Kinh doanh - đầu tư

Những Bố Già Châu Á

nhung-bo-gia-chau-a-joe-studwell1. THÔNG TIN SÁCH/EBOOK

Tác giả : Joe Studwell

Download sách Những Bố Già Châu Á ebook PDF/PRC/EPUB/MOBI. Tải miễn phí, đọc online trên điện thoại, máy tính, máy tính bảng.

Danh mục : SÁCH KINH DOANH – ĐẦU TƯ

Đọc thử Xem giá bán

2. DOWNLOAD

File ebook hiện chưa có hoặc gặp vấn đề bản quyền, Downloadsach sẽ cập nhật link tải ngay khi tìm kiếm được trên Internet.

Bạn có thể Đọc thử hoặc Xem giá bán.

Bạn không tải được sách ? Xem hướng dẫn nhé : Hướng dẫn tải sách


3. GIỚI THIỆU / REVIEW SÁCH

LỜI GIỚI THIỆU

Joe Studwell là nhà báo, nhà văn, biên tập viên viên truyền hình đã hoạt động ở nhiều nơi trên thế giới. Từ 1997-2007, ông làm việc tại Trung Quốc, là tổng biên tập Tạp chí China Economic Quarterly, cũng là Người sáng lập và Giám đốc Công ty tư vấn Dragonomics châu Á. Hiện nay, ông đang theo đuổi một chương trình nghiên cứu sau đại học tại Đại học Cambridge với đề tài: Các công ty Trung Quốc trong ngành năng lượng mặt trời, gió và pin; và ông lại đang viết một cuốn sách mới về sự phát triển của châu Á.

Joe Studwell đã viết (hoặc là đồng tác giả) khoảng 10 cuốn sách. Cuốn Giấc mơ Trung Hoa [1] của ông được tờ The Financial Times cho là “đã định hướng lại cuộc tranh luận về bản chất của thị trường Trung Quốc.” Sau khi cuốn sách mới nhất của ông – Những bố già châu Á: Tiền bạc và quyền lực ở Hồng Kông và Đông Nam Á [2] – được xuất bản năm 2007, cũng tờ báo này đã tuyên bố: “Joe Studwell xứng đáng được coi là bậc thầy trong việc tạo nên những huyền thoại về công việc kinh doanh ở châu Á…” Còn The Wall Street Journal gọi Những bố già châu Á là “một quả bom tấn” và coi nó là một trong 10 cuốn sách viết về châu Á hay nhất của năm 2007. Tờ Business Week thì cho rằng Những bố già châu Á là một trong 10 cuốn sách viết về kinh doanh hay nhất thế giới.

*

Cuốn sách xoay quanh câu chuyện về một nhóm khoảng vài chục ông trùm – hay đại gia – ở Đông Nam Á [3] mà Joe Studwell gọi là các “bố già”. [4] Trong số họ, có 8 doanh nhân được Tạp chí Forbes ghi tên trong danh sách 25 người giàu nhất thế giới, và 13 người ở trong danh sách 50 người giàu nhất thế giới. Họ đều là người “Đông Nam Á”, nhưng lại có thể đại diện cho toàn “châu Á” rộng lớn. Và có một hiện tượng thật đáng ngạc nhiên: 90% bọn họ đều là người có gốc gác Trung Hoa – những người “ngoại quốc” đến làm ăn tại các nước Đông Nam Á, trải qua một quá trình “tiếp biến văn hóa” bằng bản năng của những con “tắc kè hoa”, trở thành công dân địa phương, rồi trở thành các “bố già” thống trị nền kinh tế quốc nội, và thậm chí khuynh đảo nền chính trị của nước sở tại.

Các phương tiện thông tin đại chúng thường coi các ông trùm này là những người có khả năng về kinh tế, tạo ra của cải và công ăn việc làm cho xã hội; hay thường kể những câu chuyện mang tính giai thoại về tính cách hoặc tác phong sinh hoạt của họ… Trong Những bố già châu Á, Joe Studwell lại miêu tả họ như những con người rất đời thường, nhưng cũng không thiếu những chuyện thuộc loại “thâm cung bí sử”. Nhìn chung, họ là những con người có ý chí và nghị lực phi thường, làm việc chăm chỉ và nghiêm túc để “từ nghèo khổ trở nên giàu có”. Hiện nay, khi đã là những tỉ phú nhiều tỉ đô la, có thế lực lớn trong gia đình, trong giới kinh doanh và xã hội, nhưng lúc cần tằn tiện thì họ có thể tằn tiện không ai bằng, và những khi họ ăn chơi thì cũng chẳng ai dám sánh…

Với ngòi bút tài tình và các dữ liệu phong phú thu thập được từ nhiều nguồn khác nhau, đặc biệt là từ các cuộc phỏng vấn, trò chuyện mà các bố già ưu ái dành cho tác giả, Joe Studwell đã vẽ nên chân dung ba thế hệ bố già: thời thuộc địa, thời hậu Chiến tranh thế giới thứ hai và các bố già thời nay. Tác giả đặc biệt nhấn mạnh quá trình họ đã “nhập vai” để trở thành bố già như thế nào, luồng tiền mặt chủ yếu mà họ nắm giữ đến từ đâu, cấu trúc doanh nghiệp của các bố già được tổ chức ra sao để họ có thể ăn “từ gốc đến ngọn”, ngân hàng mà họ lập ra nhằm phục vụ công chúng hay chỉ là “những con lợn bỏ ống” của họ, thị trường chứng khoán có phải là nơi họ chiếm dụng vốn của các cổ đông thiểu số hay không, họ đã cấu kết với bọn đầu sỏ chính trị như thế nào để có được những nhượng bộ và giấy phép độc quyền kinh doanh của chính phủ, “mạng lưới tre” của bọn họ có thực sự hiệu quả như lời đồn đại hay không…

*

Những nếu chỉ có thế thì Những bố già châu Á chẳng xứng đáng là “một trong 10 cuốn sách nói về kinh doanh hay nhất thế giới.” Đây còn là một cuốn sách rất có giá trị đối với những bạn đọc muốn tìm hiểu và nghiên cứu về kinh tế chính trị, kinh tế học vĩ mô, tài chính – ngân hàng, bất động sản và chứng khoán… Nói như John D. Van Fleet, cố vấn và trợ lý giảng dạy tại trường Cao đẳng Kinh tế và Quản lý An Thái thuộc Đại học Giao thông Thượng Hải, cũng là người phụ trách chuyên mục “Kinh doanh và Giáo dục ở Trung Quốc” của Tạp chí China Economic Review, thì Những bố già châu Á còn là “một câu chuyện buồn”. Đó là câu chuyện về nguồn của cải dồi dào bị làm cho chệch hướng, về các cơ hội phát triển đã bị trì hoãn, về sự nghèo đói không được giúp đợ̃.

Trong cuốn sách này, Studwell đặt ra những câu hỏi lớn, mang tính học thuật rất cao: Tại sao Đông Nam Á, một khu vực với gần 500 triệu dân, nơi mà mức lương 500 đô la một tháng đã là “quá tốt”, năm 1993 đã được Ngân hàng Thế giới mệnh danh là “sự kỳ diệu Đông Á”, lại có sự phân phối của cải theo kiểu Mỹ Latinh, [5] đa số dân chúng sống trong cảnh nghèo khó và chỉ có một thiểu số cực giàu mang tính hiện tượng? Tại sao một khu vực không có lấy một công ty ngoài quốc doanh nào ở trong Danh sách Fortune 500 mà lại có đến 13 cá nhân ở trong số 50 người giàu nhất thế giới?

Với những dẫn chứng rõ ràng và lập luận sắc sảo, Studwell khẳng định: Trên thực tế, các bố già đã đóng góp rất ít vào việc tạo nên sự phồn vinh thực sự của khu vực Đông Nam Á. Rốt cục, họ chỉ là những “kẻ ăn bám”, những “động vật ký sinh”. Họ giàu có là do họ đã ranh ma tạo dựng nên mối quan hệ làm ăn, chia chác với giới tinh hoa chính trị (vốn yếu kém trong việc quản lý các doanh nghiệp và đời sống chính trị), và duy trì nó thông qua các hình thức hối lộ khác nhau để có được độc quyền tiếp cận các nguồn lực – vốn có hạn và là tài sản chung của toàn xã hội – như tài nguyên thiên nhiên, nguyên liệu, đất đai, bến cảng, giấy phép độc quyền kinh doanh và thành lập ngân hàng, nguồn vốn hỗ trợ phát triển và khắc phục hậu quả của các cuộc khủng hoảng… Trên thực tế, sự tăng trưởng GDP ở Đông Nam Á có liên quan mật thiết với tăng trưởng xuất khẩu hàng năm. Các bố già chẳng có vai trò gì quan trọng trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh xuất khẩu này, vì đó là lĩnh vực đòi hỏi cạnh tranh thực sự khốc liệt, không hề giống các ngành kinh doanh độc quyền – những ngành “làm chơi ăn thật” – mà họ ưa thích. Theo tác giả, “những nữ công nhân cần mẫn làm việc ngày đêm trong các dây chuyền lắp ráp tại các nhà máy gia công hàng xuất khẩu” và “các doanh nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ ở địa phương” mới thực sự là những người làm cho Đông Nam Á trở nên thịnh vượng. Còn các bố già, có thể họ chính là thủ phạm gây ra Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 khiến cho hàng tỉ người phải khốn đốn.

ĐỌC THỬ

Phần I NHỮNG BỐ GIÀ CỦA MỘT THỜI ĐÃ QUA

1. BỐI CẢNH

“Con người bị mắc vào cái bẫy của lịch sử, còn lịch sử lại mắc vào cái bẫy của con người.”

JAMES BALDWIN,Ghi chép của một người con
luôn gắn bó với quê hương (1955)

Bối cảnh kinh tế đương đại của Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines, Singapore và Hồng Kông được định hình bởi sự tương tác giữa hai thế lực lịch sử: sự di trú và chủ nghĩa thực dân. Sự di trú xảy ra trước. Rất lâu trước khi những nhà thực dân châu Âu đến Đông Nam Á, thì người Ả Rập, người Ấn Độ và người Trung Quốc đã định cư ở vùng này. Những người Trung Quốc tuy đến sau, dồn về từ một nơi được coi là nền kinh tế lớn nhất thế giới cho đến tận thế kỷ XIX, nhưng lại chiếm số lượng nhiều nhất.

Đoạn đầu của câu chuyện dài về những người di cư này được ghi chép hết sức sơ sài. Điều mà chúng ta biết là, cập bến vào những quốc gia phong kiến nhỏ yếu và chắp vá (nơi Thái Lan là quốc gia thống nhất duy nhất có địa giới tương đương như ngày nay), những người mới đến tham gia vào những lĩnh vực làm ăn không mấy quen thuộc.[1]  Ở Thái Lan, nơi những ghi chép về lịch sử đầy đủ hơn các nơi khác trong khu vực, những người nhập cư được thuê làm những công việc do triều đình phê chuẩn ít nhất là từ thế kỷ XVI. Người Ba Tư và người Trung Quốc (người Trung Quốc đổ dồn về do sự hợp tác buôn bán quốc tế chủ yếu của Thái Lan) bán những hàng hóa thương mại độc quyền và vận hành các trang trại địa tô, phải trả một khoản tô tức cố định đã thỏa thuận cho các gia đình hoàng gia có quyền ở địa phương. Cho đến cuối thế kỷ XVIII, sử chép rằng người Trung Quốc đã làm việc cho triều đình Thái Lan với tư cách là những người quản gia và kế toán. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, có lẽ là đa số người Ba Tư, Ảrập và những người đến từ tiểu lục địa Ấn Độ được chọn làm quản gia nhiều hơn. Thị tộc Bunnag, vẫn còn nổi bật trong giới công chức dân sự và giới chính trị Thái Lan [2],  vốn là những người Ba Tư theo đạo Hồi nhập cư từ cuối thế kỷ XVIII, điều hành toàn bộ vùng Bangkok rộng lớn. Ưu thế của người Trung Quốc với những hàng hóa thương mại độc quyền được triều đình phê chuẩn ở Thái Lan trở nên áp đảo vào thế kỷ XIX. Trên đảo Java, ngày nay là Indonesia, có bằng chứng cho thấy những doanh nhân Trung Quốc đã tham gia sắp đặt việc quản lý độc quyền và hành chính cùng với tầng lớp quý tộc Java trước khi người châu Âu đến đây vào thế kỷ XVI.

Trong giai đoạn đầu hình thành nhà nước ở Đông Nam Á, một mẫu hình không bao giờ biến mất đã được phát triển: sự phân biệt chủng tộc trong những người lao động, trong đó người địa phương là những doanh nhân chính trị tập trung vào việc duy trì quyền lực chính trị để chống lại những địch thủ người bản xứ, và về sau, trong quan hệ đối tác với những nhà thực dân Âu, Mỹ và những người từ nước ngoài đến rồi trở thành doanh nhân kinh tế, và như một hệ quả, thành những doanh nhân quan liêu. Tất nhiên là, quyền lực chính trị chiến thắng tất cả những quyền lực khác, và như vậy sự sắp đặt có một ý nghĩa hoàn hảo đối với tầng lớp quý tộc người bản xứ.

Những người nhập cư biết rằng địa vị của họ được chấp nhận bởi xu hướng tiếp biến văn hóa – một quá trình điều chỉnh về văn hóa. Tầng lớp quý tộc Đông Nam Á đã không trở thành những bản sao giống hệt của những người nhập cư làm thuê cho họ; thay vào đó, những người nhập cư phải tiếp biến văn hóa. Điều đó đã xảy ra đối với người Trung Quốc cũng như người Ba Tư, dù những người Trung Quốc nổi tiếng là có một bản sắc văn hóa không phục tùng. Ví dụ, lịch sử cận đại Thái Lan là câu chuyện kể về những người Trung Quốc thành công ở Thái đã nhanh chóng đổi sang quốc tịch Thái. Các vua Thái Lan khuyến khích điều này, phong tước quý tộc cho những địa chủ và viên chức có tiền của người gốc Hoa. Đến tuổi trưởng thành, tất cả người Trung Quốc đều bị buộc phải chọn giữa quốc tịch Thái hay quốc tịch Trung Quốc; nếu họ chọn quốc tịch Thái, họ sẽ cắt bỏ những bím tóc đuôi sam Mãn Châu của mình. Đại đa số các gia đình làm như vậy ở thế hệ thứ hai hoặc thứ ba. Mục tiêu của họ là trở thành nhóm người tinh hoa; sẵn sàng cắt bớt một chút béo bở trong lợi nhuận thương mại to lớn để tránh không bị một rủi ro nào, trong khi những thương gia Trung Quốc chưa được đồng hóa sẽ có thể chịu mọi thứ rủi ro, trong đó có việc phải trở về đất mẹ. Thật ngạc nhiên đến khó tin là, với quyền lựa chọn đó, người nhập cư Trung Quốc thường thích làm chính trị gia hơn là làm doanh nhân kinh tế. Điều tương tự cũng xảy ra ở Java, nơi những người Trung Quốc thành đạt tìm cách kết hôn với giới quý tộc Java.

Sự chú ý của các sử gia về ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc trên khắp châu Á thật là hoài phí. Việc di trú đến Đông Nam Á – của người Trung Quốc, Ba Tư, người Ả–rập và Ấn Độ thật sự làm sáng tỏ một bài học khác: việc di trú vào những xã hội hiện hữu thường không nói lên nhiều về xuất khẩu văn hóa mà gần như nói nhiều về việc đa số người di trú mong muốn và sẵn lòng trở thành người địa phương. Hơn nữa, sự tiếp biến văn hóa nhanh nhất xuất hiện ở những người đầy tham vọng, dám nghĩ dám làm, những người đã nhận thức được rằng sự tiến bộ kinh tế là tất cả nhưng không thể đạt được nếu không hội nhập với nhóm người tinh hoa ở địa phương. Đây là một bài học mà những bố già đầu tiên sớm học được, và cũng chẳng khó khăn gì khi làm theo, bởi Đông Nam Á là một mảnh đất khoan dung và đầy lòng nhân ái, với dân cư thưa thớt, ít có cạnh tranh về tài nguyên. Đơn giản là, trong kỷ nguyên nông nghiệp, Đông Nam Á được Chúa Trời ban tặng một thiên nhiên trù phú, đặc biệt là so với Trung Quốc và Ấn Độ.

THOÁT KHỎI GÁNH NẶNG

Sự du nhập của những nhà thực dân châu Âu, xảy ra từ thế kỷ XVI nhưng không hung hăng bành trướng cho đến thế kỷ XIX, đã củng cố và sắp xếp lại những xu hướng đã trở nên hiển nhiên. Sự củng cố xảy ra vì chủ nghĩa thực dân ở các nước này không được ủng hộ bằng việc bố trí lại nhân sự quá lớn. Do đó, những nhà thực dân tìm cách cai trị thông qua các nhóm tinh hoa hiện thời, cả hai nhóm tinh hoa chính trị lẫn kinh tế. Sự bố trí lại xảy ra vì chính quyền thuộc địa tạo ra mối quan hệ ba bên, nơi trước đó chỉ có mối quan hệ hai bên đơn giản hơn. Người châu Âu bây giờ đại diện cho quyền lực tối thượng và các lãnh tụ chính trị và kinh tế cần có mối quan hệ với họ cũng như với nhau. Điều này gây ra những hiệu ứng sâu sắc. Với những người di cư đầy tham vọng, nó có nghĩa là họ bắt đầu tiếp biến văn hóa châu Âu vì người châu Âu đại diện cho quyền thống trị. Tầng lớp tinh hoa chính trị địa phương, theo cách nào đó, cũng chuyển sang các tiêu chuẩn văn hóa châu Âu, khi mối quan hệ ưu việt hơn về văn hóa đối với người nhập cư đáng chú ý nhất là người Trung Quốc – bị đảo lộn. Thái Lan là một ngoại lệ vì chưa chính thức bị chiếm làm thuộc địa. Ở đó, quá trình người Trung Quốc chuyển sang quốc tịch Thái Lan vẫn diễn ra nhanh chóng cho đến đầu thế kỷ XX, khi có sự tăng nhanh về tốc độ nhập cư (do những sự cố chính trị và kinh tế ở Trung Quốc và tính sẵn sàng của các dịch vụ vận chuyển hành khách mới), phụ nữ Trung Quốc đến nhiều hơn, và một làn sóng của chủ nghĩa dân tộc Thái tạm thời làm cho quá trình đồng hóa bị ngắt quãng.

Đó là trường hợp người Hà Lan ở Java, và sau này ở Indonesia, những người không ngừng tập hợp lại dựa trên sự phân chia giữa hoạt động chính trị và kinh tế. Việc kiểm soát khối dân số lớn được thực hiện thông qua tầng lớp quý tộc priyayi ở địa phương, những người tiếp tục cai quản các tỉnh và huyện, với một số nhỏ “cư dân” thực dân Hà Lan làm nền tảng. Các vị trí kinh tế chủ chốt chuyển sang tay người Trung Quốc. Họ là những nông dân tạo ra lợi tức bởi tất cả các loại thuế và hàng hóa thương mại độc quyền, từ phí về sát sinh động vật tới quyền vận hành những khu chợ đã được cấp phép. Trang trại có lợi tức lớn nhất là trang trại chế biến và buôn bán thuốc phiện. Nó trở thành chỗ dựa chính cho thu nhập của chính phủ trong mỗi lãnh thổ mà chúng ta quan tâm, và điều này đặc biệt quan trọng ở Indonesia vì những người bản xứ cũng là những khách hàng lớn; mặt khác, hút thuốc phiện là sự giải trí của phần lớn người Trung Quốc.

Cũng gắn chặt với vai trò kinh tế của người Trung Quốc, người Hà Lan đề cao một nhóm nhỏ những người lãnh đạo cộng đồng người Trung Quốc hùng mạnh (việc nhập cư từ Trung Quốc tăng đáng kể vào thế kỷ XVII), những người trung thành với họ. Những người này trở thành bố già, đại gia đầu tiên của khu vực Đông Nam Á. Người Hà Lan dựng lại một truyền thống do người Bồ Đào Nha khởi xướng – dấu ấn quyền lực châu Âu đầu tiên ở Đông Nam Á – là phong cho người đứng đầu cộng đồng người Trung Quốc tước hiệu đại úy quân đội. Việc này được mở rộng thành một hệ thống sĩ quan hoàn chỉnh bao gồm những thiếu tá, đại úy, thiếu úy một sự phân cấp thứ bậc tồn tại bền bỉ suốt hai thế kỷ. Những sĩ quan người Trung Quốc giữ một cuốn sổ thống kê dân số người Trung Quốc, đánh thuế và thu tiền phạt những người Trung Quốc, được cấp phép, và những ý kiến của họ rất quan trọng trong những phiên tòa. Họ là những người đầy quyền lực, và đồng thời, thường nắm giữ những trang trại có lợi tức lớn và làm việc như những người môi giới cho người Hà Lan. Hơn nữa, người Trung Quốc bình thường bị bắt buộc sống ở các khu vực được chỉ định của những thành phố đã được phê chuẩn và chỉ được đi lại nếu được cho phép. Những quy định này không áp dụng với nhóm tinh hoa người Trung Quốc và những người làm thuê trong các trang trại có lợi tức của họ. Những cabang atas, hay “nhánh cao nhất”, khi nhóm tinh hoa người Trung Quốc đã được thừa nhận, nắm quyền vận hành đất nước trong khi những người đồng bào – cũng là những đối thủ cạnh tranh tiềm năng của họ về lý thuyết, bị giam hãm trong những khu ổ chuột chốn thị thành. Những điều luật hạn chế đi lại thường bị lờ đi, nhưng những sĩ quan có nhiều quyền lực hơn, kể cả quyền hợp pháp, có thể làm cho cuộc sống của bất cứ ai dám qua mặt họ trở nên vô cùng khó chịu.

Xã hội Trung Quốc tiếp tục quá trình tiếp biến văn hóa ở Indonesia, với các thế hệ kế tiếp những người nhập cư đang mất đi sự thành thạo với ngôn ngữ Trung Hoa của họ và trở nên quen thuộc với những phong tục địa phương. Nhưng khi người Hà Lan mở rộng quyền lực sang khu vực quần đảo, thì càng khuyến khích những người nhập cư đầy tham vọng tìm kiếm việc làm trong những gia đình của vua chúa Java hoặc kết hôn với tầng lớp quý tộc priyayi. Mặt khác, xã hội châu Âu da trắng dung thứ các cuộc hôn nhân hỗn hợp, khác chủng tộc và sự đồng hóa đối với nhóm người Hà Lan. Không giống như ở Thái Lan, nơi sự hội nhập đầy đủ với tầng lớp tinh hoa cầm quyền là có thể, những gì xảy ra ở đây là một bản sắc “ngôi nhà giữa đường” đã được tạo nên. Vào khoảng thế kỷ XIX, người Trung Quốc nói tiếng Mã Lai (ngôn ngữ dùng để buôn bán ở bản xứ), tuân theo một nền văn hóa gồm cả yếu tố miền nam Trung Hoa lẫn yếu tố Java, trong khi hướng tới thực dân Hà Lan vì muốn có được đặc ân và sự tiến bộ, để gia nhập một nhóm lớn gọi là peranakan. Những peranakan hàng đầu, những người lãnh đạo xã hội Trung Hoa làm việc với người Hà Lan như những sĩ quan để giữ cho cư dân Trung Quốc trong khuôn phép; họ đấu thầu được các trang trại có lợi tức; và họ làm việc với các priyayi ở địa phương để bảo vệ những trang trại của họ, thường bị bọn buôn lậu − đặc biệt là buôn lậu thuốc phiện, quấy phá. Những doanh nhân thành đạt nhất phải là người có nguồn gốc Trung Quốc, ít nhất họ phải hòa nhập về văn hóa với những cư dân Hà Lan, với tầng lớp quý tộc priyayi và sự hòa trộn huyết thống mang tính tiến hóa.

Một tình trạng tương tự như vậy cũng diễn ra ở Philippines, nơi người Tây Ban Nha đã đến sau khi vượt Thái Bình Dương, ngang qua các thuộc địa của họ ở Mỹ La tinh, vào cuối thế kỷ XVI. Không giống những nhà thực dân Anh và Hà Lan những người đại diện cho hàng hóa thương mại độc quyền và Công ty Đông Ấn thuộc Anh sứ mệnh của thực dân Tây Ban Nha là một sứ mệnh tôn giáo và chính trị không hề úp mở. Nó tìm cách làm cho những người Philippines cải trang theo Đạo Thiên chúa. Về phương diện này, người Trung Quốc, những người đã buôn bán ở khu vực Manila khi người Tây Ban Nha đến, cảm thấy rất khó chịu. Người Tây Ban Nha cần người Trung Quốc để cung ứng cho binh lính của họ và buôn bán những hàng hóa xa xỉ của Trung Quốc; còn người Trung Quốc lúc đầu đã kháng cự lại những người theo Đạo Thiên chúa. Tiếp theo đó, có sự cách biệt thật phiền toái, được đánh dấu bởi hàng loạt cuộc tàn sát đẫm máu trong suốt thế kỷ XVII. Đồng thời, người Tây Ban Nha ban thưởng cho những người Trung Quốc cải theo Đạo Thiên chúa và những người đã kết hôn với phụ nữ địa phương bằng mức thuế thấp hơn, quyền tự do đi lại và khả năng gia nhập nhóm tinh hoa chính trị của địa phương. Một quá trình tiếp biến văn hóa bắt đầu, vào năm 1800 ước tính đã có 120.000 người Trung Quốc lai thổ dân – tiếng Indonesia gọi là peranakan – so với 7.000 người Trung Quốc thuần chủng và 4.000 người da trắng ở Philippines; chiếm khoảng 5% dân số. Sự kiểm soát chặt chẽ về số lượng người Trung Quốc thuần chủng được phép cư trú tiếp tục khuyến khích việc phát triển xã hội người lai thổ dân.

Những người lai thổ dân thống trị việc buôn bán quốc tế tại quần đảo này và ngày càng tiến sâu vào việc chiếm giữ đất đai. Người Tây Ban Nha luôn luôn lo sợ rằng họ sẽ lãnh đạo những người Indonesia bản xứ nổi loạn, nhưng trên thực tế, người lai Trung Quốc ít nhất là gắn liền với phiên bản Philippines của văn hóa Tây Ban Nha với tư cách là người Indonesia đã được đô thị hóa, từ bỏ phần lớn sự quyến luyến với văn hóa Trung Hoa. Ở Indonesia cũng như Malaysia, họ có những kiểu quần áo của riêng mình và những phong tục phản ánh một nền văn hóa pha trộn.

KỶ NGUYÊN CỦA SỰ DI TRÚ HÀNG LOẠT

Từ giữa thế kỷ XIX, hình mẫu của sự di cư số lượng nhỏ và số người Trung Quốc thường trú đã đồng hóa sâu sắc bắt đầu thay đổi. Có hai nguyên nhân. Trước hết, số lượng người nhập cư tăng theo cấp số nhân. Và thứ hai, mục tiêu của các thế lực thực dân cầm quyền vừa thay đổi lại vừa được mở rộng.

Công nghệ đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự bùng nổ di trú. Những con tàu chạy bằng hơi nước đầu tiên đưa vào sử dụng từ những năm 1840, được sử dụng rộng rãi để chuyên chở hành khách ở châu Á vào những năm 1860. Cái gọi là Cuộc chiến tranh thuốc phiện 18391842 và 18561860 thúc đẩy việc mở ra các hải cảng lớn ven biển Trung Quốc, đặc biệt là những trung tâm di trú truyền thống của miền nam, và những trung tâm này nhanh chóng được kết nối với nhau bằng tuyến tàu chạy bằng hơi nước tới các hải cảng lớn của Đông Nam Á. Nhiều cuộc di trú được xác định bằng điểm đến của tuyến tàu chạy bằng hơi nước của địa phương. Ví dụ, việc mở một dịch vụ từ Hải Khẩu của tỉnh đảo Hải Nam tới Bangkok là lý do chính giải thích rằng nhiều người có tổ tông gốc Hải Nam đang sống ở Thái Lan. Những ước lượng chính xác nhất cho biết vào khoảng năm 1850 có nửa triệu người gốc Hoa, lai và không lai, sống trên những lãnh thổ mà chúng ta đang khảo sát. Họ tập trung nhiều nhất ở Thái Lan và Indonesia, cùng với Hồng Kông, Singapore và Malaysia (chưa sáp nhập chính thức vào đế quốc Anh). Trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất, có 34 triệu người gốc Hoa trong khu vực, phần lớn thuộc thế hệ thứ nhất. Có một danh sách ngày càng dài các lý do làm cho người ta rời khỏi Trung Quốc. Đất nước này chịu sức ép lớn về dân số từ thế kỷ XVIII. Những cuộc bạo loạn xảy ra với tần số ngày càng tăng, tạo ra những xung đột lớn giữa thế kỷ XIX: các cuộc bạo loạn của người Hồi giáo ở miền tây nam và tây bắc Trung Quốc, các cuộc khởi nghĩa Niệp Quân và Thái Bình Thiên Quốc ở những tỉnh thuộc trung nguyên. Cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc được một người tin rằng ông ta chính là em trai của Đức Chúa Giêxu và một người cấp phó tự xưng là Thần Ma lãnh đạo đã gây ra rắc rối lớn nhất; nó đã lấy đi sinh mạng của hàng chục triệu người trong những thập niên 1850 và 1860.

Khi những con tàu chạy bằng hơi nước đưa họ ra khỏi nơi mà một sử gia gọi là “một môi trường theo thuyết Mantuýt triệt để”, những người Trung Quốc ở miền nam nhận thấy điểm đến Đông Nam Á với dân cư thưa thớt và tương đối thanh bình có sức lôi cuốn nhất: giá trị ngày công lao động lớn gấp nhiều lần ở quê hương. [3] Vào giữa thế kỷ XIX, Thái Lan chỉ có 5 triệu dân, Malaysia có 2 triệu rưỡi và Indonesia có 23 triệu (Java là một nơi tương đối đông dân ở Đông Nam Á), bằng khoảng một phần mười dân số ngày nay. Những người di trú may mắn hơn được những người họ hàng hoặc bà con thân tộc đã định cư ở nước ngoài giúp đỡ, cả về tài chính lẫn công ăn việc làm.

Ngọn triều dâng của những người lao động nhập cư xảy ra trùng với bình minh của cái gọi là “chủ nghĩa đế quốc cấp cao” từ giữa thế kỷ XIX, và sự bùng nổ các mặt hàng đòi hỏi nhiều lao động có sức khoẻ và dẻo dai tiếp tục xảy ra vào thế kỷ XX. Từ những năm 1830, những hàng hóa độc quyền thương mại của Anh và Hà Lan bị hủy bỏ và các quốc gia châu Âu nắm quyền quản lý thuộc địa ở Đông Nam Á. Một hiệp ước giữa Hà Lan và Anh năm 1824 phân chia những khu vực riêng về lợi ích báo trước một chiến dịch: người Hà Lan sẽ kiểm soát toàn bộ quần đảo Indonesia, và sau này là sự hiện diện của người Anh ở bán đảo Malaysia. Việc trực tiếp kiểm soát thuộc địa đôi khi là điều kiện quyết định cho sự phát triển những đồn điền mới rộng lớn hoặc những hầm mỏ – như ở bán đảo Malaya, nơi những hầm mỏ nhỏ của người Trung Quốc đã được thiết lập xảy ra sau sự kiện này. Ở một mức độ nào đó, có sự thúc đẩy mâu thuẫn chính trị ở châu Âu – một mặt để mở rộng các giới hạn của chính quyền thực dân, mặt khác để bãi bỏ nhiều lĩnh vực thương mại và đầu tư quốc tế. Trong một kỷ nguyên được mô tả bằng những ghi chép của Ricardo và Adam David Smith, cả Singapore (1819) lẫn Hồng Kông (1842) đều được thiết lập với tư cách là những hải cảng tự do không có sự hạn chế hoặc đánh thuế thương mại. (Những thứ thu được ở thuộc địa này cũng phản ánh lòng ham muốn kiểm soát các hòn đảo chiến lược của đế quốc Anh.) Một Thống đốc Hồng Kông đã thuyết phục người Thái Lan bãi bỏ các quy định về buôn bán bằng Hiệp ước Bowring vào năm 1855. Thậm chí những người Philippines lai Tây Ban Nha cũng chuyển sang hướng này, chấm dứt sự độc quyền thương mại của những tổng đốc cấp tỉnh vào năm 1844 và mở cửa cho doanh nghiệp nước ngoài. Vì cách mạng công nghiệp đã bỏ qua Tây Ban Nha nên nền thương mại bị các công ty Mỹ và Anh thống trị, với cờ hiệu nhỏ hơn một chút để nhắc nhở những nhà buôn rằng họ đang ở trên đất Tây Ban Nha.

Vào nửa cuối thế kỷ XIX, những quan điểm về sự bùng nổ do toàn cầu hóa, ở một vài khía cạnh nào đó, đã báo trước một điều sẽ bắt đầu trong những năm 1890. Động lực thúc đẩy nhu cầu là thế giới thiếu hàng hóa nông nghiệp và khoáng sản hoặc đang được chôn giấu dưới lòng đất Đông Nam Á, hoặc có thể được gieo trồng ở đó; những vùng đất rộng lớn luôn sẵn có để thành lập các đồn điền. Sự hỗ trợ của công nghệ cùng với việc mở cửa kênh đào Xuyê năm 1869 và đồng thời, việc phát triển những con tàu chạy bằng hơi nước đã cho phép vận chuyển quanh năm khối lượng hàng hóa lớn với chi phí thấp. Các thiết bị toàn bộ dư thừa và rẻ nhờ có nguồn lao động nhập khẩu là người Ấn Độ và Trung Quốc.

Thật công bằng khi nói rằng phần lớn người Ấn Độ được nhập khẩu để làm việc trong các trang trại ở những thuộc địa của Anh và những phần đất của Indonesia, một số lao động chân tay phục vụ trong những dự án công trình công cộng và làm người hầu của các công chức thực dân; một nhóm tinh hoa nho nhỏ gồm những doanh nhân Ấn Độ bao gồm người Parsees, Sindhis và Chettiar – trải rộng khắp khu vực. Những người nhập cư Trung Quốc thống trị lĩnh vực khai mỏ, nhưng cũng tản rộng sang lĩnh vực bán buôn, bán lẻ ngày nay gọi là các dịch vụ hậu cần nông nghiệp và nhiều lĩnh vực khác. Điều này phản ánh một thực tế là người Trung Quốc bậc trung được tự do hơn trong việc lựa chọn quyết định nhập cư. Phần lớn những người di cư Ấn Độ, trong khoảng thời gian giữa năm 1850 và Chiến tranh Thế giới thứ nhất, được ký giao kèo làm lao động nông nghiệp, có nghĩa rằng họ ký hợp đồng để làm việc ở các đồn điền, được chở tới những đồn điền đó và sống tập trung trong những lán trại, sau một thời gian – nếu họ sống sót thường được gửi trả về Ấn Độ.[4]  Người miền Nam Trung Quốc sử dụng các hệ thống tín phiếu, có nghĩa là những người di trú bị ràng buộc vào chủ sử dụng lao động cho đến khi họ đã trả hết chi phí di trú của họ, cả vốn lẫn lãi, nhưng sau này họ được ở lại Đông Nam Á và hòa nhập vào những cộng đồng người Trung Quốc ở hải ngoại đã được thành lập, chủ yếu là ở khu vực thành thị và bám rễ đã hàng thế kỷ. Một báo cáo của Liên hiệp quốc về sự di trú được xuất bản năm 2004 đã làm một việc dũng cảm là cố gắng tập hợp những ghi chép có tính lịch sử của người Ấn Độ và kết luận rằng, có khoảng 30 triệu người Ấn Độ đã đi đến các vùng đất trên khắp thế giới từ năm 1834 cho đến năm 1937, nhưng 24 triệu người đã trở về. Chúng ta không biết tỉ lệ người Trung Quốc trở về vì Trung Quốc không có những ghi chép tầm quốc gia có thể so sánh với những gì người Anh và người Ấn Độ còn giữ được, nhưng chắc chắn là tỉ lệ này thấp hơn nhiều.[5]

Sau đây là một luận điểm quan trọng. Có rất nhiều người Ấn Độ ở khắp khu vực Đông Nam Á thuộc địa nhưng họ không đóng vai trò quan trọng đối với các nền kinh tế địa phương trong một thời gian dài, bởi vì hầu hết họ không ở lại đủ lâu để có thể hòa nhập vào xã hội.[6] Gần giống như người Trung Quốc, họ cũng là một nhóm người bị chà đạp nhưng bất hạnh hơn. Những arkatia hay những nhà tuyển dụng Ấn Độ người tổ chức đem nhân công xuất khẩu ra nước ngoài rất chú trọng đến các nhóm thiểu số ở dưới cùng của nấc thang đẳng cấp (không có khái niệm tương đương về xã hội học ở Trung Quốc), giống như người Tamils đến từ phía nam hoặc những người thuộc các bộ lạc sống ở vùng đồi núi đông bắc. Những người này làm hài lòng các ông chủ đồn điền và chính quyền thực dân vì – không giống như người Trung Quốc thường tự cao tự đại hơn – họ chẳng hề gây ra một rắc rối nào. Ngài Frederic Weld, giám đốc Cơ quan định cư từ năm 1880 đến năm 1887, khi bàn giao công việc đã có một nhận xét về số lượng ngày càng gia tăng những người Ấn Độ được nhập khẩu vào khu vực này như sau: “Những người Ấn Độ là một chủng tộc yêu hòa bình và dễ cai trị.” Có lẽ ông ta không nhận thức được rằng, ông ta đã nói về một nhóm người Ấn Độ không mấy tiêu biểu. Nông sản ban đầu đã lôi kéo người châu Âu tới Đông Nam Á là những đồ gia vị, được sử dụng chủ yếu để ướp thịt trong thời kỳ trước khi có công nghệ làm lạnh nhân tạo. Nhưng trong thế kỷ XIX, đã xuất hiện thêm nhiều giống cây trồng khác có thể thu được tiền mặt, trong số đó mía đường ở Philippines và Thái Lan là quan trọng nhất. Sau đó đến thiếc, đầu tiên được những người Trung Quốc khai thác ở Indonesia nhưng sau này được phát hiện với trữ lượng nhiều hơn ở Malaysia và miền nam Thái Lan. Vào thời điểm chuyển giao thế kỷ có cao su, và trong sản xuất cao su thì lao động người Ấn Độ vượt trội hơn nhiều, và đó là đầu vào cho buổi bình minh của xe ô tô và nhiều sản phẩm tiêu dùng khác. Cũng đã có sự bùng nổ các mặt hàng tiêu dùng trong khu vực và các tiến bộ về công nghệ tiếp tục làm tăng thêm quy mô thương mại. Ví dụ, trong khai mỏ, công nghệ mới đã giúp chuyển đổi hoạt động từ những công việc về cơ bản phải làm bằng tay với xà beng và cuốc chim sang công việc cơ khí quy mô lớn cùng các máy đào vét.

THAY ĐỔI, THAY ĐỔI, VÀ THAY ĐỔI

Từ quan điểm về những bố già Đông Nam Á, cuối thế kỷ XIX là một thời kỳ có cả những rủi ro lớn cũng như những cơ hội lớn. Những tầng lớp tinh hoa truyền thống, bao gồm người Thái gốc Trung Quốc đã được đồng hóa, những peranakan của Indonesia, baba của Malaysia [7] và mestizo của Philippines bị thách thức bởi sự đổ xô về của lớp lớp các làn sóng những người nhập cư đói rách, những người không phải luôn luôn dễ kiểm soát. Đồng thời, vào những năm 1880 khi nhà nước Thái và các chế độ thuộc địa trở nên mạnh hơn, không còn cần những nông dân lao động tự do, những người nắm giữ hàng hóa độc quyền thương mại cũng dần dần từ bỏ việc thuê mướn nhân công. Tuy nhiên, chiếc bánh kinh tế đang trở nên lớn hơn. Và sự chia chác tay ba giữa chính quyền thuộc địa, nhóm tinh hoa chính trị bản xứ và nhóm tinh hoa kinh tế của những người gốc Hoa hiện đang áp đảo, tiếp tục mang lại lợi ích cho các đại gia, những có thể làm việc hiệu quả nhất với những mối quan hệ bên ngoài của mình trong khi vẫn duy trì được quyền lực bên trong cộng đồng những người nhập cư đang phát triển rất nhanh. (Lao động Ấn Độ thường do nhập khẩu trực tiếp những chủ đồn điền từ thuộc địa và do đó giúp sản sinh ra các bố già người Ấn Độ.) Một cái nhìn về những đặc trưng nổi bật của các đại gia xuất sắc vào thời điểm chuyển giao thế kỷ sẽ soi sáng vấn đề này.

Hoàng Trọng Hàm là người giàu nhất Indonesia. Đặt trụ sở tại Semarang ở trung Java, quê hương của những người nông dân trồng cây thuốc phiện, những peranakan thống trị quần đảo này vào thế kỷ XIX, Hoàng là con trai của một thương gia đã thích nghi, được phong là Thiếu tá của người Trung Quốc ở Semarang. Tuy nhiên, người con trai có khả năng nhân số tài sản đáng kể mà cha mình đã có lên gấp bội bằng việc mở rộng một cơ sở truyền thống ra phạm vi thế giới. Vào những năm 1880, khi nông dân làm thuê bị ảnh hưởng của suy thoái kinh tế, ông ta đã thắng thầu và được nhận những địa tô chịu thuế quan trọng. Ông ta không nói được tiếng Hà Lan, nhưng hiểu thứ ngôn ngữ của các thủ tục thực dân tốt hơn những người châu Âu khác. Một người con gái của ông đã kể lại trong hồi ký của mình rằng: “Tôi thường đứng trên hiên rộng của tòa lâu đài nhà chúng tôi, đợi chiếc xe ngựa của cha đang chạy bon bon trong thung lũng ở bên dưới… Lúc nó lướt qua cánh cổng vào nhà, một người hầu Mã Lai từ đâu đó đã xuất hiện, tay bưng chiếc khay bạc đựng một chiếc khăn ấm tẩm nước hoa Cologne. Cha tôi, thật đẹp trong phục trang chiếc quần dài trắng tinh và chiếc áo vét cũng màu trắng may rất khéo theo kiểu phương Tây, lau tay và mặt với chiếc khăn ướp nước hoa đó trước khi ông bước xuống xe ngựa và tiến lại phía tôi. Thật giống như một màn múa balê.” Hoàng thường tiếp đãi hào phóng và tặng quà những quan chức thực dân. Giống như cha ông, ông là Thiếu tá của người Trung Quốc ở địa phương, sống trong một tòa nhà lớn ở khu Châu Âu của thành phố; ông nói tiếng Java và Mã Lai tốt hơn bất kỳ phương ngữ nào của Trung Quốc.

Trong kinh doanh, Hoàng đi theo một chiến lược đa dạng hóa đã trở thành tiêu chuẩn của những đại gia Đông Nam Á thời đó. Ông có được nguồn tiền bạc từ các trang trại có lợi tức, đặc biệt là thuốc phiện, và dùng nó để cấp vốn mở rộng rất nhiều hoạt động khác. Ông là người nổi bật nhất ngành mía đường, phát triển những đồn điền và xây dựng nhà máy chế biến. Các nhà máy này sử dụng máy móc nhập khẩu từ châu Âu và do người Hà Lan bảo trì. Ông cũng thuê những kế toán và quản lý người Hà Lan cho những vị trí then chốt. Ông mở rộng sang vận tải biển và mở một ngân hàng ở Semarang. Vào thời gian Chiến tranh Thế giới thứ nhất, ông chuyển tới Singapore, và qua đời ở đó năm 1924. Ông là một doanh nhân địa phương có những công ty có thể cạnh tranh về quy mô với những công ty lớn của người Hà Lan.

Một nhân vật thích nghi tốt hơn nữa là Lục Hữu, được coi là người Trung Quốc giàu nhất trên bán đảo Mã Lai hồi đầu thế kỷ XX. Ông đã sớm xây dựng doanh nhiệp cung ứng thực phẩm và vũ khí cho các toán thổ phỉ khai mỏ người Trung Quốc mà Hội Tam Hoàng làm đại diện. Khi người Anh chính thức nắm quyền kiểm soát Malaya từ năm 1874, ông đã phát triển một đế quốc khai thác mỏ thiếc lộ thiên dưới danh nghĩa canh tác trang trại chịu thuế của nhà nước. Mỏ này thuê hàng nghìn lao động người Trung Quốc, những người mà ông cũng cung ứng thuốc phiện, rượu và những cơ sở đánh bạc. Lục Hữu hợp tác gần gũi với những tổ chức bí mật người Trung Quốc để nhập khẩu và quản lý những công nhân của mình; ông cũng là một thành viên của Hội Tam Hoàng Nghĩa Hưng hùng mạnh. Công sứ người Anh ở các bang có hầm mỏ lớn dựa vào ông ta để vừa kiểm soát dân Trung Quốc nhập cư vừa để thu một phần lớn cho ngân sách. Đến lượt mình, Lục Hữu cố gắng đặt các đối tác thực dân của ông vào thế bị động. Ông hành xử theo những tập quán của người Anh, kết bạn với người đứng đầu bốn bang trong Liên bang Malaysia là Frank Swettenham, và là một trong những người đỡ đầu chính cho một trường học bằng tiếng Anh cho con cái tầng lớp tinh hoa ở Kuala Lumpur, trường Victoria. Ông làm ăn với những công ty Anh và Xcốtlen, cũng như với đại gia người Ấn Độ đến từ Tamil là Thamboosamy Pillay.[8]  Quyền lực đàm phán của ông ta với chính quyền thực dân là rất lớn. Ví dụ, khi giá thiếc giảm vào năm 1896, chính quyền bang Selangor thực hiện một hành động chưa có tiền lệ là giảm phí cố định mà ông ta phải trả cho các trang trại trồng thuốc phiện vì cho rằng chúng rất quan trọng đối với việc kinh doanh của bang. Năm 1898, ông được cấp một số trang trại có đóng thuế ở vùng Benteng của bang Pahang với mức thuế chỉ tồn tại trên danh nghĩa, và giảm bớt thuế khai thác, như một sự khuyến khích để mở mang vùng này. Ngoài khai mỏ, Lục Hữu còn đầu tư vào bất động sản, những đồn điền cao su và nhiều lĩnh vực khác; ông ta được phong tặng tước hiệu hiệp sĩ Anh. Những chiến lược kết hợp hoạt động trang trại có đóng thuế lợi tức với khai mỏ và liên doanh đồn điền là điểm chung của những đại gia trong toàn khu vực. Rõ ràng nhất là, nó giảm bớt chi phí nhân công vốn đã rẻ mạt.

Trương Bật Sĩ có mối quan tâm đối với việc trồng thuốc phiện, bán rượu khắp vùng và các trang trại trồng thuốc lá trên cả hai bờ của eo biển Malacca, ở Sumatra, Malaya và Singapore, và kết hợp những thứ này vào một đế chế rộng lớn tập trung vào những đồn điền. Dòng họ Hứa xây dựng một doanh nghiệp kết hợp khai mỏ thiếc và làm trang trại có đóng thuế lợi tức trải rộng từ Penang đến phía tây nam Thái Lan, và sau đó đa dạng hóa đầu tư. Ở Singapore, những gia đình này thống trị việc canh tác hạt tiêu và cây nho lấy nhựa (được sử dụng trong thuộc da và nhuộm), và là những người chủ lớn nhất ở đó hồi cuối thế kỷ XIX, nắm giữ các trang trại có đóng thuế lợi tức – trồng thuốc phiện là chủ yếu và đóng góp một nửa ngân sách hàng năm của chính phủ. Ở nơi nào có trang trại nộp thuế lợi tức – ngụ ý có sự ủy quyền của chính quyền bang – đều có hội Tam hoàng. Nhưng đây không phải là mối quan tâm lớn của chính phủ thực dân, từ lâu đã nhận ra rằng chấp nhận sự hiện diện những tổ chức bí mật là cách dễ nhất để quản lý việc nhập cư của người Trung Quốc. Như một quan sát viên đã ghi chép ngày 17 tháng 2 năm 1899: “Chính phủ không có phương tiện thông tin trực tiếp với người Trung Quốc tầng lớp thấp, và do đó công việc này do những tổ chức bí mật thực hiện.”

Ở Philippines, người vĩ đại nhất trong số các cabecillas (nghĩa đen là “những thủ lĩnh”) là Don Carlos Palanca Trần Thiên Sơn. Ông ta là người môi giới nhân công, người điều phối độc quyền chủ yếu về thuốc phiện và là người thu thuế những hoạt động thương mại nói chung, từ hàng dệt may cho đến mía đường, từ gạo tới bất động sản. Là người nhập cư gốc Phúc Kiến, Trung Quốc, có họ hàng đã định cư ở Manila, ông ta học tiếng Tây Ban Nha, chuyển theo Đạo Thiên Chúa và tìm được một ông thầy thực dân có thế lực là Đại tá Carlos Palanca y Gutierrez đỡ đầu, và sau này trở thành con nuôi ông ta. Đồng thời, ông ta đã cẩn thận viết thư cho chính quyền nhà Thanh ở Trung Quốc, trong đó tôn vai trò của mình lên là người lãnh đạo cộng đồng người Trung Quốc đang phát triển nhanh chóng ở Philippines. Như nhiều người cùng thời, ông ta mua một tước quan Trung Quốc và mặc quan phục trong những dịp trang trọng. Trần Thiên Sơn là công cụ đắc lực trong việc thúc ép nhà Thanh mở một lãnh sự quán ở Manila, đặt trong tòa nhà Thị trưởng Sangleyes (khi lãnh đạo người Trung Quốc này chính thức được người Tây Ban Nha phong tước hiệu). Trần đôi khi giữ vị trí này và đôi khi chỉ đơn thuần là dùng nó để gây ảnh hưởng. Và Tòa án Sangleyes đã nhiều lần buộc tội Trần là thao túng thị trường. Ông ta và con trai đều là những nhân viên lãnh sự quán.

Trần chết năm 1901, khi đã rất giàu có. Ông ta đã thiết lập được một trạng thái cân bằng xã hội học thật hoàn hảo giữa người Trung Quốc nhập cư và những cộng đồng người Tây Ban Nha thực dân, nhận những tước hiệu danh dự của cả hai nhà nước. Như nhà sử học Philippines, Andrew Wilson đã nhận xét: “Trải nghiệm của người Trung Quốc cuối thế kỷ XIX chứng tỏ rằng, thế lực kinh tế và xã hội chỉ đến với những người đồng thời kiểm soát được những người công nhận sự tồn tại của người Trung Quốc ở xứ Philippines thuộc địa và có quan hệ tốt đẹp nhất với họ cũng như có những mối liên kết về thể chế với nhóm người nước ngoài có uy quyền.”

Không phải ai cũng ngưỡng mộ khả năng hoàn thành những tiêu chí này. Nhà văn và người theo chủ nghĩa dân tộc của Philippines, José Rizal, người có dòng máu lai Trung Quốc, gần như chắc chắn sử dụng Trần Thiên Sơn là nguyên mẫu cho nhân vật Quiroga, một người Trung Quốc dối trá và khúm núm trong tiểu thuyết Cướp biển (El Filibusterismo) của ông (1891). Đó là bản chất lai tạo về nhân cách của Quiroga mà Rizal thấy rất đáng chê trách – nói như tác giả, được biểu thị qua “sự lẫn lộn thảm hại” của những kiểu cách ứng xử màu mè trong nhà anh ta. Tuy thế, những khu vườn trang trí theo kiểu Trung Quốc, những cây cột Hy Lạp, đồ vật bằng sắt Xcốtlen, sàn nhà lát đá cẩm thạch Italia được những bố già Đông Nam Á rất ưa chuộng cũng phản ánh sứ mạng của họ; [9] công việc của họ là cố gắng trở thành tất cả đối với mọi người. Trong quá trình đó, những điều mang tính hiếu kỳ mà họ sản sinh ra không đơn thuần chỉ là kiến trúc. Những người như Hoàng Trọng Hàm, hoặc những đối tác chủ chốt của chính phủ thuộc địa Anh ở Hồng Kông như Khai Hà Khải, được nhiều người và những kẻ thực dân coi là lãnh tụ trong cộng đồng của họ, nhưng họ chẳng nói sõi một thứ phương ngữ Trung Quốc nào. Họ thực sự bị mắc kẹt trong chốn lao tù văn hóa.

ĐỊNH HÌNH BỞI HOÀN CẢNH

Phác họa ngắn gọn về những bố già của thời điểm chuyển giao thế kỷ này cho thấy phạm vi những hoạt động của họ được định hình bởi môi trường trong đó họ hoạt động. Họ tìm kiếm những trang trại đóng thuế lợi tức vì đó là cách dễ nhất để kiếm được nhiều tiền. Những lợi nhuận béo bở nhất thu được vào giữa thế kỷ XIX, những người Trung Quốc làm trang trại biết rõ về giá trị của những hàng hóa độc quyền của họ hơn chính những nhà nước đã giao độc quyền đó cho họ. Vì nhà nước dần dần trở nên mạnh hơn và nắm thông thông tin tốt hơn, những gói thầu đầy thủ đoạn, quyền thanh toán chậm và những thứ tương tự trở nên khó hơn. Việc canh tác trang trại có thuế lợi tức được kết hợp rất tự nhiên với việc tuyển mộ những lao động Trung Quốc nhập cư đang tràn vào Đông Nam Á từ giữa thế kỷ XIX, và họ cũng là những người tiêu dùng chính trong những nông trại đầy rẫy thói hư tật xấu. Việc quản lý lao động bị buộc chặt vào việc lãnh đạo cộng đồng những người nhập cư có tiếng nói khác nhau và đang tranh nhau kiếm việc làm. Có chỗ dựa là Hội Tam Hoàng biết nói nhiều phương ngữ khác nhau, các đại gia có thể tạo ra một doanh nghiệp lạ lùng, vòng vo mà trong đó gần như tất cả tiền bạc đều vào tay ông ta: vận hành các trang trại đầy thói hư tật xấu, thuê những người nhập cư cho các doanh nghiệp cần nhiều lao động như khai mỏ và đồn điền, thường ở những vùng sâu vùng xa, và sau đó bán cho người lao động những sản phẩm và dịch vụ không lành mạnh hoặc bất cứ thứ gì mà họ yêu cầu, để bòn rút hầu hết thu nhập của họ. Trên tất cả những thứ đó, bố già chỉ cung cấp một thứ duy nhất là căn cước chính trị cho những người di cư ở quê hương mới của họ ông ta đại diện cho quyền lợi của cộng đồng trước những người nắm giữ quyền lực chính trị tối cao.

Nhưng chính quyền thực dân (và tình hình kinh tế quốc tế trong buổi bình minh của toàn cầu hóa) đã định hình nên một thế giới của các bố già đang khát khao nắm được quyền lực bằng nhiều cách hơn là chỉ làm một ông chủ trang trại và bóc lột những đồng bào của họ. Thời kỳ này thiết lập nên một cơ cấu kinh tế ở Đông Nam Á sẽ được chứng minh là rất khó thay đổi. Những chính quyền thực dân không có kế hoạch lâu dài cho khu vực, nhưng lại thiết lập cơ cấu thương mại thuận lợi nhất cho họ. Điều này có nghĩa là nhập khẩu vào chính quốc các mặt hàng tiêu dùng và xuất khẩu sang Đông Nam Á những hàng hóa sản xuất công nghiệp đã hoàn chỉnh để chi trả, ít nhất một phần, cho những mặt hàng tiêu dùng đó. Trong quá trình này, sự bùng nổ hàng tiêu dùng xảy ra cùng với việc hợp lý hóa các sản phẩm đầu ra. Thái Lan là một nền kinh tế lúa gạo cùng với một vài mỏ thiếc ở miền nam, Malaya khai thác thiếc và cao su, Philippines sản xuất đường và dừa, Java trồng mía đường và cà phê, và Sumatra ở miền tây Indonesia trồng thuốc lá và cao su. Hàng tiêu dùng, vật liệu xây dựng và máy móc được nhập khẩu từ châu Âu và Hoa Kỳ trong quá trình này được hỗ trợ bằng cách hạ thuế nhập khẩu. Tình trạng này thậm chí được lặp lại ở Thái Lan không phải thuộc địa, áp dụng mức thuế nhập khẩu thấp nhất là 3% đối với hàng hóa sản xuất công nghiệp cho đến tận năm 1926. Khi Hoa Kỳ nắm quyền kiểm soát ở Philippines vào năm 1898, Washington kết hợp thuế nhập khẩu thấp với hạn ngạch xuất khẩu có bảo lãnh cho mặt hàng đường mía của Philippines, tiếp tục chú trọng hơn đến việc ưu tiên đối với xuất khẩu những mặt hàng tiêu dùng cơ bản và nhập khẩu những mặt hàng sản xuất công nghiệp có giá trị gia tăng cao hơn vào Đông Nam Á.

Không bao giờ nên bỏ qua ảnh hưởng của tất cả những điều này. Hầu như không có sự khuyến khích đầu tư vào sản xuất công nghiệp ở Đông Nam Á. Những nhà thực dân thích bán hàng hóa sản xuất ở thị trường chính quốc của họ trong khi những doanh nhân địa phương chẳng hứng thú tranh đua với hàng nhập khẩu được miễn thuế hoặc chịu thuế rất thấp. Ngược lại, giá cả các mặt hàng tiêu dùng tăng làm cho việc vận hành các đồn điền và hầm mỏ, cũng như các doanh nghiệp dịch vụ có liên quan, trở nên hấp dẫn. Các doanh nghiệp Trung Quốc và châu Á khác vẫn cứ tập trung vào kinh tế dựa trên buôn bán vì họ là những “thương gia bẩm sinh”, và vì sản xuất công nghiệp có nhiều rủi ro hơn và khó làm hơn. Trong quá trình Chiến tranh Thế giới thứ hai, câu chuyện kinh tế vĩ mô của Đông Nam Á là sự mở rộng thương mại – bằng chứng là thời kỳ bùng nổ của Singapore, tăng trưởng thương mại trung bình từ 67 triệu đôla mỗi năm vào năm 18711873 lên tới 431 triệu đôla vào những năm 19001902, nhưng không có một bước nhảy vọt nào về sản xuất công nghiệp. James Ingram, sử gia kinh tế, đã mô tả tình hình ở Thái Lan vô cùng súc tích:

Chúng ta đã thấy nhiều thay đổi trong nền kinh tế của Thái Lan hàng trăm năm qua [18501950], nhưng không có nhiều “tiến bộ” với ý nghĩa có sự tăng thu nhập bình quân trên đầu người, và không có nhiều “phát triển” với ý nghĩa sử dụng nhiều vốn liên quan đến lao động và các kỹ thuật mới. Những thay đổi chủ yếu là việc sử dụng tiền bạc trải rộng, sự chuyên môn hóa và sự trao đổi tăng chủ yếu nhờ vào thị trường thế giới, và nạn phân biệt chủng tộc trong những người lao động cũng gia tăng. Dân số tăng nhanh chủ yếu được thu hút vào trồng trọt lúa gạo… Với đa số các vùng, thay đổi kinh tế xảy ra để đáp ứng sự kích thích từ bên ngoài. Thái Lan là một thực thể bị động, đang thích nghi với những thay đổi và ảnh hưởng xuất phát từ kinh tế thế giới. Có ít sáng kiến bắt nguồn từ nội tại, và hầu hết phản ứng để thích nghi với ảnh hưởng từ bên ngoài đã xảy ra theo cách truyền thống.

Những đại gia chỉ là những người đồng hành với tình trạng này, là người hỗ trợ trong một trò chơi mà trong đó họ không có chút ảnh hưởng gì đối với luật chơi. Họ kiếm lợi với tư cách là những cá nhân, nhưng về tổng thể, những cái họ được chẳng là gì so với những cái mà các công ty lớn của châu Âu kiếm được. Vì những công nghệ mới cần đầu tư vốn vào doanh nghiệp nhiều hơn, nên đầu thế kỷ XX, những đại gia cũng phải chịu áp lực vì lợi thế truyền thống của công nghệ mới là tạo ra sản lượng lớn, chi phí cho lao động nhập cư thấp. Khai thác thiếc, lĩnh vực mà Lục Hữu đã làm ăn phát đạt, là một ví dụ điển hình. Ông ta thành lập một đội quân hơn một vạn công nhân, cung ứng cho họ mọi thứ, từ chỗ ở tạm cho đến thực phẩm và thuốc phiện. Nhưng việc phát minh ra máy đào vét chạy bằng hơi nước, cùng với tình trạng cạn kiệt của những mỏ lộ thiên dễ khai thác, đã thay đổi bản chất của doanh nghiệp từ thập kỷ thứ hai của thế kỷ XX. Vào năm 1920, ở bán đảo Malaysia có 20 máy đào vét có thể làm việc tới chiều sâu khoảng 20 mét, và năm 1930 đã có hơn 100 máy. Những nhóm khai mỏ người Trung Quốc khai thác lộ thiên trước đây không thể cạnh tranh. Đa số không có nguồn vốn đầu tư cần thiết để mua sắm trang thiết bị và thậm chí những người có thể, như Lục Hữu, cũng đã mất đi lợi thế so sánh của họ nếu phải từ bỏ mô hình lao động cường độ cao.

Tầm quan trọng việc tiếp cận nguồn vốn lớn của các doanh nghiệp hồi đầu thế kỷ XX trở thành hiển nhiên trong khắp khu vực. Những doanh nhân Trung Quốc đã cạnh tranh có hiệu quả khi sản xuất nông nghiệp dựa trên một quy mô tương đối nhỏ và sự đầu tư tương đối khiêm tốn. Nhưng khi những đồn điền có lãi nhất được nhân lên về quy mô, khai mỏ được cơ khí hóa và những con tàu hiện đại tăng lên cả về kích thước lẫn sự phức tạp kỹ thuật, một rào cản mới về vốn đầu vào tăng lên. Nói chung, những người sẽ là đại gia châu Á đã bị đẩy lùi bởi những đối thủ châu Âu của họ hồi đầu thế kỷ XX và Chiến tranh Thế giới thứ hai. Ví dụ, ở Thái Lan, những công ty châu Âu đến thâu tóm các lâm trường gỗ và nhà máy xay xát, nơi trước kia người Miến Điện và Trung Quốc đã từng thống trị với hoạt động quy mô nhỏ; nắm giữ ngành công nghiệp luyện thiếc với những nhà máy lớn trở thành tiêu chuẩn khuôn mẫu; và thâu tóm ngành vận tải biển ở nơi mà những chiếc thuyền buồm của Thái Lan và Trung Quốc đã một thời thống trị. Lĩnh vực duy nhất mà người Trung Quốc còn có thể kiểm soát là những trang trại có đóng thuế lợi tức, nhưng vào cuối thế kỷ XIX cũng phải chuyển sang các dự án thương mại mới, chủ yếu là do các thiết bị cần vốn đầu tư tương đối rẻ và người tiêu dùng chủ yếu của các sản phẩm này là cư dân Trung Quốc sống ở Malaya, Singapore và Hồng Kông.

Những ngân hàng do người Châu Âu nắm quyền dẫn đầu là Ngân hàng Hồng Kông và Thượng Hải, Ngân hàng Hoàng gia Ấn Độ, Australia và Trung Quốc – hầu như kìm hãm tất cả hoạt động của họ đối với tài chính thương mại. Các công ty lớn của Mỹ và châu Âu cũng nâng vốn đầu tư của họ ở chính quốc. Các ngân hàng thuộc địa cũng có một cuộc chạy đua hiệu quả khi đến giao dịch với đa số người châu Á. Một tỉ phú đã tám mươi tuổi nhớ lại thời kỳ trước độc lập: “Đối với một doanh nhân Trung Quốc, được diện kiến các ông chủ ngân hàng người Anh cũng ghê gớm như được diện kiến Chúa Trời.” Những người theo đạo Chettiar và Sikh của Ấn Độ nhanh chóng làm nghề cho vay nặng lãi ở trong vùng. Họ thiết lập một đường dây tín dụng cho cư dân địa phương, nhưng áp đặt một lãi suất cao hơn rất nhiều so với người châu Âu. Một số ngân hàng Trung Quốc phát triển vào hai thập niên đầu của thế kỷ XX, nhưng chúng cũng bị bó buộc môi trường hoạt động. Không có một ngân hàng trung ương để cho vay trực tiếp. Khi các ngân hàng thương mại được thả lỏng tạm thời, có một thực tại là đa số các nước Đông Nam Á lại điều hành các ủy ban tiền tệ để tiếp tục cho vay hạn chế. Hậu quả của hệ thống này – vẫn tồn tại ở một số quốc gia trên thế giới cho đến ngày nay – là trực tiếp trói buộc đồng nội tệ vào sự cung ứng cho trao đổi ngoại tệ. Khi lượng trao đổi ngoại tệ từ những mặt hàng xuất khẩu suy giảm, thì sự cung ứng nội tệ cũng giảm. Với giá cả cả mặt hàng tiêu dùng thay đổi nhanh, và các nước Đông Nam Á phụ thuộc nặng nề vào chỉ một hoặc hai loại hàng xuất khẩu, nguồn cung ứng tiền cũng thay đổi tương đương. Cơ số tiền tệ ở Malaya giảm một nửa vào đầu những năm 1920, phần lớn vì giá cao su giảm. Do sự dao động lên xuống như vậy, những ngân hàng địa phương giữ khoảng một nửa số tiền gửi để chuyển thành tiền mặt, thay vì cho vay. Các ngân hàng quốc tế không gặp phải những vấn đề đó. Và, bất chấp sự thận trọng của họ, đa số các ngân hàng Trung Quốc ở Malaya và Philippines sụp đổ vì tình trạng đình đốn đó và vì cuộc khủng hoảng hàng hóa những năm 1930.

Trước khi có tình trạng đình đốn đó, kinh tế Đông Nam Á đã bùng nổ một cách lẻ tẻ trong suốt 40 năm. Đây là nguồn lực dồi dào cho những người sẽ trở thành bố già, nhưng nó không thể ngụy trang được một sự thật là, một số khía cạnh của môi trường hoạt động đang bắt đầu chống lại họ. Sự căng thẳng về vốn của các doanh nghiệp lớn xảy ra cùng với sự xuống dốc của các trang trại phải đóng thuế lợi tức mà theo truyền thống đã cung cấp luồng tiền mặt, đưa những người đàn ông mạnh mẽ này trở lại phạm vi của những doanh nghiệp thương mại bình thường. Vào những năm 1920, thời của những nông trại đã kết thúc. Đồng thời, việc chính quyền thực dân miễn cho các “thủ lĩnh” của họ không phải thực hiện một số nghĩa vụ, tự động xác nhận đại gia là người đứng đầu cộng đồng của ông ta. Ví dụ, ở Malaya, ông trùm thủ lĩnh cuối cùng được bổ nhiệm vào thập niên đầu của thế kỷ XX, và người cuối cùng từ chức ở thập niên thứ ba. Ở một mức độ lớn, thể chế “thủ lĩnh” này được thay thế bởi sự phát triển phòng thương mại Trung Quốc ở địa phương mà những nhân vật chủ chốt của nó đều là những doanh nhân hùng mạnh nhất. Nhưng thời kỳ khi nắm chắc trong tay một danh xưng thiếu tá hoặc đại úy Trung Quốc, và do đó được nhà cầm quyền thừa nhận là “người được uỷ quyền” đã qua đi.

Trong một số trường hợp, đã xuất hiện dấu hiệu của sự chuyển tiếp sang một dạng ít phụ thuộc vào bên ngoài hơn của các doanh nghiệp do những đại gia thầu khoán nắm giữ trong thập niên cuối cùng trước kỷ nguyên độc lập. Hai trường hợp điển hình xuất hiện ở Singapore là Hồ Văn Hổ và Trần Gia Canh. Những người này, lần lượt sinh năm 1882 và 1874, đã xây dựng nên những doanh nghiệp lớn không phải bằng công việc môi giới cho các thương gia hoặc làm chủ trang trại. Có lẽ, gây ấn tượng mạnh hơn, họ đi vào buôn bán các hàng hóa tiêu dùng hơn là chỉ tham gia buôn bán các nguyên liệu thô và hàng hóa bán thành phẩm. Sản phẩm có dấu hiệu đặc trưng của Hồ Văn Hổ là “dầu cao con hổ”, một loại thuốc mỡ chữa bách bệnh và xoa bóp chỗ đau vẫn còn được bán rộng rãi. Đế chế của Hồ đã phát triển một loạt thuốc chữa bệnh được phép bán mà không cần bác sĩ kê đơn như thuốc chữa đau đầu, say sóng, đau họng và chữa chứng táo bón. Ông ta mở rộng hoạt động bán buôn và bán lẻ ở Hồng Kông, Trung quốc đại lục, Java, Sumatra và Thái Lan. Từ thuốc men, Hồ Văn Hổ mở rộng sang xuất bản báo chí ở khắp khu vực, đa số là báo chí tiếng Trung.

Trần Gia Canh cũng bắt đầu với các đồn điền, nhưng không giống các nhà sản xuất châu Á khác thích nghi với môi trường thuộc địa với tư cách là những nhà cung cấp các mặt hàng bán thành phẩm hoặc nguyên liệu thô, ông ta quyết định sản xuất cao su do chính mình trồng. Trần có các nhà máy sản xuất lốp xe, giày và đồ chơi bằng cao su và mở các đại lý bán lẻ những sản phẩm đó. Tuy nhiên, quyết định của ông ta khi tiếp nhận những nhà sản xuất châu Âu, Nhật và Mỹ mà không có sự bảo vệ thuế quan, góp phần làm suy giảm lợi ích kinh doanh chính của mình trong tình trạng trì trệ. Ông đã có những nỗ lực dũng cảm để chống lại hệ thống này, nhưng đều thất bại.


Giang Vi

Tôi là một người yêu sách cuồng nhiệt và đã hơn 20 năm. Tôi dành cả ngày để đọc, viết blog về sách và viết bình luận. Tôi tin rằng sách là công cụ mạnh mẽ nhất trong cuộc sống để mở mang đầu óc cho những ý tưởng và quan điểm mới. Các thể loại yêu thích của tôi bao gồm tiểu thuyết lịch sử, giả tưởng, khoa học viễn tưởng và phi hư cấu. Tôi cũng thích tìm hiểu về các nền văn hóa khác nhau thông qua văn học.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts:

Back to top button