinh xung quanh, bộ não gửi ra tất cả các ý tưởng điên rồ vào trong trí óc. Nhưng bạn có “sức mạnh phủ quyết”, khả năng để lựa chọn xem liệu nên hành động khi bị thôi thúc không. Tuy nhiên, nếu không có một nhận thức về sự tách biệt giữa những quy trình này – “tín hiệu não bộ, mong muốn, cử động” – thì có vẻ như bạn sẽ đi thẳng từ tín hiệu não tới cử động, cách mà hầu hết các động vật khác làm. Bạn cần có khả năng nhận thức được khoảng thời gian nhỏ này. Cách để làm việc này là tập trung sự chú ý của bạn vào trải nghiệm tư duy của mình và nhận ra những đòi hỏi hành động khi chúng để lộ ra.

Có vẻ như bạn không có nhiều sự tự do ý chí, nhưng bạn có “tự do từ chối” (một từ được đưa ra bởi Tiến sĩ Jeffrey M. Schwartz), chính là khả năng để tránh những đòi hỏi. Tuy nhiên, bạn chỉ có một khe hở nhỏ để ngăn chặn một phản ứng. Và tất nhiên, nếu sân khấu của bạn quá đầy, bạn có thể không có đủ không gian để giữ khái niệm về sự ngăn chặn ở đây nữa. Mọi việc bắt đầu trở nên rõ ràng khi lý giải tại sao khi bạn mệt mỏi, đói và lo lắng, bạn dễ mắc sai lầm hơn và khó ngăn chặn những thôi thúc không đúng.

THỜI GIAN LÀ CỐT LÕI

Ngăn chặn sự phân tán là kỹ năng căn bản để tập trung. Để ngăn chặn sự phân tán, bạn cần nhận thức được quy trình tư duy bên trong của bạn và nắm bắt được những thôi thúc không hợp lý trước khi chúng được thiết lập. Hóa ra giống như một câu nói cổ thời gian là vàng bạc. Một khi bạn đã hành động, một dòng năng lượng bắt đầu khiến cho việc dừng hành động đó khó hơn nhiều. Nhiều hoạt động có những phần thưởng nội tại, dưới dạng tăng xung để giữ sự tập trung của bạn. Một khi bạn mở chương trình email và nhận ra tin nhắn từ những người bạn biết, việc ngăn bạn không đọc thư sẽ trở nên khó khăn hơn nhiều. Hầu hết các hành động trí óc hoặc vận động cũng tạo ra những động lượng của riêng chúng. Khi bạn quyết định đứng dậy khỏi ghế thì những vùng não bộ phù hợp, cũng như hàng tá những tế bào, đều được kích hoạt. Máu bắt đầu bơm và năng lượng được truyền đi. Để dừng việc đứng dậy khỏi ghế một khi bạn đã bắt đầu sẽ cần nhiều sức mạnh phủ quyết và nhiều nỗ lực hơn, so với việc quyết định không đứng dậy ngay khi bạn có sự thôi thúc. Để tránh sự phân tán, hình thành một thói quen phủ quyết hành vi sớm, nhanh chóng, và thường xuyên, trước khi chúng diễn ra là rất hữu ích.

Có một điều gì đó thú vị trong vấn đề thời gian của tất cả chuyện này và để khiến việc này có ý nghĩa tôi muốn bạn trở lại thí nghiệm vào những năm 1980 được đề cập ở cảnh cuối cùng. Hai nhóm người bắt chước một kiểu mẫu ánh đèn phức tạp đang chiếu ngay trước mặt họ, gõ kiểu mẫu ánh đèn đó xuống bàn phím. Mỗi nhóm có một kiểu mẫu ngẫu nhiên. Nhóm thứ hai có một kiểu mẫu phức tạp nhưng có chu kỳ mà họ khó có thể nhận biết một cách có ý thức. Nhóm người gõ theo kiểu mẫu có chu kỳ gõ nhanh hơn 10%. Tư duy vô thức của họ, gần như là giống hạch nền, đã tiếp nhận kiểu mẫu và dự đoán ánh đèn nhấp nháy tiếp theo, mặc dù học không thể xác định một cách có ý thức kiểu mẫu tiếp theo là gì.

Từ đây thí nghiệm này trở nên vô cùng hấp dẫn. Chỉ trong một số lần nhất định những người tham gia có thể nhận ra được kiểu mẫu ấy. Họ có thể giải thích nó bằng ngôn từ hoặc viết ra trên máy. Những người này có thể gõ ra chuỗi ấy nhanh hơn từ 30 đến 50% so với khi không có kiểu mẫu nào cả. Những người đã biết đến kiểu mẫu rồi cũng có thể thực thi kiểu mẫu này trong khoảng chừng 0,3 giây. Ba phần mười giây cũng gần như tương đương với khoảng cách giữa việc nhận biết được rằng bạn muốn làm một hành động với việc thực hiện hành động ấy, như những gì chúng ta đã học được qua thí nghiệm của Libet.

Khi bạn phát triển ngôn ngữ để diễn tả một hoạt động, ít ra là trong thí nghiệm này, thì nó cũng giống như việc bạn có thể bắt gặp bản thân mình đang sắp làm gì đó trước khi thực sự làm nó. Việc có một ngôn ngữ rõ ràng sẽ cho bạn thêm sức mạnh phản bác. Khi bạn có ngôn từ cho một kiểu mẫu, nghĩa là có sự tham gia của vỏ não trước trán, thì có thể làm được rất nhiều việc với kiểu mẫu đó.

Phát hiện này về ngôn ngữ có liên quan tới việc quản lý sự phân tâm, nhưng nó cũng lại liên quan đến cả những thứ chúng ta đã bàn từ trước tới nay nữa. Nếu bạn có ngôn ngữ cho cách mà sân khấu thần kinh trở nên mệt mỏi, thì bạn sẽ bắt được sự mệt mỏi ấy ngay khi nó xảy ra. Nếu bạn có ngôn ngữ để diễn tả cảm giác có quá nhiều thứ trên sân khấu cùng một lúc, thì bạn sẽ có thể sẽ nhận biết được nó. Bằng một số cách cuốn sách này sẽ giúp bạn phát triển các bản đồ ngôn ngữ rõ ràng bên trong vỏ não trước trán cho những kinh nghiệm mà từ trước đến nay chỉ xuất hiện dưới dạng tiềm ẩn. Cuốn sách cũng giúp làm cho những tiến trình trong bộ não bạn trở nên rõ ràng hơn và kết quả là cho bạn thêm năng lực phản bác để xử lý với việc có quá nhiều thông tin, quá nhiều yêu cầu về sự tập trung, quá nhiều sự phân tâm, và những thách thức khác sẽ được khám phá trong các phần tiếp theo.

Bộ não dễ bị phân tán và những sự phân tâm này làm tiêu hao năng lượng. Việc giữ tập trung đòi hỏi phải học cách không chỉ tắt điện thoại di động đi. Việc khó hơn là học cách ngăn chặn sự thôi thúc khi nó tăng lên. Để ngăn chặn sự thôi thúc, bạn phải từ chối nó trước khi chúng biến thành hành động. Và bạn cũng sẽ có khả năng từ chối một hành động nếu bạn có ngôn ngữ rõ ràng cho những tiến trình thần kinh tham gia. Phải mất công sức để biết được nhiều hơn về cách thức làm việc của bộ não, thế nên bạn có thể đuổi bắt bộ não mình khi cố gắng làm việc.

Trước khi chúng ta đi vào trừu tượng hơn, hãy mang chuyện này vào cuộc sống theo cách dễ nắm bắt hơn bằng cách quay lại với Paul để thấy anh đã có thể làm gì khác đi nếu quản lý tốt hơn những sự phân tâm trong não mình.

NÓI KHÔNG VỚI SỰ PHÂN TÂM, QUAY LẠI LẦN HAI

11 giờ 30 phút sáng. Paul sẽ họp với một khách hàng tiềm năng trong một giờ nữa tại một nhà hàng ở bên kia thành phố. Từ giờ đến lúc đó anh muốn nghĩ kỹ về những nguồn lực mình sẽ cần nếu thắng được dự án thẻ tín dụng này. Anh cảm giác rằng mình sẽ cần phải xem xét những chi tiết đằng sau việc định giá trước khi gặp mặt khách hàng.

Paul rút ra một tờ giấy trắng và cố gắng phác thảo xem liệu ai trong số các nhà cung cấp của mình sẽ là lựa chọn tốt nhất cho dự án này. Hình ảnh mơ hồ của một nhà cung cấp anh đã từng làm việc cùng từ từ hiện ra trong tâm trí anh. Ngay lúc đó một người bán hàng qua điện thoại gọi đến và Paul vô tình trả lời cuộc gọi này vì hệ thống phanh của anh không được chuẩn bị tốt khi anh đang tập trung vào dự án. Sự phân tâm này khiến anh thấy rằng mình sẽ không thể hoàn tất công việc lên kế hoạch dự án tinh vi nhưng tốn năng lượng này nếu anh cứ phải xử lý những sự phân tâm. Lúc cố gắng dừng cuộc gọi, anh sử dụng các lề thói vận động đã được ghi nhớ để tắt máy tính và tất cả các điện thoại trong phòng.

Khi đã tắt điện thoại rồi, Paul bắt đầu nghĩ tiếp về dự án. Anh cảm thấy rõ ràng hơn việc không có sự phân tâm nào nữa và rằng một phần sân khấu đã được dọn sạch để không cần phải để tâm chút nào nữa về việc điện thoại có kêu lên hay không. Với sân khấu đã dọn sạch như thế, Paul nhớ được rằng mình đã suy nghĩ đến đâu trước khi có cuộc điện thoại kia. Anh kích hoạt lại một mạng lưới phức tạp nhưng mỏng manh chứa hàng tỷ tế bào thần kinh. Nhà cung cấp mà anh đã nhớ đến lại trở về trong trí

nhớ. Anh gọi ngay cho họ, những người luôn sẵn sàng cho một cuộc nói chuyện chóng vánh và thích làm các dự án. Họ cùng nhau lập sơ đồ cho dự án. Việc nói về các ý tưởng đã kích hoạt nhiều mạch thần kinh hơn việc chỉ nghĩ sơ sài về ý tưởng nào đó, điều này khiến cho việc tập trung trở nên dễ dàng hơn: mạng lưới đã trở nên mạnh mẽ hơn nhiều.

Paul cảm thấy nhẹ nhõm vì đã chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc họp. Anh bật lại máy tính và in ra một kế hoạch sơ bộ, công việc của anh đã có vẻ tổ chức sắp xếp hơn. Nhìn vào đồng hồ, anh thấy mình có vài phút rảnh rỗi nữa. Điện thoại rung lên. Đó là Emily. Cô có vài phút nghỉ ngơi sau cuộc họp và muốn kể về ngày đầu tiên ở vị trí mới. Anh nói với cô rằng cô sẽ làm tốt và cô cảm ơn anh vì đã ủng hộ mình. Họ nói chuyện về lũ trẻ một lúc rồi Paul nhìn vào đồng hồ. Đã đến giờ đi gặp khách hàng.

NHỮNG ĐIỀU BẤT NGỜ VỀ BỘ NÃO

• Sự chú ý rất dễ bị làm phân tâm.

• Khi chúng ta bị phân tâm thì đó thường là kết quả của việc suy nghĩ về bản thân mình, do việc này làm kích hoạt một mạng lưới mặc định trong não bộ.

• Một cơn bão thường xuyên của hoạt động điện não luôn xảy ra trong não bộ.

• Sự phân tâm làm kiệt quệ những tài nguyên hữu hạn của vỏ não trước trán.

• Việc trở nên “luôn mở” (kết nối với người khác bằng công nghệ) có thể làm giảm IQ của bạn một cách đáng kể, tương tự như việc mất ngủ một đêm vậy.

• Sự tập trung xuất hiện một phần thông qua việc ngăn chặn sự phân tâm.

• Bộ não có một hệ thống phanh chung cho tất cả các loại phanh.

• Việc ngăn chặn tiêu hao rất nhiều năng lượng bởi vì hệ

thống phanh cũng là một phần của vỏ não trước trán.

• Mỗi một lần bạn ngăn chặn điều gì đó xảy ra, thì khả năng ngăn chặn lại lần nữa sẽ bị suy giảm đi.

• Việc ngăn chặn đòi hỏi phải bắt được sự thôi thúc khi nó vừa xuất hiện, trước khi động năng của một hành động tham gia vào.

• Việc có một ngôn ngữ rõ ràng cho các kiểu mẫu thần kinh sẽ cho bạn khả năng tốt hơn để ngăn các kiểu mẫu sớm trỗi dậy, trước khi chúng tham gia vào.

MỘT VÀI BÍ QUYẾT CÓ THỂ ÁP DỤNG

• Khi bạn cần tập trung, hãy loại bỏ hoàn toàn các nguồn gây phân tâm từ bên ngoài.

• Giảm bớt khả năng của những phân tâm đến từ bên trong bằng cách dẹp bỏ hết mọi thứ trong đầu trước khi thực hiện những công việc khó khăn.

• Phát triển hệ thống phanh thần kinh bằng việc luyện tập bất kỳ một kiểu phanh nào, bao gồm cả những hành vi của cơ thể.

• Ngăn chặn những nguồn phân tâm sớm trước khi chúng trở thành động năng.

CẢNH 5

TÌM KIẾM VÙNG NĂNG SUẤT ĐỈNH CAO

Paul ngồi vào xe để đi đến cuộc họp với khách hàng tiềm năng. Cuộc họp được tổ chức vào bữa trưa tại một nhà hàng cách nhà anh ba mươi phút lái xe, ở một khu phố mà Paul ít lui tới. Lúc xe lăn bánh trên đường, anh nghĩ về việc không phải xử lý đống email hay cuộc gọi trong vòng ba mươi phút và thở phào nhẹ nhõm. Sau mười phút, khi đi vào đường cao tốc, anh chợt nhận ra mình đi nhầm hướng. Anh đã đi đường mà thường ngày vẫn hay đi đón con gái từ trường về.

Anh cảm giác mình sẽ bị trễ và sự băn khoăn này làm tăng tính cảnh giác ở anh. Anh bắt đầu nghĩ nhiều về quãng đường đi của mình. Nhận thấy rằng mình sắp đi vào giờ cao điểm giao thông giữa ngày, anh nghĩ ra việc đi những con đường nhỏ hơn để tiết kiệm thời gian. Anh lái xe khỏi đường cao tốc và bắt đầu đi zích-zắc qua những con đường nhỏ, chân nhấn nhẹ vào ga tăng tốc. Lái xe kiểu này đòi hỏi phải rất tập trung. Năm phút trước khi đến giờ họp, anh bắt đầu cảm thấy căng thẳng và nhớ lại việc có lần anh bị trễ một cuộc họp. Sự phân tâm từ bên trong này khiến anh bị lỡ một ngã rẽ và lại mất thêm thời gian. Cuối cùng anh rẽ vào một góc đường khác và nhìn thấy nhà hàng ấy trước mặt. Anh đi bộ vào nhà hàng. Khi nhân viên lễ tân đưa anh đến bàn, Paul để ý thấy các đồng nghiệp của anh đã uống hết nửa tách cà phê và trông có vẻ thư thái hơn anh.

* * *

Trong suốt cuộc họp, Paul trải qua tất cả các diễn biến của vỏ não trước trán, từ việc thiếu tỉnh thức lúc anh gây ra lỗi lầm, đến tỉnh thức đúng mức khi anh làm việc tốt và đến quá tỉnh thức khi anh bị mất bình tĩnh thêm lần nữa. Những gì Paul trải qua đã thể hiện hạn chế cuối cùng của vỏ não trước trán: nó hay làm quan trọng hóa vấn đề. Vỏ não trước trán cần một chừng mực đúng của tỉnh thức để đưa ra quyết định và xử lý vấn đề thật tốt. Để Paul có thể tập trung được, anh cần học cách không chỉ giảm bớt những sự phân tâm như chúng ta đã thấy ở cảnh cuối, mà còn phải học cách đưa bộ não vào đúng chừng mực của tỉnh thức nữa.

CÁC DIỄN VIÊN ĐƯỢC CHĂM SÓC LIÊN TỤC

Sự tỉnh thức ở bất cứ vùng nào của bộ não đồng nghĩa với việc nó đang mở mức hoạt động đúng. Các nhà khoa học thần kinh có thể đo các cấp độ của tỉnh thức ở bất cứ vùng não nào bằng nhiều cách. Một trong những cách đó là bằng điện não đồ (EEG), nhằm đo các kiểu và các mức độ của hoạt động điện não trong bộ não qua việc đặt các miếng cảm biến trên đầu. Có cách khác nữa là thông qua lưu lượng máu, thường được đo bằng fMRI, viết tắt của hình ảnh cộng hưởng từ.

Trong não bộ luôn luôn xảy ra việc luân phiên của tỉnh thức. Khi một số vùng đang bận rộn thì các vùng khác sẽ rất yên ắng. Nó giống như việc ngắm thành phố từ trên cao và thấy hàng triệu người di chuyển từ ngoại ô vào khu trung tâm vào buổi sáng rồi lại túa ra ngoài vào cuối ngày. Đây không phải là một ẩn dụ tồi cho bộ não lúc nó hoạt động, cũng như cho hầu hết những ngày làm việc của bạn, máu, oxy, các chất dinh dưỡng và hoạt động điện não cùng đổ ào ào vào vỏ não trước trán để hỗ trợ các hoạt động mãnh liệt khi nó được gọi để thực hiện.

Cần có một mức độ đúng của tỉnh thức để vỏ não trước trán làm việc được tốt nhất. Mức độ đó khá là cao, nhưng lại không quá cao. Các diễn viên trên sân khấu không chỉ dễ bị phân tâm mà chúng còn được chăm sóc tốt nữa. Chúng cần một áp lực thật phù hợp để có thể diễn tốt nhất. Nếu quá ít áp lực – không có khán giả chẳng hạn – chúng sẽ không tập trung diễn. Còn nếu quá đông khán giả thì chúng lại quên luôn các giới hạn của mình.

BẠN VÀ CHỮ U LỘN NGƯỢC

Hàng trăm năm qua các nhà khoa học đã biết được việc có một “điểm cực đỉnh” cho vùng năng suất đỉnh cao. Năm 1908, hai nhà khoa học Robert Yerkes và John Dodson khám phá ra một sự thật về năng suất của con người mà họ đặt tên là chữ U lộn ngược. Họ nhận thấy rằng năng suất sẽ kém nếu áp lực ở mức thấp, đạt “điểm cực đỉnh” khi áp lực đạt cấp độ hợp lý và lại trở nên kém đi khi áp lực quá cao. Động từ “áp lực” có nghĩa là “bị đè nén” và nó không nhất thiết là một thứ tiêu cực. Thật sai lầm khi nghĩ rằng năng suất của bạn sẽ tăng lên khi áp lực biến mất khỏi cuộc sống. Cần một lượng áp lực nhất định chỉ để ra khỏi giường vào buổi sáng. Loại áp lực này được biết đến với tên gọi eustress (thuật ngữ được đưa ra bởi nhà nội tiết học Hans Selye, trong tiếng Hy Lạp “eu” có nghĩa là “tốt” – người dịch), hay còn gọi là áp lực tích cực. Áp lực tích cực giúp bạn tập trung chú ý hơn.

Khi lần đầu tiên Paul lái xe, anh bị một hội chứng hiếm gặp là trở nên quá hạnh phúc với công việc. Anh đã cảm thấy quá tuyệt vời đến mức quên mất việc tạo ra và lưu giữ hình ảnh trong trí não về việc mình sẽ đi đâu. Khi không kích hoạt vỏ não trước trán, bạn sẽ có xu hướng hành động theo thói quen và hạch nền sẽ chiếm quyền điều khiển. Ở thời điểm đó, Paul đang ở phía dưới cùng bên trái của chữ U lộn ngược: anh không có đủ áp lực để thực hiện tốt công việc. Đó là lý do vì sao bạn lại có thể quên một cuộc gọi hội thảo đã được lên lịch từ trước khi đang đi nghỉ hè: năng lực nhớ các tác vụ quan trọng của bạn đã tan biến với ánh mặt trời ấm áp và ly rượu. Bạn đang quá thoải mái.

Khi Paul bắt đầu tập trung vào việc định hướng những con đường nhỏ phía trong, thì đó là lúc anh đang ở “điểm cực đỉnh” của chữ U, mà tại đó anh làm việc với chất lượng cao nhất. Nhiều áp lực hơn thì năng suất sẽ tốt hơn. Nỗi lo sợ bị trễ đã làm tăng sự chú ý về việc lái xe của anh. Rất nhiều người cảm thấy không thể tập trung được nếu không có một hạn cuối gắt gao nào. Nỗi lo sợ và sự khẩn cấp hoàn toàn có thể tạo ra một mức độ tập trung hữu ích bất cứ lúc nào (thế nên, như những điều bạn sẽ thấy ở cảnh tiếp theo, điều này sẽ hữu ích hơn trong những hoàn cảnh đòi hỏi các tác vụ thể chất hay lề thói).

Cho đến cuối cuộc hành trình, khi Paul nghĩ mình có thể sẽ đến trễ, anh bắt đầu trở nên hoảng loạn và đi quá một ngã rẽ. Anh không thể tập trung vào bản đồ, kể cả bản đồ trong đầu lẫn bản đồ trong tay anh. Cấp độ tỉnh thức của anh đã gây ảnh hưởng tới năng suất một cách tiêu cực. Thật không may đây là trạng thái thần kinh mà hàng triệu người đang gặp phải mỗi ngày. Quá nhiều sự tỉnh thức làm giảm năng suất ở trên một mức độ nhất định.

a

NẾU NGÀNH HÓA HỌC ĐÚNG

Một số nghiên cứu thú vị mới đây đã minh họa nền tảng sinh lý học xảy ra ở nhiều cấp độ tỉnh thức. Phần nhiều trong số những khám phá này được thực hiện bởi Amy Arnsten, nhà khoa học thần kinh đến từ đại học Yale. Arnsten dành ra hai mươi năm nghiên cứu về vỏ não trước trán, cho đến các nơ-ron thần kinh, khớp thần kinh, dẫn truyền thần kinh và cả về gene nữa. Những phát kiến của cô đã giúp lý giải tại sao vỏ não trước trán lại rối rắm như vậy và đồng thời đưa ra những kỹ thuật để quản lý các trạng thái của tỉnh thức.

Trước tiên hãy nói một chút về kiến thức nền tảng. Các nơ-ron, hay là các tế bào thần kinh của bộ não, không trực tiếp kết nối với nhau. Thay vào đó, có một khoảng trống nhỏ giữa chúng được gọi là khớp thần kinh. Một tín hiệu điện đi xuống thân một nơ-ron và được chuyển đổi thành tín hiệu hóa học ở khớp thần kinh này. Ở cả hai mặt của khớp thần kinh đều có các cơ quan thụ cảm có chức năng nhận tin từ những tín hiệu hóa học này. Các khớp thần kinh gửi và nhận một trong hai loại tín hiệu: hoặc tín hiệu kích thích để chỉ đạo nơ-ron làm gì, hoặc tín hiệu kiềm chế để điều khiển nơ-ron hạn chế làm gì. Hệ thống liên lạc điện-tới-hóa-tới-điện xuyên suốt khớp thần kinh này đôi khi được gọi là một sự cháy sáng tiếp hợp. Hàng ngàn tỷ nơ-ron liên tục thay đổi được sắp xếp vào các mạng lưới thông qua các kiểu mẫu của sự cháy sáng nơ-ron. Những mạng lưới này chính là các “bản đồ” mà tôi đã từng nói đến rất nhiều, giống như bản đồ cho “thẻ tín dụng” trong não Paul vậy.

Arnsten khám phá ra rằng một khớp thần kinh trong vỏ não trước trán có sáng lên chính xác hay không tùy thuộc vào việc hai hóa chất dẫn truyền thần kinh có hiện diện ở mức độ phù hợp hay không. Hai hóa chất này là dopamine và norepinephrine. Nếu lượng hai hóa chất này không đủ, bạn sẽ cảm thấy chán nản và thiếu tỉnh thức. Nếu có quá nhiều, bạn lại thấy căng thẳng, quá tỉnh thức. Có một điểm cực đỉnh ở giữa hai mức độ này. “Tất cả chúng ta đều nhận thức được chuyện này trong một ngày bình thường”, Arnsten giải thích. “Ví dụ, khi chúng ta chưa tỉnh táo hẳn, hoặc quá mệt mỏi vào thời điểm cuối ngày, thật khó để mà sắp xếp tổ chức mọi chuyện hay làm những hoạt động phức tạp ở vỏ não trước trán. Từ đó, bạn cảm thấy quá căng thẳng, mức độ dopamine và norepineph- rine tăng quá cao và điều này khiến cho toàn bộ các mạng lưới bị ngắt kết nối, dẫn đến việc tắt hoàn toàn sự cháy sáng của thần kinh. Cuối cùng các tế bào thần kinh chỉ có thể giao tiếp được rất ít với nhau”. Để vỏ não trước trán hoạt động tốt, bộ não phải đưa ra được mức độ đúng của hai loại hóa chất dẫn truyền thần kinh này đến một lượng cực kỳ lớn các kết nối liên tục thay đổi. Điều này giải thích tại sao việc tập trung lại trở nên khó khăn như thế.

Chất hóa học trong não bộ của bạn thay đổi theo từng trạng thái trong ngày là một hệ quả của sự kích thích từ môi trường tự nhiên. Nếu vô tình đi trước một chiếc xe buýt, bạn sẽ trở nên tỉnh táo hơn trong suốt cả buổi chiều hôm đó. Còn nếu bạn đi vào rừng sau một ngày dài căng thẳng, bạn sẽ cảm thấy bình yên hơn. Tuy nhiên, bạn cũng có thể chuyển đổi các trạng thái hóa học thông qua một số kỹ năng điều khiển thần kinh mà không phải mạo hiểm cuộc sống hay cần phải nghỉ ngơi một thời gian. Những kỹ năng này có thể giúp bạn làm tăng hoặc làm giảm mức độ tỉnh táo hay hứng thú, hay cả hai.

TIẾP TỤC PHẢI CẢNH GIÁC

Nếu bạn đã từng tổ chức một buổi hội thảo ngay sau khi vừa tỉnh dậy vào sáng sớm, bạn sẽ biết được “sự tăng xung” quan trọng như thế nào trong việc tạo ra các cảm giác về thế giới xung quanh. Bỏ qua các chất kích thích như caffeine (thứ giống như một màn hình máy tính lớn hơn, được chứng minh là có thể làm tăng hiệu suất thần kinh), thì có hai cách chính để làm tăng sự tăng xung.

Cách thứ nhất, có lẽ là cách dễ nhất và nhanh nhất, là làm tăng mức adrenaline qua việc dán mác “khẩn cấp” cho một công việc nào đó. Nor- epinephrine, chất cũng được biết đến với tên noradrenaline, là chất tương đương như adrenaline của bộ não mà hầu hết mọi người thường cảm nhận được khi phải nói trước đám đông. Đó là hóa chất của sự sợ hãi. Khi bạn cảm thấy sợ hãi là lúc bạn chuyên tâm chú ý nhất và đó cũng là lúc bạn cảnh giác cao độ nhất. Nỗi sợ hãi mang đến một sự cảnh giác sâu và tức thời. Norepinephrine cũng trở nên quan trọng trong việc kết nối các mạch dẫn truyền thần kinh với nhau ở trong vỏ não trước trán.

Bạn có thể thực hiện một số “mẹo” khác nhau đối với bản thân mình để tạo ra sự giải phóng hóa chất này. Việc hình dung một hoạt động sẽ có phản ứng trao đổi chất tương tự như thực hiện việc đó vậy. Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc hình dung bản thân bạn đang vận động một ngón tay cũng làm tăng khối lượng cơ lên 22%, gần tương đương với việc tăng 30% đạt được bằng cách thực hiện bài tập đó trong thực tế (với những ai đang nghĩ việc này nghe có vẻ hay ho, thì hãy nhớ rằng bạn cũng cần phải bỏ rất nhiều nỗ lực để giữ cho đầu óc mình chỉ chuyên tâm vào bài tập đó).

Nếu có mức độ tỉnh táo thấp, bạn có thể tạo ra adrenaline bằng cách tưởng tượng ra sẽ làm sai việc gì đó trong tương lai, cụ thể là hãy mường tượng ra một sự kiện đáng sợ. Trong cảnh trước, Paul ở trạng thái thiếu tăng xung bởi đó là sáng thứ Hai, trước bữa trưa. Rất khó để anh có thể tập trung. Kể cả những sự phân tâm nhỏ cũng có thể chiếm lĩnh tâm trí anh. Ở hoàn cảnh này anh đã có thể sử dụng não bộ của mình để tưởng tượng ra mình đang đứng trước khách hàng mà không hề có sự chuẩn bị nào. Kết quả đáng sợ đó có thể làm tăng mức norepinephrine, thứ sẽ giúp anh tập trung vào công việc. Một tay quyền anh chuyên nghiệp đã có lần giải thích cho tôi nghe bí mật thành công của anh ta. Anh tưởng tượng rằng nếu anh bước lên võ đài là sẽ bị giết và điều này khiến anh nỗ lực tập luyện điên cuồng. Tôi cũng sử dụng một mẹo nhỏ tương tự khi viết lách. Nếu không thể tập trung, tôi tưởng tượng ra việc giao bài và người ta phát hiện các lỗi trong đó. Điều này khiến tôi tỉnh ngay lập tức.

Chìa khóa cho kỹ thuật này là không để sự tưởng tượng vượt quá giới hạn của nó. Bạn muốn đánh thức bộ não vừa đủ để có động lực làm việc, nhưng không quá nhiều để bị nhấn chìm vào sợ hãi và làm tăng gánh nặng thay đổi để ổn định của chính mình.

TRỞ NÊN HỨNG THÚ

Một cách khác để Paul đưa bộ não của mình vào sự truyền động hóa thần kinh này là thông qua con đường dopamine. Nếu như norepinephrine là hóa chất của sự tỉnh táo, thì dopamine là hóa chất của sự thích thú. Cần có những mức độ đúng của cả hai loại hóa chất này để tạo ra mức tăng xung đúng, tuy nhiên mỗi một hóa chất lại có những tác động khác nhau.

Dopamine được sản sinh trong một số trường hợp. Đầu tiên, mức do- pamine tăng lên khi vỏ não thị giác phát hiện ra một thứ gì mới lạ, thứ mà chưa từng kỳ vọng hoặc hoàn toàn mới mẻ. Trẻ con thường thích bất cứ thứ gì mới lạ. Hóa chất này đi từ sự mới lạ sang thích thú và đến sự mong muốn chỉ trong một tích tắc. Óc hài hước hoàn toàn chỉ là việc tạo ra những kết nối bất ngờ không định trước. Việc xem các đoạn phim hài hước hay kể chuyện cười làm tăng mức dopamine lên. Nếu bạn từng để ý thấy rằng nói một việc gì đó lần đầu bao giờ cũng dễ hơn là lặp lại việc đó, thì bạn sẽ thấy dễ chịu khi các mạch thần kinh mới được kích hoạt lần đầu tiên. Mỗi một lần bạn nói điều tương tự sẽ mất công hơn, bởi bạn không còn dopamine cho sự mới lạ nữa.

Paul có thể làm tăng sự tập trung của mình bằng cách thay đổi các khía cạnh đơn giản trong cách anh làm việc. Chỉ đơn giản là việc thay đổi chiều cao của ghế cũng có thể đã đủ để tạo ra một cách nhìn nhận mới nhằm giải phóng nhiều dopamine hơn. Hoặc anh cũng có thể nói lớn lên công việc đang làm cho một ai đó, khiến anh một lần nữa lại có thêm cách nhìn nhận mới. Hoặc anh cũng có thể nghe mấy câu chuyện cười, gọi cho một người bạn để chia sẻ chuyện đó, hoặc đọc thứ gì đó thú vị và có tính giải trí.

Các nhà khoa học cũng khám phá ra rằng chờ đợi một sự kiện tích cực, bất cứ việc gì bộ não của bạn cũng nhìn nhận như là một phần thưởng cũng tạo ra dopamine. Đối với bộ não những phần thưởng này là đồ ăn, tình dục, tiền bạc và các mối quan hệ xã hội tích cực. Thế nên Paul có thể đặt vỏ não trước trán của mình vào điểm cực đỉnh hóa học thần kinh bằng cách tập trung vào những phần thưởng tích cực khi anh làm tốt bản đề xuất này, anh có thể kiếm được tiền, những phần thưởng trong tương lai mà anh muốn.

Qua tất cả các nghiên cứu, ai đó có thể nhận ra rằng sẽ thuận lợi nếu sử dụng những kỳ vọng tích cực hay óc hài hước để tạo ra sự tăng xung, hơn là sự sợ hãi. Óc hài hước và những kỳ vọng tích cực đều kích hoạt cả dopamine lẫn adrenaline. Nỗi sợ hãi tạo ra adrenaline, nhưng kỳ vọng về những sự việc tiêu cực lại làm giảm dopamine. Nỗi sợ hãi cũng kích hoạt luôn những hóa chất mà có thể gây ra những tác động tiêu cực lên cơ thể bạn theo thời gian.

TĂNG XUNG QUÁ MỨC KHÔNG PHẢI LÀ MỘT ĐIỀU TỐT

Tăng xung quá mức là một vấn đề nghiêm trọng hơn so với thiếu tăng xung. Trong một nghiên cứu trên 2.600 người lao động ở Anh, một nửa trong số họ đã từng thấy đồng nghiệp khóc khi bị áp lực và hơn 80% trong số đó đã bị bắt nạt trong suốt sự nghiệp của họ. Con người ở khắp nơi đều gặp phải việc quá tải thông tin, do có quá nhiều kích thích từ nhiều ý tưởng cùng một lúc. Paul trải qua mặt tiêu cực của việc tăng xung quá mức khi anh lỡ mất một ngã rẽ trên đường tới cuộc họp và điều này đã gây ra sự hoảng loạn.

Tăng xung quá mức nghĩa là có quá nhiều hoạt động điện não ở vỏ não trước trán. Để làm giảm tình trạng này, bạn cần phải giảm bớt khối lượng và tốc độ của thông tin đi qua đầu mình. Khi trở nên không thể suy nghĩ được nữa, bạn nên viết ý tưởng ra giấy để “đưa chúng ra khỏi đầu mình”. Nếu sân khấu không phải giữ thông tin thì nó sẽ bớt phải hoạt động đi.

Một cách khác là kích hoạt các vùng lớn trong não, nhằm mục đích ngưng kích hoạt vỏ não trước trán. Một ví dụ là hướng sự chú ý vào những âm thanh xung quanh để kích hoạt các vùng não có liên quan đến việc nhận thông tin vào các giác quan. Bạn cũng có thể kích hoạt vỏ não vận động bằng cách thực hiện một việc gì đó liên quan đến thể chất, ví dụ như đi bộ, điều làm cho oxy và glucozo chảy vào các vùng não đang hoạt động mà ở đây chính là vỏ não vận động. Nếu một vùng não bị kích hoạt quá mức thì bạn có thể giải quyết vấn đề này bằng cách kích hoạt một vùng não khác. Điều này có thể được diễn đạt ngắn gọn hơn là “đi bộ một lúc nếu bạn cảm thấy quá căng thẳng”, tuy nhiên cũng cần phải hiểu rõ cơ chế hoạt động của nó như thế nào.

Tăng xung quá mức không chỉ bao hàm những trải nghiệm về sự sợ hãi hay lo lắng. Nó có thể hàm ý là sự tăng xung tích cực, ví dụ như kích động hay thèm muốn. Những người mới yêu thường “mất lý trí” và làm những chuyện điên rồ. Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng bộ não của những người đang yêu có nhiều điểm chung với những người nghiện ma túy. Dopamine đôi lúc còn được gọi với tên “ma túy của sự ham muốn”. Quá nhiều dopamine có thể khiến việc “rất thích thú” trở thành mệt mỏi.

SỰ TĂNG XUNG MANG TÍNH CÁ NHÂN

Một sự việc nào đó là áp lực hay lôi cuốn, hấp dẫn cũng thay đổi rất nhiều tùy theo từng người. Đối với một người, việc đạp xe có thể khó làm cho anh ta tăng xung. Anh cần đi đôi giày trượt patin vào và lượn giữa các luồng xe ở Manhattan thì mới tập trung được. Đối với người khác, ý nghĩ về việc đạp xe cũng có thể trở nên quá sức tưởng tượng rồi. Những sự khác biệt này một phần dựa vào những trải nghiệm đã có từ trước và những yếu tố khác mà chúng ta sẽ cùng thảo luận sau. Có một căn nguyên cho vấn đề này, tuy khá lý thú nhưng lại không giúp ích gì mấy cho sự hiểu biết của chúng ta. Dù vậy, vấn đề thuộc về giới tính đối với chữ U lộn ngược có thể lý giải những hiện tượng xảy ra hàng ngày.

Một lý do mà Paul gặp vấn đề vào sáng hôm nay đó là anh đã để việc viết bản đề xuất đến phút cuối mới làm. Khách hàng đã gửi bản tóm tắt cho anh bốn ngày trước, nhưng Paul cảm thấy không thể tập trung được nên đối với anh việc đó chưa phải “khẩn cấp” lắm. Arnsten lý giải rằng vấn đề này là một hiện tượng đa số nam giới gặp phải: “Estrogen thúc đẩy phản ứng với áp lực. Giờ tôi sẽ kể câu chuyện ở phòng thí nghiệm của tôi – phụ nữ hoàn tất mọi việc một tuần trước thời hạn, bởi họ không muốn bị áp lực, hay gia tăng tăng xung, do hạn cuối cùng gây ra. Đàn ông thì đợi đến phút cuối để có đủ dopamine và norepinephrine nhằm thúc đẩy họ hoàn thành công việc”.

ĐỂ ĐẠT TĂNG XUNG ĐÚNG MỨC

Chúng ta vừa biết được những trải nghiệm về tăng xung quá mức và thiếu tăng xung, thế còn điểm cực đỉnh của chữ U thì sao? Một nhà khoa học người Hungary, Tiến sĩ Mihaly Csikszentmihalyi đã nghiên cứu trạng thái này hàng mấy thập kỷ nay. Trong cuốn sách xuất bản năm 1990 có tên Flow: The Psychology of Optimal Experience (Dòng suy nghĩ: Tâm lý học của sự trải nghiệm tối ưu), ông mô tả trải nghiệm ở vùng đỉnh chữ U cũng tương tự như trạng thái tối ưu giữa việc quá căng thẳng (tăng xung quá mức) và sự nhàm chán (thiếu tăng xung). Đó là khi bạn bị nhấn chìm trong một trải nghiệm và thời gian dường như ngừng trôi. Paul cảm nhận được “dòng suy nghĩ” khi anh quyết định tập trung và đi những con đường nhỏ phía trong, trước khi anh lo sợ rằng mình sẽ bị trễ hẹn.

Ai cũng muốn có trải nghiệm ở trong “dòng tư duy”, bởi nó rất mạnh mẽ. Tiến sĩ Martin Seligman, sáng lập gia của ngành tâm lý học tích cực, nghĩ rằng trạng thái dòng tư duy là một trong ba động lực chính cho hạnh phúc của loài người, quan trọng hơn cả hạnh phúc khoái lạc là niềm vui ta có được khi ăn một bữa ngon hay uống một chai rượu ngon. Cũng theo Seligman, dòng chảy có vẻ như cũng sử dụng “các thế mạnh” của bạn, là một tập hợp các hành vi bạn đã thành thạo đến mức chúng được ghi sâu vào trí nhớ.

Tôi có một lý thuyết về việc tại sao trạng thái dòng tư duy lại trở nên cuốn hút và mạnh mẽ đến vậy. Hãy tưởng tượng bạn đang làm việc gì đó sử dụng những lề thói đã khắc sâu vào trí nhớ và chỉ đòi hỏi một nỗ lực tập trung tối thiểu, ví dụ như lái xe chẳng hạn. Bây giờ hãy nghĩ về việc sử dụng lề thói để làm một số việc khác đi đôi chút và việc này sẽ khó hơn bình thường một chút – việc mà bạn có thể làm tốt nếu tập trung chú ý. Ví dụ, thay vì lái một chiếc xe bình thường, thì giờ lái một chiếc xe đua trên một đường đua. Vẫn sẽ cần những kỹ năng cơ bản như lái xe và vào số, nhưng bạn sẽ phải rất chú tâm vì sẽ có một số thứ mới mẻ đối với mình. Một lượng lớn các kết nối mới sẽ được thực hiện, nhưng dựa trên nền tảng an toàn, bởi bạn đã có sẵn rất nhiều kết nối để làm việc rồi. Kết quả là một dòng chảy mạnh của dopamine và norepinephrine – mà không cần quá nhiều nỗ lực. Dòng chất dẫn truyền thần kinh này xuất hiện bởi nhiều kết nối mới được hình thành. Hóa chất giúp bạn tập trung và sự tập trung này lại giúp tạo ra các kết nối mới. Một sự tăng dần tích cực được tạo ra lúc bạn cảm thấy có năng lượng và tập trung.

Tóm lại, vỏ não trước trán rất khó tính. Để hoạt động được hiệu quả nhất nó cần mức độ đúng cho cả hai hóa chất thần kinh vào đúng điểm ở bên trong hàng tỷ mạch thần kinh. Những hóa chất này liên quan tới việc trở nên tỉnh táo và hứng thú. Nhưng như bạn thấy đấy, may mắn thay là có nhiều cách giúp bạn can thiệp vào quá trình này để làm cho bản thân mình tỉnh táo và hứng thú nhiều hơn hay bớt đi. Để làm rõ việc này hơn, hãy cùng khám phá xem tại sao Paul có thể làm khác đi nếu anh hiểu được những phát kiến về bộ não trong cảnh này.

ĐI TÌM VÙNG NĂNG SUẤT ĐỈNH CAO, QUAY LẠI LẦN HAI

Paul ngồi vào xe lái đến cuộc họp với khách hàng, một quãng đường mất ba mươi phút lái xe, ở một phần của thành phố mà anh ít lui tới. Anh thích lái xe đến đó và cảm thấy khoan khoái khi chiếc xe ấm dần lên, anh thở phào nhẹ nhõm vì không phải xử lý đống email trong ba mươi phút tới. Anh biết mình cần tập trung để đi đến địa điểm đó, nên anh nâng sự tỉnh táo của mình lên bằng cách tưởng tượng ra cảnh anh có mặt ở buổi họp. Mức adrenaline của anh tăng lên. Lúc chuẩn bị bắt đầu lái xe anh nghe một giọng nói nhắc nhở phải xem bản đồ trước đã. Hạch nền của anh đã nhìn thấy kiểu mẫu này trước đây nhưng không ở trạng thái quá tải, Paul để ý đến những tín hiệu im lặng đến từ bên trong như thế này. Anh xem qua bản đồ và xem đường nào tốt nhất để đi. Anh mở một đĩa CD ưa thích lên nghe. Cứ mười phút anh lại vặn nhỏ âm thanh một lần và kiểm tra bản đồ để chắc chắn mình đi đúng đường. Anh tập trung nhưng rất thư thái. Ở trạng thái tối ưu này, tuy không cố tình nhưng anh thấy mình dành thời gian để luyện tập trong đầu cách thức trình bày vấn đề trước khách hàng. Anh nhớ việc bắt đầu bằng cách hỏi nhiều câu hỏi và trình bày về một dự án lớn khác trước tiên. Anh luyện tập buổi thuyết trình trong đầu, tưởng tượng xem mình sẽ giới thiệu từng hạng mục của bản đề xuất như thế nào và khách hàng sẽ có thể nói gì. Tất cả những hoạt động này khiến anh cảm thấy tỉnh táo, tập trung và được chuẩn bị kỹ càng. Anh đến nơi sớm vài phút trước khi buổi họp bắt đầu, đủ thời gian để nhâm nhi ly cà phê và chuẩn bị các tài liệu.

Những điều ngạc nhiên về bộ não

• Năng lực thần kinh đỉnh cao đòi hỏi cần có áp lực đúng mức, chứ không phải là áp lực ít nhất.

• Năng lực thần kinh đỉnh cao xuất hiện khi bạn có mức độ trung gian của cả hai loại chất dẫn truyền thần kinh quan trọng là norepinephrine và dopamine, chúng có liên quan tới sự tỉnh táo và hứng thú.

• Bạn có thể điều khiển một cách có ý thức lượng norepineph- rine và dopamine theo nhiều cách, để nhằm tăng sự tỉnh táo hay sự thích thú.

Bạn có thể thử

• Luyện tập chú ý đến các mức độ của tỉnh táo và hứng thú trong suốt một ngày.

• Làm tăng lượng adrenaline khi cần bằng cách tưởng tượng ra một nỗi sợ hãi nhỏ nào đó.

• Làm tăng lượng dopamine khi cần bằng cách sử dụng những cái mới lạ ở bất cứ dạng nào, như thay đổi góc nhìn, vui vẻ

hài hước, hoặc trông đợi một điều tích cực nào đó.

• Làm giảm lượng dopamine và adrenaline bằng cách kích hoạt các vùng não khác ngoài vỏ não trước trán.

CẢNH 6

VƯỢT CHƯỚNG NGẠI VẬT

Buổi trưa. Emily tự dành ra cho mình ba mươi phút để viết một bản đề xuất đơn giản cho buổi hội thảo cô sẽ tổ chức vào giờ ăn trưa.

Cô khám phá ra hai vấn đề của bộ não mình qua nhiều năm: cô có thể đưa ý tưởng mới lên sân khấu với rất ít công sức bỏ ra nếu cô viết khi hạn cuối gần kề và việc viết lách đó sẽ giãn ra để lấp đầy khoảng thời gian trống.

Sau vài phút, khi Emily gần hoàn tất bản đề xuất, cô nảy ra một suy nghĩ nhỏ: cô nên đi đến cuộc họp với một cái tên nào đó được đặt cho buổi hội thảo. Sự mới mẻ của ý tưởng này làm cô thích thú và đẩy lượng dopamine lên cao hơn. Nhưng ngay sau đó cô lại cảm thấy khó chịu vì đã không nghĩ ra điều này trước đây và nhớ rằng có thể mất mấy ngày để nghĩ ra tên của hội thảo chứ không phải vài phút như bây giờ. Sự bực bội của cô tăng lên, quá mức một chút đủ để cô khó có thể suy nghĩ được rõ ràng. Cô dừng lại để suy ngẫm một lúc. Cô quyết định, dù đang rất hứng thú với việc nghĩ tên cho buổi hội thảo, nhưng cô phải hoàn tất kế hoạch chung trước để có thể tỉnh táo đầu óc hơn. Emily hiểu đủ rõ về bộ não của mình để thấy rằng với sân khấu trống vài phút có thể nghĩ ra nhiều ý tưởng hơn là trong một khoảng thời gian dài mà bị phân tán tư tưởng.

Emily hoàn thành kế hoạch chung và giờ cô có mười phút để nghĩ ra tên cho buổi hội thảo. Cô vẫn không cảm thấy mình đang ở trong trạng thái tinh thần tốt để làm các công việc sáng tạo: đây là thời gian trước bữa ăn trưa và lượng đường glucozo trong cơ thể cô đang ở mức thấp. Thế nên cô tắt điện thoại đi và treo bảng ‘Không làm phiền’ trước cửa phòng. Cô biết rằng mình không thể chịu đựng nổi dù chỉ một sự phân tâm khi bộ não đang ở trạng thái nhạy cảm như thế này. Cô để các giấy tờ khác qua một bên, hành động này cũng góp phần giúp dọn dẹp sân khấu. Sau đó cô mở tài liệu mới trên máy tính và bắt đầu động não tư duy.

Ngay lập tức cô kết nối với những từ ngữ rõ ràng của sự kiện – doanh nghiệp phát triển bền vững – và bắt đầu nghĩ xem sẽ sử dụng những từ ngữ này để tạo ra một cái tên như thế nào. Những từ ngữ ấy ngồi ở hàng ghế đầu tiên, bởi chúng được nhắc đến rất nhiều thời gian gần đây. Nó được thiết lập rất tốt để bạn có thể nhớ những từ ngữ hay khái niệm bạn thấy gần đây và những thứ này tự động ảnh hưởng đến hành động của bạn một cách vô thức. Đây là một chức năng đặc biệt của bộ não với tên gọi đưa lên hàng đầu.

Danh sách của cô bắt đầu: “Bền vững”, “Phát triển bền vững”, “Kinh doanh bền vững”, “Lợi ích bền vững”, “Bền vững cho phát triển”. Cô không thích những từ này và cố nghĩ ra hướng đi khác, tuy nhiên tâm trí cô chỉ bám lấy cách suy nghĩ này mà thôi. Cô bắt đầu bị phân tâm. Không thực hiện được các kết nối mong muốn, lượng dopamine trong cô giảm xuống, càng làm cho việc tránh bị phân tâm trở nên khó khăn hơn. Cô chọn cách bỏ qua sự chú ý của mình vào việc khiến bản thân khó chịu. Thay vào đó, cô tập trung sự chú ý vào việc hình dung mình đang thuyết trình các ý tưởng mới vào giờ ăn trưa, điều giúp cô có khả năng tập trung hơn. Một lúc sau cô tìm ra cách sử dụng từ ngữ cho ngữ cảnh “bền vững”. Trên đường đi đến cuộc họp, cô thấy hài lòng vì đã viết bản kế hoạch chung trước. Ít ra cô cũng đã có một bản đề xuất hoàn chỉnh và vài cái tên cho buổi thuyết trình mặc dù cô biết mình vẫn chưa nghĩ được cái tên hay nhất.

Emily đã làm theo hầu hết các nguyên tắc trong cuốn sách này. Cô lên kế hoạch cho công việc lúc còn dễ để đưa các diễn viên lên sân khấu, cô loại bỏ mọi thứ khỏi đầu mình để giảm lượng thông tin phải xử lý, cô làm mỗi thứ một lúc, cô làm giảm các phân tâm từ bên ngoài và cô loại bỏ các phân tâm từ bên trong. Tuy vậy cô vẫn lâm vào sự bế tắc. Cô không thể nghĩ ra cái tên mình muốn chỉ bằng cách sử dụng các tiến trình thần kinh có ý thức trong vỏ não trước trán. Cô cần có thêm các nguồn năng lực khác nữa của não bộ để trợ giúp việc này. Emily khám phá ra một phát hiện thú vị về vỏ não trước trán. Đôi khi chính vấn đề lại nằm ở chính vỏ não trước trán. Điều này xảy ra đặc biệt trong những trường hợp cần sự sáng tạo. Emily cần hiểu sâu hơn về bộ não của mình, để biết được khi nào và bằng cách nào để tắt hẳn ý thức, chính là các tiến trình tuyến tính để có thể trở nên sáng tạo hơn khi cần.

SỰ THẤU HIỂU LÀ CỖ MÁY CỦA NỀN KINH TẾ

Emily đã đụng phải cái được biết đến trong phạm vi khoa học thần kinh dưới tên gọi là sự bế tắc. Sự bế tắc chính là rào chắn không cho tiếp cận trí tuệ mong muốn. Đó là một kết nối mà bạn muốn thực hiện nhưng không thể thực hiện được. Một sự bế tắc có thể là bất cứ thứ gì từ việc cố nhớ tên một người bạn cũ, cho đến việc nghĩ xem nên đặt tên con mình như thế nào. Tuy những sự bế tắc này là điều chúng ta thường xuyên gặp phải, chúng lại chỉ xuất hiện lúc chúng ta cần sáng tạo. Việc sáng tạo được hay không còn tùy vào việc vượt qua được sự bế tắc hay không đã.

Theo Giáo sư Richard Florida, tác giả cuốn The Rise of the Creative Class (Sự trỗi dậy của một tầng lớp sáng tạo), hơn 50% người lao động hàng ngày phải làm các công việc sáng tạo. Họ viết, phát minh, thiết kế, vẽ, tô màu, đóng khung, hoặc sửa chữa thế giới này theo một cách nào đó. Những người sáng tạo kết nối toàn bộ thông tin lại với nhau theo một hướng khác lạ. Sự mới lạ sẽ thu hút sự chú ý. Và trong thế giới kinh doanh, sự chú ý có xu hướng tạo ra lợi nhuận. Theo cách này, quá trình sáng tạo là cỗ máy tạo ra sự giàu có.

Tuy một chút sự mới lạ có thể tạo ra phản ứng dopamine tích cực, thì quá nhiều sự mới lạ lại trở nên rất khủng khiếp. Đưa khái niệm này lại cùng với sự thật là chữ U lộn ngược của từng người thì khác nhau, bạn sẽ thấy tại sao các sản phẩm mới lại có những phản ứng khác nhau như thế từ công chúng (Walt Disney đã từng nói rằng nếu ông thử nghiệm một ý tưởng mới và mọi người đều cùng nhau phản bác lại nó, thì ông biết mình có thể sắp đạt tới điều gì đó). Hầu hết sự sáng tạo không phải là kiểu như khúc ngẫu hứng trong âm nhạc, mà thực ra nó là những thay đổi nhỏ trên những cái đã có sẵn. Năm mươi phần trăm người lao động đang cố sửa đổi những thứ nhỏ nhặt để làm cho mọi thứ thú vị hơn. Những người này gặp phải rất nhiều bế tắc.

Coi như 50% người lao động còn lại là những người “không sáng tạo”. Bất kể bạn làm việc ở ngân hàng, làm bánh sandwich, làm nghề đổi tiền hoặc thuyền trưởng một tàu du lịch ở Bahamas thì hầu như suốt ngày bạn cũng chỉ làm theo các thói quen đã được lập trình sẵn ở hạch nền. Sau đó, bất chợt bạn gặp phải một vấn đề khiến mình phải suy nghĩ: hết sạch sốt mayonnaise, các loại tiền tệ thì thay đổi chóng mặt, hoặc con tàu sắp cạn nhiên liệu. Có một số vấn đề được giải quyết một cách dễ dàng, ví dụ như cuốn sách dạy làm sandwich sẽ chỉ cho bạn biết nên mua mayonnaise ở đâu trong trường hợp khẩn cấp. Còn với các vấn đề khác, bạn sẽ cần sử dụng chức năng tìm kiếm trong đầu để so sánh vấn đề này với các vấn đề trước đó nhằm tìm ra một giải pháp khả thi. Trên con tàu ở Bahamas, bạn nhớ lại xem trước đây mình đã làm gì khi bị cạn nhiên liệu. Bạn đã chia khẩu phần ra cho từng người, tặng miễn phí các đồ uống có cồn và cho thuyền chạy xuôi theo chiều gió đến một bến cảng nào đó.

Tuy vậy, với những thay đổi lớn trong cách thức kinh doanh như hiện nay, thì những người “không sáng tạo” sẽ liên tục gặp phải các vấn đề hoàn toàn mới mà không có chỉ dẫn để làm theo, không có câu trả lời rõ ràng và giải pháp từ các vấn đề tương tự thì không áp dụng được. Ví dụ, đâu là quy tắc cho việc giảm chi phí sản xuất của một sản phẩm mà bạn không hiểu được, sản phẩm ấy được sản xuất ở Trung Quốc, được cung cấp dịch vụ từ Ấn Độ, được vận chuyển đến Châu Âu và được quản lý bởi những người bạn chưa bao giờ gặp? Điều cần thiết ở đây không phải là một giải pháp mang tính lôgíc mà là giải pháp kết hợp lại tất cả các kiến thức (tức là các bản đồ trong não) theo cách hoàn toàn mới. Và đó được gọi là sự sáng suốt.

Bất kể bạn là một người có óc sáng tạo đang cố chỉnh sửa hình dáng của một sản phẩm, hay là một thuyền trưởng trên một con tàu, thì việc hiểu được cách đi từ một bế tắc đến sự sáng suốt có thể tạo ra sự khác biệt rất lớn trong thành công của bạn. Một trong những khía cạnh tuyệt vời của trải nghiệm sáng suốt là bạn cần tắt sân khấu đi bao nhiêu lần để có được một trải nghiệm như thế. Trong nhiều trường hợp, một vỏ não trước trán quá năng động có thể là nguyên nhân gây ra cản trở.

ĐẾN TIỀM THỨC

Trong một thời gian dài, những hiểu biết sâu sắc được xem là những sự việc huyền bí mà dường như tự thân chúng xảy ra. Không một ai biết được chúng hoạt động như thế nào về mặt sinh học, thế nên khó để mở rộng các lý thuyết về việc làm sao để phát triển chúng lên. Ngày nay điều đó không còn bí ẩn nữa và chúng ta phải cảm ơn những nhà khoa học như Tiến sĩ Mark Beeman.

Beeman là phó giáo sư của trường Đại học Northwestern, ở Evanston bang Illinois. Ông ấy sẽ không kể với bạn về việc ông là một trong những chuyên gia hàng đầu thế giới về khoa học thần kinh của sự sáng suốt. Beeman cũng là người mà để nói chuyện được với ông bạn sẽ cần phải uống một ly cà phê Java đậm đặc trước để có đủ năng lượng.

Trước đây Beeman quan tâm về việc bộ não hiểu ngôn ngữ như thế nào. Ông quan tâm đến cách thức chúng ta lấp các khoảng trống trong ngôn ngữ mà chính điều này lại mở ra một mối quan tâm mới: làm thế nào để chúng ta xử lý các vấn đề nhận thức một cách chung chung. Năm 2004, Beeman cùng với John Kounios và các cộng sự đã thực hiện những nghiên cứu khoa học đầu tiên để khám phá xem điều gì xảy ra trong bộ não trước, giữa và sau một trải nghiệm sáng suốt.

“Có một câu nói nổi tiếng của William James về sự chú tâm: ‘Ai cũng hiểu sự chú tâm là gì cho đến khi bạn cố gắng định nghĩa nó’”, Beeman giải thích trong một cuộc phỏng vấn ở phòng thí nghiệm của ông. “Tôi nghĩ một thứ tương tự có thể được dùng để nói về sự sáng suốt. Ai cũng có sự sáng suốt. Nó cũng không phải là một lý thuyết khoa học vĩ đại; nó có thể đơn giản là cách sắp xếp lại ga-ra để có thể bỏ vừa xe vào mà thôi”.

Trong phòng thí nghiệm, Beeman nghiên cứu sự sáng suốt của con người thông qua việc họ xử lý các vấn đề từ vựng. Ông tin rằng những trò ô chữ đơn giản này có nhiều điểm chung với các thách thức trong thế giới thực, vốn là những thứ không phải dễ nghiên cứu. Một câu đố ô chữ có thể có ba từ: tennis, strike và same. Mục tiêu là phải tạo ra một từ có liên quan đến ba chữ này. Từ đó là match, bởi bạn sẽ có “tennis match” (trận đấu tenis), bạn có thể “strike a match” (đánh diêm) hay “match” và “same” có nghĩa giống nhau.

Beeman phát hiện ra khoảng 40% thời gian mọi người xử lý các vấn đề một cách lôgíc bằng cách đưa ra ý tưởng này đến ý tưởng khác cho đến khi có được giải pháp; 60% thời gian còn lại sẽ xuất hiện trải nghiệm sáng suốt. Trải nghiệm sáng suốt này được định rõ đặc điểm bởi sự thiếu hụt phát triển lôgíc cho giải pháp, nhưng thay vào đó là một “hiểu biết” nhất thời cho câu trả lời. “Trong sự sáng suốt, giải pháp đến với bạn một cách đột ngột nhưng khi nó đến, bạn sẽ cảm thấy rất tự tin. Câu trả lời có vẻ như đã rõ ràng khi bạn thấy được nó”. Beeman giải thích.

Hãy thử với chính mình. Lấy các từ pine, crab và sauce, thử xem bạn có thể tìm ra từ nối cho cả ba để tạo thành những từ có nghĩa hay không. Cố gắng tạo một ghi chú trong đầu về tiến trình bạn trải qua để xử lý vấn đề. Bạn có giải quyết nó một cách lôgíc không? Nó có đến với bạn một cách đột ngột không? Khi bạn có câu trả lời, bạn có “biết” ngay được là nó đúng không?

Thực tế là sự sáng suốt sẽ rõ ràng và chắc chắn khi bạn coi nó là manh mối cho những gì đang có thể diễn ra trong não bộ của mình. Beeman và nhóm của ông cố gắng tìm hiểu xem bộ não xử lý ra sao một vấn đề dưới mức nhận thức có ý thức. Theo nghiên cứu về việc đưa lên hàng đầu, khi ai đó được đưa cho câu trả lời cho một vấn đề mà họ đã giải quyết được một cách vô thức, thì họ sẽ đọc câu trả lời nhanh hơn (đây là trải nghiệm “a-duh”, một thuật ngữ đưa ra bởi Jonathan Schooler ở trường Đại học California, Santa Barbara, để nói về ai đó cho bạn biết câu trả lời về vấn đề bạn đang gặp phải. Trải nghiệm “a-duh” này khác với trải nghiệm “aha!” khi bạn giải quyết một vấn đề bằng sự sáng suốt của chính mình).

Khi sự sáng suốt xuất hiện, chúng thường bao gồm cả việc giải quyết một cách vô thức. Điều này hợp lý từ các trải nghiệm – sự sáng suốt thường đột ngột xuất hiện vào những lúc lạ thường nhất, khi bạn không có chút nỗ lực nhận thức nào để giải quyết vấn đề, ví dụ như lúc đang tắm, lúc ở phòng tập thể hình, hay lúc lái xe trên xa lộ. Hiểu biết về sự sáng suốt này cung cấp một cách thức khả thi để làm tăng tính sáng tạo: để bộ não vô thức của bạn giải quyết vấn đề. Và khi bạn đi bộ giữa một ngày làm việc, bạn sẽ khó có thể giải thích được gì khi sếp nhìn bạn và thấy buồn cười.

Thật may mắn là có một số các chiến lược tinh vi nổi bật lên cho sự sáng suốt đang gia tăng, thay vì là phải đi dạo bộ một lúc. Để hiểu những chiến lược này, hãy cùng đi sâu hơn vào những khám phá về “aha!” (trong trường hợp bạn không nghĩ ra được, thì câu trả lời cho câu đố pine – crab – sauce là apple. Bạn có pinaapple (quả dứa), crab apple (cây/quả táo dại) và applesauce (nước sốt táo)).

BẾ TẮC TRONG NGÕ CỤT

Đây có thể là phản trực giác, tuy nhiên các nhà khoa học vừa khám phá ra một trong những cách tốt nhất để hiểu sự sáng suốt là biết được điều gì xảy ra ngay trước khi sự sáng suốt xuất hiện, đó là trải nghiệm bế tắc. Một trong những nhà khoa học thực hiện nghiên cứu này là Tiến sĩ Stellan Ohlsson ở Đại học Illinois ở Chicago. Ohlsson giải thích cách con người áp dụng các chiến thuật đã từng có hiệu quả ra sao khi phải đối mặt với một vấn đề nào đó mới mẻ. Điều này hiệu quả nếu vấn đề mới cũng tương tự như vấn đề cũ. Tuy nhiên, trong nhiều hoàn cảnh nó sẽ không giống vậy và giải pháp cũ đã ngăn chặn những giải pháp tốt hơn hiện ra. Chiến thuật sai lầm trở thành nguồn gốc sự cản trở.

Emily đang lâm vào ngõ cụt khi cô bị mắc lại ở các từ ngữ liên quan đến việc phát triển bền vững. Cô thấy mình chỉ suy nghĩ theo một cách. Nghiên cứu của Ohlsson chỉ ra rằng con người phải dừng việc chỉ suy nghĩ theo một chiều thì mới mong nghĩ ra được ý tưởng mới. “Sự xuất hiện của những trải nghiệm quá khứ cần phải được chủ động ngăn chặn và đẩy lùi” Ohlsson giải thích, “Điều này khá ngạc nhiên, bởi chúng ta có xu hướng nghĩ rằng ngăn chặn là một việc làm xấu và nó sẽ làm giảm sự sáng tạo của bạn. Nhưng khi mà cách làm trước đó trở nên nổi trội hơn, thì việc có mức kích hoạt cao nhất, bạn sẽ có nhiều cách thức cho cùng một hướng giải quyết, tuy rằng sẽ không có gì mới mẻ ở phía trước”. Ở đây khái niệm ngăn chặn ở cảnh 4 lại nổi lên lần nữa. Khả năng ngăn không cho ai nghĩ về việc gì đó lại là trọng tâm của sự sáng tạo.

Giờ thì bạn đã có lời giải thích cho việc đi dạo bộ trong công viên khi đang cảm thấy vướng mắc ở một vấn đề nào đó. Tôi có thể hình dung ra lời nói cuối cùng mà một người nói với sếp trước khi anh ta bị cho nghỉ việc là: “Tôi sẽ đi bộ để quên đi công việc và trở nên hoàn toàn vô thức”. Nghe có vẻ buồn cười, nhưng đây là những gì mà nghiên cứu đã chỉ ra là cần thiết khi bạn bị lâm vào ngõ cụt. Câu trả lời sai đã ngăn không cho câu trả lời đúng hiện ra.

Có một cơ hội cho trải nghiệm cá nhân về hiện tượng bế tắc. Đây là một câu đố ô chữ mà bạn thấy thực sự rõ ràng, tuy đa số mọi người bị bế tắc khi cố tìm lời giải. Câu đố đó là: chuỗi các chữ cái H, I, J, K, L, M, N, O nghĩa là gì? Hãy dành một lúc để tìm câu trả lời nhưng cũng nên ghi chú lại những cách thức bạn đã thử và xem bạn bị bế tắc chỗ nào. Bạn giải quyết nó ra sao?

Sự bế tắc chung ở chỗ cố gắng giải ô chữ này bằng một câu viết tắt (“He Is Just Kindly Laughing” hay tương tự thế). Nhưng câu trả lời đúng lại khá bất ngờ và rất rõ ràng. Những chữ cái này nghĩa là gì? Ồ, chúng là những chữ trong bảng chữ cái, từ H đến O. Bạn hiểu chưa? Nó nghĩa là thứ mà chúng ta uống hàng ngày: H O. (Ý tác giả: “from H to O”, trong tiếng Anh “to” phiên âm tương tự như “two” – số – chú thích của người dịch) Câu đố này cho thấy khó khăn như thế nào để phá vỡ lối mòn suy nghĩ. Khi bạn cho rằng đó là từ viết tắt, thì sự ngộ nhận này đã gạt đi tất cả các giải pháp khả thi. Bản đồ cho “các từ viết tắt” đang hoạt động trong não bạn và hoạt động điện não trong đó ngăn chặn không cho hình thành các mạch não một cách dễ dàng. Vượt qua sự bế tắc cũng như thay đổi hướng giao thông trên một cây cầu: bạn phải dừng giao thông theo một chiều trước khi có thể cho đi theo chiều khác.

Lý thuyết về sự ngăn chặn của Ohlsson lý giải tại sao sự sáng suốt lại đến lúc bạn tắm hoặc đi bơi dù chẳng liên quan gì tới nước cả. Khi bạn tách mình ra khỏi một vấn đề, thì những cách suy nghĩ hiện thời về nó sẽ bị giảm dần đi. Điều này có vẻ hiệu quả trong một số chuyện. Thử làm thí nghiệm sau: khi nào bạn chơi một trò chơi ô chữ và bị bế tắc, hãy làm việc gì đó khác đi trong vài giây (đơn giản như buộc lại dây giày hay vươn vai; cái chính là để không nghĩ đến vấn đề đó nữa). Sau đó quay lại với vấn đề và xem điều gì xảy ra. Tôi đoán bạn sẽ thấy thỉnh thoảng vỏ não trước trán, khả năng xử lý ý thức của bạn, lại chính là vấn đề. Đẩy nó ra khỏi đường đi và bạn sẽ thấy được giải pháp.

Điều đặc biệt này của bộ não cũng lý giải tại sao mọi người thường có câu trả lời cho vấn đề của bạn trong khi bạn thì không. Những người đó không bị bó buộc trong cách suy nghĩ của bạn (tôi có nói sâu hơn về vấn đề này ở phần “sự rõ ràng của khoảng cách” trong cuốn sách khác có tên Quiet Leadership – Sự lãnh đạo trầm lặng). Việc hiểu được quá rõ ràng một vấn đề có thể là lý do khiến bạn không tìm ra được giải pháp. Đôi lúc cũng cần phải có một cách nhìn nhận hoàn toàn mới mẻ. Đây là một khái niệm khác thường, bởi thông thường chúng ta nghĩ rằng người giải quyết vấn đề tốt nhất là người hiểu rõ về vấn đề ấy nhất. Với rất nhiều sự bế tắc hàng ngày trong công việc, có lẽ cần thiết phải có các sự tương trợ tư duy, mà ở đó một người có rất nhiều chi tiết còn người kia thì không. Cùng với nhau họ có thể đi đến một giải pháp nhanh hơn là từng người đi riêng rẽ.

Hãy quay trở lại với Emily. Cô cần phải sáng tạo mỗi khi có nhu cầu, tuy nhiên lại bị lâm vào ngõ cụt, bất kể việc cô đã thực hiện những việc đúng để đầu óc trống rỗng trước tiên. Cô đã có thể làm gì khác đi? Cô không nên tập trung quá nhiều vào vấn đề trong những phút cuối cùng. Cô có thể làm gì đó phản trực giác: dành ra một phút quý giá để làm gì đó trọn vẹn, việc gì đó thú vị và vui vẻ, để có thể thấy được sự sáng suốt xuất hiện. Cách này nghe có vẻ kỳ lạ, nhưng Beeman đã chỉ ra rằng việc tập trung quá mãnh liệt giống như việc Emily cố tưởng tượng mình ở trong cuộc họp để rồi chỉ khiến sự khó chịu gia tăng, lại không làm tăng sự sáng suốt. Thực tế nó làm giảm sáng suốt đi.

NHỮNG KẾT NỐI TỪ XA

Thay vì thực hiện cuộc đi bộ làm ảnh hưởng đến công việc đó, bạn còn có thể làm gì để có thêm sự sáng suốt? Nghiên cứu của Beeman đã đưa ra các gợi ý cho điều này. Ông nhận thấy những người xử lý vấn đề bằng sự sáng suốt kích hoạt nhiều hơn vùng não gọi là thùy thái dương phải, một vùng nằm ngay bên dưới tai bên phải. Vùng này cho phép bạn đưa ra những thông tin liên quan từ xa. Nó là một phần của bán cầu não phải vốn có liên quan đến các kết nối nhất thể. Jonathan Schooler chỉ ra rằng khi con người tập trung vào các chi tiết của một cảnh thay vì toàn bộ bức tranh lớn, họ sẽ phá vỡ tiến trình sáng suốt bằng việc chuyển bộ não sang hoạt động ở bán cầu não trái.

Beeman phát hiện ra rằng những người có sự sáng suốt sẽ cảm nhận được một tín hiệu não kích thích ngay trước khi sự sáng suốt xuất hiện. Một số vùng của não trở nên im ắng, giống như máy móc ở chế độ nghỉ. Theo Beeman: “Khoảng một giây rưỡi trước khi xử lý được vấn đề bằng sự sáng suốt, con người gặp phải sự tăng đột ngột và kéo dài các hoạt động ở dải alpha trên thùy chẩm bên phải, vùng não xử lý thông tin thị giác đi vào bộ não”. Hoạt động alpha biến mất ngay lúc xuất hiện sự sáng suốt. Beeman nói tiếp: “Chúng ta nghĩ hoạt động alpha báo hiệu rằng con người có một khái niệm mơ hồ sẽ chuẩn bị giải quyết được vấn đề. Họ có sự kích hoạt yếu và mỏng manh gợi ý về giải pháp đâu đó trong bộ não. Họ muốn tắt hoặc làm suy yếu thị giác để có thể giảm nhiễu trong não bộ, nhằm thấy được giải pháp tốt hơn. Giống như kiểu nói: “Im đi. Tôi đang suy nghĩ”. Bạn thường xuyên làm điều này mà có thể không nhận ra. Bạn đang nói chuyện với ai đó và đột nhiên chuyển hướng nhìn, thường là nhìn lên, để bớt bị phân tán tư tưởng hơn. Đó là cách bộ não tắt các đầu vào giác quan để tập trung hơn vào các tín hiệu tinh vi bên trong. Nếu bạn không làm như vậy, sự sáng suốt sẽ khó có khả năng xuất hiện.

Beeman cũng phát hiện ra rằng có một sự tương quan mạnh mẽ giữa các trạng thái cảm xúc và sự sáng suốt. Hạnh phúc tăng lên sẽ làm tăng sự sáng suốt, trong khi nếu tăng sự lo lắng sẽ chỉ làm giảm sự sáng suốt đi. Điều này có liên quan đến khả năng cảm thụ các tín hiệu mỏng manh của bạn. Khi bạn lo âu, sự kích hoạt đường cơ sở trở nên mạnh mẽ hơn và có nhiều hoạt động điện não hơn, khiến cho bạn khó có thể thu nhận được các tín hiệu tinh vi. Lúc này có quá nhiều tạp âm trong đầu khiến bạn khó mà nghe được tốt. Đây là lý do vì sao các công ty như Google tạo ra các môi trường làm việc giúp bạn có thể chơi đùa và thư giãn được. Họ nhận ra rằng điều này làm tăng chất lượng của các ý tưởng.

Trong những thí nghiệm khác cho thấy các vùng não bộ có tham gia vào điều khiển nhận thức được kích hoạt ngay trước khi có sự sáng suốt. Bạn từng nghĩ về một vấn đề theo một cách, nhưng giờ bạn phải đổi lại và nghĩ theo cách khác, nhằm làm tăng cơ hội giải quyết vấn đề hơn. Ngay trước khi có sự sáng suốt, vùng giữa vỏ não trước trán có xu hướng hoạt động. Đây là một phần của mạng lưới mặc định có liên quan đến việc để ý tới những trải nghiệm của riêng bạn. Khi cố gắng xử lý vấn đề dưới một máy quét não trong phòng thí nghiệm, những người ít kích hoạt vùng giữa vỏ não trước trán nhưng lại kích hoạt nhiều các vùng thị giác trên não có xu hướng không có sự sáng suốt. Họ nhìn rất gần vấn đề nhưng lại không biết mình đang nhìn. Beeman đã thành công trong thí nghiệm khi ông có thể chọn ra những ai có thể có sự sáng suốt và người nào thì không, kể cả ngay trước khi thí nghiệm bắt đầu, hoàn toàn chỉ dựa trên những kiểu mẫu kích hoạt não của họ.

Đây là những gì Beeman phát hiện ra. Những người sáng suốt hơn lại không có tầm nhìn tốt, họ không xác định việc tìm một giải pháp, họ không tập trung nhiều vào vấn đề và họ không nhất thiết phải là những thiên tài. Những “bộ máy sáng suốt”, những người mà Beeman chọn ra dựa trên các bản quét não trước thí nghiệm là những người để ý hơn tới những trải nghiệm bên trong của mình. Họ có quan sát suy nghĩ của mình và vì thế họ có thể thay đổi cách suy nghĩ. Những người này quản lý nhận thức tốt hơn. Nếu họ vượt qua các bế tắc thì sẽ có ý nghĩa quan trọng trong tương lai. Chúng ta sẽ cần phải học cách dạy xử lý vấn đề.

CHÚ TÂM ĐẾN MÔ HÌNH ARIA TRONG CHÍNH BẠN

Khi gộp tất cả các nghiên cứu lại, trên lý thuyết chúng ta có thể phát triển các kỹ năng và các bài tập để làm tăng sự sáng suốt. Tôi đã dành hơn mười năm để nghiên cứu vấn đề này và kết quả là sự phát triển của mô hình ARIA. ARIA là viết tắt của Awareness (sự nhận thức), Reflection (sự phản ánh), Insight (sự sáng suốt) và Action (sự hành động). Mô hình này không chỉ diễn tả các giai đoạn của sự sáng suốt để bạn có thể nhận ra tiến trình này trong đời sống, mà còn cung cấp các kĩ thuật thực hành để làm tăng sự sáng suốt nữa.

Nhận thức là trạng thái mà trong đó bộ não tập trung ít vào một sự bế tắc. Trong trạng thái nhận thức, bạn muốn đưa vấn đề lên sân khấu, nhưng phải chắc chắn rằng nó chiếm càng ít không gian càng tốt để các diễn viên còn có chỗ để lên nữa. Để giảm thiểu sự kích hoạt của vỏ não trước trán, không nên tập trung quá sâu, hạn chế tư duy những chuyện khác, và đơn giản hóa vấn đề càng nhiều càng tốt. Một cách tốt nhất để đơn giản hóa vấn đề là diễn tả nó càng ngắn gọn càng tốt. Việc nói với bản thân mình rằng: “Tôi muốn có thêm năng lượng” sẽ tạo ra ít sự kích hoạt trong não hơn so với việc nói: “Tôi muốn nhiều năng lượng hơn để tập trung hơn vào công việc, gia đình, có thêm thời gian cho các hoạt động thể dục và vui chơi”.

Ở giai đoạn phản ánh, bạn giữ sự bế tắc trong đầu, nhưng lại phản ánh nó trong các tiến trình tư duy thay vì trong nội dung tư duy. Trong ví dụ về H2O, sự sáng suốt sẽ hiện ra nếu bạn để ý rằng không có cách suy nghĩ nào hiệu quả hết và từ đó cho phép những cách thức hoàn toàn mới đi vào tư duy của mình. Mục đích là để thấy được sự bế tắc của bạn từ một vị trí cao hơn và không bị chi tiết quá. Điều này sẽ làm kích hoạt các vùng trên bán cầu não phải có vai trò quan trọng đối với sự sáng suốt và cho phép các kết nối lỏng lẻo hình thành. Bạn cũng sẽ cần phải kích hoạt trạng thái tinh thần dễ dàng và thiếu tập trung xuất hiện khi tỉnh dậy vào buổi sáng, khi các ý tưởng chảy vào trong đầu một cách đáng mơ ước.

Giai đoạn sáng suốt khiến bạn bị mê hoặc. Ở thời điểm có sự sáng suốt xuất hiện một sự bùng nổ các đợt sóng ở dải gamma. Đây là những đợt sóng não mạnh nhất đại diện cho một nhóm các nơ-ron cùng nháy sáng một lúc, bốn mươi lần một giây. Tần số gamma báo hiệu các vùng não đang giao tiếp với nhau. Những người ngồi thiền sâu có rất nhiều đợt sóng gamma như vậy. Những người gặp khó khăn trong chuyện học hành lại có ít sóng gamma hơn và những người không tỉnh táo thì hầu như không có.

Đây là hình ảnh sự bùng nổ sóng gamma biểu thị trong một sơ đồ của Beeman. Đỉnh nhọn đầu tiên ở trên đường màu đen là sóng alpha, lúc đó bộ não đang yên tĩnh. Đỉnh nhọn thứ hai là sóng gamma xuất hiện lúc có sự sáng suốt.

a

Sự sáng suốt cũng đi kèm với sự bùng nổ năng lượng. Bạn có thể nhận ra trên khuôn mặt người đó, nghe thấy nó trong giọng họ nói và nhìn thấy nó trong cử chỉ cơ thể họ. Bạn có có thể cảm nhận được nó qua một cuộc gọi điện thoại. Nó khá rõ ràng khi bạn nên lắng nghe. Một sự sáng suốt

là một khoảnh khắc khi mọi thứ thay đổi. Sự sáng suốt cũng mang lại sự gia tăng adrenaline và dopamine. Sự sáng suốt thực sự thú vị; nó giữ cho bạn tập trung và cảm thấy rất tuyệt vời.

Giai đoạn hành động là cơ hội để bạn khai thác năng lượng giải phóng qua sự hình thành của sáng suốt. Năng lượng này rất mạnh nhưng chỉ tồn tại trong khoảng thời gian ngắn ngủi. Nghĩ về cảm giác thăng hoa bạn cảm thấy khi đọc đến cuối cùng của một cuốn sách hay đột nhiên các tình tiết trở nên có lý. Trong vài phút bạn cảm nhận được cảm giác tuyệt vời này, nhưng mười phút sau cường độ ấy bị giảm nghiêm trọng. Khi cảm giác “thăng hoa” này xuất hiện, con người sẽ có can đảm và động lực hơn để thực hiện những hành động cụ thể, nhưng khi cảm giác này bắt đầu giảm đi thì động lực của họ cũng tụt giảm thê thảm.

Mô hình ARIA cho thấy sự sáng suốt của bộ não có giá trị như thế nào. Trong một buổi hội thảo do tôi tổ chức, hơn bảy mươi nhà điều hành doanh nghiệp đã học được khoa học thần kinh về sự sáng suốt và các kỹ năng để mang đến cho người khác sự sáng suốt. Sau đó từng người một có năm phút để áp dụng mô hình, trong những thử thách kinh doanh thực tế. 75% những bế tắc đã được giải quyết chỉ trong năm phút đối thoại với nhau (“giải quyết” ở đây nghĩa là sự sáng suốt xuất hiện cho phép người đó nhìn thấy hoàn cảnh họ gặp phải với cái nhìn mới, kết quả là họ đưa ra những quyết định rõ ràng để làm gì đó khác biệt đi). Tất cả những gì tôi làm là chỉ cho mọi người cách tạo ra trạng thái não bộ phù hợp ở người khác để làm tăng xuất hiện của sự sáng suốt. Bộ não của chúng ta thích sự sáng suốt. Hầu như đó chỉ là việc loại vỏ não trước trán sang một bên và cho phép nghe được những tín hiệu sâu hơn. Mô hình ARIA có thể được dùng trên một hoặc nhiều người. Nó giúp bạn nhớ các tiến trình não tham gia vào sự sáng suốt: kích hoạt một sân khấu yên lặng hơn và tạo ra sự chú ý, kiểm soát nhận thức nội tại lớn hơn. Nó có thể được dùng để nhớ tên một người quen, giải một ô chữ, hoặc đi tìm ý tưởng mới cho vở kịch của bạn. Hãy xem Emily đã có thể trở nên sáng tạo hơn theo nhu cầu như thế nào bằng những khám phá chúng ta vừa biết đến.

VƯỢT CHƯỚNG NGẠI VẬT, QUAY LẠI LẦN HAI

Giờ ăn trưa. Emily có ba mươi phút để viết một bản đề xuất cho buổi hội thảo. Mới viết được vài phút, cô chợt nảy ra ý nghĩ: cô nên mang đến cuộc họp một cái tên cho buổi hội thảo này. Cô cảm thấy lượng dopamine tăng cao. Cô hiểu rằng một sự sáng suốt đã làm tăng hóa chất cần thêm cho sự sáng suốt, nên cô cố nhanh chóng nắm bắt nguồn năng lượng này. Cô tắt tất cả điện thoại và treo biển “Không làm phiền” trước cửa. Cô mở một tài liệu mới trên máy tính và bắt đầu động não.

Emily kết nối các từ khóa trong bản tóm tắt – doanh nghiệp phát triển bền vững – và bắt đầu nghĩ xem sẽ sử dụng những từ này như thế nào để đưa ra một cái tên. Sau khi tìm ra mười từ cho ngữ cảnh ấy, cô dừng lại và để ý về lối tư duy mà cô đã đi qua. Cô thấy mình bị mắc kẹt ở chữ “bền vững”. Cô lắng suy nghĩ lại và cố nghe các luồng suy nghĩ để đi theo. Cô nghe thấy một suy nghĩ nhỏ về “tương lai” và đi theo hướng này. Lại có thêm mười từ nữa. Cô nghe tiếp các dẫn chứng và kết nối với ý nghĩ về bảo hiểm, để làm giảm thiểu rủi ro. Thêm rất nhiều từ nữa. Sau khi hoàn tất, cô để ý thấy chẳng có gì mới xuất hiện trong đầu mình cả. Cô biết rằng mình cần tập trung vào thứ khác để các kết nối mỏng manh có thể hình thành. Cô nhận ra mình đang bị bế tắc và có thể sẽ thêm được các giải pháp dựa trên ba ngữ cảnh này.

Cô chuyển bộ não mình ra khỏi guồng máy để ngăn các giải pháp hiện thời lại. Cô gọi điện cho Paul để hỏi thăm và họ nói chuyện trong vài phút. Trong lúc nghe Paul nói về những gì sắp diễn ra và anh đang căng thẳng như thế nào, thì một ý nghĩ chợt đến với cô: “thư giãn”. Cô tắt điện thoại và nghĩ ra câu: “Thư giãn cho tương lai” hay “Một tương lai thoải mái” và cảm thấy mình lại đang vào ngõ cụt. Cô chuyển hướng chú ý sang những bức tranh mà các con cô vẽ để làm giảm căng thẳng. Đột nhiên cô có cảm giác hứng thú ở vô thức và một ý nghĩ nảy ra: “Thử thách tương lai doanh nghiệp của bạn”. Cô thử tìm kiếm và thấy câu này chưa có ai dùng cả, cô viết lại bản đề xuất dựa trên ngữ cảnh này. Lượng dopamine thêm vào đã thúc đẩy cô vào trạng thái dòng tư duy mà ở đó cô có thể làm những việc tốt nhất. Cô vẫn còn thời gian để phác qua các bản đề xuất khác nữa. Trong trạng thái nhiều năng lượng như bây giờ, cô đưa ra mấy ý tưởng hay cô đã trông đợi và bắt đầu đi đến cuộc họp với tinh thần rất tích cực.

Ngay bây giờ bạn có thể đang gặp phải bế tắc. Đến đây chủ đề của cuốn sách đã đề cập khá nhiều về cách sử dụng vỏ não trước trán một cách hiệu quả hơn. Để làm việc được với hiệu suất cao tôi đã từng đề xuất cách bạn đưa một số lượng tối thiểu các diễn viên lên sân khấu, theo một trật tự đúng, từng người một lúc, với mức độ đúng của tăng xung. Còn giờ đây tôi khuyên rằng thỉnh thoảng bạn sẽ cần phải đưa ai đó xuống sân khấu để các tiến trình vô thức có thể giúp giải quyết được vấn đề. Nhưng bạn sẽ quyết định xem nên để tắt hẳn sân khấu lúc nào và như thế nào? Và câu hỏi lớn nhất tất nhiên sẽ là ai sẽ đóng vai trò là người đưa ra quyết định ở đây? Để trả lời được những câu hỏi này, hãy cùng tách khỏi câu chuyện chính một lúc và tìm hiểu một số phát hiện chuyên sâu hơn về bộ não.

Những điều ngạc nhiên về bộ não

• Thật dễ dàng một cách đáng kinh ngạc nếu bạn để bị mắc kẹt trong các giải pháp cho một vấn đề nào đó, đây được gọi là hiện tượng bế tắc.

• Giải quyết một bế tắc đòi hỏi cần để bộ não nghỉ ngơi, làm giảm sự kích hoạt của những câu trả lời sai.

• Để có được sự sáng suốt cần phải lắng nghe các tín hiệu nhỏ và cho phép hình thành các kết nối lỏng lẻo.

• Sự sáng suốt xuất hiện càng thường xuyên thì bạn càng cảm thấy thư giãn và thoải mái.

• Bán cầu não phải, nơi có chứa các kết nối giữa những thông tin hơn là các dữ liệu cụ thể, có đóng góp rất nhiều vào sự sáng suốt.

Một số thứ bạn có thể làm khi gặp phải bế tắc:

• Loại bỏ áp lực, xin gia hạn thời gian, làm gì đó vui vẻ, giảm sự lo lắng bằng bất cứ cách nào.

• Nghỉ một chút, làm việc gì đó nhẹ nhàng và thú vị để xem câu trả lời có hiện ra không.

• Cố gắng làm dịu tâm trí bạn và xem sẽ có thêm các kết nối nhỏ xuất hiện không.

• Tập trung vào các kết nối giữa những thông tin thay vì đi sâu vào vấn đề; nhìn vào các kiểu mẫu và các liên kết một cách xa rộng thay vì đi quá sâu vào chi tiết.

• Đơn giản hóa vấn đề đưa chúng về những đặc trưng nổi bật nhất; cho phép bản thân mình phản ứng ở mức độ cao, quan sát các kích thích từ những kết nối tinh vi trước khi có sự sáng suốt và dừng lại tập trung vào sự sáng suốt khi chúng xuất hiện.

NGHỈ GIẢI LAO:

GẶP GỠ ĐẠO DIỄN

Đã đến giờ nghỉ ngơi giữa buổi diễn. Hãy cùng bỏ câu chuyện của Paul và Emily qua một bên và xem xét một số sự sáng suốt xuất hiện trong bộ não. Tôi vẫn có quan điểm rằng việc hiểu biết về bộ não sẽ giúp bạn tăng hiệu quả trong công việc. Điều này xảy ra bởi vì khi có kiến thức về não bộ, bạn sẽ đưa ra những quyết định khác nhau tùy từng hoàn cảnh.

Tuy nhiên, chỉ có thêm kiến thức về bộ não thôi thì chưa đủ. Chú ý tới những câu in nghiêng trong cảnh cuối cùng với Emily: “Cô thấy rằng mình bị mắc kẹt ở chủ đề “bền vững”. Cô lắng tâm trí mình lại và cố nghe các luồng suy nghĩ khác để bám theo. Cô nghe thấy một suy nghĩ nhỏ về “tương lai” và đi theo hướng này”. Emily tập trung chú ý tới những tiến trình thần kinh khi chúng xuất hiện. Cô là một người quan sát bộ não đang làm việc. Nếu không có hành động quan sát này, các hiểu biết về bộ não có thể không thay đổi nhiều lắm. Năng suất thần kinh đỉnh cao đòi hỏi phải có một tập hợp hai thứ – hiểu bộ não của bạn và có khả năng quan sát các tiến trình não xuất hiện.

Trong ẩn dụ về sân khấu, các diễn viên đại diện cho thông tin có ý thức. Khán giả là đại diện cho thông tin trong não ở cấp độ vô thức, ví dụ như trí nhớ và thói quen. Có một nhân vật mà tôi gọi là đạo diễn của bạn. Đạo diễn này là ẩn dụ cho phần nhận thức nằm ngoài kinh nghiệm. Vị đạo diễn này có thể ngồi xem buổi biểu diễn mà chính đó là cuộc đời bạn, rồi đưa ra quyết định về cách thức phản ứng của bộ não và đôi lúc còn thay đổi cả kịch bản nữa.

Vị đạo diễn này được đặt rất nhiều tên và từng là mối quan tâm hàng đầu của các nhà khoa học, các nhà triết học, nghệ sĩ và những điều thần bí trong nhiều thế kỷ. Vào buổi bình minh của triết học phương Tây, Socrates đã từng nói rằng: “Cuộc sống vô minh thì không đáng để sống”. Ngày nay con người biết đến trải nghiệm quan sát bản thân chính là sự tự nhận thức hay sự lưu tâm. Đôi lúc nó còn được gọi là siêu nhận thức với hàm nghĩa “nghĩ về việc suy nghĩ”. Nó còn được gọi là siêu chú tâm, nghĩa là “chú tâm tới sự chú tâm”. Bất kể được gọi với tên gì, hiện tượng này là chủ đề trung tâm cho văn học, xuất hiện như một ý tưởng cốt lõi trong triết học, tâm lý học, luân thường đạo lý, lãnh đạo, quản lý, giáo dục, đào tạo, nuôi nấng con cái, chế độ ăn uống, thể thao và phát triển bản thân. Thật khó để đọc mọi thứ về trải nghiệm của loài người khi không có ai đó nói rằng “hiểu biết bản thân mình” là bước đầu tiên trong việc tạo ra các thay đổi.

Với sự thịnh hành của suy nghĩ này, có một trong hai việc xảy ra ở đây. Có lẽ các tác giả là những kẻ đạo văn đáng sợ. Hoặc cũng có thể có việc gì đó quan trọng, mang tính toàn cầu và bởi vậy mới có khả năng bước ra và quan sát các trải nghiệm theo thời gian của bạn. Các nghiên cứu đều hướng về điều thứ hai.

Các nhà khoa học về nhận thức lần đầu phát hiện ra vào những năm 1970 rằng bộ nhớ đang hoạt động, chính là sân khấu, có khía cạnh mà họ gọi với tên là chức năng điều hành. Chức năng này nằm ngay “phía trên” các chức năng nhớ khác, theo dõi sự tư duy của bạn và chọn ra cách tốt nhất để phân bố các nguồn tài nguyên. Nghiên cứu về hiện tượng này được mở rộng thêm nhờ sự phát triển của các công nghệ mới vào những năm 1990 và đặc biệt vào năm 2007 với sự ra đời của lĩnh vực được gọi là nhận thức xã hội và khoa học thần kinh ảnh hưởng, đôi khi còn được gọi với tên khoa học thần kinh về nhận thức xã hội.

Khoa học thần kinh về nhận thức xã hội là một sự kết hợp giữa khoa học thần kinh nhận thức, nghiên cứu về hoạt động não bộ và tâm lý học xã hội, ngành khoa học nghiên cứu cách con người sống với nhau. Trước khi có khoa học thần kinh về nhận thức xã hội, các nhà khoa học thần kinh có xu hướng tập trung vào việc nghiên cứu bộ não hoạt động như thế nào. Các nhà khoa học thần kinh về nhận thức xã hội nghiên cứu cách bộ não tương tác với các bộ não khác, để khám phá ra các vấn đề như sự cạnh tranh, sự hợp tác, sự thông cảm, sự công tâm – điều nhức nhối trong xã hội và sự tự nhận thức bản thân. Vấn đề cuối cùng trong danh sách trên là trọng tâm được nhắc đến ở đây. Rất nhiều vùng mà bộ não bạn sử dụng để hiểu những người xung quanh cũng giống hệt như các vùng được sử dụng để hiểu chính mình vậy. Các nhà khoa học thần kinh về nhận thức xã hội có hứng thú trong việc khám phá những chủ đề mang tính thách đố một cách triết lý rất muốn hiểu thêm về vị đạo diễn khó đoán này.

Kevin Ochsner là giám đốc phòng thí nghiệm Khoa học thần kinh về nhận thức xã hội tại Đại học Columbia ở thành phố New York và là một trong hai cha đẻ của ngành khoa học này. Theo ông nhìn nhận: “Sự tự chú tâm là năng lực để bước ra khỏi cơ thể và nhìn vào chính mình bằng con mắt khách quan nhất có thể. Trong nhiều trường hợp nó có nghĩa là có sự nhìn nhận của một người thứ ba lên chính bạn: nhìn bản thân bạn với con mắt của người khác. Trong sự tương tác này nó giống như tôi trở thành chiếc camera, hướng về chính mình và quan sát xem câu trả lời của tôi là gì. Khi trở nên tự ý thức bản thân, tức là có sự nhìn nhận lên chính mình, thì cũng giống như tương tác với người khác vậy. Đây là vấn đề cơ bản mà khoa học thần kinh xã hội đang cố tìm hiểu.

Nhìn vị đạo diễn qua kính hiển vi

Thuật ngữ mà nhiều nhà khoa học thần kinh gán cho khái niệm về đạo diễn là sự chú tâm. Vốn xuất thân là một khái niệm trong Phật giáo, ngày nay, sự chú tâm được sử dụng bởi các nhà khoa học để định nghĩa trải nghiệm khi chú ý thật kỹ tới hiện tại theo một cách mở và chấp nhận được. Đây là ý tưởng về việc sống “trong hiện tại”, chú ý tới những trải nghiệm khi chúng xuất hiện trong thời gian thực, và chấp nhận những thứ bạn thấy được. Daniel Siegel, một trong những nhà nghiên cứu và tác giả hàng đầu trong lĩnh vực này, cũng là đồng giám đốc của Trung tâm Nghiên cứu sự nhận thức chú tâm ở UCLA, đã mô tả sự chú tâm đơn giản là đối lập của sự không chú tâm. “Đó là khả năng tạm dừng trước khi phản ứng của chúng ta”, Siegel giải thích. “Nó cho ta khoảng không gian trong trí não để có thể xem xét các lựa chọn khác nhau và sau đó chọn ra một lựa chọn thích hợp nhất”.

Đối với các nhà khoa học thần kinh, sự chú tâm liên quan rất ít tới tinh thần, tôn giáo hay bất kỳ dạng thiền cụ thể nào. Đây là một đặc điểm mà mọi người đều có ở mức độ nào đó và có thể phát triển được bằng nhiều cách (đây cũng là trạng thái mà bạn có thể kích hoạt và nó có xu hướng trở thành một đặc điểm nếu càng vận hành nó). Sự chú tâm cũng quan trọng đối với hiệu quả trong công việc. Khi bạn có linh tính cần phải dừng việc trả lời email để nghĩ về cách lên kế hoạch tốt hơn cho ngày hôm nay thì lúc đó bạn đang trở nên lưu tâm. Khi bạn để ý thấy mình cần tập trung để không bị lạc đường khi lái xe tới buổi họp thì đó cũng là sự lưu tâm. Trong cả hai trường hợp này bạn đều chú ý tới những tín hiệu bên trong mình. Khả năng để ý tới những loại tín hiệu này là nền tảng trung tâm để có thể làm việc hiệu quả. Có kiến thức về não bộ là một chuyện, bạn còn phải chú ý tới việc bộ não mình đang làm gì mọi thời điểm để những kiến thức đều trở nên hữu dụng.

Hàng trăm nhà khoa học khắp thế giới hiện đang nghiên cứu sự chú tâm và một trong những người đóng góp công sức chủ yếu là Kirk Brown thuộc Đại học Virginia Commonwealth ở Richmond, Virginia. Là một nghiên cứu sinh, Brown để ý rằng một số người nhận thức về các tín hiệu bên trong cơ thể tốt hơn những người khác khi hồi phục lại sau điều trị y khoa. Một người chú ý tới những trải nghiệm bên trong dường như hồi phục sau một cuộc đại phẫu nhanh hơn so với những người không chú ý. Sự chú tâm về các tín hiệu đến từ bên trong bạn có một thuật ngữ là nhận thức nội tại (interoception). Nó giống như nhận thức về thế giới bên trong bạn vậy. Brown không thể tìm ra một phép đo có sẵn cho khả năng để ý điều gì đang diễn ra ở thế giới bên trong bạn, thế nên anh phát triển nên một phép đo như thế và gọi nó là Mindful Awareness At- tention Scale (MAAS). MAAS là tiêu chuẩn vàng cho việc đo lường sự chú tâm hằng ngày của một người nào đó.

Brown khám phá ra rằng mỗi người có một năng lực cho loại chú tâm này, tuy nhiên các cấp độ của sự chú tâm lại biến thiên. Khi thử nghiệm trên nhiều người trong nhiều năm, anh thấy kết quả MAAS của nhiều người tương đương với sức khỏe tinh thần và thể chất của họ, kể cả với chất lượng các mối quan hệ của họ nữa. “Ban đầu chúng tôi nghĩ có gì đó sai trong dữ liệu của mình”, Brown cho hay. “Nó không thể nào liên quan tới những thứ này được. Kể cả công việc chúng tôi làm từ lúc đó cũng chứng minh cho phát hiện này nữa”. Các nghiên cứu bởi Jon Kabat-Zinn, giám đốc sáng lập của Khoa Giảm Căng Thẳng và Trung tâm chú tâm trong Y khoa, Chăm sóc sức khỏe và xã hội ở trường Y Khoa thuộc Đại học Massachusetts, đã chỉ ra rằng những người mắc bệnh về da liễu khỏi bệnh nhanh hơn nếu họ thực hành sự chú tâm và các nghiên cứu của Mark Williams ở Đại học Oxford cho thấy sự tái phát của trầm cảm có thể giảm đi 75% bằng cách huấn luyện sự chú tâm. Sự chú tâm rõ ràng có ích trong việc có được và giữ cho cơ thể khỏe mạnh, nhưng liệu đó có phải là do nó làm bạn cảm thấy ít căng thẳng hơn, hay có thứ gì đó khác mạnh hơn đang xảy ra lấn át nó? Đó là câu hỏi mà Tiến sĩ Yi-Yuan Tang, một trong những nhà khoa học thần kinh hàng đầu ở Trung Quốc muốn trả lời. Năm 2007 ông thực hiện một nghiên cứu để xem sự chú tâm có phải là một dạng luyện tập thư giãn không hay là thứ gì đó khác. Bốn mươi tình nguyện viên tham gia huấn luyện sự chú tâm trong năm ngày, hai mươi phút mỗi ngày bằng cách sử dụng kỹ thuật mà Tang gọi là tập luyện tích hợp cơ thể – ý thức. Một nhóm khác tập luyện thư giãn trong cùng một khoảng thời gian tương tự. “Có những sự khác biệt rất lớn giữa hai nhóm sau năm ngày tập luyện”, Tang cho hay. Nhóm chú tâm có chức năng miễn dịch hoạt động tốt hơn trung bình 50% so với nhóm kia, dựa trên phân tích các mẫu nước bọt. Lượng Cortisol của nhóm này cũng thấp hơn. Sự chú tâm rõ ràng là có tác dụng hơn thư giãn. Nếu thế thì nó là gì và tại sao nó lại có tác động lớn lên nhiều lĩnh vực của đời sống như thế?

Khoa học thần kinh của sự chú tâm

Một nghiên cứu năm 2007 với tên “Thiền chú tâm bộc lộ các dạng thần kinh chuyên biệt của sự tự tham chiếu” bởi Norman Farb ở Đại học Toronto, cùng với sáu nhà khoa học khác, đã làm nền tảng cho những hiểu biết của chúng ta về sự chú tâm từ góc nhìn của khoa học thần kinh. Để giúp bạn nắm bắt được sự quan trọng của nghiên cứu này, tôi sẽ nói tóm tắt về nó trước. Bạn sinh ra với khả năng tạo ra các đại diện bên trong não cho những thứ ở thế giới bên ngoài, mà được gọi là “các bản đồ” (những bản đồ này còn có tên là các mạng lưới hay các mạch não). Các bản đồ phát triển dựa trên những gì bạn chú ý tới theo thời gian, giống như bản đồ về thẻ tín dụng của Paul. Một luật sư sẽ có các bản đồ cho hàng ngàn các vấn đề pháp lý, một người thổ dân ở bộ tộc Kalahari có thể có bản đồ cho việc tìm nước, và một người mẹ trẻ trong lần sinh con thứ ba sẽ có bản đồ cho việc làm sao để cho tụi trẻ đi ngủ. Chúng ta cũng được sinh ra với một năng lực mạnh mẽ để các bản đồ được hiển hiện một cách tự động – giống như bản đồ cho khứu giác của chúng ta vậy.

Farb và sáu nhà khoa học đã tìm ra một cách để nghiên cứu cách con người trải nghiệm cuộc sống của họ qua từng khoảnh khắc. Họ khám phá ra rằng con người có hai cách khác nhau để tương tác với thế giới, sử dụng hai tập hợp các bản đồ khác nhau. Một tập hợp các bản đồ liên quan tới vùng não bộ được đề cập tới trong phần trước của cảnh này về sự phân tâm và sự thấu hiểu. Đó là “mạng lưới mặc định” bao gồm vỏ não giữa trước trán, cùng với những vùng trí nhớ như hồi hải mã. Mạng lưới này được gọi là mặc định bởi vì nó được kích hoạt khi không có nhiều các vùng khác đang hoạt động và bạn nghĩ về bản thân bạn. Nếu bạn đang ngồi trên mép của cầu cảng vào mùa hè, một luồng gió mát thổi qua tóc bạn và một cốc bia mát lạnh trên tay bạn, thay vì coi đây là một ngày đẹp trời bạn có thể thấy bản thân mình đang nghĩ về việc nấu gì cho bữa tối và liệu bạn sẽ làm hỏng bữa ăn khiến cho đối tác của bạn thích thú. Đây là mạng lưới mặc định đang hoạt động. Đó là mạng lưới liên quan tới lập kế hoạch, mơ ngủ ban ngày và trầm ngâm suy tư.

Mạng lưới mặc định này cũng trở nên kích hoạt khi bạn nghĩ về bản thân bạn hoặc những người khác; nó đi liền với một câu chuyện “tường thuật”. Một câu chuyện tường thuật là một câu chuyện với các nhân vật tương tác với nhau qua thời gian. Bộ não lưu giữ lượng thông tin khổng lồ về lịch sử của chính bạn và của những người khác. Khi mạng lưới mặc định được kích hoạt, bạn đang nghĩ về quá khứ và tương lai của bạn hay những người bạn biết thì đó cách tấm thảm thông tin khổng lồ này được dệt lại với nhau. Trong nghiên cứu của Farb, họ thích gọi mạng lưới mặc định là mạch não tường thuật (tôi thích dùng thuật ngữ mạch não tường thuật cho ngôn ngữ sử dụng hàng ngày, vì nó dễ nhớ hơn và một chút thanh nhã hơn là dùng chữ mặc định khi nói về sự chú tâm).

Khi bạn trải nghiệm một thế giới sử dụng mạng lưới tường thuật này, bạn lấy thông tin từ thế giới bên ngoài, xử lý nó thông qua một bộ lọc về việc mọi thứ có ý nghĩa gì và bổ sung thêm sự diễn giải của bạn. Ngồi trên một bến tàu với mạch não tường thuật của bạn đang kích hoạt, một cơn gió nhẹ không chỉ đơn thuần là một cơn gió nhẹ, đó là tín hiệu rằng mùa hè sẽ sớm kết thúc, điều này khiến bạn bắt đầu nghĩ về việc sẽ đi trượt tuyết ở đâu hay bộ quần áo trượt tuyết của bạn có cần phải đi giặt ủi không.

Mạng lưới mặc định kích hoạt đối với hầu hết những khoảnh khắc thức tỉnh của bạn và không đòi hỏi nhiều nỗ lực để vận hành. Chẳng có gì sai với mạng lưới này; vấn đề ở đây là bạn không muốn giới hạn bản thân vào việc trải nghiệm thế giới chỉ thông qua những mạch não này.

Nghiên cứu của Farb chỉ ra rằng có một cách hoàn toàn khác để vượt qua các trải nghiệm. Những nhà khoa học gọi loại hình này là trải nghiệm trực tiếp. Khi mạng lưới trải nghiệm trực tiếp đang được kích hoạt, một vài vùng bộ não khác nhau hoạt động tích cực hơn. Gồm vùng thùy nhỏ não trước, một vùng liên quan tới việc tiếp nhận những cảm giác của cơ thể. Một vùng trung tâm để phát hiện sai sót và chuyển dịch sự tập trung trong vỏ não của bạn cũng được kích hoạt. Khi mạng lưới trải nghiệm trực tiếp này được đưa vào hoạt động, bạn không suy nghĩ một cách có chủ đích về quá khứ hoặc tương lai, về những người khác hoặc bản thân bạn, hay cân nhắc quá nhiều. Thay vào đó bạn đang trải nghiệm thông tin đến với những giác quan của bạn ngay lúc đó. Ngồi trên cầu tàu, sự tập trung của bạn hướng vào sự ấm áp của ánh nắng mặt trời trên da, làn gió nhẹ thổi qua tóc, và cốc bia mát lạnh trên tay bạn.

Một loạt những nghiên cứu khác đã phát hiện ra rằng hai mạch não này, mạch não tường thuật và mạch não trải nghiệm trực tiếp có mối tương quan nghịch đảo với nhau. Nói cách khác, nếu bạn nghĩ về một buổi họp sắp tới trong khi đang rửa bát, bạn có xu hướng bỏ qua một chiếc cốc bị vỡ và cắt phải tay bạn, bởi vì tấm bản đồ bộ não liên quan tới nhận thức trực quan ít hoạt động hơn khi tấm bản đồ tường thuật đã được kích hoạt. Bạn không nhìn thấy nhiều (hoặc nghe thấy, cảm thấy bất cứ thứ gì quá nhiều) khi bạn đang mải mê suy nghĩ. Đáng buồn là, ngay cả một cốc bia cũng không còn ngon trong trạng thái trí não này.

May mắn là, kịch bản này phát huy tác dụng hai chiều. Khi bạn tập trung sự chú ý của bạn vào dữ liệu đưa vào, ví dụ như cảm giác của nước trên tay bạn trong khi bạn rửa bát, nó giảm kích hoạt của chuy tuyến tường thuật.

Điều này lý giải tại sao nếu mạch não tường thuật của bạn đang bừng bừng lên về một sự kiện căng thẳng sắp tới, nó giúp bạn thở sâu và tập trung vào khoảnh khắc hiện tại. Tất cả những giác quan của bạn “sống dậy” trong khoảnh khắc đó.

Đây là một bài tập nhanh thử nghiệm ngay hiện tại để khiến nghiên cứu trở nên dễ hiểu hơn. Tìm một vài dữ liệu đang đưa vào để bạn tập trung sự chú ý chỉ trong mười giây. Nếu bạn đang ngồi đọc cuốn sách này, tập trung vào cảm giác ngồi trên ghế, tập trung sự chú ý cao độ vào chất liệu, tính co giãn và những khía cạnh khác về chiếc ghế của bạn. Hoặc tập trung vào những âm thanh xung quanh bạn, quan sát những âm thanh khác nhau mà bạn có thể nghe thấy. Bạn hãy làm việc đó trong vòng 10 giây ngay lúc này.

Nếu bạn làm bài tập này, có lẽ bạn nhận ra một vài điều cùng với những dữ liệu đưa vào để bạn tập trung chú ý vào. Đầu tiên, có lẽ bạn nhận ra việc tập trung vào một thứ gì đó trong mười giây khó như thế nào, tuy việc này bản thân nó lại cũng rất thú vị. Trong khoảng mười giây, có lẽ bạn bị lạc dấu dữ liệu mà bạn đang cố gắng tập trung và bắt đầu suy nghĩ thay vào đó (điều này là phản ứng phổ biến nhất trong bài tập này). Trong khoảnh khắc đó, khi sự chú ý của bạn chuyển từ cảm giác của cái ghế và sang bữa trưa của bạn, bộ não của bạn chuyển từ mạng lưới trải nghiệm trực tiếp sang mạng lưới tường thuật của bạn. Nếu sau đó bạn nhớ ra bài tập và hướng sự tập trung của bạn trở lại vào dòng dữ liệu đã chọn, bạn lại kích hoạt mạch não trải nghiệm trực tiếp.

Thí nghiệm nhanh này cho bạn một cảm giác cá nhân về việc chuyển giữa hai mạch não, có khả năng nhận thức sự khác biệt. Nếu bạn làm một bài tập tương tự lặp đi lặp lại, bạn sẽ dễ nhận ra việc chuyển trạng thái này khi nó xảy ra hơn. Việc này xảy ra với những người luyện tập loại thiền chú tâm. Họ giỏi hơn trong việc nhận ra sự khác biệt giữa trải nghiệm thứ gì đó một cách trực tiếp và sự diễn giải được bộ não thêm vào. Và luyện những dạng bài tập này dần dần làm dày thêm mạch não liên quan tới việc quan sát những trạng thái bên trong. Tập trung sự chú ý vào vị đạo diễn khiến anh ta mạnh mẽ hơn và đem đến cho anh ta nhiều sức mạnh hơn.

Một điều khác mà bạn có thể đã nhận ra trong bài tập mười giây là những giác quan khác trở nên sắc nét hơn. Khi bạn ngồi trên cầu cảng và dừng lại để tập trung vào sức ấm của ánh mặt trời trên da, bạn cũng sớm nhận ra làn gió nhẹ. Kích hoạt mạng lưới trải nghiệm trực tiếp làm tăng sự phong phú của dữ liệu đưa vào, điều này giúp bạn tiếp nhận được nhiều thông tin hơn xung quanh bạn. Nhận ra nhiều thông tin hơn giúp bạn thấy nhiều lựa chọn hơn, việc này giúp bạn đưa ra những lựa chọn tốt hơn, giúp bạn đạt hiệu quả hơn trong công việc.

Hãy tóm tắt lại. Bạn có thể cảm thấy thế giới xung quanh thông qua mạch não tường thuật, việc này sẽ hữu ích cho việc lập kế hoạch, đặt mục tiêu và lập chiến lược. Bạn cũng có thể trải nghiệm thế giới một cách trực tiếp hơn, điều này cho phép nhiều dữ liệu cảm giác được tiếp nhận hơn. Cảm nhận thế giới thông qua mạng lưới trải nghiệm trực tiếp cho phép bạn tiến gần hơn với thực tế của bất cứ sự kiện nào. Bạn tiếp nhận nhiều thông tin về những sự kiện diễn ra xung quanh bạn, cũng như hiểu chính xác hơn thông tin về những sự kiện này. Nhận ra nhiều thông tin trong thời gian thực khiến bạn linh hoạt hơn trong cách bạn phản ứng với thế giới. Bạn cũng trở nên ít bị giam cầm trong quá khứ, trong các thói quen của bạn hay trong những kỳ vọng hoặc những giả định của bạn và có khả năng phản ứng với sự kiện khi chúng xảy ra.

Kích hoạt vị đạo diễn của bạn giúp bạn tiếp nhận nhiều thông tin cảm giác hơn. Và đây là nơi chúng trở nên thú vị hơn. Thông tin cảm giác này bao gồm thông tin về “chính” bạn, thông tin về những suy nghĩ và cảm giác, cảm xúc và trạng thái bên trong của bạn. Khi bạn kích hoạt vị đạo diễn, bạn cũng nhận ra nhiều hơn về những gì đang xảy ra bên trong bạn. Và một trong những điều hữu ích nhất là nhận ra điều gì đang xảy ra bên trong chính bộ não của bạn khi bạn cố gắng hoàn thành công việc: sân khấu của bạn đang bị quá mệt mỏi để thực hiện chức năng, sân khấu của bạn bị đầy quá mức, sân khấu của bạn cần phải thức tỉnh, hoặc sân khấu của bạn cần phải dừng lại để cho phép một sự thấu hiểu đi qua. Những dạng quan sát này trở nên dễ dàng để tiếp nhận hơn khi bạn kích hoạt vị đạo diễn của bạn theo ý mình.

ĐIỂM MẤU CHỐT CỦA VIỆC LUYỆN TẬP

Trong thí nghiệm của Farb, người thường luyện tập nhận ra những đường dẫn tường thuật và trực tiếp, ví dụ như những người thường xuyên thiền có nhận thức sự khác biệt giữa hai con đường rõ ràng hơn. Họ biết con đường nào họ đang đi vào bất cứ lúc nào họ cũng có thể thay đổi giữa hai con đường đó một cách dễ dàng. Trong khi những người không luyện tập chú ý những con đường này có vẻ có xu hướng tự động chọn con đường tường thuật.

Một nghiên cứu của Kirk Brown phát hiện ra rằng những người đạt được trình độ chú tâm cao nhận thức tốt hơn về những quá trình vô thức của họ. Thêm vào đó, những người này kiểm soát nhận thức và có khả năng tốt hơn để định hình điều họ làm hay điều họ nói so với những người có mức chú tâm thấp hơn. Nếu bạn đang ngồi trên cầu cảng trong khi làn gió nhẹ đang thổi và bạn là một ai đó với một vị đạo diễn mạnh mẽ, bạn có vẻ nhận ra là mình đang bỏ lỡ một ngày đẹp trời để lo lắng về bữa tối nay và thay vào đó bạn tập trung sự chú ý vào nắng ấm mặt trời. Khi bạn thay đổi sự chú ý của mình, bạn thay đổi cách vận hành của bộ não và điều này có thể có tác động dài hạn vào cách bộ não của bạn hoạt động (khía cạnh kỹ thuật về cách bộ não hoạt động là một thứ gì đó chúng ta sẽ cùng nhau nghiên cứu trong phần sau).

Daniel Siegel lý giải rằng: “Với việc giành được sự tập trung ổn định và chất lượng vào chính tâm trí, những con đường trước đây khó phân biệt trở nên có thể theo dõi được và sau đó có thể tiếp cận để điều chỉnh. Chính nhờ cách này mà chúng ta có thể sử dụng sự chú ý của tâm trí để thay đổi sự vận hành và cuối cùng là thay đổi cấu trúc của bộ não”. Điều Siegel đang nói chính là nếu bạn có thể kích hoạt vị đạo diễn của riêng bạn theo ý mình, bạn tiếp nhận nhiều thông tin về trạng thái tư duy của bạn hơn bất kể lúc nào. Sau đó, bạn có thể lựa chọn để thay đổi việc bạn tập trung vào. Và ngay tại đó chính là điểm mấu chốt của việc tạm dừng này – có lẽ là của cả cuốn sách này: Bằng cách hiểu bộ não của mình, bạn sẽ gia tăng khả năng thay đổi bộ não. Bạn càng nhận thức được trải nghiệm của mình, dù đó là khả năng nhỏ trên sân khấu, mức dopamine với nhiều sự mới mẻ, hoặc cách bạn cần một khoảnh khắc để có được sự thấu hiểu, bạn càng có nhiều cơ hội để trở nên chú tâm, dừng lại và quan sát. Thay vì trở nên nhận thức về bản thân nhiều hơn thông qua việc thiền trên núi, bạn có thể làm như vậy khi đang làm việc.

Đó là tin tốt.

Giờ là tin xấu. Kích hoạt vị đạo diễn của bạn, như bạn sẽ học trong màn tiếp theo, rất khó để thực hiện khi có quá nhiều việc diễn ra hoặc khi bạn cảm thấy căng thẳng. Một vài người sống nhiều năm trời mà không kích hoạt mạch não này, bị mắc kẹt như họ đang làm công việc kinh doanh cuộc đời. Kích hoạt vị đạo diễn của mình tại nơi làm việc là chuyện không hề dễ dàng.

John Teasdale, vừa mới về hưu, đã từng là một trong những nhà nghiên cứu sự chú tâm hàng đầu. Teasdale giải thích: “Sự chú tâm là một thói quen, đó là một thứ mà nếu ai đó làm càng nhiều thì càng dễ dàng trong trạng thái đó mà chỉ phải bỏ ra ngày càng ít nỗ lực hơn… Đó là một kỹ năng có thể học được. Nó đang tiếp cận một thứ mà chúng ta có sẵn. Sự chú tâm không khó: phần khó là nhớ để chú tâm”. Bạn cần giữ cho vị đạo diễn của bạn ngay ở trước mặt khán giả, để anh ấy có thể nhảy lên sân khấu nhanh khi cần thiết.

Làm thế nào để bạn nhớ làm việc đó một cách dễ dàng? Nó nên được ưu tiên trong bộ não của bạn, như là ý nghĩ đầu tiên bởi vì nó là một trải nghiệm mới. Một trong những cách tốt nhất để có vị đạo diễn của bạn ngay khi bạn cần là luyện tập sử dụng vị đạo diễn đó một cách thường xuyên. Nhiều nghiên cứu giờ đây chỉ ra rằng những người luyện tập kích thích vị đạo diễn của họ thực sự thay đổi cấu trúc bộ não của họ. Họ làm dày thêm những vùng cụ thể trong vỏ não liên quan tới kiểm soát nhận thức và chuyển đổi sự chú ý. Việc bạn dùng giác quan nào để luyện tập không phải là vấn đề lớn. Cốt lõi là luyện tập để tập trung sự chú ý vào một giác quan trực tiếp và làm như vậy thường xuyên. Nó giúp bạn sử dụng một dòng dữ liệu phong phú. Bạn có thể giữ sự tập trung vào cảm giác của bàn chân trên sàn dễ dàng hơn cảm xúc của một ngón chân nhỏ trên sàn: có nhiều dự liệu hơn để tiếp xúc. Bạn có thể luyện tập kích hoạt vị đạo diễn của bạn khi bạn đang ăn, đang đi, đang nói, làm bất cứ việc gì, với ngoại lệ là việc uống bia dưới nắng mặt trời, việc này chỉ có tác dụng trong một khoảng thời gian rất hạn chế trước khi vị đạo diễn của bạn rời tới một bữa tiệc (khoa học thần kinh của những việc đó sẽ phải chờ một quyển sách khác).

Xây dựng vị đạo diễn của bạn không có nghĩa là bạn phải ngồi nguyên và theo dõi hơi thở của bạn. Bạn có thể tìm một cách phù hợp với phong cách sống của bạn. Vợ tôi và tôi đã xây dựng một nghi lễ mười giây trước bữa ăn tối cùng với lũ trẻ mà liên quan tới việc dừng lại và nhận ra hơi thở nhỏ cùng nhau trước khi ăn. Phần thưởng đem đến là nó góp phần tạo ra một bữa ăn tối thậm chí ngon miệng hơn.

Có một vị đạo diễn gần sân khấu giúp bạn giữ những diễn viên của mình theo đúng trình tự. Vì vị đạo diễn của bạn nhận ra sự phức tạp của bộ não trong thời gian thực, bạn trở nên giỏi hơn trong việc đặt tên cho những trải nghiệm, việc này khiến bạn nhận ra những kiểu mẫu tinh tế hơn một cách nhanh chóng khi chúng xảy ra. Kỹ năng này làm tăng khả năng của bạn để tạo ra những thay đổi tinh tế. Khi trí não của bạn tạo ra những thay đổi về chức năng bộ não trong thời gian thực, bạn trở nên dễ thích nghi hơn, phản ứng theo cách thức phù hợp đối với mọi thách thức diễn ra.

Ánh sáng đang chập chờn; sự tạm ngừng kết thúc. Hãy quay trở lại và theo dõi hành động trên sân khấu khi Emily và Paul đối diện với một vài thách thức mới. Hãy tìm hiểu xem một vị đạo diễn tốt có thể cải thiện một cảnh khó khăn như thế nào.


 

Giang Vi

Tôi là một người yêu sách cuồng nhiệt và đã hơn 20 năm. Tôi dành cả ngày để đọc, viết blog về sách và viết bình luận. Tôi tin rằng sách là công cụ mạnh mẽ nhất trong cuộc sống để mở mang đầu óc cho những ý tưởng và quan điểm mới. Các thể loại yêu thích của tôi bao gồm tiểu thuyết lịch sử, giả tưởng, khoa học viễn tưởng và phi hư cấu. Tôi cũng thích tìm hiểu về các nền văn hóa khác nhau thông qua văn học.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts:

Back to top button