Kỹ năng mềm

Động Lực 3.0

dong luc 3.01. THÔNG TIN SÁCH/EBOOK

Tác giả : Daniel H. Pink

Download sách Động Lực 3.0 ebook PDF/PRC/MOBI/EPUB. Tải miễn phí, đọc online trên điện thoại, máy tính, máy tính bảng.

Danh mục :  Sách kỹ năng

Đọc thử Xem giá bán

2. DOWNLOAD

Download ebook                      

File ebook hiện chưa có hoặc gặp vấn đề bản quyền, Downloadsach sẽ cập nhật link tải ngay khi tìm kiếm được trên Internet.

Bạn có thể Đọc thử hoặc Xem giá bán.

Bạn không tải được sách ?  Xem hướng dẫn nhé : Hướng dẫn tải sách


3. GIỚI THIỆU / REVIEW SÁCH

Động Lực 3.0 – Sự Thật Kinh Ngạc Về Những Động Cơ Thúc Đẩy Chúng Ta Hành Động

Daniel H.Pink đã trình bày những sự thật gây choáng váng trong cuốn sách mới của mình. Bí quyết để trở nên thành công và được mọi người yêu mến trong thế giới ngày nay là động lực phấn đấu của chúng ta, nhu cầu muốn học hỏi và sáng tạo ra những thứ mới, và nỗ lực chứng tỏ bản thân mình cũng như vì một thế giới tốt đẹp hơn.

Dựa trên những nghiên cứu về động lực thúc đẩy con người được thực hiện trong bốn thập kỷ qua, Pink đã vạch trần những sai lầm giữa lý thuyết so với thực tế – cũng như tác động của chúng tới cuộc sống của chúng ta. Ông đã chứng minh rằng mặc dù đã làm mưa làm gió suốt thế kỷ XX, phương pháp cũ rích Củ cà rốt và cây gậy hoàn toàn là một cung cách sai lầm để thúc đẩy mọi người vượt qua những thử thách trong thời đại ngày nay. Trong “Động lực 3.0”, ông nêu ra 3 yếu tố tạo ra động lực thực sự:

Tự chủ – khao khát được làm chủ cuộc sống của chính mình

Thành thạo – niềm thôi thúc không ngừng hoàn thiện và bổ sung kiến thức về các vấn đề bất kỳ.

Lý tưởng – khao khát được cống hiến không vì bản thân mình

Cùng với 3 yếu tố này, tác giả còn đưa ra những phương pháp tiếp cận mới để thúc đẩy cũng như giới thiệu chúng ta với các nhà khoa học và doanh nhân đang theo đuổi những hoài bão lớn lao.

Trích dẫn :

Giữa thế kỷ trước, hai nhà khoa học trẻ đã thực hiện những thí nghiệm lẽ ra đã thay đổi cả thế giới − nhưng điều đó lại không xảy ra.

Harry F. Harlow là một giáo sư chuyên ngành tâm lý học tại Đại học Wisconsin. Vào những năm 1920, ông đã thành lập một trong những phòng thí nghiệm đầu tiên trên thế giới nhằm nghiên cứu hành vi của loài linh trưởng. Một ngày năm 1949, Harlow cùng hai đồng nghiệp đã tập hợp tám con khỉ nâu để phục vụ một thí nghiệm về học tập kéo dài hai tuần. Các nhà nghiên cứu đặt ra một trò chơi cơ học như trong hình dưới đây. Để chơi trò này, người chơi cần phải trải qua ba bước: rút cây đinh dọc ra, tháo móc và nhấc chiếc nắp có bản lề lên. Với tôi và bạn: điều này dễ như ăn kẹo, nhưng với một con khỉ nặng 6 kg ở phòng thí nghiệm: khoai đây.

Các nhà khoa học đặt những món đồ chơi nói trên vào chuồng của lũ khỉ và quan sát xem chúng phản ứng ra sao − và cũng để chuẩn bị cho chúng trước khi tham gia các bài kiểm tra năng lực giải quyết vấn đề vào cuối tuần thứ hai. Song gần như ngay lập tức, một điều lạ lùng đã xảy ra. Dù không hề bị kích động bởi bất cứ yếu tố ngoại cảnh nào cũng như chẳng phải chờ các nhà khoa học thúc bách, lũ khỉ bắt đầu chơi trò chơi với tất cả sự chuyên chú, quyết tâm và biểu hiện gì đó gần như là niềm thích thú. Và chẳng bao lâu sau, chúng đã dần phát hiện ra cách thức vận hành của cỗ máy đơn giản này. Khi Harlow “sát hạch” lũ khỉ đến ngày thứ 13 và 14, các anh em họ nhà linh trưởng đã tỏ ra khá thuần thục. Chúng xử lý trò đánh đố này cực kỳ thường xuyên và nhanh nhẹn: 2/3 trong tổng số lần chúng tìm ra lời giải chỉ sau chưa đầy sáu mươi giây.

Chà, chuyện này quả có hơi kỳ quặc thật. Chưa từng có ai dạy bọn khỉ phải rút đinh, đẩy chốt và mở nắp như thế nào. Chưa từng có ai thưởng cho chúng thức ăn, tình cảm, hay thậm chí chỉ là vài tiếng vỗ tay khích lệ khi chúng thành công. Và thực tế đó trái ngược hoàn toàn với những quan niệm vẫn được chấp nhận rộng rãi về cách thức hành xử của các loài linh trưởng − bao gồm cả nhóm động vật có bộ não lớn hơn, ít lông lá hơn mà chúng ta vẫn gọi là người.

Thời ấy, các nhà khoa học đã biết rằng có hai động lực chính thúc đẩy hành vi. Thứ nhất là động lực sinh học. Con người và các loại động vật khác ăn để khỏa lấp cơn đói, uống để chấm dứt cơn khát và giao cấu để thỏa mãn nhu cầu sinh dục của mình. Song điều đó không xảy ra ở đây. “Việc giải đố không mang lại thức ăn, nước uống, hay lạc thú tính dục”, Harlow nhận xét.

Song động lực còn lại cũng không thể giải thích được hành vi khác thường của lũ khỉ. Nếu như các động lực sinh học có nguồn gốc tự thân thì động lực thứ hai này lại xuất phát từ bên ngoài − những phần thưởng và hình phạt mà môi trường xung quanh mang tới để đổi lại việc hành xử theo những cách nhất định. Điều này hoàn toàn đúng với con người, chúng ta luôn phản ứng vô cùng tinh nhạy trước những yếu tố ngoại cảnh kiểu này. Nếu anh hứa tăng lương, chúng tôi sẽ làm việc chăm chỉ hơn. Nếu anh vẽ ra viễn cảnh được nhận điểm 10 cho bài kiểm tra, chúng tôi sẽ học chăm chỉ hơn. Nếu anh dọa sẽ phạt chúng tôi vì đi muộn hoặc vì điền không đúng mẫu đơn, chúng tôi sẽ đến đúng giờ và đánh dấu không sót một ô nào. Nhưng nó cũng chẳng phải nguyên nhân dẫn tới những hành động của lũ khỉ. Như Harlow đã viết (thiết tưởng bạn còn có thể nghe thấy cả tiếng ông vò đầu bứt tai nữa): “Hành vi thu được từ cuộc điều tra này đã đặt ra những câu hỏi lý thú đối với học thuyết động lực, vì quá trình học tập đã đạt được và sự thực thi đã được duy trì mà không phải viện tới những nhân tố kích thích ngoại cảnh.”

ĐỌC THỬ

1. Thịnh suy của Động lực 2.0

Thử tưởng tượng đó là năm 1995. Bạn ngồi cạnh một nhà kinh tế học – một giáo sư trường kinh doanh được đào tạo bài bản có bằng Tiến sĩ kinh tế. Bạn nói với cô ta rằng: “Tôi có một quả cầu pha lê có thể thấu suốt mười lăm năm trong tương lai. Tôi muốn kiểm tra năng lực dự báo của cô xem sao.”

Cô ta tỏ vẻ nghi hoặc, song vẫn quyết định chiều theo ý bạn.

“Tôi sẽ mô tả hai bộ bách khoa toàn thư mới – một bộ vừa mới ra đời, còn bộ kia sẽ xuất đầu lộ diện trong vài năm tới. Cô phải tiên đoán xem đến năm 2010 bộ nào sẽ thành công hơn.”

“Được, anh cứ nói đi”, cô ta đáp.

“Bộ thứ nhất là sản phẩm của Microsoft. Như cô đã biết, Microsoft hiện là một công ty lớn đang làm ăn rất phát đạt. Và với sự xuất hiện của Windows 95, nó sẽ trở thành gã khổng lồ của thời đại này. Microsoft sẽ đứng ra tài trợ cho bộ bách khoa toàn thư này. Tập đoàn sẽ trả tiền cho các tác giả và biên tập viên chuyên nghiệp để soạn thảo các bài viết về hàng ngàn đề tài khác nhau. Các nhà quản lý ăn lương cao chịu trách nhiệm giám sát dự án để đảm bảo công việc hoàn thành đúng tiến độ cũng như trong phạm vi ngân sách đã định. Sau đó, Microsoft sẽ bán bộ bách khoa toàn thư dưới dạng đĩa CD-ROM trước, rồi chuyển sang bán trực tuyến.”

“Bộ bách khoa toàn thư thứ hai không có nguồn gốc từ một công ty nào cả. Nó sẽ được tạo lập bởi hàng chục nghìn con người, những người coi việc viết và biên tập các bài viết là một thú vui. Những người làm việc theo sở thích đó không cần phải có bất cứ thứ bằng cấp, học vị gì đặc biệt mới được tham gia vào công việc này. Và cũng không ai được trả một đồng nào để viết hay biên tập các bài viết. Những người tham gia sẽ phải cống hiến sức lao động của mình − đôi khi lên tới hai mươi và ba mươi tiếng một tuần − hoàn toàn miễn phí. Bộ bách khoa toàn thư đó sẽ được đăng tải trực tuyến, miễn phí − bất cứ ai sử dụng nó đều không phải trả một khoản tiền nào hết.”

“Nào”, bạn nói với nhà kinh tế học, “hãy nghĩ tới mười lăm năm sau. Theo quả cầu pha lê của tôi, vào năm 2010, một trong số hai bộ bách khoa toàn thư nói trên sẽ trở thành bộ bách khoa toàn thư lớn nhất và phổ biến nhất trên thế giới, bộ còn lại sẽ chết yểu. Kẻ chiến thắng là ai và người chiến bại là ai?”

Ở thời điểm năm 1995, tôi ngờ rằng bạn không thể tìm được một nhà kinh tế học tỉnh táo nào ở xó xỉnh nào trên hành tinh Trái Đất này lại không chọn hình mẫu đầu tiên là thứ sẽ đạt đến thành công. Bất kỳ một kết luận nào khác đều sẽ bị cười nhạo, bởi nó đối nghịch với gần như tất cả mọi nguyên lý kinh doanh mà cô ta vẫn dạy cho các sinh viên của mình. Nó cũng giống như chuyện bạn hỏi một nhà động vật học rằng ai sẽ thắng trong cuộc chạy đua cự li 200 mét, một con báo cheetah hay ông anh rể của bạn. Câu trả lời chắc chắn sẽ là chuỗi cười nhạo trước câu hỏi ngớ ngẩn của bạn.

Chắc chắn là nhóm người tình nguyện tạp nham rách rưới kia cũng làm ra được thứ gì đó thôi. Song sản phẩm của họ làm sao có thể sánh được với một công trình do một công ty hùng mạnh, hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, tạo nên cơ chứ. Microsoft sẽ hưởng hết những thành công mà sản phẩm của nó mang lại; còn mỗi con người góp phần mình vào dự án kia đã biết ngay từ phút đầu tiên rằng thành công chẳng thể mang lại cho họ bất cứ điều gì. Quan trọng nhất là các tác giả, biên tập viên và nhà quản lý của Microsoft được trả công. Còn các tình nguyện viên của dự án kia thì không. Trên thực tế, có khi họ còn mất thêm tiền của mỗi lần họ dành thời gian cho những công việc miễn phí thay vì làm việc được trả lương. Câu hỏi đó rõ là ngớ ngẩn đến độ nhà kinh tế học của chúng ta còn chẳng thèm nghĩ đến chuyện đưa nó vào bài kiểm tra cho lớp MBA mình đang dạy nữa. Quá dễ!

Song bạn biết kết quả ra sao rồi đấy.

Ngày 31 tháng 10 năm 2009, Microsoft quyết định khai tử MSN Encarta, bao gồm cả bộ bách khoa toàn thư trên đĩa CD và trên mạng, vốn đã tồn tại trên thị trường suốt mười sáu năm trời. Trong khi đó, Wikipedia – hình mẫu thứ hai – lại trở thành bộ bách khoa toàn thư lớn nhất và phổ biến nhất thế giới. Chỉ tám năm kể từ ngày chào đời, Wikipedia đã đạt đến quy mô 13 triệu bài viết bằng 260 thứ tiếng, riêng tiếng Anh chiếm tới 3 triệu bài.

Chuyện gì đã xảy ra vậy nhỉ? Nếu vận dụng cách tư duy thông thường về động lực thúc đẩy con người thì kết quả này quả là một ẩn số khó nhằn.

Thắng lợi của phương pháp củ cà rốt và cây gậy

Các máy vi tính – dù là chiếc máy chủ khổng lồ trong các thí nghiệm của Deci hay chiếc iMac tôi dùng để viết nên những dòng này, hoặc chiếc điện thoại di động đang bíp bíp trong túi quần bạn – tất thảy đều có hệ điều hành. Bên dưới bề mặt cứng bạn vẫn thường chạm vào và những chương trình bạn điều khiển là một lớp phần mềm phức hợp chứa vô vàn chỉ dẫn, giao thức và giả định cho phép mọi thứ vận hành trơn tru. Đa phần mọi người chẳng mất công nghĩ ngợi nhiều đến hệ điều hành. Chúng ta chỉ để ý đến chúng khi chúng có dấu hiệu trục trặc – đó là lúc phần cứng và phần mềm mà chúng phải quản lý trở nên quá lớn và quá phức tạp, vượt ra ngoài khả năng gánh vác của hệ điều hành. Vậy là chiếc máy vi tính của chúng ta bắt đầu chạy tậm tạch. Chúng ta than thở, phàn nàn. Và rồi những chuyên gia phát triển phần mềm thông minh sáng láng, những người vẫn gắn bó với nghề vá víu sửa chữa các chương trình, bèn ngồi xuống để viết ra một bộ phần mềm mới tốt hơn hẳn – một phiên bản nâng cấp.

Xã hội cũng có hệ điều hành của nó. Những luật lệ, phong tục xã hội, kết cấu kinh tế mà chúng ta gặp gỡ tiếp xúc hàng ngày nằm ở mặt trên cùng của một lớp chỉ dẫn, giao thức và giả định về cách thức thế giới vận hành. Và phần lớn hệ điều hành xã hội của chúng ta bao gồm một bộ giả định liên quan đến hành vi của con người.

Từ thuở sơ khai – ý tôi là rất sơ khai, năm mươi nghìn năm trước chẳng hạn – giả định ngầm ẩn về hành vi của con người rất đơn giản và chính xác. Chúng ta đang gắng sức để tồn tại. Từ lang bạt khắp các đồng cỏ để thu lượm thức ăn cho đến tìm cách chui bờ nhủi bụi khi một con hổ răng kiếm lừ lừ tiến đến, thứ động lực đó dẫn hướng hầu hết các hành vi của chúng ta. Hãy gọi hệ điều hành nguyên thủy đó là Động lực 1.0.

Nó không có gì đặc biệt tinh xảo, cũng chẳng mấy khác biệt so với đặc tính của lũ khỉ nâu kia hay tinh tinh và nhiều loài động vật khác. Song nó vẫn đáp ứng tốt nhu cầu của chúng ta. Nó vận hành trôi chảy cho đến khi không còn được như thế nữa.

Khi con người càng ngày càng xây dựng những xã hội phức tạp hơn, tiếp xúc với nhiều người xa lạ và cần phải hợp tác với nhau để hoàn thành công việc, thì một hệ điều hành chỉ đơn thuần dựa trên cơ sở động lực sinh học sẽ không còn phù hợp nữa. Thực ra, đôi khi chúng ta còn rất cần những biện pháp giúp kiềm chế thứ động lực này – để ngăn tôi khỏi chén sạch bữa tối của anh và cản anh không cướp mất vợ tôi. Và trải qua một quá trình chuyển đổi văn hóa, chúng ta đã dần dần thay thế những gì mình đang có bằng một phiên bản mới, tương thích hơn với phương thức chúng ta sống và làm việc.

Cốt lõi của hệ điều hành mới nâng cấp này là một giả định đã được cải biến và cũng chính xác hơn: Con người không chỉ là một tập hợp của những ham muốn sinh học. Động lực đầu tiên đó vẫn giữ một vị trí rất quan trọng – hẳn rồi – song nó không hoàn toàn quyết định bản chất của chúng ta. Chúng ta còn có một động lực thứ hai nữa đó là tìm kiếm phần thưởng và né tránh hình phạt ở một bình diện rộng hơn. Và chính từ nền tảng kiến thức này mà một hệ điều hành mới – gọi là Động lực 2.0 – đã hình thành. (Tất nhiên, các loài động vật khác cũng phản ứng lại với phần thưởng và hình phạt, song chỉ có con người mới bộc lộ khả năng vận dụng loại động lực này để phát triển mọi thứ từ luật ký kết hợp đồng cho tới các cửa hàng tiện dụng.)

Công cuộc khai thác động lực thứ hai này đã đóng vai trò then chốt trong tiến trình kinh tế của toàn thế giới, đặc biệt là trong hai thế kỷ vừa qua. Xét riêng cuộc Cách mạng công nghiệp, những tiến bộ công nghệ − động cơ hơi nước, đường sắt, hệ thống điện rộng khắp – đã góp phần quan trọng giúp thúc đẩy sự tăng trưởng công nghiệp. Song cả những cải cách kém hữu hình hơn cũng có công lao lớn không kém – đáng chú ý nhất phải kể đến công trình của một kỹ sư người Mỹ có tên Frederick Winslow Taylor. Vào đầu những năm 1900, cho rằng các doanh nghiệp đang bị điều tiết một cách thiếu hiệu quả và được chăng hay chớ, Taylor đã sáng tạo ra thứ mà ông gọi là “quản lý khoa học.” Phát minh của ông là một loại “phần mềm” được thiết kế chuyên nghiệp để chạy trên nền Động lực 2.0. Và nó đã nhanh chóng được công nhận rộng rãi.

Cách tiếp cận này đặt ra một quan niệm rằng các công nhân cũng giống như những bộ phận của một bộ máy phức tạp. Nếu họ làm đúng việc theo đúng phương pháp vào đúng thời điểm, thì cỗ máy đó sẽ vận hành trơn tru. Để đảm bảo điều này xảy ra, bạn chỉ cần tưởng thưởng cho những hành vi bạn theo đuổi và trừng phạt những hành vi bạn không khuyến khích. Mọi người sẽ phản ứng phù hợp trước các ngoại lực đó – chính là các yếu tố kích thích bên ngoài – mỗi người nói riêng và hệ thống nói chung đều được cải thiện theo hướng tích cực. Chúng ta có xu hướng cho rằng than và dầu đã cung cấp nguồn lực cho quá trình phát triển kinh tế. Song theo một cách nào đó, động cơ của nền thương mại cũng được phương pháp củ cà rốt và cây gậy tiếp sức với hiệu quả không thua kém chút nào.

Hệ điều hành Động lực 2.0 đã hoạt động trong một thời gian rất dài. Thực chất, nó đã ăn sâu bén rễ vào đời sống của chúng ta đến nỗi đa số chúng ta không nhận ra rằng nó có tồn tại. Từ ngày xửa ngày xưa, chúng ta đã định hình các tổ chức và xây dựng cuộc sống của mình xung quanh giả định nền tảng rằng: Cách thức để cải thiện hiệu quả hoạt động, tăng năng suất và khuyến khích sự nỗ lực là tưởng thưởng cho điều tốt và trừng phạt điều xấu.

Mặc dù có kết cấu tinh vi phức tạp hơn và cũng bao hàm nhiều tham vọng lớn lao hơn song Động lực 2.0 cũng không có gì quá cao siêu. Tóm lại, nó cho rằng loài người chẳng khác mấy so với loài ngựa – rằng cách để bắt chúng đi đúng hướng là nhử bằng một củ cà rốt tươi rói ngon giòn trước mũi chúng hoặc thủ sẵn một cây gậy. Tuy hệ điều hành này còn thiếu tính khai sáng, song bù lại nó rất hiệu quả. Nó đã vận hành tốt – cực kỳ tốt nữa là đằng khác. Cho đến khi không còn được như thế nữa.

Khi thế kỷ XX dần trôi qua, các nền kinh tế phát triển ngày một phức tạp hơn, và những con người tồn tại trong lòng nó phải triển khai những kỹ năng mới, tinh vi hơn, thì cách tiếp cận kiểu Động lực 2.0 bắt đầu vấp phải ít nhiều trở ngại. Vào những năm 1950, Abraham Maslow, một cựu sinh viên của Harry Harlow tại trường Đại học Wisconsin, đã phát triển mảng tâm lý học nhân văn, ngành học này đặt ra nghi vấn đối với quan điểm cho rằng hành vi của con người chỉ đơn thuần là sự theo đuổi những tác nhân tích cực và né tránh những tác nhân tiêu cực. Năm 1960, giáo sư quản trị MIT, Douglas McGregor, đã ứng dụng một số ý tưởng của Maslow vào thế giới kinh doanh. McGregor thách thức giả định rằng loài người có tính trì trệ cố hữu − rằng nếu thiếu vắng các phần thưởng và hình phạt ngoại sinh thì chúng ta chẳng thể làm nên trò trống gì. “Con người còn có những động lực khác, cao cả hơn”, ông nói. Và những động lực này có thể làm lợi cho các doanh nghiệp nếu các nhà quản trị và lãnh đạo doanh nghiệp biết trân trọng chúng. Cũng một phần nhờ bài viết của McGregor mà các công ty đã “tiến hóa” thêm một chút. Quy định về trang phục được nới lỏng, thời gian biểu trở nên linh hoạt hơn. Rất nhiều tổ chức đã tìm kiếm những phương thức nhằm trao cho nhân viên của mình quyền tự quản lớn hơn và giúp họ phát triển. Những cải tiến nói trên đã khắc phục được một vài điểm yếu, song nó mới chỉ dừng ở mức một sự cải biến khiêm tốn chứ không phải là một bản nâng cấp toàn diện – nói cách khác là Động lực 2.1.


Giang Vi

Tôi là một người yêu sách cuồng nhiệt và đã hơn 20 năm. Tôi dành cả ngày để đọc, viết blog về sách và viết bình luận. Tôi tin rằng sách là công cụ mạnh mẽ nhất trong cuộc sống để mở mang đầu óc cho những ý tưởng và quan điểm mới. Các thể loại yêu thích của tôi bao gồm tiểu thuyết lịch sử, giả tưởng, khoa học viễn tưởng và phi hư cấu. Tôi cũng thích tìm hiểu về các nền văn hóa khác nhau thông qua văn học.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts:

Back to top button