Kinh doanh - đầu tư

Nước Nhật Mua Cả Thế Giới

nuoc nhat mua ca the gioi1. THÔNG TIN SÁCH/EBOOK

Tác giả : Pierre Antoine Donnet

Download sách Nước Nhật Mua Cả Thế Giới ebook PDF/PRC/MOBI/EPUB/MOBI. Tải miễn phí, đọc online trên điện thoại, máy tính, máy tính bảng.

Danh mục : SÁCH KINH DOANH – ĐẦU TƯ

Đọc thử Xem giá bán

2. DOWNLOAD

Trọn bộ ebook :                 

File ebook hiện chưa có hoặc gặp vấn đề bản quyền, Downloadsach sẽ cập nhật link tải ngay khi tìm kiếm được trên Internet.

Bạn có thể Đọc thử hoặc Xem giá bán.

Bạn không tải được sách ?  Xem hướng dẫn nhé : Hướng dẫn tải sách


3. GIỚI THIỆU / REVIEW SÁCH

Phải mất gần 50 năm để kẻ bại trận năm 1945 trở thành một cường quốc tài chánh số 1 thế giới và là cường quốc công nghiệp đứng hàng thứ hai của hành tinh. Người thì cho đây là một sự trả đũa, kẻ thì cho đó là một sự trả thù. Sự phát triển kinh tế vượt bậc của đất nước Mặt trời mọc đã làm đảo lộn các bản đồ địa lý-chính trị thế giới. Bằng sự hy sinh quên mình, bằng lao động cật lực cũng như bằng sự kiên trì và tài năng sáng tạo, nước Nhật đã tích lũy được những nguồn tài sản khổng lồ để giờ đây nó đang tung ra mở rộng ảnh hưởng của mình khắp thế giới: đầu tư trực tiếp, các xí nghiệp phi địa phương hóa, kiểm soát các xí nghiệp nước ngoài, kinh doanh bất động sản, mua lâu đài và các bức danh họa… Từng bước, nước Nhật đang mua cả thế giới. Tham vọng của nó sẽ còn đi đến đâu ? Sau cuộc giao tranh ác liệt với Mỹ về kinh tế, nay Nhật lại quay sang châu Âu. Các tập đoàn kinh tế hàng đầu của Nhật đang đe dọa phá vỡ từng mảng lớn của nền công nghiệp lục địa này. Liệu người khổng lồ kinh tế song còn là một anh lùn chính trị này có tham vọng thống trị thế giới hay không ? Có thể làm gì để kiềm hãm sức mạnh của nó ?

“Nước Nhật mua cả thế giới” là cuốn sách đầu tiên và đầy đủ nhất về “hiện tượng Nhật Bản” với một núi tư liệu đồ sộ, với những cuộc phỏng vấn nhiều nhân vật chóp bu trong chính phủ, giới công nghiệp, tài chánh và trí thức Nhật và nước ngoài.

Tác giả: Pierre-Antoine Donnet, cử nhân khoa học chính trị, tốt nghiệp Viện ngôn ngữ và văn minh Đông phương. Phóng viên Ban Kinh tế của Thông tấn xã Pháp AFP. Thông tín viên tại Bắc Kinh từ 1984 đến 1989, Tác giả đã dành 10 năm để lăn lộn khắp khu vực Viễn Đông.

ĐỌC THỬ

I. Một nước Nhật tủi nhục

Sự bất hạnh trả lại cho con người những phẩm hạnh mà sự sung túc lấy mất

E. Delacroix, nhật ký.

Ngày 15 tháng 8 năm 1945. Cái ngày ấy sẽ mãi mãi khắc ghi trong ký ức của mọi người dân Nhật.

Lúc ấy là khoảng hơn bốn giờ chiều. Một cái tin sét đánh được những người nghe đài đem truyền từ nhà này sang nhà khác suốt cả nước: Nhật hoàng Hirohito đã chấp nhận đầu hàng. Chính Tenno, thiên tử, thiên hoàng, dòng dõi của nữ thần mặt trời Amaterasu… đã công bố điều đó với thần dân mình. Điều không thể hình dung đã diễn ra ! Điều không thể tưởng tượng nổi đã trở thành hiện thực ! Đế quốc Mặt trời mọc, vốn ấp ủ giấc mơ thống trị toàn châu Á, nay đành cúi đầu bại trận. Giọng của “Thiên hoàng” được cả nước Nhật tôn kính vang lên đĩnh đạc và nghiêm trọng:

“Sau khi đã suy nghĩ chín chắn về những xu hướng chung của thế giới và về các điều kiện hiện nay của Đế chế chúng ta, Trẫm, với tư cách Hoàng đế, quyết định giải quyết tình hình hiện nay bằng một biện pháp không bình thường. Trẫm đã ban lệnh cho chính phủ công bố với bốn nước: Hoa Kỳ, Anh, Trung Quốc và Liên Xô rằng, Trẫm đã chấp nhận các lời lẽ trong bản tuyên bố của họ”.

Tất cả đều đã rõ. Chiến tranh đã kết thúc. Nước Nhật bất khả chiến bại đã phải cúi đầu. Lòng kiêu hãnh điên cuồng của một dân tộc đã bị bẻ gãy. Con sư tử đã phải quỳ gối. Đồng minh đã thắng. Khắp nơi, dân Nhật đã khóc ròng. Giới quân sự thì tuyệt đại đa số đã tuân theo lệnh của hoàng đế, nhưng hàng chục sĩ quan cao cấp đã mổ bụng tự sát. Thà harakiri còn hơn chịu nhục nhã. Thà chết còn hơn bị mất mặt.

Bởi lẽ tuyên bố Postdam đã rành rành: Nước Nhật chấp nhận đầu hàng vô điều kiện. Đất nước sẽ bị quân đội Hoa Kỳ chiếm đóng. Chính phủ sẽ bị phân rã và đặt dưới sự kiểm soát của Hoa Kỳ. Các tướng lĩnh quân sự có trách nhiệm về cuộc chiến sẽ bị đưa ra xét xử.

Lệnh đầu hàng đã được ký ngày 2 tháng 9 năm 1945 trên chiến hạm “Missouri” của Hoa Kỳ đậu trong cảng Tokyo. Tướng Mc Arthur là ông chủ mới của nước Nhật. Điều khủng khiếp nào đã buộc Nhật hoàng phải chấp nhận điều không thể chấp nhận ấy ? Để quân đội Thiên hoàng phải chịu đựng điều không thể chịu đựng được ? Và để mỗi người dân Nhật phải gánh chịu những điều không thể gánh chịu được ?

Chúng ta sẽ không thể hiểu được nước Nhật ngày nay nếu không hồi tưởng lại những sự kiện lịch sử gần đây và không tìm lại những truyền thống của dân tộc này. Bời đáng lẽ có lần đất nước này đã từng mưu đồ thống trị cả phương Đông. Dựa trên một học thuyết nặng tính tôn giáo mang tên là “Đại thịnh vượng”, Nhật Bản đã từng lôi kéo các quốc gia và dân tộc Đông Á dưới sự lãnh đạo của nước Nhật cùng nhau xây dựng một khối thịnh vượng chung. Chính thứ chủ nghĩa dân tộc cuồng tín đó đã dẫn quân đội Thiên hoàng đi đến những nơi xa xôi nhất của châu Á cùng lá cờ Mặt trời mọc. Thậm chí có thể có những tướng lĩnh tự huyễn hoặc với ước mơ nước Nhật thống trị toàn thế giới. Thứ chủ nghĩa phiêu lưu ấy không phải hình thành từ hư vô, bởi có thể tìm thấy điều ấy trong rất nhiều cổ thư như Hakko Ichiu từng đề cập đến “sứ mệnh thiêng liêng” của dân tộc Nhật là “đặt tám phương hoàn vũ dưới cùng một mái nhà” để dựng lên sự hài hòa và phồn thịnh. Sự kích động mang tính tôn giáo ấy được dựa vào học thuyết shinkoku-shugi, theo đó Nhật Bản được nâng lên thành một “thiên quốc” cao hơn tất cả các nước khác và tổ tiên của người Nhật được nâng lên thành “dân tộc khai thiên lập địa” mà minh chủ là Tenno, Thiên hoàng.

Một dân tộc bị huyễn hoặc bởi giới quân sự

Năm 1941, chính sách ngu dân điên rồ của một số tướng lĩnh quân sự cực đoan đã phỉnh phờ cả một dân tộc. Sự điên rồ và lừa bịp ấy đã kết thúc bằng một thảm họa cho dân tộc và một sự nhục nhã đến mức có lẽ người Nhật sẽ vĩnh viễn không còn dám mơ tưởng gì đến phiêu lưu quân sự nữa. Chính từ nỗi nhục nhã ê chề ấy, đã nảy sinh một khát vọng phục thù không thể cưỡng được mà 45 năm sau khi bại trận, đã ngày một trở nên rõ ràng hơn qua công cuộc tái thiết nước Nhật và qua ảnh hưởng không ngừng lớn mạnh của nó trên sân khấu quốc tế.

Nước Nhật đã như thế nào trước khi bước vào cuộc chiến tranh ?

Từ ngày 27 tháng 9 năm 1940, ngày ký Hiệp ước thành lập phe Trục, nước Nhật đã trở thành đồng minh của nước Đức Hitler và nước Ý phát xít. Nhưng, từ lâu, chính phủ Mỹ đã không hề hoài nghi chút nào về khuynh hướng hiếu chiến của chính quyền Nhật Bản. Chính quyền này, cũng như quốc hội của nó, đã dần dần chuyển vào tay giới quân sự cánh hữu theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan nhất. Nhật hoàng quả có ý định ngăn cấm đất nước lao vào cuộc chiến tranh. Nhưng theo lời đồn, người ta đã giấu nhẹm không cho ông biết gì về thảm họa đang bao trùm lên nước mình. Một nhân chứng may mắn đã biết rõ những năm tháng cầm quyền của phe quân sự: đó là Robert Guillain, lúc ấy là thông tín viên của hãng thông tấn Havas, sau này trở thành hãng thông tấn AFP. Đến Tokyo năm 1938, ông đã theo dõi sát sự chuyển hướng đến chiến tranh của Nhật Bản. Cuộc tiến quân của Nhật Bản sang Trung Hoa, theo lời ông nói với tôi, đã phân hóa sâu sắc giới cầm quyền Nhật Bản: một cánh chủ trương sự hòa nhập hòa bình của Nhật Bản vào cuộc hòa nhạc của các dân tộc và một cánh khác, theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan, đối kháng điên cuồng với phương Tây. Nhưng cánh ôn hòa đã không theo kịp cánh kia. Về phần nhân dân Nhật Bản, họ không hề hay biết gì về những hành động ghê tởm do quân đội Thiên hoàng gây ra. Là nạn nhân của trò lừa bịp của các tướng lĩnh, họ đã bị lợi dụng bởi lối tuyên truyền quân sự khá thô thiển.

“Mãi sau này, người dân mới hiểu được tất cả. Những chiến thắng quân sự chỉ là dịp để diễu hành ồn ào, để bốc đồng say sưa. Tất cả đều đã được sắp đặt. Việc chiếm Nam Kinh (Trung Hoa) chẳng qua cũng là dịp để rước đèn. Việc chiếm Hàng Châu cũng vậy. Nhờ những thước phim thời sự ta đã có thể xem lại những hình ảnh của chiến dịch xâm lược Trung Hoa. Ta có thể thấy những chú lính Nhật lùn hung tợn đang tiến vào một nước Trung Hoa già cỗi – rất già cỗi – rồi đập phá tan hoang. Thế nhưng chẳng ai biết đến những hành động tàn bạo ấy kể cả những tội ác ở Nam Kinh. [1] Tất cả những điều ấy, dân chúng Nhật chỉ mới thật sự biết đến từ năm 1968”.

Việc ký hiệp ước với Đức đã đánh dấu sự chuyển hướng triệt để của chủ nghĩa dân tộc Nhật Bản. Nó đồng thời cũng chứng tỏ sự bất lực của hoàng thân Kokoe Fuminaro (thủ tướng Nhật lúc bấy giờ) trước những yêu sách ngày một quá quắt của giới quân sự.

“Tất nhiên, bản thân ông ta cũng có một phần trách nhiệm trong cuộc chiến Trung Hoa. Chính ông đã gây chiến với Trung Hoa. Cũng chính ông, sau đó, đã ký hiệp ước với Đức… Và, sau hôm ấy, người ta đã đọc thấy trên tờ Japan Times một mẩu tin bất ngờ: “Thủ tướng Kokoe đã ký kết một hiệp ước lịch sử với nước Đức và, sau lễ ký, ông đã khóc”. Ông chống lại. Phải ! Ông đã không bằng lòng với chiến dịch Trung Hoa. Ông luôn gây phiền hà cho đa số, với cái quốc hội đã thối nát và bị lũng đoạn trầm trọng bởi giới quân sự. Tất nhiên là rất thông minh, nhưng khi gặp những chuyện rầy rà, bao giờ ông cũng thúc thủ và lui bước… sau khoảng bồn hoặc năm ngày”.

Quả cũng có rất nhiều nhà trí thức Nhật Bản chống lại thứ chủ nghĩa bành trướng Nhật Bản ở châu Á. Nhưng nước Nhật đã lún sâu vào con đường phát xít đến mức tuyệt đại đa số người Nhật, hệt như 75 triệu chú cừu non ngoan ngoãn, cứ cung cúc đi theo.

“Đó là một trạng thái mê muội chung trong toàn dân: Hãy ngừng suy nghĩ ! Hãy ghi tên mình vào danh sách những người yêu nước và thức thời”.

Guillain kể lại.

Ngày 7 tháng 12 năm 1941, Nhật Bản tuyên bố tham gia chiến tranh thế giới lần thứ hai bằng một hành động ngoạn mục: tấn công Trân châu cảng, một chiến thắng rực rỡ đã được ăn mừng ầm ĩ ở Tokyo. Bị tấn công bất ngờ, hàng chục tàu chiến lừng danh nhất của hạm đội Mỹ đã bị dìm xuống biển sâu và một số lượng lớn máy bay Mỹ bị phá hủy. Toàn bộ diễn tiến của cuộc tấn công chỉ kéo dài trong vài giờ dưới tầm lửa phối hợp tuyệt vời của các máy bay dội bom và tàu chiến Nhật. Kể từ ngày ấy và nhiều tháng sau đó, được khích lệ bởi thành công ban đầu, nước Nhật đã xông lên từ cuộc chinh phục này đến cuộc chinh phục khác, từ chiến thắng này đến chiến thắng khác.

Thật ra, chủ nghĩa quân phiệt cũng chẳng có gì mới mẻ. Từ cuối thế kỷ trước, nước Nhật đã trải qua 25 năm chiến tranh. Hòn đảo Đài Loan thuộc Trung Hoa đã từng rơi vào quỹ đạo của Nhật Bản trong cuộc viễn chinh năm 1874. Nước Nhật đã tiến hành cuộc chiến đầu tiên với Trung Hoa từ năm 1894 đến năm 1895. Sau đó là đến cuộc chiến tranh với nước Nga từ năm 1904 đến 1905. Từ năm 1918 đến 1925, Sibérie lại trở thành sân khấu cho một cuộc xung đột mới với Nhật Bản. Triều Tiên cũng đã bị đặt dưới ách thống trị của Nhật Bản. Kể từ năm 1927, Nhật Bản lại tấn công Trung Hoa một lần nữa: chiếm đóng Giang Đông và Mãn Châu Lý thuộc phần lãnh địa của Trung Hoa. Kể từ năm 1937, Nhật Bản đã chiếm đóng toàn bộ phần phía Đông của Trung Hoa. Quân đội Nhật đã là thủ phạm của những vụ tàn sát kinh tởm. Nhưng, đối với chính quyền Tokyo, cuộc chiến ấy vẫn cứ là một cuộc thánh chiến, một cuộc chiến tranh giải phóng. Bởi lẽ, theo Tokyo, nước Nhật có sứ mệnh cao cả là cứu rỗi châu Á khỏi nanh vuốt của đế quốc Mỹ và Anh. Cũng chính những khẩu hiệu ấy lại được đem ra sử dụng cho cuộc chiến tranh Thái Bình Dương. Cuộc tấn công Trân Châu cảng không chỉ đơn thuần là một lời tuyên chiến với Hoa Kỳ và nước Anh. Nó còn đánh dấu sự mở đầu của một cuộc tiến công toàn diện trên tất cả các mặt trận ở Thái Bình Dương.

Giấc mộng bá chủ: “Đại thịnh vượng”

Từ sau năm 1941, quân đội Nhật đã mở rộng quyền lực của Thiên hoàng đến tận những vùng đất xa xăm của châu Á. Người Nhật giải thích với dân chúng sở tại rằng họ đến để đánh đuổi “bọn thực dân, đế quốc” da trắng. Vương quốc Mặt trời mọc đã có một vài thành tích. Tại Thượng Hải, cho mãi đến năm 1937, công viên ở bờ sông Hoàng Phố đã bị cấm không cho “chó và người Trung Hoa” bước vào. Sau khi chiếm thành phố này, người Nhật đã buộc người da trắng phải cúi đầu mỗi khi đi ngang qua công viên. Ngay từ đầu thế kỷ, chiến thắng quân sự của Nhật Bản trước người Nga đã có những tác động tâm lý dây chuyền lớn suốt châu Á. Lần đầu tiên, lịch sử đã chứng minh rằng người châu Á có thể đánh bại một dân tộc da trắng. Nước Nhật, vốn rất tự hào về điều đó, đã không bỏ lỡ dịp nhắc lại với những nước láng giềng. Song liệu có phải nhờ vậy mà nước Nhật nghiễm nhiên được giao sứ mệnh thay cho toàn châu Á ?

Cuộc tấn công quân sự của Nhật Bản mở đầu tại Hồng Kông, một thuộc địa của nước Anh. Hòn đảo này đã rơi vào tay của Nhật Bản trước sức tấn công của hạm đội hoàng gia. Sau đó lần lượt đến Philippines, Guam, Singapour, Bắc Kỳ và Nam Kỳ của Việt Nam. Quân đội Nhật hoàng tiếp tục viễn chinh sang Malaixia, xâm nhập vào Miến Điện trong vịnh Xiêm La, vào Sumatra ở Indonesia và đảo Célèbes ở Bornéo. Là cờ Nhật “Hinomaru” với biểu tưởng mặt trời mọc, một hình ảnh được tôn thờ trên quần đảo Nhật Bản đã phấp phới bay trên các hòn đảo ở Thái Bình Dương, nơi được xây dựng thành các căn cứ của hải quân hoàng gia. Nước Nhật muốn bành trướng thế lực của mình lên cả vùng Đại Á, từ Sibérie cho đến tận Ấn Độ. Nhường châu Âu cho Đức Quốc xã, vương quốc Mặt trời mọc chiếm lĩnh toàn bộ Đại Đông Á.

Ngay tại nước Nhật, việc dồn sức cho chiến tranh cũng diễn ra quyết liệt. Để nước Nhật có thể đảm đương vai trò “ngọn đuốc phương Đông”, trẻ em Nhật đã bị động viên từ năm 12 tuổi, hàng trăm ngàn phụ nữ Nhật đã phải lao động trong các xưởng vũ khí. Rất nhiều phụ nữ đã phải chui rúc trong các hầm mỏ. Sinh viên Nhật không bị động viên đến xưởng máy thì phải ra chiến trường và nhiều người trở thành phi công. Tokyo và nhiều thành phố khác chìm ngập trong thiếu thốn và nạn chợ đen. Chế độ phân phối đã phải áp dụng cho các loại nhu yếu phẩm hàng đầu. Trong cuộc chiến Thái Bình Dương và cho đến khi bại trận, công nghiệp Nhật Bản đã chế tạo thành công 15 tàu sân bay, 1115 tàu ngầm, nhiều tuần dương hạm, nhiều thiết giáp hạm, nhiều tàu vét mìn và nhiều loại tàu chiến khác cùng hàng chục nghìn máy bay tiêm kích, máy bay dội bom và các loại máy bay khác…, trong đó loại chiến đấu cơ nổi tiếng “zero” hoàn toàn do các kỹ sư của các phân xưởng Mitsubishi chế tạo. Khi các thất bại quân sự diễn ra liên tiếp và khi viễn cảnh thua trận ngày một rõ thì những cuộc xuất kích của các máy bay này trở thành những cuộc ra đi không trở về. Các máy bay Zero, do các kamikaze (“Thần phong”) điều khiển đã trở thành biết bao quả bom có người lái, lao thẳng xuống các mục tiêu của Hoa Kỳ, như một lần hy sinh cuối cùng cho Tổ quốc.

Sau những giây phút hân hoan ban đầu trước các thắng lợi đầu tiên, nước Nhật thời chiến đã sớm mất đi tất cả niềm vui sống. Các địa điểm vui chơi đều bị đóng cửa, thậm chí cả các quán nước cũng bị hạn chế nghiêm ngặt. Người ngoại quốc bị xem như mật thám và luôn bị kiểm soát chặt chẽ. Nhưng, bất chấp lòng tự hào và bầu không khí hăng hái xung quanh, chủ nghĩa anh hùng không phải lúc nào cũng hiện diện. Guillain hồi tưởng lại:

“Các thanh niên đã biến sắc khi nhận được lệnh động viên. Họ ghê sợ điều đó. Họ sợ nó một cách khủng khiếp. Gia đình thường làm mọi thứ lễ hội trong ngày đưa tiễn họ ở sân ga. Người Nhật được dạy bảo là phải khước từ mọi tập quán Tây phương. Phụ nữ không được để đùi trần và không được đeo nữ trang. Khắp thành phố mọc lên nhan nhản các tổ chức phụ nữ chuyên tố giác và bắt bớ. Các tổ chức này cũng làm cả nhiệm vụ thu thập các chữ ký nhằm động viên tinh thần các chiến sĩ đã lên đường. Có cái gọi là “chiếc đai một ngàn nút” được đặt trên một tấm vải lớn thường mang biểu tượng vòng tròn đỏ của mặt trời mọc. Tất cả các thiếu nữ đi ngang qua đều được yêu cầu dừng lại trong năm phút để thêu tên của mình lên đó. Sau đó, các chiếc đai này sẽ được gửi đến cho các đơn vị ngoài mặt trận”.

Sau cái chết của Hirohito năm 1988, một câu hỏi bỗng cộm lên gây nhức nhối cho những người Nhật và những nạn nhân còn sống sót trong cuộc chiến: Nhật hoàng đã đóng vai trò cụ thể gì trong cuộc chiến và trong việc chuẩn bị chiến tranh ? Có đúng Ngài là một bạo chúa, một tội phạm chiến tranh như một số người đã mô tả không ? Bao quanh bởi một vài trung thần có toàn quyền định đoạt, phải chăng Hirohito đã cố tình đẩy đất nước đến sự cùng kiệt chỉ với mục đích duy nhất là áp đặt sự thống trị của mình trên toàn nhân loại ? Chúng tôi không có ý định bào chữa cho những điều không thể bào chữa được. Nhưng, khi lùi lại phân tích giai đoạn đầy đau thương ấy và dựa trên các tư liệu đang dần dần được đưa ra công khai, các nhà quan sát nghiêm túc về Nhật Bản đều cho rằng Nhật hoàng, ngược lại, đã có kiềm chế bớt những nhà quân sự bốc đồng mỗi khi có dịp. Nhưng do bị cô lập bởi những người có thể cung cấp các thông tin thực tế và cảnh giác về các nguy cơ đang đe dọa, “Thiên tử” đã không kiểm soát được cả quân đội lẫn chính nội các của Ngài, mà khi ấy chỉ còn là một chính thể bù nhìn.

“Giới quân phiệt năng nổ đã nắm tất cả – Guillain nói – Hiện nay đang có một luận điểm lệch lạc, thuần túy bịa đặt về mưu đồ của một nhóm nhỏ các nhân vật chóp bu và đầy tham vọng do hoàng đế cầm đầu. Không ! hoàng đế chưa bao giờ là như vậy. Ông luôn tìm đủ mọi cách để được thông tin về những chuyện diễn ra xung quanh. Về thực chất, đó là một nhà vua yêu nước, là người gìn giữ các truyền thống văn hóa của Nhật Bản với ước muốn trở thành một ông vua lập hiến. Trong nhiều năm trời, các bộ trưởng được dân bầu ra đã đến với ông và nói rằng: “Tâu bệ hạ ! Vì sự an toàn của đất nước, xin Người hãy làm như thế này, thế kia”. Đôi khi, Ông đã đặt ra các câu hỏi. Mà một khi hoàng đế đã đặt câu hỏi thì điều đó có nghĩa là Ông không bằng lòng. Nói cho cùng, Ông đã ghi dấu ấn như một con người yêu nước: không một ai tạo điều kiện cho Ông để có thể làm khác hơn thế”.

Các cỗ pháo ngoại bang phá toang những cửa khẩu Nhật Bản

Trên thực tế, không một ai có thể giải thích được các bước phiêu lưu đen tối của Nhật Bản từ sau những năm 30 chỉ bằng một vài luận điểm nặng tính chỉ trích. Để hiểu, cần phải trở lại một chút với lịch sử. Từ thế kỷ thứ VII, Nhật Bản đã mang dáng dấp một xã hội tinh tế được cai trị bằng luật pháp. Bộ luật Taiho đã có hiệu lực trong một thời gian rất dài: từ nawmg 701 đến năm 1885. Biểu tượng cho sự thống nhất nhà nước và sự trường cửu của dân tộc Nhật là một “Thiên hoàng”, người có uy quyền tuyệt đối trên các thần dân của mình. Theo mô hình Trung Hoa và do ảnh hưởng sâu đậm của Khổng giáo, nước Nhật đã có cả một hệ thống các trường trung học và đại học chuyên đào tạo các quan chức nhà nước và quan lại địa phương. Từ đó, hệt như một con sò, quần đảo Nhật Bản đã đóng chặt cửa với thế giới bên ngoài trong suốt nhiều thế kỷ. Từ thế kỷ thứ XIX, nước Nhật đã bước vào giai đoạn cải cách rất thức thời. Bởi vì sự cô lập khiến cho nước Nhật lạc hậu khủng khiếp so với thế giới Tây phương đến mức, vào năm 1543, xứ sở Mặt trời mọc đã phải hoảng hốt trước một khẩu đại bác trên con tàu Bồ Đào Nha. Sau đó, vào năm 1853, nước Nhật đã lại một lần khiếp nhược khi các cỗ pháo Hoa Kỳ và Anh phá toang các cửa khẩu để đòi Nhật Bản mở cửa giao thương với thế giới bên ngoài.

Năm 1859, ba cửa khẩu đã được mở ra cho Anh, Pháp, Hà Lan, Nga và Hoa Kỳ. Nhưng đó cũng chính là lúc chấm dứt chế độ tướng quân Tokugawa vốn ngự trị ở Nhật từ hơn 250 năm trước, và là lễ đăng quang cho thời đại Minh trị. Trước mỗi đe dọa của ngoại bang dọc theo bờ biển, Nhật Bản đứng trước một sự lựa chọn khó khăn. Ở Tokyo, người ta đã sớm hiểu rằng chống chọi với sức mạnh quân sự và kỹ thuật của phương Tây là điều vô ích. Điều đó, không nghi ngờ gì nữa, sẽ dứt khoát dẫn đến thảm họa. Dưới áp lực của ngoại bang, cả hai hoàng đế Nhật và Trung Hoa đều đã phải đi đến cùng một quyết định: mở cửa. Nhưng giữa Trung Hoa và Nhật Bản lại có một sự khác biệt căn bản: nước Trung Hoa với trật tự ngàn xưa bị phá vỡ vĩnh viễn bởi sự xuất hiện của người Tây phương, đã không bao giờ biết thích nghi với thế giới bên ngoài. Nhật Bản, ngược lại, đã quyết định từ bỏ thái độ cố chấp và tìm cách khai thác những tinh túy của phương Tây. Để giữ lấy bản sắc dân tộc và tâm hồn tổ quốc, Minh Tri Thiên Hoàng đã cho rằng cần giới hạn tối đa sự hiện diện của ngoại bang trên đất Nhật. Để làm được điều đó, nước Nhật cần phải hùng mạnh để xóa bỏ sự cách biệt về quân sự, khoa học và kỹ thuật so với các nước ngoại bang. Cần phải làm sao để nước Nhật cũng hùng cường như họ và có đủ sức để chống lại họ. Nhưng, để thực hiện được điều này, xã hội Nhật Bản cần phải được cách tân và thu thập mọi kiến thức tốt nhất của phương Tây.

Lập tức, Minh Trị quyết định bãi bỏ chế độ đẳng cấp, nền tảng của chế độ phong kiến. Các võ sĩ đạo không còn chủ để mà phục vụ. Họ trở thành những cán bộ mới của nước Nhật hiện đại: giáo sư, luật sư, viên chức cao cấp, nhà quản lý. Nhiều phái đoàn Nhật Bản được cử sang châu Âu và Mỹ để nghiên cứu tinh hoa của các nên văn minh này. Các phái đoàn ấy đã trở về với những kiến thức quý báu, đã được chọn lọc, phân tích, so sánh. Nước Nhật không sao chép. Nó chỉ thu nhận, tiêu hóa, biến đổi và thích ứng với những gì phù hợp với mình. Nhật Bản đã mô phỏng hệ thống giáo dục của Pháp, mô hình hải quân Hoàng gia Anh. Một bộ luật dân sự mới được soạn thảo chủ yếu từ bộ luật của Đức và luật hình sự của Pháp. Nhật Bản đã nhanh chóng thiết lập một thứ chủ nghĩa dân tộc không phục vụ cho cá nhân như ở phương Tây, mà phục vụ cho dân tộc và ở một chừng mực nhất định, cho tập thể. Đó không phải là chủ nghĩa tự do, mà đúng hơn, là chủ nghĩa gia trưởng độc quyền. Với một nền quân chủ lập hiến và một bộ máy nhà nước hiệu quả, nước Nhật đã bước vào thời kỳ phát triển rực rỡ.

Bài học của Nhật Bản là cần biết chọn lựa những công cụ cụ thể của một nhà nước Tây phương hiện đại mà không hề làm biến dạng tinh thần Nhật Bản. Phương châm này, cho đến tận ngày nay, vẫn giữ nguyên giá trị. Nước Nhật, cường quốc kinh tế, chàng khổng lồ về tài chính, nhà vô địch về kỹ thuật…, bên trong lớp sơn Tây phương, vẫn tiếp tục là một quốc gia với những truyền thống dân tộc mạnh mẽ. Chớ nên lầm lẫn: nước Nhật vẫn luôn xa lạ với thứ văn minh của Mac Donald. Bởi lẽ, bất chấp những xu hướng mới của giới trẻ, tâm hồn Nhật Bản vẫn hầu như không thay đổi trong đa số người Nhật.

Chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi vốn đã dẫn nước Nhật đến sự bại trận phải chăng là một định mệnh của lịch sử ? Từ lâu trong lịch sử, nước Nhật đã nuôi dưỡng một thứ mặc cảm tự ti trước để quốc Trung Hoa rộng lớn và hùng mạnh. Mặc cảm ấy đã tạo ra một thứ phản xả tự về và cô lập, mang đậm màu sắc dân tộc chủ nghĩa. Vậy phải chăng cú sốc phương Tây vào cuối thế kỷ XIX đã gây ra những phản ứng tương tự trong giới lãnh đạo ở Tokyo ? Sáu mươi năm sau thời Minh Trị và thời kỳ mở đầu xây dựng một nước Nhật hiện đại, sự phát triển của chủ nghĩa dân tộc lại đã mở đường cho những người chủ trương đóng cửa (sakoku) giành thắng lợi. Những người này tán thành việc tống cổ bọn “man di” ra khỏi đất nước và đối nghịch hẳn với khuynh hướng ngược lại là mở cửa (kaikoku) và quốc tế hóa nước Nhật. Năm 1872, Hinomaru lá cờ Nhật Bản khi được đưa ra, vốn được dân chúng ngưỡng mộ như một biểu tượng của mặt trời mọc lại như tỏa sáng trên toàn thế giới. Hình tượng Hinomaru đã cuốn hút người Nhật như một thứ bùa mê và hướng họ tới những xu hướng dân tộc và bài ngoại dữ dội nhất. Năm 1888, bài quốc ca đã được đưa vào Hiến pháp. Đó là bài Kimigayo, “Triều đại của hoàng đế”. Năm 1890, nước Nhật đã chọn lễ Kigensetsu làm ngày quốc khánh. Lễ này kỷ niệm việc lên ngôi của Jimmu, vị hoàng đế đầu tiên của Nhật Bản, vào năm 660 trước công nguyên. Đó là những biểu tượng. Còn việc lên ngôi của hoàng đế Showa (Hirohito) vào năm 1926 đã đánh dấu việc chuyển hướng nhanh chóng của nước Nhật sang chủ nghĩa quân phiệt và phát xít, vốn đã đẩy đất nước xuống vực thẳm.

Đầu năm 1945, đế quốc bại trận này đã lâm vào tình trạng tuyệt vọng. Hơn một trăm thành phố chỉ còn là những đống tro tàn. Từ mùa xuân, Tokyo đã bị dội bom liên tục. Ngày 9 tháng 3, chỉ trong một đêm, nhiều quận đã bị san bằng. Trong vài giờ, 700.000 quả bom lửa đã được các máy bay B-29 của Hoa Kỳ ném xuống Tokyo. Dân chúng đã hoài công vô ích để dập tắt ngọn lửa; chỉ một quả bom thôi cũng đủ biến các ngôi nhà gỗ Nhật Bản thành than trong vài phút. Ngày 10 tháng 3 lại đến phiên Nagoya. Ngày 14, Osaka. Ngày 17, Kobe. Ngày 18, các máy bay dội bom của Hoa Kỳ đã tiến công cụm đảo Kyushu và Shikoku. Ngày 14 tháng 5 là trận dội bom thứ hai xuống Nagoya. Ngày 24 tháng 5, Tokyo lại rực cháy và tiếp tục đỏ lửa suốt hai đêm 25 và 26. Trong ba ngày, 8.500 tấn bom Mỹ dội xuống thành phố này. Ngày 28 tháng 5, đến phiên thành phố cảng Yokohama rực lửa. Giới quân sự Nhật Bản thay vì chịu khuất phục, lại đã động viên dân chúng vào một cuộc tự sát tập thể.

Ngày 6 tháng 8, lúc 8 giờ 16 phút, cuộc chiến leo thang đến đỉnh cao của sự kinh hoàng: Hiroshima đã bị xóa sổ trên bản đồ chỉ trong vài giây. “Little Boy”, một quả bom uranium 235 đã được ném xuống thành phố 320.000 dân này từ một chiếc máy bay B-29. Trong một tích tắc sau đó, cả thành phố đã biến thành tro bụi. Ba phút sau, trái nấm nguyên tử đã dâng cao lên bầu trời đến 10.000 mét. Ngày 9 tháng 8, lúc 11 giờ 02 phút, “Fat Man” – một quả bom plutonium 22 kilotonne – đã tàn phá cả thành phố Nagasaki. Sau này, Tom Ferebee, người đã nhấn nút thả trái bom xuống Hiroshima đã tuyên bố: “Đó là một việc phải làm và người ta đã làm”. Theo tổng kết chính thức mới đây của chính phủ Nhật, [2] hai quả bom này đã giết chết cả thảy 295.956 người. 38.000 người đã bị giết ngay tại chỗ. Những người khác, những hibakusha (nạn nhân của bom), đã bị chết sau đó do những căn bệnh ghê rợn. Khoảng 10.000 người trong số các hibakusha nhiều năm sau đó, đã chết dần chết mòn bởi chứng ung thư và các căn bệnh khác gây ra do nhiễm phóng xạ. Vào lúc đó, tổng thống Mỹ Harry Truman và chính phủ của ông ta đã bào chữa cho việc sử dụng bom nguyên tử bằng cách nói rằng các quả bom này đã cứu mạng sống cho từ 500.000 đến 1 triệu người Mỹ nhờ buộc được Nhật Bản phải đầu hàng ngày tức khắc. Hiệp định ngừng bắn được ký ngày 15 tháng 8.

Bản tống kết chiến tranh

Tổng kết của 44 tháng chiến tranh thật khủng khiếp: Nhật Bản thừa nhận có 657.000 binh lính bị thiệt mạng. Hoa Kỳ ước tính con số thực thụ lên đến 1,2 triệu quân nhân và 600.000 thường dân bị chết. Nếu tính số người chết trong toàn bộ hoạt động quân sự của Nhật ở châu Á từ đầu những năm 30 thì chỉ riêng Trung Hoa đã có nhiều triệu người bị chết. Chính phủ Trung Hoa ước tính có khoảng 20 triệu người chết (cả quân nhân lẫn thường dân) do cuộc xâm lược của Nhật Bản ở nước này. Con số này đã bị Tokyo bác bỏ. Dù sao, bà Takako Doi, chủ tịch Đảng Xã hội Nhật Bản cũng đã khẳng định vào tháng 5 năm 1990, rằng cuộc chiến Thái Bình Dương đã làm chết hơn 20 triệu người. [3]

Phải mất nhiều năm sau đó, dân chúng Nhật mới hiểu được đầy đủ những nỗi đau khổ mà đất nước họ đã gây ra cho châu Á. Ngay hiện nay, đề tài này vẫn tiếp tục là điều cấm kỵ và các thông tin về những năm tháng khủng khiếp ấy rất khó thu thập. Cuộc xám hối tập thể của dân tộc Nhật Bản vẫn còn chưa kết thúc. Những con quỷ vẫn chưa hoàn toàn bị trừ khử. Những chấn động đã để lại các dấu vết không thể tẩy xóa nổi. Những vết thương lại đột ngột bị tấy lên vào tháng 8 năm 1990, nhân việc thảo luận về việc gửi quân Nhật sang Trung Đông để cùng các nước trong liên quân buộc Irak rút khỏi Koweit. Sau chiến tranh, nước Nhật đã cam kết vĩnh viễn không sử dụng vũ lực để giải quyết các xung đột quốc tế. Phải chăng người Nhật đã xét lại lời thế của mình ? Ngày 6 tháng 11 năm 1990, một cuộc thăm dò dư luận đã cho thấy một đa số áp đảo đến 78 % người Nhật chống lại việc sửa đổi Hiến pháp và cho phép gửi các lực lượng “phòng vệ” ra nước ngoài.

“Trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, Nhật Bản đã gây ra những tai họa thảm khốc cho biết bao quốc gia đến mức chúng tôi không bao giờ có thể xin lỗi họ cho đủ. Sau những thể nghiệm như thế, chúng ta vĩnh viễn không thể tự cho phép hướng mũi súng của mình ra nước ngoài, dù là để chống lại người Irak. [4] Đó là tuyên bố của Michiko Goto, ứng cử viên Đảng Xã hội tại Quốc hội Nhật Bản.

Năm 1945, các thành phố Nhật Bản là cả một cảnh tượng bi thảm.

“Ông hỏi tôi về tình trạng của Tokyo ư ? Để tôi kể cho ông nghe chuyện này – Guillain nói – Tòa nhà của Sứ quán Pháp đã bị thiêu rụi. Tòa nhà này cũng tương đối nhỏ thôi, thế mà một mình nó đã phải chịu những 35 quả bom ! Nó bốc cháy và chỉ còn lại một căn hầm dưới đất, nơi trú ẩn của một nhân viên làm bếp của chúng tôi. Ông ta đã ở đó với hàng tá đồ hộp dự trữ. Từ nhà ga Ueno, tôi đã phải đi bộ một quãng đường năm cây số mới đến được sứ quán. Quận Azabu nằm trên một ngọn đồi, nơi đặt sứ quán và nơi trước đây đã mọc lên những ngôi nhà san sát nằm dọc những khu phố hẹp. Khi đến đó, giữa các ngôi nhà đổ nát và ngay trên con đường mà tôi từng đi lại hàng ngàn lần… tôi đã lạc đường. Không một thứ gì còn đứng vững ở đây cả. Một lần khác, tôi đã đi đến Yokohama. Để đến đó, tôi phải băng qua suốt Tokyo từ Bắc đến Nam. Để đi như thế, tôi đã phải mất hai giờ trên xe Jeep và suốt quãng thời gian đó tôi thấy không còn một ngôi nhà nào cả. Tất cả, tuyệt đối tất cả, đều bình địa”.

Về những lợi ích mà Nhật Bản tự cho rằng đã mang lại cho khối “Đại thịnh vượng” ở châu Á, quả cũng phải nói rằng, trong một vài trường hợp, các viên chức Tokyo đã có thực hiện một số thay đổi. Họ thậm chí còn thiết lập cả một số cơ sở cho công nghiệp hóa. Cho nên, ở Đài Loan, số người Hoa lớn tuổi thường không mấy gay gắt khi hồi tưởng lại thời kỳ thống trị của Nhật Bản. Sự thống trị này đã đem lại trật tự cho chính quyền sở tại và Đài Loan đã được hưởng những lợi lộc của một chính sách phát triển kinh tế nói chung là tích cực. Ở đây, người Nhật đã không tiến hành những hoạt động khủng bố như ở Trung Hoa lục địa. Tuy nhiên, ở những nơi khác, ký ức về hành động vơ vét của quân đội Nhật vẫn còn rất đậm nét. Dần dần, những chuyện ấy cũng đã được dân chúng Nhật biến đến. Các phóng viên Nhật Bản muốn phá vỡ bức tường im lặng, đã lên đường săn lùng các tài liệu và nhân chứng cho một giai đoạn lịch sử mà rõ ràng chính quyền Tokyo cố tình bưng bít.

Một nữ đạo diễn trẻ người Nhật, Noriko Sekiguchi, đã dành năm năm sống ở Papua-Tân Guinée để tìm hiểu sự thật về một trong những khía cạnh chưa được biết đến trong cuộc chiến Thái Bình Dương. Noriko Sekiguchi đã công bố một tài liệu mang tên “Những cô gái thời chiến” mà, ngay khi vừa được tung ra vào tháng 4 năm 1990 đã gây nên một cuộc bút chiến gay gắt. Cô đã thuật lại câu chuyện về hàng chục ngàn thiếu nữ Triều Tiên và Nhật Bản bị bắt cóc và cưỡng ép đến những ngôi nhà đóng kín, được canh gác kỹ lưỡng bởi những người lính Nhật. Các cô gái bị bắt đi đều hãy còn trinh để tránh bị bệnh hoa liễu. Họ được đưa đến từ các tàu chiến và bị đối xử như một món hàng thô thiển. Các cô gái Nhật được dành cho sĩ quan, còn các cô gái Triều Tiên thì được giao cho binh lính. Trước khi chết ít lâu, một bác sĩ từng chứng kiến những cảnh tượng này đã thuật lại cho Noriko Sekiguchi biết khách sạn Cosmopolitan của Rabaul ở Papua-Tân Guinée đã bị biến thành một nhà chứa lớn nhất của Nhật Bản ở Nam – Thái Bình Dương. Giá một lần đi khách là hai yên. Mỗi quân nhân Nhật đều có một ca-pốt, bên trên có ghi dòng chữ “Hãy chọc thủng những phòng tuyến đầu tiên”. Mỗi khách chơi đều không được ở quá ba mươi phút với gái điếm, và buộc phải đi ra ngay sau khi xuất tinh nếu không muốn bị “kỷ luật quân sự”.

Đối với Triều Tiên, cuộc đô hộ của Nhật Bản đã để lại những vết thương vô cùng sâu sắc. Trong những lần đến Nam và Bắc Triều Tiên, trái tim tôi đã se lại trước cảnh tượng một nền văn minh với bao kỳ công tuyệt đẹp đã bị phá hủy bởi quân đội Nhật hoàng trong thời gian từ 1910 – 1945. Trong toàn bộ lịch sử của mình, Triều Tiên chưa bao giờ biết đến một tai họa khủng khiếp đến như vậy. Trong giai đoạn đó, hơn hai triệu người Triều Tiên đã bị bắt sang Nhật làm khổ sai trong các phân xưởng để đóng góp cho tiềm lực chiến tranh của Nhật Bản. Do đó, có gì đáng ngạc nhiên khi hầu hết những người Triều Tiên ở lứa tuổi có thể nhớ được, đều nuôi trong lòng một sự nghi ngờ sâu sắc, nếu không muốn nói là một thái độ thù địch công khai, đối với Nhật Bản ?

Ngày 15 tháng 8 năm 1945, thời đại của chủ nghĩa đế quốc quân phiệt Nhật đã chấm dứt. Đế chế Nhật Bản đã phải từ bỏ những dự định điên rồ của mình. Liệu có cần nhắc lại những vết nhục nhã sâu sắc của người Nhật ?

“Một cảm giác thua cuộc hoàn toàn, thất bại tuyệt đối đã bao trùm lên nước Nhật – Guillain nhấn mạnh – Nhưng cảm giác ấy cũng lại đi kèm với cả những tiếng thở dài thoát nạn: chiến tranh đã chấm dứt. Đã chấm dứt những cuộc không tập khủng khiếp và chấm dứt luôn những đạo quân chết tiệt. Cuối cùng, người Nhật đã hiểu rằng mình đã bị lừa dối. Và họ đã lâm vào cảnh nghèo khổ và đói kém trong một thời gian dài.”


Giang Vi

Tôi là một người yêu sách cuồng nhiệt và đã hơn 20 năm. Tôi dành cả ngày để đọc, viết blog về sách và viết bình luận. Tôi tin rằng sách là công cụ mạnh mẽ nhất trong cuộc sống để mở mang đầu óc cho những ý tưởng và quan điểm mới. Các thể loại yêu thích của tôi bao gồm tiểu thuyết lịch sử, giả tưởng, khoa học viễn tưởng và phi hư cấu. Tôi cũng thích tìm hiểu về các nền văn hóa khác nhau thông qua văn học.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts:

Back to top button