Kinh doanh - đầu tư

Lời Thú Tội Của Một Sát Thủ Kinh Tế


loi-thu-toi-cua-mot-sat-thu-kinh-te_21. THÔNG TIN SÁCH/EBOOK

Tác giả : John Perkins

Download sách Lời Thú Tội Của Một Sát Thủ Kinh Tế ebook PDF/PRC/EPUB/MOBI. Tải miễn phí, đọc online trên điện thoại, máy tính, máy tính bảng.

Danh mục : KINH DOANH – ĐẦU TƯ

Đọc thử Xem giá bán

2. DOWNLOAD

Download ebook                      

File ebook hiện chưa có hoặc gặp vấn đề bản quyền, Downloadsach sẽ cập nhật link tải ngay khi tìm kiếm được trên Internet.

Bạn có thể Đọc thử hoặc Xem giá bán.

Bạn không tải được sách ? Xem hướng dẫn nhé : Hướng dẫn tải sách


3. GIỚI THIỆU / REVIEW SÁCH

Những sát thủ kinh tế (EHMs) là những chuyên gia được trả lương hậu hĩnh để đi lừa các nước trên khắp thế giới lấy hàng nghìn tỷ đôla. Họ đổ tiền từ Ngân hàng Thế giới, Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) và các tổ chức “viện trợ” nước ngoài khác vào két sắt của các tập đoàn khổng lồ và vào túi của một số ít các gia đình giàu có – những người đang nắm quyền kiểm soát các nguồn tài nguyên thiên nhiên của hành tinh này. Công cụ của họ là các báo cáo tài chính gian lận, những vụ bầu cử gian trá, các khoản hối lộ, tống tiền, tình dục và giết người. Họ diễn một trò cũ của chủ nghĩa đế quốc, song đã biến đổi theo những chiều hướng mới đáng ghê sợ hơn trong thời đại toàn cầu hóa.

Tôi biết điều này; tôi đã từng là một EHM. Tôi viết những dòng đó vào năm 1982 để mở đầu cho cuốn sách có tiêu đề là Lương tâm của một sát thủ kinh tế. Cuốn sách này dành tặng cho hai vị tổng thống của hai nước đã từng là khách hàng của tôi, những người mà tôi đã kính trọng và luôn coi như ruột thịt – Jaime Roldós (Tổng thống Êcuađo) và Omar Torijos (Tổng thống Panama). Cả hai đã mất trong những vụ tai nạn khủng khiếp. Cái chết của họ không phải là ngẫu nhiên. Họ bị ám sát vì họ đã đứng lên chống lại phe phái các công ty, chính phủ và các trùm ngân hàng, những người có chung mục tiêu là thống trị toàn cầu. Những sát thủ kinh tế chúng tôi đã không thể mua chuộc được Roldós và Torrijos, và vì thế một loại sát thủ khác, những tên giết người thực sự của CIA, những kẻ luôn đi sau chúng tôi, đã vào cuộc.

Người ta đã thuyết phục tôi không viết cuốn sách đó nữa. Trong 20 năm tiếp sau đó, tôi đã bốn lần bắt tay vào viết tiếp. Lần nào cũng là do tôi bị chứng kiến những sự kiện đang xảy ra trên thế giới: đó là cuộc xâm lược Panama của Mỹ năm 1989, chiến tranh vùng vịnh lần thứ nhất, sự kiện ở Somalia, sự xuất hiện của Osama bin Laden. Nhưng rồi những lời đe dọa hay những khoản đút lót lại níu chân tôi.

Năm 2003, Chủ tịch một nhà xuất bản lớn thuộc một tập đoàn quốc tế hùng mạnh đã đọc bản thảo của cuốn sách mà giờ đây có tên là Lời thú tội của một kẻ sát thủ kinh tế. Ông ta đã mô tả nó như “Một câu chuyện mê ly và cần phải được kể lại”. Nhưng rồi ông ta cười buồn bã, gật đầu và nói với tôi rằng, vì các nhà quản lý tại những cơ quan đầu sỏ thế giới có thể sẽ phản đối nên ông ta không dám mạo hiểm xuất bản nó. Ông ta gợi ý tôi viết nó lại dưới dạng một tiểu thuyết. “Chúng tôi có thể quảng bá ông như một tiểu thuyết gia kiểu John Le Carré hoặc Graham Greene.”

Nhưng đây không phải là một cuốn tiểu thuyết. Nó là một câu chuyện thực về cuộc đời tôi. Một nhà xuất bản khác dũng cảm hơn, chẳng thuộc một tập đoàn quốc tế nào, đã đồng ý giúp tôi kể lại nó. Câu chuyện này phải được kể ra. Chúng ta đang sống trong thời đại của những cuộc khủng hoảng trầm trọng – và cả của những cơ hội vô cùng lớn lao.

Câu chuyện về sát thủ kinh tế này kể lại công việc chúng tôi đã vươn tới vị trí hiện tại như thế nào và tại sao giờ đây chúng tôi phải đối mặt với những cuộc khủng hoảng tưởng chừng không thể vượt qua. Cần phải kể ra câu chuyện này bởi vì chỉ khi chúng ta hiểu ra những sai lầm trong quá khứ, chúng ta mới có thể tận dụng những được những cơ hội trong tương lai; bởi sự kiện 11/9 đã xảy ra, và chiến tranh Iraq lần thứ 2 cũng đã xảy ra; bởi vì ngoài 3000 người đã chết vào ngày 11/9/2001, mỗi ngày còn có thêm 24000 người chết đói, vì họ không thể kiếm nổi thức ăn (1).

Quan trọng nhất là, câu chuyện này cần phải được kể ra vì đây là lần đầu tiên trong lịch sử, một quốc gia có đủ khả năng, tiền bạc và quyền lực để thay đổi tất cả những điều này. Đó là quốc gia đã sinh ra tôi và tôi đã từng phụng sự với vai trò là một EHM: Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.

Vậy cuối cùng cái gì đã khiến tôi lờ đi mọi mối đe dọa và những khoản hối lộ?

Câu trả lời ngắn gọn là con gái duy nhất của tôi, Jessica, đã tốt nghiệp đại học và đang bước vào thế giới bằng chính đôi chân của nó. Gần đây khi tôi nói với nó rằng tôi đang cân nhắc có nên xuất bản cuốn sách này không và nói cho nó về nỗi sợ của tôi, nó đã nói “Đừng sợ, cha à. Nếu như họ bắt cha, con sẽ tiếp tục những gì cha để lại. Chúng ta cần phải làm điều này cho những đứa cháu mà con hy vọng sẽ sinh cho cha sau này!”. Đó là một câu trả lời ngắn gọn.

Câu trả lời dài hơn liên quan đến sự cống hiến của tôi cho đất nước tôi lớn lên, liên quan đến tình yêu của tôi với những lý tưởng mà ông cha tôi, những người khai quốc đã tuyên bố từ ngày thành lập nước, liên quan đến lời cam kết chắc chắn của tôi với một nước Mỹ mà hiện đang hứa hẹn những điều về “cuộc sống, quyền tự do và quyền được mưu cầu hạnh phúc” cho tất cả mọi người, ở mọi nơi và liên quan đến cả quyết tâm sẽ không chịu ngồi yên nữa sau khi xảy ra sự kiện 11/9, khi mà các EHMs đang biến nền Cộng hòa đó thành một đế chế toàn cầu. Đó là những nét phác họa về nội dung của câu trả lời dài hơn; chi tiết cụ thể sẽ được trình bày ở những chương tiếp theo.

Đây là một câu chuyện thực. Tôi đã trải qua từng giây phút của câu chuyện này. Cảnh vật, con người, những cuộc đối thoại và những cảm giác mà tôi miêu tả đều là một phần trong cuộc sống của tôi. Mặc dù đó là câu chuyện về cuộc đời riêng của tôi, nhưng được đặt dưới bối cảnh của các sự kiện thế giới lớn lao đã làm nên lịch sử của chúng ta, đã đưa chúng ta đến vị trí hiện tại và xây dựng nên nền tảng cho tương lại của con cháu chúng ta. Tôi đã hết sức cố gắng truyền đạt lại những gì tôi đã trải qua, những con người, những cuộc hội thoại đó một cách chính xác. Mỗi khi bàn về một sự kiện lịch sử hoặc tái tạo lại các cuộc đối thoại với người khác, tôi đều dùng đến nhiều công cụ như: những tài liệu đã xuất bản; những hồ sơ và ghi chép cá nhân; các sưu tập – của tôi và của những người đã từng tham gia; 5 bản thảo tôi đã bắt đầu trước đó; những tài liệu lịch sẻ của các tác giả khác, trong đó đáng chú ý nhất là những tài liệu xuất bản gần đây, có tiết lộ các thông tin mà trước đó được coi là mật hoặc không tồn tại. Các tài liệu tham khảo được liệt kê ở phần cuối để giúp những độc giả quan tâm có thể tìm hiểu sâu hơn về những đề tài này. Nhà xuất bản hỏi tôi liệu chúng tôi có thực sự coi mình là những sát thủ kinh tế không. Và tôi cam đoan với họ rằng chúng tôi thực sự nghĩ như vậy, mặc dù thường chỉ qua những từ viết tắt. Thực tế, vào cái ngày của năm 1971 khi tôi bắt đầu làm việc với “cô giáo” tôi, Claudine, cô đã cho tôi biết “Nhiệm vụ của tôi là huấn luyện anh trở thành một sát thủ kinh tế. Không ai được biết về công việc thật sự của anh – thậm chí cả vợ anh”. Rồi cô ấy nghiêm giọng: “Một khi anh đã dấn thân vào con đường này, anh sẽ không còn đường lui.” Từ đó trở đi, ít khi cô ta dùng tên đầy đủ; chúng tôi chỉ đơn giản là những EHMs.

Vai trò của Claudine là một ví dụ hấp dẫn về những mánh khóe thao túng đã làm nên nghề nghiệp của tôi. Đẹp và thông minh, cô thực sự có ảnh hưởng sâu sắc; cô ấy biết các điểm yếu của tôi và tận dụng chúng một cách tôi đa. Nghề nghiệp của cô và cách thức cô thực hiện nó là một thí dụ về sự khôn ngoan của những con người đằng sau hệ thống này.

Claudine chưa nói thẳng hết về những gì mà tôi phải làm. Cô ấy nói, công việc của tôi: “khích lệ các nhà lãnh đạo trên thế giới trở thành một phần của cái mạng lưới khổng lồ được dựng nên để củng cố các lợi ích thương mại của Mỹ. Rút cục, những nhà lãnh đạo này sẽ rơi vào gánh nặng của nợ nần và điều này sẽ đảm bảo cho lòng trung thành của họ với Mỹ. Chúng tôi có thể nhờ đến họ bất cứ khi nào chúng tôi cần_để đạt được những nhu cầu về quân sự, chính trị hay kinh tế. Đổi lại, họ củng cố địa vị chính trị của mình bằng việc xây dựng những khu công nghiệp, các nhà máy điện và sân bay cho nhân dân của họ. Những ông chủ của các công ty kỹ thuật_xây dựng sẽ trở nên giàu có một cách khó tin”.

Ngày nay chúng ta có thể thấy những kết quả mà cái hệ thống này sản sinh ra bắt đầu quay cuồng. Các vị lãnh đạo ở những công ty được kính trọng nhất đang thuê nhân công với mức lương gần như cho nô lệ để làm quần quật trong những điều kiện làm việc phi nhân đạo tại những xí nghiệp chuyên bóc lột công nhân hết sức tàn tệ ở Châu Á. Các công ty dầu lửa cố tình đổ các chất độc hại xuống các dòng sông trong vùng rừng rậm nhiệt đới, giết chết con người, động vật và thực vật một cách có chủ ý và hủy diệt các nền văn hóa cổ xưa. Ngành công nghiệp dược từ chối cung cấp thuốc men để cứu sống hàng triệu người Châu Phi nhiễm HIV. 12.000.000 gia đình ở ngay chính nước Mỹ cũng đang phải lo kiếm ăn hàng ngày (2). Ngành năng lượng thì sản sinh ra Eron. Ngành kế toán lại sản sinh ra Adersen. Nhớ năm 1960, thu nhập của 1/5 dân số các nước giàu nhất thế giới chỉ gấp 30 lần thu nhập của 1/5 các nước nghèo nhất thế giới, thì đến năm 1995 khoảng cách này đã tăng lên 74 lần (3). Nước Mỹ đã tiêu tốn 87 tỷ USD cho cuộc chiến ở Iraq, trong khi đó Liên Hợp Quốc ước tính chỉ cần chưa đến một nửa số tiền đó là chúng ta có thể mang lại nước sạch, khẩu phần ăn đầy đủ, dịch vụ y tế và giáo dục cơ bản cho tất cả mọi người trên hành tinh này (4).

Và chúng tôi tự hỏi, tại sao những kẻ khủng bố lại tấn công chúng tôi? Một số người đổ lỗi cho việc chúng tôi mắc phải những vấn đề như hiện nay là do một âm mưu có tổ chức. Tôi ước gì nó chỉ đơn giản như vậy. Các thành viên của một âm mưu có thể bị phanh phui và đưa ra xét xử. Song, những gì thực sự đang nuôi dưỡng hệ thống này còn nguy hiểm hơn cả âm mưu. Nó không do một nhóm người nhỏ lẻ nào điều khiển mà nó chịu sự chi phối của một khái niệm đã được coi là chân lý: đó là ý tưởng cho rằng mọi sự tăng trưởng kinh tế đều có lợi cho mọi người và rằng càng tăng trưởng thì lợi ích càng lớn. Đức tin cũng dẫn tới một hệ quả cho rằng, những người có khả năng tạo ra tăng trưởng phải được khen ngợi và trả công, còn những kẻ khốn cùng sinh ra là để bị bóc lột.

ĐỌC THỬ

 Chương 1: Sát thủ ra đời

Câu chuyện bắt đầu thật tình cờ.

Tôi sinh năm 1945, là con duy nhất trong một gia đình trung lưu. Cha mẹ tôi đều là dân gốc Bắc Mỹ, đã sinh sống ba đời ở bang New England. Sự khuôn phép, nghiêm khắc và lòng trung thành là dấu ấn mà tổ tiên hà khắc để lại trong họ qua nhiều thế hệ. Họ là những người đầu tiên trong gia đình đi học đại học bằng học bổng. Mẹ tôi là giáo viên dạy tiếng Latinh ở trường trung học. Trong Đại chiến Thế giới II, cha tôi tham gia quân đội, là đại úy hải quân, phụ trách đội pháo thủ bảo vệ thương thuyền chở dầu trên Đại Tây Dương. Khi tôi chào đời ở Hanlover, bang New Hanpshire, cha tôi vẫn đang nằm viện ở Texas vì bị gãy xương hông. Lên một tuổi tôi mới được gặp cha.

Sau đó, cha tôi dạy ngoại ngữ ở trường Tilton shool, một trường nội trú nam ở vùng ngoại ô New Hanpshire. Ngôi trường vươn mình kiêu hãnh (hay ngạo nghễ theo như cách nói của dân địa phương)- trên một quả đồi, phía dưới là một thị trấn cũng cùng tên Tilton. Mỗi năm, trường tư này chỉ nhận 50 học sinh cho mỗi lớp từ lớp 9 đến lớp 12. Học sinh ở đây phần lớn là con cái của những gia đình giàu có từ Buenos Aires, Caracas, Boston và New York.

Nhà tôi luôn thiếu tiền, nhưng chúng tôi không bao giờ tự cho mình là nghèo. Mặc dù đồng lương giáo viên của bố mẹ tôi rất ít ỏi, nhưng tất cả nhu cầu thiết yếu của chúng tôi như thực phẩm, nhà ở, lò sưởi, nước, cắt cỏ hay dọn tuyết được cung cấp miễn phí. Từ lúc lên 4, tôi ăn ở bếp ăn nhà trường, nhặt bóng cho đội bóng mà cha tôi huấn luyện, được sử dụng khăn mặt ở phòng thay đồ.

Dù có tỏ ra khiêm tốn thì các giáo viên và vợ con họ vẫn coi mình thuộc tầng lớp cao quý hơn dân địa phương. Tôi từng nghe bố mẹ đùa rằng họ là chủ trang viên, cai quản những nông dân hèn kém – ý nói những người dân thị trấn. Tôi biết đó không chỉ đơn thuần là một câu đùa.
Các bạn học cấp I và cấp II của tôi thuộc tầng lớp nông dân đó. Chúng rất nghèo. Bố mẹ chúng là những người lao động chân lấm tay bùn, thợ xẻ gỗ hay thợ xay bột. Họ không ưa “ lũ học sinh trường tư” chúng tôi, và ngược lại, bố mẹ tôi cũng không thích tôi kết thân với những cô bạn thị trấn mà ông bà hay gọi là đồ “hư hỏng”. Nhưng từ hồi học lớp 1, tôi đã dùng chung sách giáo khoa và bút chì màu với mấy cô bạn trong lớp. Hồi đó, tồi phải lòng ba cô bạn: Ann, Priscilla và Judy. Vì vậy, khó mà chấp nhận quan điểm của cha mẹ tôi. Nhưng tôi vẫn tôn trọng ý muốn của họ.

Năm nào cũng vậy, cứ đến khi cha tôi được nghỉ hè ba tháng, chúng tôi lại đến ngôi nhà bên hồ do ông tôi xây vào năm 1921. ngôi nhà nằm giữa rừng. Vào ban đêm, chúng tôi có thể nghe thấy tiếng cú và tiếng sư tử núi. Ở đây, chúng tôi chẳng có hàng xóm láng giềng nào và tôi là đứa trẻ duy nhất. Khi còn nhỏ, tôi thường giả định rằng những cái cây trong rừng là hiệp sĩ Bàn Tròn và các thiếu nữ tên là Ann, Priscilla và Judy (tùy từng năm) đang gặp nạn. Sự đam mê của tôi chắc chắn cũng mạnh mẽ như mối tình của Lancelot với Guilevere- và thậm chí còn nồng nàn hơn thế nhiều.

Mười bốn tuổi, tôi được nhận học bổng của trường Tilton School. Với sự khích lệ của cha mẹ, tôi từ bỏ mọi vương vấn nơi thị trấn và không còn gặp những người bạn thủa nào nữa. Khi những bạn mới của tôi trở về biệt thự của họ để nghỉ hè, tôi còn lại có một mình trên đồi. Họ có bạn gái mới; tôi thì chẳng có cô nào, tất cả những cô gái tôi biết đều là đồ “gái điếm”; tôi đã bỏ họ và họ cũng đã quên tôi. Tôi chỉ còn lại một mình- thất vọng tràn trề.

Tuy nhiên, cha mẹ tôi thật giỏi trong việc điều khiển tôi. Họ quả quyết với tôi rằng tôi thật là may mắn khi có được một cơ hội tốt như vậy và một ngày nào đó, tôi sẽ biết ơn điều ấy. Tôi sẽ tìm được một người vợ hoàn hảo, một người phù hợp với những chuẩn mực đạo đức cao siêu của gia đình tôi. Dù thế, trong sâu thẳm, tôi sôi lên sùng sục. Tôi thèm muốn một người đàn bà- tình dục; tôi thậm chí còn nghĩ đến hạng gái điếm.

Nhưng thay vì nổi loạn, tôi nén sâu nổi tức giận của mình, luôn cố tỏ ra xuất sắc trên mọi phương diện nhằm biểu lộ sự chán nản. Tôi là sinh viên danh dự, đội trưởng hai đội thể thao của trường và là tổng biên tập tờ báo tường của trường. Tôi quyết làm bẽ mặt những lũ bạn học giàu có và xa rời thị trấn Tilton mãi mãi. Trong năm học cuối, tôi nhận được 2 học bổng toàn phần; một học bổng thể thao của trường Brown và một học bổng hàn lâm của trường Middlebury. Tôi chọn Brown, chủ yếu vì tôi muốn trở thành vận động viênvà vì nó ở thành phố. Nhưng vì mẹ tôi tốt nghiệp Middlebury và cha tôi học cao học ở đó, mặc dù trường Brown nằm trong tay Ivi League, họ thích Middlebury.

Cha tôi hỏi: “Thế nhỡ con bị gẫy chân thì sao? Nhận học bổng hàn lâm là hơn con ạ.”

Theo tôi thì Middlebury cũng chỉ là hình ảnh phóng to của Tilton – dù nó có nằm ở ngoại ô Vermont thay vì ngoại ô New Hampshire. Đúng là trường đó dành cho cả nữ sinh thật, nhưng tôi nghèo, trong khi hầu hết sinh viên ở đó lại giàu có, và trong suốt bốn năm vừa rồi, tôi đã không hề học chung với phái nữ. Tôi mất hết tự tin, thấy mình như ngoài cuộc, và cảm thấy thật khổ 24/240 sở. Tôi năn nỉ xin cha cho tôi được bỏ học hay nghỉ hẳn một năm. Tôi muốn đến Boston, để biết thế nào là cuộc sống và đàn bà. Tất nhiên cha tôi không thể chấp nhận. Ông nói: “Làm sao bố có thể dạy dỗ con cái người khác vào đại học trong khi bản thân con của mình lại không học đại học?”

Đến lúc này, tôi hiểu ra rằng, cuộc đời là hàng loạt những sự ngẫu nhiên. Nhưng cách mà chúng ta phản ứng lại những điều ngẫu nhiên đó- chúng ta sử dụng cái mà nhiều người gọi là quyền tự quyết như thế nào- mới quyết định tất cả. Việc chúng ta chọn gì khi đứng trước những bước ngoặt của cuộc đời sẽ quyết định số phận của chúng ta. Hai biến cố quan trọng quyết định cuộc đời tôi xảy ra ở Middlebury. Một là từ một người Iran, con trai một vị tướng, cố vấn riêng cho nhà vua Iran. Còn biến cố thứ hai xuất hiện từ một cô gái xinh đẹp tên làAnn, trùng với tên cô bạn gái thủa thiếu thời của tôi.

Người thứ nhất là Farhad, đã từng chơi bóng đá chuyên nghiệp ở Rome. Với thể lực của một vận động viên mái tóc quăn đen, đôi mắt màu hạt dẻ, cộng thêm xuất thân và sức quyến rũ thiên bẩm, anh ta khiến phụ nữ bị mê hoặc. Anh ta trái ngược hẳn với tôi ở nhiều điểm. Phải vất vả lắm tôi mới kết bạn được với anh ta, và sau đó được anh ta dạy rất nhiều thứ có ích cho tôi trong những năm sau này. Tôi cũng đã gặp Ann. Mặc dù khi đó cô ấy đang có mối quan hệ nghiêm túc với một anh chàng ở trường khác, nhưng cô ấy đã đón nhận tôi. Mối tình trong trắng giữa hai chúng tôi là mối tình thực sự đầu tiên mà tôi từng có.

Farhad khuyến khích tôi uống rượu, đi chơi và phớt lờ cha mẹ. Tôi chẳng học hành gì cả. Tôi quyết định sẽ làm hỏng sự nghiệp học hành của mình để trả đũa cha tôi. Điểm số của tôi rớt thảm hại. Tôi bị mất học bổng. Vào những năm thứ hai, tôi quyết định bỏ học. Bố đe dọa sẽ từ tôi. Farhad thì lại xúi thêm tôi. Tôi đến thẳng phòng hiệu trưởng và tuyên bố bỏ học. Khoảnh khắc đó đã thay đổi cuộc đời tôi.

Farhad và tôi đã kỷ niệm đêm cuối cùng của tôi tại thị trấn trong một quán bar. Một nông dân với tầm vóc khổng lồ say rượu, buộc tôi tán tỉnh vợ ông ta. Ông ta nhấc bổng tôi lên và quẳng tôi vào tường. Farhad nhảy vào giữa chúng tôi, rút dao chém đúng vào má ông ta. Rồi anh ta kéo tôi qua phòng, đẩy tôi qua cửa sổ xuống rìa con lạch Otter. Chúng tôi nhảy xuống, bơi dọc sông về ký túc xá.

Sáng hôm sau, khi bị cảnh sát thẩm vấn, tôi đã nói dối và từ chối không nhận bất cứ chi tiết nào về vụ rắc rối đó. Tuy nhiên, Farhad cũng bị đuổi học. Chúng tôi chuyển đến Boston và thuê chung một căn phòng ở đó. Cuối cùng, tôi kiếm được việc làm tại tòa soạn báo Hearst’s Record American/ Sunday Advertiser, làm trợ lý riêng cho Tổng biên tập tờ Sunday Advertiser.

Cuối năm 1965, một vài người bạn tôi làm việc trong tòa soạn bị bắt đi quân dịch. Để tránh số phận tương tự, tôi đăng kí học quản trị kinh doanh tại Trường Đại học Boston University (BU). Cũng vào thời điểm đó, Ann chia tay với bạn trai cũ và thường đi Middlebury đến thăm tôi. Tôi vui mừng đón nhận sự quan tâm của cô ấy. Ann tốt nghiệp năm 1967, trong khi tôi vẫn còn 1 năm nữa ở BU. Nhưng cô ấy nhất định ko chịu sống chung với tôi chừng nào chúng tôi chưa cưới. Tuy vẫn nói đùa là mình bị “tống tình”, nhưng tôi thực sự bực mình vì tôi thấy yêu cầu của cô ấy không khác gì 1 sự tiếp nối những chuẩn mực đạo đức cổ lỗ và lập dị của cha mẹ mình, song tôi thật sự hạnh phúc khi ở bên cô ấy và tôi muốn nhiều hơn thế nữa. Chúng tôi lấy nhau.
Bố Ann, 1 kĩ sư giỏi, đã thiết kế hệ thống điều khiển cho 1 hệ thống tên lửa cực kì quan trọng và giữ 1 chức vị cao trong hải quân. Người bạn thân của ông mà cô ấy thường gọi là chú Frank (đây ko phải tên thật của ông ta), là ủy viên cao cấp của cục an ninh quốc gia (NSA), 1 tổ chức gián điệp được rất ít người biết đến nhưng được coi là tổ chức gián điệp lớn nhất của Mỹ.

Không lâu sau khi cưới, tôi nhận được giấy triệu tập đi khám sức khỏe của quân đội. Tôi đạt tiêu chuẩn về thể lực và có nguy cơ phải đi chiến đấu ở Việt Nam ngay sau khi tốt nghiệp. Ý nghĩ phải chiến đấu ở Đông Nam Á giằng xé tôi, mặc dù chiến tranh vẫn luôn hấp dẫn tôi.

Tôi lớn lên qua những câu chuyện về tổ tiên tôi từ thời thuộc địa, trong đó có cả Thomas Paine và Ethan Allen- tôi đã từng đi khắp bang New England, đến thăm những chiến trường phía bắc bang New York, nơi từng diễn ra cuộc chiến giữa người Pháp với người da đỏ, và những cuộc chiến cách mạng. Tôi từng đọc tất cả những cuốn tiểu thuyết lịch sử mà tôi có thể tìm được. Thực ra, khi những đơn vị đầu tiên của lực lượng quân đội đặc biệt đặt chân đến Đông Nam Á, tôi đã hăm hở định nhập ngũ. Nhưng khi các phương tiện thông tin đại chúng phơi bày sự tàn nhẫn của chiến tranh và tính bất nhất trong các chính sách của chính phủ Mỹ, tôi đã thay đổi thái độ. Tôi luôn tự hỏi, nếu ở vào địa vị của tôi, không biết Paine sẽ đứng về phía nào? Và tôi dám chắc ông sẽ gia nhập Việt Cộng, kẻ thù của chúng tôi.

Chú Frank đã cứu tôi. Ông cho tôi hay một công việc ở NSA sẽ giúp tôi hoãn phải đi quân dịch. Ông thu xếp cho tôi một loạt những cuộc gặp gỡ tại NSA, cả một ngày dài với những cuộc phỏng vấn đến kiệt sức với máy đo nhịp tim. Người ta nói, những cuộc kiểm tra đó cốt để xác định xem liệu tôi có phù hợp với công việc mà NSA tuyển và đào tạo hay không. Và nếu tôi đáp ứng được, họ sẽ lập ra cả một hồ sơ về những điểm mạnh, điểm yếu của tôi để rồi từ đó quyết định con đường sự nghiệp của tôi sau này. Với thái độ của tôi về cuộc chiến tranh ở Việt Nam, tôi tin chắc mình sẽ trượt.

Trong đợt kiểm tra, tôi thú nhận rằng là môt người Mỹ trung thành, tôi phản đổi chiến tranh và tôi ngạc nhiên khi thấy những người phỏng vấn tôi chẳng quan tâm gì đến đề tài này. Thay vào đó, họ tập chung vào nền giáo dục mà tôi được hưởng, thái độ của tôi đối với cha mẹ, và cả những cảm xúc nảy sinh từ hoàn cảnh sống của tôi: Lớn lên trong một gia đình nghèo và hết sức nghiêm khắc, giữa quá nhiều bạn bè trường tư giàu có và trác táng. Họ cũng tìm hiểu kỹ tâm trạng chán nản của tôi về cuộc sống thiếu đàn bà và tiền bạc cùng cái thế giới tưởng tượng của tôi xuất phát từ sự thiếu thốn đó. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy họ đặc biệt chú ý tới mối quan hệ giữa tôi và Farhad, và cả việc tôi sẵn sàng nói dối để bảo vệ cậu ta ở đồn cảnh sát.

Thoạt đầu, tôi cho rằng, tất cả những điều mà tôi cho là quá tiêu cực này sẽ khiến NSA không nhận tôi, nhưng rồi những cuộc phỏng vấn vẫn tiếp tục. Mọi việc đã không như tôi nghĩ. Phải vài năm sau, tôi mới nhận ra rằng, những yếu tố tiêu cực này theo quan điểm của NSA lại là tích cực. Theo những đánh giá của họ, lòng trung thành của tôi với đất nước không quan trọng bằng sự chán nản của tôi trong đời. Sự hằn học của cha mẹ, nỗi ám ảnh về phụ nữ, và cả cái tham vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn của tôi đã giúp họ tạo ra một cạm bẫy. Tôi đã bị xiêu lòng. Quyết tâm thể hiện trong học tập và trong thể thao, sự nổi loạn tột bậc chống lại cha tôi, khả năng kết thân với người nước ngoài và việc tôi sẵn sàng nói dối cảnh sát chính là cái kiểu tính cách mà họ đang tìm kiếm. Sau này, tôi cũng phát hiện ra rằng cha của Farhad làm việc cho những tổ chức tình báo Mỹ ở Iran, do vậy, tình bạn giữa tôi và Farhad rõ ràng đã cộng cho tôi thêm một điểm.

Vài tuần sau cuộc kiểm tra của NSA, tôi được mời tham gia một khóa huấn luyện tình báo. Khóa này sẽ bắt đầu vài tháng ngay sau khi tôi nhận bằng tốt nghiệp tại BU. Tuy nhiên, trước khi chính thức nhận lời mời này, tôi lại bốc đồng tham dự một hội thảo do một nhân viên tuyển mộ thuộc Quân đoàn Hòa bình tổ chức tại BU. Điểm hấp dẫn nhất ở đây là, cũng giống như NSA, với việc làm ở Quân đoàn Hòa bình tôi sẽ được hoãn quân dịch.

Quyết định tham gia hội thảo đó là một trong những sự kiện ngẫu nhiên mà vào thời điểm đó dường như chẳng có gì quan trọng, nhưng sau này lại làm thay đổi cả cuộc đời tôi. Người tuyển mộ giới thiệu một số nơi trên thế giới hiện đang rất cần các tình nguyện viên. Ông ta nhấn mạnh, một trong những địa điểm đó là rừng rậm Amazon, nơi mà những người bản xứ vẫn đang sống cuộc sống của những thổ dân Bắc Mỹ trước khi có sự xuất hiện của người Châu Âu.

Tôi luôn mơ được sống như những người Abnakis, những người đã sinh sống ở New Hamphshire khi tổ tiên của tôi lần đầu tiên định cư tại vùng đất này. Tôi biết dòng máu Abnaki chảy trong huyết quản của mình, và tôi cũng muốn được học toàn bộ những hiểu biết và truyền thuyết về rừng mà họ có. Sau cuộc nói chuyện, tôi tìm gặp người tuyển mộ và hỏi về khả năng được cử đến Amazon. Ông ta cam đoan với tôi rằng, vùng này đang cần rất nhiều người tình nguyện và rất có khả năng là tôi sẽ được cử đến đó. Tôi gọi điện cho chú Frank.

Trước sự ngạc nhiên của tôi, chú Frank khuyến khích tôi tham gia Quân đoàn Hòa bình. Ông tiết lộ, sau sự sụp đổ của Hà Nội- mà vào những ngày đó, đối với những người ở vị trí của ông, điều đó tưởng như đã chắc chắn-Amazon sẽ trở thành một điểm nóng.

“Vùng đó có rất nhiều dầu lửa”, ông nói. “Ở đó chúng ta sẽ cần đến những đặc vụ giỏi những người hiểu rõ dân bản địa”. Ông đảm bảo với tôi rằng Quân đoàn Hòa bình sẽ là một trường đào tạo tuyệt vời. Ông cũng khuyên tôi nên thạo tiếng Tây Ban Nha cũng như tiếng địa phương. Ông cười: “ Rất có thể rốt cuộc cháu sẽ làm cho một công ty tư nhân chứ không phải cho chính phủ đâu”.

Khi đó, tôi không hiểu ông có ý gì. Tôi đang được đào tạo nâng cao để từ một gián điệp trở thành một EHM mặc dầu trước đó và cho đến cả vài năm nữa, tôi vẫn chưa được nghe tới từ này. Tôi chẳng có khái niệm gì về việc có đến hàng trăm người, cả đàn ông, đàn bà, rải rác trên khắp thế giới, làm việc cho các công ty tư vấn và những công ty tư nhân khác. Họ chưa bao giờ nhận một đồng lương từ bất kỳ một tổ chức chính phủ nào, song vẫn không ngừng phục vụ vì lợi ích của cả một đế chế. Tôi cũng chẳng thể đoán nổi rằng, đến cuối thiên niên kỷ này, một nghề mới, được che đậy dưới rất nhiều cái tên khác nhau, sẽ thu hút đến hàng nghìn con người và rằng, tôi sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo dựng nên cả một đội quân không ngừng lớn mạnh.

Ann và tôi nộp đơn xin gia nhập Quân đoàn Hòa bình và yêu cầu được đến vùngAmazon. Khi giấy báo chúng tôi được chấp nhận, cảm giác đầu tiên của tôi là cực kỳ thất vọng. Giấy báo viết, chúng tôi được cử đến Êcuađo.

Trời ạ, tôi nghĩ, nơi tôi muốn đến làAmazon chứ không phải Châu Phi.

Tôi kiến tập bản đồ và tìm Êcuađo. Tôi mất hết cả tinh thần khi chẳng thể tìm thấy Êcuađo trên bản đồ lục địa Châu Phi. Đến khi xem bảng chú giải, tôi mới biết rằng, thực ra Êcuađo nằm ở Châu Mỹ Latin và nhìn trên bản đồ, tôi thấy hệ thống sông chảy từ dãy núi băng Andy tạo thành thượng nguồn cho dòng sông Amazon hùng vĩ. Đọc thêm nữa, tôi càng chắc rằng những khu rừng rậm nhiệt đới của Êcuađo nằm trong số những khu rừng đa dạng và bí hiểm nhất thế giới. Những người bản xứ ở đó vẫn sống cuộc sống như họ đã sống từ hàng nghìn năm trước. Và chúng tôi đồng ý.

Ann và tôi hoàn thành khóa đào tạo của Quân đoàn Hòa bình ở miền Nam California. Tháng 9 năm 1968, chúng tôi đi về phía Êcuađo. Chúng tôi đã sống trong rừng Amazon với người Shuar. Họ sống cuộc sống gần giống với cuộc sống của thổ dân Bắc Mỹ từ trước thời thuộc địa. Chúng tôi đã ở cùng với hậu duệ của người Incas trên núi Andy. Đó là phần của thế giới mà tôi chưa từng nghĩ là vẫn còn tồn tại. Cho đến khi đó, những người Mỹ Latinh duy nhất mà tôi từng biết là những học sinh tư thục giàu có ở trường của cha tôi. Tôi thấy mình gắn bó với những người bản xứ, những người vốn chỉ sống dựa vào săn bắn và trồng trọt. Thật kỳ lạ, tôi có cảm giác như họ là những người ruột thịt của tôi vậy. Dù sao thì họ cũng làm tôi nhớ tới đám bạn bè thị trấn mà tôi đã bỏ lại đằng sau.

Một hôm, có người đàn ông, đóng bộ complet rất lịch sự, tên là Einar Greve, bay đến chỗ chúng tôi. Ông là Phó chủ tịch Chas.T.Main,Inc. (MAIN), một hãng tư vấn quốc tế rất ít khuyếch trương, có trách nhiệm tiến hành các nghiên cứu để quyết định xem Ngân hàng Thế giới có nên cho Êcuađo và những quốc gia láng giềng vay hàng tỷ đô la để xây dựng đập thủy điện và những dự án hạ tầng cơ sở khác hay không. Einar cũng là đại tá trong lực lượng Quân dự bị Mỹ.

Einar bắt đầu kể cho tôi nghe về những lợi ích khi làm việc cho một công ty kiểu như MAIN. Khi tôi nói, tôi từng được NSA tuyển trước khi gia nhập Quân đoàn Hòa bình, và rằng tôi đang cân nhắc việc quay trở lại làm việc cho họ, ông ta cho tôi hay, ông còn đóng vai trò sĩ quan liên lạc của NSA. Ánh mắt của ông ta khiến tôi ngờ rằng, một trong những nhiệm vụ của ông ta ở đây là đánh giá năng lực của tôi. Giờ thì tôi tin chắc rằng khi đó ông ta đang cập nhập hồ sơ của tôi, và đặc biệt là đánh giá khả năng sống sót của tôi trong những môi trường mà hầu hết người Bắc Mỹ thấy không thể chịu đựng được.

Chúng tôi làm việc với nhau vài ngày ở Êcuađo, rồi sau đó chỉ liên hệ qua thư từ. Ông ta đề nghị tôi gửi cho ông ta các báo cáo đánh giá triển vọng kinh tế của Êcuađo. Tôi có một máy chữ xách tay loại nhỏ, lại thích viết lách và rất thích thú với đề nghị này. Trong khoảng một năm, tôi đã gửi cho Einar ít nhất khoảng mười lăm lá thư dài. Trong thư, tôi nhận định tương lai kinh tế, chính trị của Êcuađo, bình luận về nỗi tuyệt vọng ngày càng lớn dần của những người dân bản địa khi họ chiến đấu chống lại các công ty dầu mỏ, các tổ chức phát triển quốc tế và cả những thế lực khác hòng kéo họ vào cái thế giới hiện đại của chúng tôi.

Khi nhiệm vụ của tôi ở Quân đoàn Hòa bình kết thúc, Einar mời tôi tham gia phỏng vấn xin việc tại trụ sở chính của MAIN ở Boston. Trong cuộc gặp riêng giữa hai chúng tôi, Einar nhấn mạnh, MAIN chủ yếu hoạt động trong ngành công trình. Song, khách hàng lớn nhất của công ty là Ngân hàng Thế giới gần đây lại nhất định muốn ông tuyển thêm nhân viên là các nhà kinh tế, những người có thể đưa ra những dự báo kinh tế quan trọng, nhằm xác định tính khả thi và quy mô của các dự án đầu tư. Einar tiết lộ cho tôi biết, trước đây ông ta đã từng thuê ba nhà kinh tế tầm cỡ không chê vào đâu được- hai trong số đó có bằng cao học và một số có bằng tiến sỹ. Nhưng họ đều thất bại thảm hại.

Einar nói: “Không ai trong số họ có khả năng dự báo kinh tế cho những quốc gia nơi chẳng hề có con số thống kê đáng tin cậy nào”. Ông ta còn bảo, tất cả bọn họ đều thấy không thể đảm đương được những công việc mà ông ta yêu cầu, như đến những vùng xa xôi ở những nước như Êcuađo, Inđonêxia, Iran hay Ai Cập, gặp gỡ với lãnh đạo địa phương, rồi đưa ra những đánh giá cá nhân về triển vọng phát triển kinh tế của những vùng đó. Một người thậm chí đã suy nhược thần kinh phải sống trong một ngồi làng biệt lập ở Panama. Cảnh sát nước này phải đưa anh ta ra sân bay và tống lên máy bay trở về Mỹ.

“Những lá thứ của cậu cho tôi thấy rằng cậu sẵn sàng liều mạng, ngay cả khi cậu chẳng có chút dữ liệu đáng tin cậy nào. Và nhìn điều kiện sống của cậu ở Êcuađo, tôi tin cậu có thể sống sót ở bất cứ đâu”. Einar nói với tôi rằng ông ta đã sa thải một trong ba nhà kinh tế kia và sẵn sàng sa thải nốt hai người còn lại nếu tôi đồng ý làm công việc này.

Vậy là, tháng 1 năm 1971, tôi được đề nghị trở thành chuyên gia kinh tế cho MAIN. Tôi đã qua tuổi hai sáu – một cái tuổi kỳ diệu vì tôi không còn lo phải đi lính nữa. Tôi hỏi ý kiến gia đình Ann. Mọi người khích lệ tôi nhận công việc này, và tôi nghĩ chú Frank chắc cũng đồng tình với họ. Tôi nhớ lại hồi ông nói rồi tôi có thể sẽ làm cho một công ty tư nhân. Chẳng có gì rõ ràng ngay từ đầu cả, nhưng tôi chắc rằng, công việc của tôi ở MAIN rõ ràng là kết quả của chính những sự sắp đặt mà chú Frank đã chuẩn bị cho tôi từ ba năm trước, cộng thêm những kinh nghiệm của tôi ở Êcuađo và việc tôi yêu thích nghiên cứu về thực trạng kinh tế, chính trị của quốc gia này.

Tôi trăn trở trong nhiều tuần, và cái tôi trong tôi trỗi dậy. Tấm bằng cử nhân mà tôi nhận được từ BU không thể mang lại cho tôi vị trí một nhà kinh tế tại một công ty tư vấn tiếng tăm đến như vậy. Tôi biết, rất nhiều bạn học của tôi, những người không đủ tiêu chuẩn đi lính và đã kịp kiếm thêm bằng cao học hay trên đại học khác nữa sẽ phát ghen lên với tôi. Tôi tự hình dung ra mình trong vai trò một điệp viên bí mật hào hoa, ở những vùng đất lạ, nhởn nhơ bên những bể bơi khách sạn, xung quanh là hàng tá đàn bà mặc bikini tuyệt đẹp với ly rượu Matini trên tay.
Dù đó đơn thuần chỉ là tưởng tượng, song tôi biết sự thật cũng sẽ gần như thế. Einar đã tuyển tôi để làm chuyên gia kinh tế, nhưng tôi nhanh chóng nhận ra rằng, công việc thật sự của tôi còn đi xa hơn thế. Quả thực, nó giống với công việc của một James Bond hơn những suy đoán của tôi rất nhiều.


 

Giang Vi

Tôi là một người yêu sách cuồng nhiệt và đã hơn 20 năm. Tôi dành cả ngày để đọc, viết blog về sách và viết bình luận. Tôi tin rằng sách là công cụ mạnh mẽ nhất trong cuộc sống để mở mang đầu óc cho những ý tưởng và quan điểm mới. Các thể loại yêu thích của tôi bao gồm tiểu thuyết lịch sử, giả tưởng, khoa học viễn tưởng và phi hư cấu. Tôi cũng thích tìm hiểu về các nền văn hóa khác nhau thông qua văn học.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts:

Back to top button