Kinh doanh - đầu tư

Khát Vọng Việt: Vì Sao Đất Nước Ta Còn Nghèo

1. THÔNG TIN SÁCH/EBOOK 

Tác giả : Đỗ Cao Bảo

Download sách Khát Vọng Việt: Vì Sao Đất Nước Ta Còn Nghèo ebook PDF/PRC/MOBI/EPUB. Tải miễn phí, đọc online trên điện thoại, máy tính, máy tính bảng.

Danh mục : KINH TẾ

Đọc thử Xem giá bán

2. DOWNLOAD

Định dạng ebook                  

File ebook hiện chưa có hoặc gặp vấn đề bản quyền, Downloadsach sẽ cập nhật link tải ngay khi tìm kiếm được trên Internet.

Bạn có thể Đọc thử hoặc Xem giá bán.

Bạn không tải được sách ? Xem hướng dẫn nhé : Hướng dẫn tải sách


3. GIỚI THIỆU / REVIEW SÁCH

Lời giới thiệu


LỜI GIỚI THIỆU

Tôi có 12 năm làm việc tại tập đoàn FPT (từ 1995 đến 2007). Thật may mắn khi tôi được làm việc với những người anh, người chị và các đồng nghiệp rất tâm huyết, thông minh, có ý chí quyết tâm cao, sáng tạo, có những suy nghĩ mới, lạ và luôn đổi mới. Một trong số những người mà tôi học được nhiều nhất là anh Đỗ Cao Bảo.

Anh Bảo lúc đó còn là Tổng Giám đốc Công ty Hệ thống Thông tin FIS (FPT Information System) chứ chưa là Phó Tổng Giám đốc tập đoàn như bây giờ. FIS do anh Bảo đứng đầu luôn mang lại doanh thu và lợi nhuận thuộc hàng cao nhất tập đoàn. Cách anh Bảo điều hành FIS cũng rất khác lạ.

Anh Bảo ngồi làm việc ở tầng ba tòa nhà FPT, số 89 Láng Hạ còn tôi ngồi ở tầng bốn. Vì vậy, tôi cũng có nhiều cơ hội hàn huyên và học tập từ anh. Cách tư duy mạch lạc, có chiến lược, cách điều hành mềm dẻo nhưng dứt khoát, cách sống giản dị nhưng yêu thích cái đẹp của anh làm tôi thích thú. Anh Bảo cũng không giấu nghề nên chúng tôi học được nhiều. Học qua công việc. Học qua các buổi họp.

Rồi tôi bất ngờ phát hiện ra anh Bảo viết khá tốt. Các bài viết của anh vừa sâu sắc vừa dí dỏm, lại có tính thực tế. Vì vậy, chúng tôi đề nghị anh viết sách. Từ một ý nghĩ trong đầu mà kết quả là quý vị có trên tay cuốn sách thú vị này.

Trong những lần tiếp xúc gần đây, anh Bảo tâm sự rằng anh rất thích cuốn “Think and Grow Rich – 13 nguyên tắc nghĩ giàu làm giàu” (Cuốn sách này luôn nằm trong danh sách bán chạy của Thái Hà Books và người dịch không ai khác chính là Trần Phương Thảo – Phó Tổng Giám đốc Điều hành). Anh tâm sự rằng anh là người thực chứng đã ứng dụng thành công từng nguyên tắc trong sách vào cuộc sống và công việc. Khi đề nghị, anh còn đồng ý viết lời giới thiệu khi tái bản. Điều này càng làm tôi cảm thấy mình đúng khi luôn khuyên bất cứ ai đọc sách “Đọc cũng quan trọng nhưng ứng dụng còn quan trọng hơn”.

Bản thảo sách xong là tôi mê liền. Không chỉ tôi mà các em đồng nghiệp cũng rất thích. Tôi đưa cho một vài doanh nhân đọc và họ đề nghị in ngay, in sớm ngày nào hay ngày đó. Chúng tôi mừng muốn khóc. Như vậy, những bài học của anh Đỗ Cao Bảo sẽ giúp ích cho rất nhiều doanh nhân.

Tôi xin cảm ơn anh Đỗ Cao Bảo đã rất nhiệt tình và ưu ái tôi cùng các đồng nghiệp tại Thái Hà Books để sớm được xuất bản cuốn sách này. Rất mong bạn đọc học và ứng dụng thật nhiều từ những tâm huyết và kinh nghiệm xương máu của anh Đỗ Cao Bảo – Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn FPT. Chính vì lẽ đó mà với tất cả sự trân trọng và quý mến, tôi xin giới thiệu cuốn sách này tới quý độc giả.

Nguyễn Mạnh Hùng

Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Sách Thái Hà

ĐỌC THỬ

LÀM GIÀU CHO CÁ NHÂN THÔI CHƯA ĐỦ

Năm 1989 có một sự kiện ở sân bay Sheremetyevo, Moscow đã hằn sâu một vết đau mà mãi mãi chúng tôi không bao giờ quên, nó tác động rất lớn đến suy nghĩ, hành động của chúng tôi trong suốt hơn 27 năm qua.

Cuối năm 1989, trong một chuyến công tác châu Âu, chúng tôi rất khó khăn mới mua được vé máy bay từ Moscow về Hà Nội, nhưng có vé máy bay là một chuyện, xếp hàng lên được máy bay về Việt Nam lại là một việc hoàn toàn khác.

Ở sân bay quốc tế Sheremetyevo, cảnh người Việt xếp hàng, chen lấn, xô đẩy, bị cảnh sát Nga dùng dùi cui để giữ an ninh và cảnh ông thầy tôi đang vừa giơ hai tay đỡ dùi cui vừa hét lớn “доктор наук! доктор наук! доктор наук!”, (Tiến sĩ Khoa học! Tiến sĩ Khoa học! Tiến sĩ Khoa học!), đối nghịch với cảnh người Nhật nhẹ nhàng, lịch thiệp, thong dong đi trên thảm đỏ lên máy bay đã làm cho chúng tôi thấu hiểu: “Muốn được bạn bè quốc tế nể trọng, muốn dân tộc Việt Nam sánh vai các cường quốc năm châu thì nhất định đất nước Việt Nam phải giàu mạnh”.

Chính vì vậy mà đối với những người thuộc thế hệ sáng lập FPT chúng tôi, tâm nguyện “làm giàu cho cá nhân mình, cho gia đình mình, cho công ty FPT, đồng thời góp phần làm giàu cho đất nước, góp phần hưng thịnh quốc gia” không chỉ là câu nói sáo rỗng, không chỉ là lên gân lên cốt mà nó là mệnh lệnh từ sâu thẳm trái tim.

Đúng 5 năm sau, tháng Một năm 1995, tôi vô cùng xúc động, cảm giác lâng lâng khi bước chân vào khách sạn năm sao ở Orlando (Florida, Mỹ) tham dự hội nghị IBM toàn cầu. Khi anh bạn gốc Việt − nhân viên IBM Mỹ ôm chầm lấy chúng tôi mà reo lên sung sướng: “Ôi người Việt Nam chúng ta đã sang Mỹ dự hội nghị IBM toàn cầu rồi, không chỉ một mà những năm người”. Thời khắc ấy, ký ức về viên cảnh sát Nga vung dùi cui và ông thầy tôi vừa giơ tay đỡ vừa hét lớn, “доктор наук! (Tiến sĩ Khoa học!)” lại hiện về.

Khi FPT toàn cầu hóa, mỗi lần nghe tin thắng thầu, mỗi khi lễ ký kết hợp đồng ở Singapore, Manila, Phnom Penh, Viêng Chăn, Dhaka, Yangon… được diễn ra, mỗi khi nhận được một đồng ngoại tệ từ nước ngoài thì hình ảnh viên cảnh sát Nga và ông thầy tôi lại hiện về.

Thời điểm cổ phiếu FPT lên sàn chứng khoán cuối năm 2006, cách đây tròn 10 năm, là quãng thời gian đặc biệt trong cuộc đời của rất nhiều người FPT, nhất là anh Trương Gia Bình, người được mệnh danh là “NGƯỜI TẠO RA NHIỀU TRIỆU PHÚ NHẤT VIỆT NAM”. Đấy là quãng thời gian mà hàng ngày chúng tôi cảm nhận rõ nhất cái nguyện ước “LÀM GIÀU CHO CÁ NHÂN THÔI CHƯA ĐỦ” đã thực hiện được một phần khi biết rằng FPT đã có 170 người trở thành triệu phú, khi mà anh lái xe vui mừng thông báo đã mua được căn nhà ba tầng đầy đủ nội thất ở khu đô thị mới, còn chị tạp vụ thì vui mừng dọn đến căn hộ chung cư hai phòng ngủ.

Chính vì tâm nguyện “Làm giàu cho cá nhân thôi chưa đủ” đã thôi thúc tôi viết loạt bài “Vì sao đất nước ta còn nghèo”, các bài về chủ đề “Nguyên lý thành công trong cuộc sống”, các bài về các nhân vật vượt qua nghèo khó, trở ngại vươn lên, làm giàu cho cá nhân, gia đình mình. Bởi lẽ đơn giản là tôi rất tâm đắc với phương châm “Mỗi người hãy làm tốt nhất công việc của mình, làm giàu cho cá nhân mình thì xã hội sẽ ngày một tốt đẹp hơn, đất nước ngày càng giàu mạnh hơn” và khi ấy người Việt sẽ được bạn bè quốc tế nể trọng hơn.

Bình luận

Nữ sĩ quan cao cấp quân đội: Mình rất cảm động về bài viết của bạn và rất cảm phục bạn.

Nam Facebooker: Câu chuyện của chú ý nghĩa quá chú ạ.

Nam doanh nhân: Cảm động quá anh ơi.

Nam Facebooker: Nghịch cảnh thì tạo ra năng lượng, điều này tự nhiên, vậy nếu không có nghịch cảnh thì sao anh, tạo năng lượng thế nào?

Nam Facebooker: Cảm ơn chú đã liên tục trao giá trị, chia sẻ những bài học tuyệt vời. Chúc chú mạnh khỏe và ngày càng giúp đỡ được nhiều người hơn nữa.

Nam Facebooker: Bài viết rất hay, góc nhìn lớn tạo ra những con người thành đạt.

Nữ Facebooker: Xúc động quá. Cảm ơn các anh!

Nữ Facebooker: Cảm động quá anh ạ. Anh thực sự là một người có tầm và có tâm.

Nam Facebooker: Rất xúc động anh ạ!!!

Nam doanh nhân: Câu chuyện này vẫn luôn là động lực truyền cảm hứng cho thế hệ bọn em, dù đang làm ở FPT hay đang làm ở bất cứ đâu. Cảm ơn các anh.

Nam Facebooker: Đây là triết lý kinh doanh bền vững. Phụng sự để dẫn đầu.

Nam Facebooker: Xúc động và ngưỡng mộ các anh, những con người tạo ra nhiều triệu phú. Cảm ơn anh nhiều.

Nam Facebooker: Rất phục các anh! Mong FPT ngày càng vươn tầm thế giới và tạo ra nhiều tỉ phú đô-la anh nhé!

Nam Facebooker: Luôn dõi theo và đọc kỹ từng chia sẻ của anh, nhưng đọc xong chia sẻ này, em buộc phải comment vì tâm đắc một điều, tự ái nào có thể gác lại chứ tự ái dân tộc thì không thể chần chừ được, phải luôn sôi sục, không cho phép được nguội lạnh một giây phút nào! Rất ngưỡng mộ tập thể FPT của các anh, khoa học, nhân văn và đầy hiệu quả. Cảm ơn facebook vì nhờ nó mà chúng ta kết nối được với nhau. Chúc anh sức khỏe và lực kéo luôn tốt!

VÌ SAO ĐẤT NƯỚC TA CÒN NGHÈO


VÌ SAO ĐẤT NƯỚC TA CÒN NGHÈO


Vì sao đất nước ta còn nghèo? Vì sao Việt Nam chưa bằng được các đất nước khác kể cả các nước có cùng điều kiện khí hậu, địa lý trong khu vực như Singapore, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines?

TRONG LỊCH SỬ

Trong suốt 4000-5000 năm lịch sử, để so sánh các dân tộc, các nền văn hóa, thông thường người ta chỉ có thể so sánh thông qua những di tích lịch sử, các công trình kiến trúc, bởi đấy là những vật thể duy nhất còn sót lại từ hàng trăm, hàng nghìn năm. Đó cũng là những thứ duy nhất để các con cháu đời sau kết nối với cha ông, tổ tiên mình, có cảm nhận về hơi thở, sự tồn tại của cha ông, tổ tiên mình.

Dưới góc độ ấy, tôi đi tìm các di tích lịch sử, các công trình kiến trúc của các quốc gia, các nền văn hóa trên toàn thế giới. Một sự thật đáng buồn là dân tộc Việt Nam chúng ta đã từng có những công trình lớn nhưng qua thời gian và do chiến tranh liên miên, cùng khí hậu khắc nghiệt và cả con người tác động, giờ không còn chứng tích vật chất hoành tráng.

Không so sánh với các nước Âu, Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, không so sánh với các nền văn hóa như Maya (Trung Mỹ), Ba Tư (Trung Đông), La Mã (Hy Lạp, Tây Ban Nha, Pháp, Anh, Đức, Ý…), Olmec (Trung Mỹ), Inca (Peru), Ai Cập, Mông Cổ, Trung Hoa… mà chỉ cần so sánh với Thái Lan, Myanmar, Indonesia, Campuchia… cũng dễ dàng nhận ra điều đó.

Chùa Vàng (Golden Buddha), chùa Phật Ngọc, chùa Doi Suthep, cung điện Hoàng Gia của Thái Lan; chùa Vàng Shwedagon (Yangon), đền Shwesandaw, đền Mahamuni (Mandalay) của Myanmar; đền thờ Prambanan, quần thể đền thờ Phật giáo lớn nhất thế giới Borobudar của Indonesia; quần thể Angkor Thom, Angkor Wat của Campuchia (Angkor Wat có diện tích 40.000 ha, xấp xỉ 401 km2). Đến cả dân tộc Chăm (nay đã thành một phần của nước Việt) cũng có những công trình đồ sộ lưu lại đến ngày nay.

4

5

Chùa Shwadagon của Myanmar

1

Đền Mahamuni (Mandalay) của Myanmar

2

Đền Prambanan của Indonesia

3

Đền Angkor Wat của Campuchia

6

Wat Arun của Thái Lan

Đất nước chúng ta có giai đoạn 21 năm chia cắt hai miền Nam-Bắc (1954-1975). Thời ấy thông tin ít, trong dân gian vẫn truyền tụng rằng thời 1954-1975, kinh tế Nam Việt Nam phát triển rực rỡ, vượt cả các nước Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Philippines…, chỉ thua duy nhất Nhật Bản; thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu chỉ mong Singapore phát triển như Sài Gòn; các công tử nhà giàu Singapore, Malaysia, Indonesia, Thái Lan còn sang Sài Gòn du học và cuối tuần sang Sài Gòn chơi. Nếu quả thật đấy là hiện thực thì rất mừng cho nước Việt chúng ta, nó chứng tỏ dân tộc Việt có những tố chất ưu tú, đã có một giai đoạn ngắn trong lịch sử đưa kinh tế Việt Nam vượt trội so với các nước khác trong khu vực ASEAN và châu Á.

Tôi đã tra cứu rất nhiều tài liệu lịch sử của các tổ chức quốc tế như Liên Hiệp Quốc (UN), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB) và các tổ chức khác để tìm bằng chứng khách quan khẳng định trình độ phát triển kinh tế của Nam Việt Nam. Thật đáng tiếc không có bất cứ một tài liệu của bất cứ tổ chức quốc tế nào khẳng định điều đó. Ngược lại, có nhiều tài liệu khẳng định rằng trước năm 1975 kinh tế Nam Việt Nam chỉ hơn có Lào, Campuchia, Myanmar; duy nhất một số năm từ 1960-1965 là hơn Indonesia, Thái Lan và Hàn Quốc. Sau năm 1965 thì chỉ hơn Lào, Campuchia, Myanmar, kém Thái Lan, Indonesia, Philippines, kém xa Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, Malaysia.

Đâu là nguyên nhân?

Theo tôi, có hai loại nguyên nhân:

1) Nguyên nhân khách quan:

– Chiến tranh liên miên, thiên tai địch họa đã hủy hoại nhiều dấu ấn văn minh vật chất của dân tộc, và không cho chúng ta cơ hội hưởng thái bình lâu dài để phát triển.

– Nền kinh tế tiểu nông, manh mún, thô sơ, chậm phát triển, phụ thuộc vào khí hậu, thời tiết.

2) Nguyên nhân chủ quan:

Nhìn tại thời điểm hiện tại, theo tôi, người dân Việt hiện đại có bốn điểm yếu cố hữu cản trở sự phát triển như sau:

1. Dễ hài lòng

2. Tư duy nhỏ trong kinh tế

3. Suy nghĩ chủ quan

4. Nền tảng triết lý cho phát triển yếu

Tôi sẽ lần lượt phân tích chi tiết bốn điểm yếu cố hữu trên. Tuy nhiên, đây chỉ là cảm nhận hoàn toàn chủ quan, bởi lẽ muốn thực sự hiểu rõ bản chất của vấn đề thìì cần phải có cách tiếp cận liên ngành như dân tộc học, tâm lý học, văn hóa học v.v. Vậy xin bạn đọc lưu ý: Những điều tôi nói là nhận xét, quan sát của riêng cá nhân tôi.

DỄ HÀI LÒNG

Về lao động, tính cả cuộc đời, người Việt có số năm làm việc thực sự ngắn hơn các dân tộc khác.

Ông Hirosuke, ông chủ người Nhật của nhà máy bánh kẹo Tango Candy ở Tân Đức, Đức Hòa, Long An, đã 77 tuổi. Ngài Tomokazu Hamaguchi, Ủy viên Hội đồng Quản trị FPT sinh năm 1944, nghĩa là 72 tuổi ông vẫn là Ủy viên Hội đồng Quản trị một tập đoàn công nghệ thông tin lớn nhất Việt Nam. Ngài Ogawa Takeo, cố vấn của FPT Japan, sinh năm 1939, tức năm nay đã 79 tuổi, năm 2009, khi về hưu đã 70 tuổi ông vẫn nhận lời làm Tổng Giám đốc FPT Japan.

Vào thời điểm năm 2016, khi tham gia ứng cử Tổng thống Mỹ thứ 45, bà Hillary Clinton đã 69 tuổi, còn ông Donald Trump đã 70 tuổi. Nếu trúng cử Tổng thống Mỹ thì bà Hillarry Clinton sẽ làm Tổng thống Mỹ tối thiểu đến năm 73 tuổi, còn ông Donald Trump sẽ làm Tổng thống Mỹ tối thiểu đến năm 74 tuổi.

Trong khi đó người Việt Nam ta 60 tuổi đã lên lão, nữ 55 tuổi, nam 60 tuổi đã về hưu, chưa kể sĩ quan cấp uý, cấp tá quân đội còn về hưu sớm hơn, có người 50, 52, 54 tuổi đã về hưu. Trong khi người Nhật, người Singapore, người Mỹ sau khi về hưu vẫn tiếp tục đi làm thêm, thì người Việt về hưu là không làm việc. Người Việt rất hài lòng với việc “vui thú tuổi già”, “vui thú điền viên”, “sum vầy bên con cháu”…

Chưa kể với nền văn minh lúa nước, ở nông thôn (chiếm 65% dân số) trước đây, người nông dân chỉ lao động vất vả mấy tháng mùa vụ, còn phần lớn thời gian trong năm là không có việc làm và rất nhiều người coi đó như một điều hiển nhiên. Ở đồng bằng Nam bộ thời xưa nhiều vùng còn không phải trồng lúa, lúa trời tự mọc, đến khi lúa chín mới đánh xuồng đi thu hoạch.

Nghề trồng lúa nước mang tính thời vụ rất cao, lúc gieo cấy và gặt hái thì rất cực nhọc, đúng là đầu tắt mặt tối, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, ai cũng nhìn thấy là rất vất vả, rất cần cù, rất chăm chỉ. Thế nhưng khoảng thời gian giữa lúc gieo cấy đến lúc thu hoạch kéo dài vài tháng, thời gian giữa thu hoạch vụ trước đến gieo cấy vụ sau cũng cả tháng. Thời gian ấy người nông dân lại chơi là chính như câu ca dao dưới đây:

Tháng Giêng là tháng ăn chơi

Tháng Hai cờ bạc, tháng Ba hội hè

Tháng Tư đong đậu nấu chè

Ăn tết Đoan Ngọ trở về tháng Năm.

Thói quen lao động tháng làm, tháng nghỉ đã tồn tại hàng nghìn năm ấy, ngày nay đã được nhiều người mang ra thành phố, dù có làm việc ở nhà máy, xí nghiệp, công trường họ vẫn không bỏ được thói quen nghỉ nhiều hơn làm.

Ở thành phố, ta thấy nhiều thanh niên không việc làm, ngày ngày la cà quán xá, cà phê, chơi bài cả ngày. Họ than thở, oán trách, đổ lỗi cho chính quyền mà ít người có ý chí lập nghiệp. Ít người nghĩ mình phải tự lập nghiệp, tự tạo ra công ăn việc làm cho chính mình và cho xã hội. Người có việc làm ở công sở thì hoặc sáng đến muộn giờ, hoặc đến đúng giờ chỉ để điểm danh rồi đi ăn sáng, giữa giờ làm việc thì lại trốn ra quán giải khát ngồi tán gẫu. Quán cà phê, giải khát, quán nước vỉa hè, quán bia hơi, quán nhậu mọc lên như nấm, mà quán nào cũng đông khách cả trong giờ làm việc.

Hiện tại, chúng ta có rất nhiều lễ hội. Theo thống kê, mỗi năm cả nước có gần 8.000 lễ hội, từ lễ hội dân gian, lễ hội lịch sử, lễ hội tôn giáo, lễ hội du nhập từ nước ngoài; lễ hội cấp quốc gia, lễ hội cấp tỉnh, lễ hội cấp tổng, cấp xã, cấp làng; từ tết Nguyên Đán, lễ Vu Lan, tết Trung Thu, lễ Giáng Sinh, v.v. Có lễ hội diễn ra chỉ một ngày, nhưng cũng có những lễ hội kéo dài ba tháng như lễ hội chùa Hương chẳng hạn.

Như vậy trong quá khứ, người nông dân một năm ít nhất đã không lao động ba tháng. Một điểm lạ là càng những người thuộc nhóm nghèo thì ý thức lao động kiếm tiền lại càng ít. Hầu hết những người giúp việc gia đình thì nghỉ tết đến tận rằm tháng Giêng; công nhân xây dựng, cầu đường, giao thông thì hầu hết nghỉ hết tháng Giêng.

Trong xu thế tuổi thọ con người ngày càng tăng, hầu hết các nước đều nâng tuổi về hưu (Mỹ 67 tuổi, Nhật 68 tuổi, Pháp 62 tuổi…) thì Việt Nam cũng nên nâng dần độ tuổi về hưu cho cả nam và nữ. Nhưng khi có dự thảo nâng dần tuổi về hưu thì một số người nhất loạt phản đối, họ gán ngay cho lãnh đạo tham quyền cố vị muốn ngồi ghế lâu nên sửa luật; họ bất chấp việc luật hưu trí ban hành khi tuổi thọ trung bình của người Việt Nam chỉ đạt 62,5, nhưng hiện tại tuổi thọ đã tăng lên đến 75 thì ta cũng phải theo xu thế tăng tuổi nghỉ hưu của cả thế giới.

Một đất nước đã có nhiều lợi thế như Singapore (HUB của khu vực) mà lại chăm chỉ lao động, ai ai cũng làm việc, kể cả những người già 65-75 tuổi, thì họ giàu có là điều hiển nhiên.

Một đất nước đã không có nhiều lợi thế mà người còn sức lao động, chưa già đã muốn nghỉ “an nhàn tuổi già”, “sum vầy bên con cháu” thì mãi vẫn nghèo cũng là chuyện không thể khác.

Lười suy nghĩ cũng là một đặc tính dễ thấy ở một bộ phận người Việt hiện đại.

Trên Facebook hoặc trên các diễn đàn không ít bạn “bàn phím” nhanh hơn “mắt”, chưa kịp đọc hết nội dung, chưa kịp hiểu hết ý người khác đã vội vã bình luận, thậm chí chửi bới. Bất cứ vấn đề gì xảy ra trong cuộc sống, họ đều không nghĩ sâu theo tính hệ thống, xem tổng thể cả hệ thống tốt hay không tốt mà chỉ nhìn ngay những lỗi nhỏ, vụn vặt và hùa theo. Chính vì lười nghĩ nên hay đánh giá sự vật, con người theo hình thức, giàu thì đi xe phải sang, phải dùng đồ hiệu, phải tiêu nhiều tiền. Chính vì lười nghĩ nên dễ bị truyền thông phi chính thống dắt mũi.

Cuộc sống là của mình, hạnh phúc là của mình, vậy mà nhiều người luôn trông chờ vào nhà nước, vào chính quyền. Người nghèo thì mong được chính phủ chăm lo cứu xét, không muốn tự mình thoát nghèo; người thông minh, có học hành mà chưa thành công thì tất cả tội lỗi là của cấp trên, của chính quyền, của thể chế, luôn luôn thường trực trong đầu suy nghĩ rằng “chỉ cần các ông thay đổi tự khắc tôi sẽ giàu, dân tộc sẽ giàu,” mà không bao giờ nghĩ rằng trước hết phải tự thay đổi chính bản thân mình, trước hết là phải chăm chỉ.

Truyền thống hiếu học đôi khi cũng dẫn đến hiếu danh. Thời trước các sĩ tử đi thi với mong muốn được khắc bia tiến sĩ, được vinh quy bái tổ về làng, được bổ làm quan, được rạng danh dòng họ. Nhà nước phong kiến tôn vinh họ để tuyển chọn người tài vào bộ máy chính quyền. Ngày nay, số người học hành để lấy điểm, lấy bằng cấp, để thăng quan tiến chức, để không thua bạn kém bè, thua con hàng xóm không phải là ít so với số người học để lấy kiến thức, tri thức để làm việc tốt hơn. Vì thế mới có chuyện chạy thầy, chạy điểm. Vì thế mới có chuyện bùng nổ tiến sĩ. Vì thế mới có chuyện đặt mục tiêu có bao nhiêu tiến sĩ.

Văn hóa đọc cũng đang suy giảm. Cứ nhìn số lượng các hiệu sách, số lượng độc giả đến hiệu sách, số đầu sách đọc trung bình của một người một năm từ số liệu của Tổng cục Thống kê thì sẽ thấy người Việt hiện đại ít đọc sách thế nào.

Người Việt giờ cũng lười vận động, lười đi bộ; chỉ cần khoảng cách 100 m họ cũng đi xe máy thay vì đi bộ. Ở các toà nhà cao tầng, số người đứng xếp hàng chờ thang máy đông, dù chỉ lên xuống 1-2 tầng nhưng không ai nghĩ là đi theo thang bộ sẽ nhanh hơn chờ thang máy. Khi cần sang đường, lẽ ra đi lên cầu vượt hoặc đi bộ thêm một đoạn đến phần đường đi bộ theo hàng đinh để sang đường cho an toàn thì nhiều người lại sang ngay chỗ muốn sang, bất chấp nguy hiểm cho bản thân. Khi ai đó vận động hay khuyên đi bộ thì họ nghĩ ra đủ lý do, nào là vỉa hè bị lấn chiếm, nào là bụi, nào là ô nhiễm, nhưng thực ra đi xe máy thì cũng bụi như thế và xe máy còn thải chất độc, gây ô nhiễm nhiều hơn.

Không chịu vận động khiến cơ thể thiếu sức dẻo dai, ảnh hưởng đến năng suất lao động. Đi xe máy khi không cần thiết sẽ làm tăng ùn tắc giao thông, tăng ô nhiễm môi trường, tăng tai nạn giao thông, lãng phí tiền xăng.

TƯ DUY NHỎ TRONG KINH TẾ

Tư duy nhỏ của người Việt thể hiện khá rõ trong giao thông: Thời trước, hệ thống giao thông của nước Việt chỉ là những con đường nhỏ cho người đi bộ, ngựa, trâu, bò và xe hai bánh người kéo. Ít có đường rộng đủ để xe bốn bánh ngựa kéo hay ô tô đi lại được (Các đường quốc lộ, tỉnh lộ, liên huyện trải nhựa, đường xe điện, đường tàu hoả đều được xây dựng thời Pháp thuộc).

Giao thông toàn đường nhỏ cho người và xe hai bánh rất lợi hại cho phòng thủ đất nước, chống xâm lược. Chỉ cần rút lui, vườn không nhà trống rồi tuyệt đường tiếp vận là quân xâm lược tự thua và rút về nước. Đọc lịch sử Việt Nam thì thấy hầu hết các triều đại, khi ở thế phòng ngự thì các tướng lĩnh, vua, chúa Việt Nam đều dùng chiến thuật vườn không nhà trống này để chống xâm lược phương Bắc và đều giành chiến thắng.

Thế nhưng để phát triển kinh tế, giao thương thì đường giao thông nhỏ bé cũng là lực cản, hạn chế lưu thông hàng hóa.

Tư duy nhỏ bé còn thể hiện trong việc ruộng đất được chia nhỏ theo từng thửa, thường là 1 sào 360 m2, với thửa ruộng bé như vậy thì chỉ có thể làm thủ công với hiệu suất thấp, không thể tổ chức sản xuất lớn, không thể cơ giới hóa. Khoán 100 năm 1981 và khoán 10 năm 1988 đã thiết lập nên kinh tế hộ gia đình, người nông dân làm chủ mảnh đất của mình, đã tạo ra cú huých, đột phá, đưa nước ta từ chỗ thiếu lương thực thành nước xuất khẩu gạo thứ hai thế giới. Nhưng như cái lò xo bị nén được giải phóng đã bung hết cỡ, những năm gần đây, nông nghiệp không còn lực phát triển nữa, bởi bản chất kinh tế hộ gia đình vẫn là lối tư duy nhỏ bé. Phải làm lớn, tích tụ ruộng đất lớn để sản xuất với quy mô lớn, đưa máy móc, tự động hoá vào, đặc biệt phải đẩy mạnh nông nghiệp công nghệ cao theo công nghệ của Nhật Bản, Israel. Chỉ có như vậy nông nghiệp và nông thôn Việt Nam mới có bước phát triển mạnh mẽ, mới có năng suất và hiệu suất cao.

Tư duy nhỏ bé còn thể hiện trong việc tổ chức buôn bán thông qua chợ cóc, vỉa hè. Với chợ cóc, buôn bán vỉa hè thì xe máy là phương tiện giao thông thích hợp nhất vì có thể dừng bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào. Khi xe máy ít thì đúng là rất thuận tiện, nhưng bây giờ khi Hà Nội có năm triệu xe và Hồ Chí Minh có tám triệu xe, nạn kẹt xe thường xuyên xảy ra thì hiệu quả của cả xã hội rất thấp, mỗi ngày người dân tốn thêm trung bình 45-75 phút cho việc đi đến công sở và trở về nhà. Bây giờ chúng ta mới bắt đầu nghĩ đến đường sắt đô thị, metro thì ít nhất phải 10-15 năm nữa Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh mới có hệ thống đường sắt đô thị, metro.

Tư duy nhỏ bé còn thể hiện trong các doanh nghiệp. Ai cũng biết doanh nghiệp nhỏ thì năng động hơn, nhưng doanh nghiệp lớn mới có tiềm lực, có thể đảm nhận những công trình lớn, mới có thể cạnh tranh quốc tế. Rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam sau một vài năm thành lập, phát triển thành công một chút, lớn một chút là tách làm hai, làm ba, kể cả những công ty do 2-3 người bạn thân cùng góp vốn.

Nếu chúng ta không có những công ty lớn thì không thể cạnh tranh quốc tế, không thể làm được những việc lớn. Đất nước mở cửa, hội nhập kinh tế thế giới đã 22 năm mà nếu doanh nghiệp Việt Nam chỉ làm thầu phụ ngay trên chính sân nhà mình cho các dự án đấu thầu quốc tế thì không ổn.

Hội nhập kinh tế thế giới là tất yếu, nhưng sau 22 năm hội nhập, một số thương hiệu Việt nổi tiếng một thời lại vào tay các hãng nước ngoài chỉ vì doanh nhân Việt không dám nghĩ lớn, không dám đương đầu cạnh tranh sòng phẳng với các hãng nước ngoài, dù là trên sân nhà. Thương hiệu Việt bị các hãng nước ngoài “nuốt chửng,’’ mất luôn tên tuổi có thể kể đến như: kem đánh răng Dạ Lan bị Colgate Palmolive thôn tính, kem đánh răng PS về tay Unilever, bia Huế về tay Carlsberg Đan Mạch, Tribeco về tay Uni-President, Phở 24 và Highland Coffee về tay Jollibee Ford…

Một điểm yếu nữa của nhiều doanh nhân Việt là ít có ‘‘máu’’ chinh phục, ít có ‘‘máu’’ kinh doanh quốc tế, hay khát vọng toàn cầu hoá. Trong khi người phương Tây vào tận nước mình, kinh doanh, thôn tính, kiếm tiền của mình, mà các doanh nghiệp Việt chỉ quanh quẩn trong nước, thậm chí trong thành phố mình, tỉnh mình thì rõ ràng sẽ thua thiệt nhiều thứ.

Năm 1998, FPT quyết định chiến lược Toàn cầu hoá Xuất khẩu Phần mềm, anh Trương Gia Bình đã gặp rất nhiều lực cản cả từ bên trong lẫn bên ngoài. Rất nhiều lãnh đạo FPT sợ thất bại, sợ mất tiền. Để thể hiện quyết tâm, anh Trương Gia Bình đã phải ra nghị quyết đầu tư 1 triệu đô la cho xuất khẩu phần mềm (một con số gấp 2,5 lần toàn bộ doanh thu phần mềm trong nước của FPT năm 1998). Chưa đủ, anh Trương Gia Bình còn thể hiện quyết tâm bằng khẩu hiệu “Dù phải đốt cả dãy Trường Sơn cũng phải xuất cho được phần mềm”. Nếu không có những quyết tâm cao độ đó thì hôm nay FPT đã không có 10.000 người làm xuất khẩu phần mềm với doanh thu 300 triệu đô la năm 2016.

Đến giai đoạn xuất khẩu lần thứ hai của FPT, kiếm được hợp đồng từ các nước đang phát triển đã khó, để có chuyên gia sẵn sàng đi nước ngoài triển khai hợp đồng cũng khó không kém. Chúng tôi đã phải xây dựng chính sách ưu đãi cho chương trình Toàn cầu hoá như tiêu chuẩn ăn, ở, đi lại, công tác phí, phụ cấp toàn cầu hoá, ba tháng về thăm nhà một lần, vậy mà cũng không mấy cán bộ tự nguyện đi Toàn cầu hóa. Chưa hết, chúng tôi còn quy định quy đổi doanh số Toàn cầu hoá được nhân hệ số 4, tức là 1 triệu đô la doanh số Toàn cầu hoá bằng 4 triệu đô la doanh số ở thị trường Việt Nam.

Hiện tại, tuy Việt Nam đã đạt kim ngạch xuất khẩu 162 tỷ đô la (năm 2015) nhưng hầu hết là xuất khẩu tài nguyên, khoáng sản, thuỷ hải sản, nông sản, thực phẩm và hàng gia công, chứ rất ít từ dịch vụ, từ công nghệ, tức giá trị chất xám của người Việt còn chiếm tỷ lệ rất thấp.

Về tinh thần thì số doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài (không tính Campuchia và Lào) chinh chiến, hoạt động thương mại, sản xuất, kinh doanh tại các quốc gia khác mới chỉ đếm trên đầu ngón tay, nếu phải kể tên thì cũng chỉ có Viettel, FPT, Hoàng Anh Gia Lai…

Chúng ta không kiếm được tiền của các nước khác mà lại để doanh nghiệp các nước khác kiếm tiền của mình, trên sân nhà mình thì chúng ta nghèo hơn người ta là đúng thôi.

SUY NGHĨ CHỦ QUAN

Việc áp đặt suy nghĩ chủ quan của mình cho người khác dễ nhận thấy trong ăn uống: mình ăn món gì thấy ngon thì sẽ nghĩ người khác phải ăn thế mới ngon; mình ăn hành, ăn tỏi, ăn mắm tôm, ăn thịt chó thì người khác cũng phải ăn, “không ăn phí nửa đời người”, “ăn tốt cho sức khỏe”, “ăn ngon lắm”… Họ đâu có biết người không ăn được thì hoặc cơ thể họ không tiếp nhận hoặc với họ ăn như một cực hình.

Khi tới nhà hàng hay mời khách đến nhà ăn, chúng ta ít khi hỏi người khác kiêng cái gì; lại thêm quan niệm “Nam vô tửu như kỳ vô phong”, nên trên bàn tiệc ta bắt tất cả đều phải uống rượu, đều phải 100%, nếu không 100% là không thật lòng, không cần biết người ta có uống được không, có đang điều trị bệnh gì không.

Hệ quả của việc áp đặt suy nghĩ chủ quan của mình cho người khác là làm người khác mất đi quyền suy nghĩ riêng và khả năng sáng tạo độc lập vì bị chi phối bởi quan niệm ‘‘Làm như tôi mới đúng, mới chuẩn.’’ Do vậy, trong khoa học, công nghệ, nếu chúng ta không có thói quen làm tiếp, tiếp quản thành quả của người khác mà thích làm lại từ đầu thì sẽ dẫn đến lãng phí của cải chung của cả xã hội, giá thành sản phẩm cao và chậm nhịp độ phát triển. Tổ chức sẽ thiếu tính sáng tạo vì không có người phản biện, hoặc là tổ chức sẽ thiếu sự đoàn kết và không phát huy hết các tài năng cá nhân vì những người khác suy nghĩ thì hoặc sẽ phải rời bỏ tổ chức hoặc ở lại thì thụ động, không dám thể hiện hết mình.

NỀN TẢNG TRIẾT LÝ CHO PHÁT TRIỂN YẾU

Nho giáo là hệ thống triết học bị áp đặt cho Việt Nam và chiếm vị trí độc tôn cho mãi tới thế kỷ XX.

Trên nền tảng triết lý Khổng giáo ấy, rất nhiều giá trị văn hóa – xã hội, truyền thống được hình thành và phát triển. Tuy nhiên, Nho giáo không cung cấp cho ta một triết lý phát triển kinh tế – xã hội thích hợp. Việc phân chia thành ‘‘sĩ, nông, công, thương’’ trong xã hội là không chuẩn, thậm chí bị sai lệch, từ đó dẫn đến đảo lộn các quy tắc hành xử, ứng xử trong xã hội cũng như trong phát triển kinh tế.

- Điểm sai lệch thứ nhất và cũng là nghiêm trọng nhất là Nho giáo đánh giá thấp vai trò của doanh nhân, doanh nghiệp và thương mại. Không những đánh giá thấp mà còn coi thường: dạy học và chữa bệnh thì được gọi là “thầy” (thầy giáo, thầy thuốc) (điều này không sai), còn buôn bán, thương mại thì gọi là “con”, là “bọn” (phường con buôn, bọn con buôn). Trong khi doanh nghiệp (bao gồm cả nhà máy, xí nghiệp sản xuất, ngân hàng) là trung tâm của xã hội, tạo công ăn việc làm cho 70% lao động trong xã hội, đóng thuế nuôi bộ máy chính quyền, duy trì an ninh quốc phòng, đầu tư cho giao thông, hạ tầng xã hội, đầu tư cho giáo dục, đầu tư cho y tế, chăm sóc sức khỏe, hỗ trợ người nghèo và các chính sách xã hội…

Đã bước vào thế kỷ XXI, hội nhập quốc tế đã 22 năm, thời đại Internet, thời đại toàn cầu hoá rồi mà hiện tại còn một số học giả, người có tri thức vẫn có luận điểm chia những người kinh doanh ở ta ra ba loại: doanh nhân, thương nhân và con buôn, trong khi thế giới chỉ dùng một từ duy nhất là “businessman”. Tệ hại hơn, có người còn kết luận hiện thời Việt Nam chưa có doanh nhân.

Một thành phần chính, lực lượng chính, hoạt động trung tâm của việc tạo ra của cải cho xã hội, của phát triển kinh tế, làm giàu cho cá nhân, tập thể và đất nước lại bị đánh giá thấp nhất, bị coi thường, thì vẫn nghèo cũng là chuyện hiển nhiên.

Có thời, chúng ta đã hiểu hoàn toàn sai về thương mại và doanh nhân, coi buôn bán, thương mại là lừa gạt, là bất nhân. Thực chất, thương mại và doanh nhân buộc người ta phải đi lại, gặp gỡ, giao lưu, buộc người ta phải thuyết phục đối tác, khách hàng. Muốn vậy, họ buộc phải tìm hiểu tâm lý, thói quen, nhu cầu của khách hàng; muốn vậy, họ buộc phải đặt mình vào địa vị của khách hàng để hiểu tâm lý, thói quen, nhu cầu, để khám phá xem khách hàng muốn gì; muốn vậy, họ buộc phải nghiên cứu, áp dụng khoa học và công nghệ để sản xuất ra các sản phẩm tốt nhất, phù hợp nhất. Tiếp theo, họ phải tìm cách chinh phục khách hàng, thuyết phục khách hàng đồng ý mua sản phẩm, dịch vụ của mình thay vì mua sản phẩm dịch vụ của nhà cung cấp khác, của quốc gia mình mà không phải quốc gia khác. Muốn làm được điều đó, doanh nhân phải là một người lịch sự, chân thành, lễ độ, nghiêm túc, hiểu biết, giữ chữ tín, đáng tin cậy, đáng yêu và có trách nhiệm với xã hội, đôi khi là cả lòng dũng cảm, đi tiên phong.

Chân thành, tin cậy, đáng yêu, có trách nhiệm với xã hội là bốn đức tính đáng quý nhất của một doanh nhân, thiếu bốn đức tính đó thì không thể là một doanh nhân lớn, không thể thành công trong thương mại, nếu có thành công thì chỉ là thành công nhỏ, tạm bợ mà thôi.

Chính vì bị đánh giá thấp, bị coi thường nên doanh nghiệp và nghề buôn (thương mại) một thời gian dài không được phát triển ở Việt Nam, mà thương mại và doanh nghiệp không được phát triển thì tất yếu đất nước sẽ nghèo.

– Điểm sai lệch thứ hai cũng nghiêm trọng là nhìn nhận sai lệch về tiền bạc.

Chúng ta có hai thái cực trái ngược nhau đầy mâu thuẫn về tiền bạc. Thái cực thứ nhất là coi khinh đồng tiền. Đã coi khinh đồng tiền, coi tiền là bạc bẽo thì hiển nhiên sẽ không bao giờ kiếm được nhiều tiền, không bao giờ giàu có. Thái cực thứ hai là tuyệt đối hoá đồng tiền: “Có tiền mua tiên cũng được”, “Tiền là vạn năng”, “Tiền là tất cả”. Đã tuyệt đối hoá đồng tiền họ sẽ kiếm tiền bằng mọi giá, không quan tâm đến chữ tín, không quan tâm đến nhân cách, bất chấp hậu quả.

Triết lý vừa tuyệt đối hóa vừa coi khinh đồng tiền đã dẫn đến một bộ phận người Việt Nam không dám công khai kiếm tiền, coi kiếm tiền như một sự vẩn đục, họ cố làm ra vẻ coi khinh đồng tiền, coi khinh sự giàu có và hãnh diện với sự thanh bần của mình. Mặt khác, họ cũng hiểu quyền lực của đồng tiền, họ cũng cần tiền và muốn có nhiều tiền, thành thử họ kiếm tiền và làm giàu một cách giấu giếm.

Các xã hội phát triển, văn minh họ đánh giá đúng giá trị đồng tiền, họ không tuyệt đối hóa cũng không coi khinh đồng tiền, họ coi đồng tiền là phương tiện trao đổi hàng hóa, là thước đo giá trị lao động, giúp họ có cuộc sống tốt hơn, đào tạo nâng cao trình độ, chăm sóc sức khỏe tốt hơn, báo hiếu cha mẹ, giải trí, du lịch và làm công tác xã hội.

- Điểm sai lệch thứ ba là cách đánh giá con người.

Thời phong kiến, người giỏi là giỏi làm thơ (xuất khẩu thành thơ), giỏi đối đáp (câu đối), trong khi đó xã hội cần bao nhiêu người tài trong các lĩnh vực khác nữa: khoa học tự nhiên và kinh tế – thương mại là hai lĩnh lực quan trọng nhất giúp kinh tế phát triển thì thời phong kiến không được quan tâm, không được đánh giá là người tài. Nửa cuối thế kỷ trước, ở miền Bắc lại quan niệm người giỏi là giỏi các môn tự nhiên, đặc biệt là môn Toán, tất cả những học sinh giỏi nhất lên đại học đều học Toán, Vật lý, Cơ học.

Chúng ta không đánh giá cao, không ca ngợi những nguyên lý cơ bản về hệ thống, bài bản mà thường đánh giá cao sự lanh trí xử lý theo tình huống theo điển Trạng Quỳnh như: “Dê đực chửa”, “Hâm nước mắm”, “Nhúng 10 đầu ngón tay vẽ giun”… Với tư duy ấy, chúng ta chỉ có thể làm tốt những hệ thống nhỏ, đơn lẻ, khi hệ thống lớn hơn, cần nhân rộng, cần phát triển lâu dài thì sự lanh trí, khôn vặt lại chính là lực cản của sự phát triển.

Việc tuyển chọn người thời phong kiến lại thông qua thi cử toàn là văn thơ. Đỗ trạng nguyên, thám hoa, bảng nhãn v.v. thì bổ làm quan. Thám hoa, bảng nhãn mà chỉ giỏi văn thơ thì làm sao lãnh đạo một tổng, một huyện, một tỉnh, làm sao lãnh đạo phát triển kinh tế. Đồng hành với coi trọng bằng cấp thi cử là coi nhẹ thực hành: ngày trước đi học chỉ dạy văn thơ, câu đối; ngày nay, nhiều cơ sở đào tạo chỉ dạy lý thuyết mà ít dạy thực hành.


NHẤT ĐỊNH ĐẤT NƯỚC TA SẼ GIÀU, HÃY TIN VÀ HÃY KHÁT VỌNG


Tuy chỉ ra bốn điểm yếu cố hữu của người Việt, nhưng tôi không bi quan, tôi vẫn rất lạc quan, tôi luôn tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc Việt, của đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta. Tôi tin tưởng sâu sắc rằng nhất định đất nước ta sẽ giàu, nhất định chúng ta sẽ đuổi kịp Thái Lan, sẽ vượt Philippines trong một thời gian không xa nữa.

Cơ sở để tôi tin tưởng bao gồm:

1. Người Việt có rất nhiều ưu điểm vượt trội

2. Tốc độ phát triển kinh tế 15 năm qua (2000-2015) của Việt Nam nhanh nhất ASEAN

3. Việt Nam đã có những điểm sáng vượt các nước ASEAN

Tôi sẽ phân tích lần lượt ba cơ sở trên.

Người Việt có rất nhiều ưu điểm vượt trội

Nói về ưu điểm của người Việt sẽ có nhiều nhận định, nhiều ý kiến khác nhau, cá nhân tôi cho rằng người Việt có một số ưu điểm có tác động lớn đến phát triển kinh tế đất nước, đó là:

– Người Việt yêu quê hương đất nước

– Người Việt kiên cường, bất khuất trước xâm lược, cường quyền

– Người Việt đoàn kết rất cao khi gặp khó khăn, nhất là khi ở hoàn cảnh ngặt nghèo

– Người Việt có lòng tự hào, tự tôn dân tộc với truyền thuyết con Rồng cháu Tiên

– Người Việt thông minh, sáng dạ, học nhanh, nhất là công nghệ mới

– Người Việt ham học (tuy hiện nay có vẻ lười đọc sách, lười tự học hơn so với trước kia). Bố mẹ luôn quan tâm đầu tư cho việc học tập của con cái

– Người Việt thân thiện và mến khách

Những ưu điểm trên, nếu biết phát huy (từng cá nhân, từng doanh nhân tự phát huy, từng doanh nghiệp, từng tổ chức, lãnh đạo quốc gia biết khơi dậy, biết tổ chức, biết khai thác) sẽ tạo thành sức mạnh, tạo thành năng lực cạnh tranh quốc tế, giúp nâng cao năng suất lao động, giúp sáng tạo ra nhiều sản phẩm, dịch vụ chất lượng cao, từ đó sẽ làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước cao hơn nhiều so với giai đoạn trước.

Tốc độ phát triển kinh tế 15 năm qua (2000 -2015) của Việt Nam nhanh nhất ASEAN

Trong thời gian qua chúng ta có nhiều bài báo nói Việt Nam ngày càng tụt hậu, khoảng cách giữa Việt Nam với các nước ASEAN ngày càng xa, nhưng số liệu thống kê của Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF lại cho kết quả hoàn toàn ngược lại.

Theo thống kê của Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF thì trong 15 năm qua (2000-2015) tốc độ phát triển kinh tế, tăng trưởng GDP của Việt Nam cao nhất khu vực ASEAN, khoảng cách giữa Việt Nam với các nước đã được rút ngắn đáng kể (các bạn có thể xem số liệu của IMF trong bảng biểu kèm theo).

Theo bảng thống kê này, tốc độ tăng trưởng GDP đầu người (normal per capita) giai đoạn 2010-2015 của các nước ASEAN có thứ tự như sau:

– Việt Nam: tăng trưởng 71,35%, từ 1.267 đô la lên 2.171 đô la

– Lào: tăng trưởng 66,82%, từ 1.070 đô la lên 1.785 đô la

– Campuchia: tăng trưởng 45,78%, từ 782 đô la lên 1.140 đô la

– Philippines: tăng trưởng 36,94%, từ 2.155 đô la lên 2.951 đô la

– Myanmar: tăng trưởng 27,15%, từ 998 đô la lên 1.269 đô la

– Singapore: tăng trưởng 14,29% từ 46.569 đô la lên 53.224 đô la

– Malaysia: tăng trưởng 12,93%, từ 8.920 đô la lên 10.073 đô la

– Indonesia: tăng trưởng 7,49%, từ 3.178 đô la lên 3.416 đô la

– Thái Lan: tăng trưởng 7,2%, từ 5.063 đô la lên 5.426 đô la

7

Theo bảng này thì trong vòng sáu năm, 2010-2015, tăng trưởng GDP theo đầu người của Việt Nam gấp gần 10 lần Thái Lan và Indonesia, gấp 5,5 lần Malaysia.

Cũng theo bảng thống kê này thì khoảng cách về GDP trên đầu người (normal per capita) giữa Việt Nam và các nước Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Philippines từ năm 2000 đến năm 2015 đã rút ngắn đáng kể, cụ thể:

– Singapore: từ gấp 59,19 lần xuống còn gấp 24,52 lần

– Malaysia: từ gấp 10,65 lần xuống còn gấp 4,94 lần

– Thái Lan: từ gấp 5,05 lần xuống còn gấp 2,5 lần

– Philippines: từ gấp 2,52 lần xuống còn gấp 1,36 lần

– Indonesia: từ gấp 2,21 lần xuống còn gấp 1,57 lần

Như vậy, nếu cứ giữ tốc độ này, việc Việt Nam đuổi kịp Philippines, Indonesia, Thái Lan là hoàn toàn có thể xảy ra trong thời gian không xa lắm.

Việt Nam đã có những điểm sáng vượt các nước ASEAN

GDP trên đầu người của Việt Nam đúng là còn kém Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Philippines, tức kinh tế Việt Nam còn chậm phát triển hơn, Việt Nam còn nghèo hơn, thế nhưng không phải lĩnh vực nào chúng ta cũng kém họ, ít nhất chúng ta có những doanh nghiệp như Viettel, Vinamilk, FPT đã có những mặt vượt các doanh nghiệp cùng lĩnh vực của các nước ASEAN.

Tập đoàn Viettel

Tuy về quy mô kinh doanh, doanh số, lợi nhuận, số nhân viên, Viettel vẫn còn thua các doanh nghiệp viễn thông của các nước Singapore, Malaysia, Indonesia, Thái Lan, nhưng về tinh thần Toàn cầu hóa, về sự có mặt, hiện diện kinh doanh ở nhiều quốc gia, nhất là châu Phi và Mỹ La tinh thì chắc chắn Viettel đã vượt các hãng viễn thông của các nước Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia.

Đến năm 2015, Viettel đã có mặt, hiện diện tại 10 quốc gia: Campuchia, Lào, Đông Timor, Myanmar, Mozambique, Cameroon, Burundi, Tanzania, Haiti, Peru, với tổng số thuê bao lên đến 250 triệu người (gấp 2,7 lần dân số Việt Nam), có doanh thu hàng năm là 1,4 tỷ đô la từ thị trường toàn cầu.

Theo kế hoạch đến năm 2020, Viettel sẽ hiện diện tại 20 đến 25 quốc gia, với khoảng nửa tỷ thuê bao, khi ấy Viettel sẽ là hãng viễn thông có số lượng thuê bao đứng đầu ASEAN.

Sữa Vinamilk

Vinamilk là doanh nghiệp có vốn hoá lớn nhất Việt Nam với giá trị công ty lên đến 9 tỷ đô la. Cuối tháng 6 năm 2016, tạp chí Nikkei (Nhật Bản) đã xếp Vinamilk là doanh nghiệp lớn thứ 22 châu Á (trừ Nhật Bản). Có thể nói, trong lĩnh vực sữa, Vinamilk đã trở thành doanh nghiệp lớn nhất ASEAN.

Vinamilk cũng là doanh nghiệp tiên phong trong lĩnh vực Toàn cầu hoá, hiện Vinamilk đã có 15 nhà máy sữa ở Việt Nam, ٣ nhà máy sữa ở New Zealand, Ba Lan, Mỹ.

Tập đoàn FPT

Trong lĩnh vực công nghệ thông tin (CNTT), Việt Nam chúng ta tự hào có FPT là doanh nghiệp CNTT lớn nhất Đông Nam Á. Với doanh thu gần 2 tỷ đô la và 30.000 nhân viên, hiện diện trên 20 quốc gia, FPT đã vượt xa nhiều lần các doanh nghiệp CNTT của các nước Singapore, Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Philippines.

Ở một đất nước mà tổng GDP thấp hơn nhiều lần, quy mô thị trường CNTT bé hơn 3-5 lần mà FPT có quy mô kinh doanh vượt tất cả các công ty CNTT các nước ASEAN 5-7 lần thì là một kỳ tích và Việt Nam chúng ta rất đáng tự hào.

Viettel, Vinamilk, FPT là những minh chứng rất thuyết phục rằng người Việt Nam chúng ta cũng như đất nước chúng ta hoàn toàn có thể ngang hàng và vượt các nước khác trong khu vực.

ĐI TÌM LỜI GIẢI ĐỂ VIỆT NAM THOÁT NGHÈO

Đi tìm lời giải để Việt Nam thoát nghèo, tôi đã suy nghĩ và tìm câu trả lời cho ba câu hỏi sau:

– Tại sao người Việt mắc một số điểm yếu cố hữu mà các dân tộc khác lại không mắc hoặc mắc ít hơn, nhẹ hơn và làm cách nào để khắc phục hoặc ít nhất hạn chế các điểm yếu cố hữu của người Việt?

– Tại sao các nước phương Tây (châu Âu, Mỹ, Australia), Nhật Bản lại giàu có vượt trội so với phần còn lại của thế giới (không tính các nước dầu mỏ Trung Đông do nguồn tài nguyên dầu mỏ, khí đốt thiên nhiên ban tặng)?

– Tại sao các nước châu Phi, Nam Á, ASEAN (trừ Singapore) lại nghèo?

Mỗi câu hỏi sẽ có nhiều câu trả lời khác nhau, nhưng câu trả lời chung nhất cho cả ba câu hỏi trên là các nước phương Tây văn minh hơn, dân trí cao hơn, tính khoảng 1000 năm trở lại đây thì hầu hết các phát minh vĩ đại nhất làm thay đổi thế giới loài người từ bánh xe, đầu máy hơi nước, bóng đèn, động cơ điện, điện thoại, tivi, máy tính, Internet… đều do người phương Tây phát minh.

Các nước châu Phi, Nam Á, ASEAN nghèo cũng là vì các nước ấy chưa có trình độ văn minh vật chất cao, dân trí còn thấp.

Đi tìm lời giải để Việt Nam thoát nghèo, tôi đã nghiên cứu các lời giải thoát nghèo của các học giả, các chuyên gia cả trong nước lẫn ngoài nước. Tôi đã nghiên cứu, suy nghĩ, phân tích sâu các lời giải đó. Có rất nhiều điểm trong lời giải đó thuyết phục tôi, nhưng cũng rất nhiều điểm không thuyết phục được tôi, tôi đã tìm thấy thực tế rất nhiều phản ví dụ là nhiều quốc gia ASEAN, Nam Á đã đưa ra lời giải gần giống như vậy cho quốc gia, dân tộc mình từ 30-40-50 năm nay, đó là học tập mô hình dân chủ hoặc cộng hòa nhưng hiện tại quốc gia họ vẫn chưa thật sự thoát nghèo.

Các lời giải để Việt Nam thoát nghèo do các chí sĩ yêu nước, các học giả, các chuyên gia trong nước lẫn ngoài nước bao gồm:

– Nâng cao dân trí của hai cụ Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu

– Học tập mô hình các nước tiên tiến Âu, Mỹ, Nhật Bản

– Học tập mô hình Singapore, Hàn Quốc

Chúng ta hãy cùng nhau nghiên cứu ba lời giải thoát nghèo trên:

Nâng cao dân trí của hai cụ Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu

Cách đây 111 năm, đầu thế kỷ XX, cụ Phan Chu Trinh cùng với cụ Huỳnh Thúc Kháng, cụ Trần Qúy Cáp là những người thấy rõ những điểm yếu cố hữu của con người và xã hội Việt Nam. Các cụ chủ trương phải thay đổi từ gốc rễ bằng cách nâng cao dân trí, đặc biệt là trình độ trí tuệ và đạo đức của người Việt, phát triển kinh tế – văn hoá – giáo dục, học những tư tưởng tiến bộ của phương Tây, từ bỏ phong tục tập quán lạc hậu, hội nhập với thế giới văn minh.

Mục tiêu được đặt ra là: “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”; khai hóa dân tộc; giáo dục ý thức công dân, tinh thần tự do; xây dựng cá nhân độc lập, tự chủ, có trách nhiệm với bản thân và xã hội; thay đổi tận gốc rễ nền văn hóa, tâm lý, tính cách, tư duy, tập quán của người Việt; Phổ biến các giá trị của nền văn minh phương Tây như pháp quyền, dân quyền, nhân quyền, dân chủ, tự do, bình đẳng, bác ái; cải cách trên mọi lãnh vực.

Phong trào “Khai dân trí” thực hiện mục tiêu cải tạo con người và xã hội Việt Nam bằng cách khuyến khích cải cách giáo dục, mở mang công thương nghiệp, chấn hưng công nghệ, bỏ mê tín dị đoan, thay đổi tập quán cũ lạc hậu.

Cũng thời gian ấy, cụ Phan Bội Châu tổ chức Phong trào Đông Du, với mục đích kêu gọi thanh niên Việt Nam ra nước ngoài (Nhật Bản) học tập. Đợt đầu tiên, 1905-1906 cụ đưa được tám thanh niên sang Nhật Bản, đến năm 1908 phong trào Đông Du đưa được 200 người sang Nhật Bản du học. Số học sinh này sinh hoạt chung trong một tổ chức gọi là “Việt Nam Cống hiến Hội”.

Lời giải nâng cao DÂN TRÍ của hai cụ Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu không thành công, bị thất bại bởi ba lý do:

Đất nước chưa độc lập, chưa có chủ quyền, vẫn chịu sự cai trị của Pháp (Phải đợi đến khi Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo phong trào cách mạng đến Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 thì Việt Nam mới thật sự độc lập, mới có tên quốc gia trên bản đồ thế giới).

Số lượng người ra nước ngoài, trực tiếp trải nghiệm thế giới văn minh (Nhật Bản) quá ít (mới có 200 người).

Tại thời điểm đầu thế kỷ XX, Nhật Bản chưa đại diện cho thế giới văn minh mà chính Nhật Bản cũng mới đang đi học thế giới văn minh, mới đang trong quá trình nâng cao dân trí.

Học tập mô hình các nước tiên tiến Âu, Mỹ, Nhật Bản

Rất nhiều nhà nghiên cứu, trí thức, doanh nhân người Việt ở Việt Nam và nước ngoài đưa ra lời giải là học tập mô hình các nước tiên tiến Âu, Mỹ, Nhật Bản. Lời giải này dựa trên các tiền đề:

– Các nước Âu, Mỹ, Nhật Bản là những nước kinh tế phát triển nhất, giàu có nhất.

– Vì những nước đó kinh tế phát triển nhất, giàu có nhất nên hiển nhiên mô hình kinh tế của họ là đúng đắn nhất.

– Về tố chất: người Việt Nam không hề thua kém (đúc kết qua quá trình làm việc cùng họ của Việt kiều).

Lời giải này được rất nhiều người tin là con đường duy nhất đúng đắn đưa Việt Nam thoát nghèo, nhưng thực tế mấy chục năm qua đã có rất nhiều nước châu Phi, Nam Á, ASEAN đi theo con đường này, nhưng đất nước họ vẫn loanh quanh, luẩn quẩn ở mức thu nhập trung bình.

Philippines là một ví dụ điển hình: Học mô hình của Mỹ:

– Chính phủ dân chủ mô hình Cộng hòa lập hiến (Cộng hoà Philippines) với Tổng thống là Nguyên thủ quốc gia, Tổng Tư lệnh các lực lượng vũ trang, nhiệm kỳ sáu năm, được bầu theo phương thức phổ thông đầu phiếu, người dân bầu trực tiếp Tổng thống, Tổng thống thành lập Nội các.

– Lưỡng viện Quốc hội Philippines gồm có Thượng viện và Hạ viện, các Thượng Nghị sĩ được dân bầu và có nhiệm kỳ sáu năm.

– Quyền tư pháp được trao cho Tối cao Pháp viện, bao gồm một Chánh án tối cao và 14 thẩm phán, họ đều do Tổng thống bổ nhiệm từ danh sách do Hội đồng Tư pháp và Luật sư đệ trình.

Ở thời điểm năm 1960, trong ASEAN, kinh tế Philippines đã vượt Việt Nam, Indonesia, Thái Lan, Myanmar, Campuchia, Lào. Thế nhưng đến nay kinh tế Philippines đã bị Indonesia, Thái Lan vượt qua và chỉ còn hơn Việt Nam chúng ta có 1,36 lần.

Bangladesh là ví dụ thứ hai: Học mô hình của Anh:

– Đa đảng: bao gồm Đảng Quốc gia Bangladesh (BNP), Liên đoàn Awami Bangladesh, Đảng Hồi giáo Jamaat-e-Islami Bangladesh và Islami Oikya Jot, Đảng Jatiya…

– Mô hình dân chủ nghị viện: Tổng thống là Nguyên thủ quốc gia, Tổng thống được cơ quan lập pháp bầu ra với nhiệm kỳ 5 năm. Chính phủ gồm các Bộ trưởng do Thủ tướng lựa chọn và do Tổng thống chỉ định.

– Hệ thống một viện với 300 thành viên Quốc hội do dân bầu với chỉ một đại biểu cho mỗi khu bầu cử có nhiệm kỳ 5 năm. Quyền bỏ phiếu phổ thông cho mọi công dân từ 18 tuổi.

Năm 1960, GDP đầu người của Bangladesh gần tương đương Việt Nam, thế nhưng hiện tại GDP đầu người của Bangladesh chỉ bằng 57% của Việt Nam.

Học tập mô hình Singapore, Hàn Quốc

Singapore: là một hiện tượng rất đặc biệt, một kỳ tích châu Á, là quốc gia có GDP đầu người cao nhất châu Á, vượt cả Nhật Bản, Hồng Kông, đặc biệt vượt qua mấy chục nước châu Âu. Thế nhưng Singapore thực chất không phải là một quốc gia đúng nghĩa mà là một thành phố với dân số 5,5 triệu người và diện tích chỉ bằng đảo Phú Quốc của Việt Nam. Thâm Quyến của Trung Quốc là một ví dụ tương tự: Thâm Quyến cũng là một thành phố với lợi thế là trung tâm tài chính, thương mại phía Đông Nam của Trung Quốc, Thâm Quyến có GDP đầu người là 24.000 đô la, gấp hơn 5 lần GDP đầu người của Trung Quốc, gần tương đương với Hàn Quốc.

Hàn Quốc: Năm 1960, GDP đầu người của Hàn Quốc chỉ tương đương Việt Nam, thế nhưng chỉ sau 30-40 năm, Hàn Quốc đã phát triển vượt bậc và ngày nay trở thành quốc gia kinh tế hàng đầu châu Á, chỉ sau Macau, Singapore, Nhật Bản, Israel, Hồng Kông và một số quốc gia dầu mỏ (Qatar, Các tiểu vương quốc Ả rập, Kuwait, Brunei, Bahrain).

Đầu tiên, Hàn Quốc nhận thức rằng muốn phát triển kinh tế cần mở mang dân trí, khắc phục những điểm yếu cố hữu của người Hàn Quốc. Các bước chính Hàn Quốc đã làm trong 20 năm đầu tiên là:

– Tivi Hàn Quốc chỉ có vẻn vẹn hai chương trình là “dạy làm người” và “dạy làm ăn”; từ cái văn minh nhỏ xíu như nụ cười của một nhân viên bán hàng cho đến cách quản lý chi phí của một quán cà phê, cách tạo dựng một nhà máy.

– Cải cách giáo dục bằng cách dịch nguyên sách giáo khoa của người Nhật sang tiếng Hàn để giảng dạy, trừ các môn Địa lý, Lịch sử và Văn học (1968).

– Cử những sinh viên giỏi Toán nhất theo học ngành tài chính ở các trường đại học lớn của Mỹ.

– Nhận thức các điểm yếu cố hữu của người Hàn Quốc và quyết tâm thay đổi:

– Tinh thần tự cường: “Người Hàn Quốc chỉ dùng hàng Hàn Quốc”, dù hàng của Hàn Quốc chất lượng chưa tốt, hình thức chưa đẹp.

– Đặt lợi ích của Tổ quốc lên trên tất cả mọi thứ kể cả bản thân.

– Làm việc chăm chỉ, mỗi người Hàn Quốc làm việc tối thiểu 9-10 tiếng một ngày, sẵn sàng làm thêm giờ để hoàn thành công việc mà không kêu ca, không than vãn.

Lưu ý rằng Hàn Quốc thành công còn nhờ dân tộc Hàn có một số điểm mạnh sau mà tôi nghĩ dân tộc Việt đang thiếu:

– Về thể chất và độ nhanh nhạy, khéo léo, họ thuộc top đầu châu Á, vượt trội Việt Nam; Bắc Triều Tiên là một ví dụ, dù đóng cửa, ít giao lưu với thế giới, kinh tế chưa thật sự phát triển, nhưng họ vẫn thuộc top đầu châu Á về bóng đá, bóng chuyền, bóng bàn.

– Người Hàn Quốc rất quyết liệt, làm bất cứ việc gì, họ cũng quyết tâm rất cao, thực hiện đến cùng.

– Người Hàn Quốc có tôn ti trật tự rất cao, trên dưới rõ ràng, ý thức phục tùng cấp trên gần như tuyệt đối.

LỜI GIẢI ĐỂ VIỆT NAM THOÁT NGHÈO

Khi đăng series năm bài về “VÌ SAO ĐẤT NƯỚC TA CÒN NGHÈO” hay “LỜI GIẢI ĐỂ VIỆT NAM THOÁT NGHÈO”, tôi nhận được một số ý kiến cho rằng việc gì phải lý luận lòng vòng và nhiều như vậy, lời giải rất đơn giản: “Chỉ cần học Mỹ và phương Tây là xong” hoặc “Cứ làm theo Nhật là đất nước sẽ giàu” hoặc “Cứ làm theo những gì Hàn Quốc đã làm là đất nước sẽ giàu”…

Để các bạn dễ hiểu, tôi lấy ví dụ đơn giản thế này:

Chúng ta ai cũng từng đi học và đều chứng kiến một thực tế là cùng một chương trình, nội dung học, cùng thầy cô giáo, cùng điều kiện học nhưng người thì học giỏi, thi đỗ, người thì học kém thi trượt. Tại sao vậy? Đơn giản là tố chất, thể chất hay nội lực và nền tảng kiến thức của mỗi người không giống nhau, nên khả năng hiểu, khả năng tiếp nhận kiến thức khác nhau.

Việc đưa đất nước thoát nghèo cũng giống như đi học, người Việt Nam có tố chất, thể chất, trí tuệ khác người Mỹ, người châu Âu, người Nhật, người Singapore, người Hàn Quốc, nên học họ, làm giống họ, chưa chắc chúng ta sẽ thoát nghèo.

Có thể nhiều bạn cho rằng tố chất chúng ta tương đương họ, bằng chứng là khi làm cùng, chúng ta không hề thua kém đồng nghiệp Âu, Mỹ. Thực ra, bạn nào đã làm cùng hãng với đồng nghiệp Âu, Mỹ thì bạn đã là thuộc nhóm người tiên tiến của dân tộc Việt, còn đồng nghiệp Âu Mỹ của bạn chỉ thuộc nhóm người trung bình của dân tộc họ mà thôi, nên so sánh như vậy là không ngang bằng.

Thậm chí dù công nhận tố chất chúng ta và họ ngang bằng nhau thì hiển nhiên văn hóa và dân trí hiện tại của chúng ta vẫn kém họ.

Như vậy muốn học họ, muốn làm như họ đã làm, ít nhất chúng ta phải có nền tảng dân trí, văn hóa gần ngang bằng họ. Điều này cũng hiển nhiên như việc chúng ta muốn cùng họ học đại học, mà họ đã tốt nghiệp lớp 12, chúng ta mới tốt nghiệp lớp 9 thì việc đầu tiên buộc chúng ta phải làm là học và tốt nghiệp lớp 12.

Từ những nhận thức trên, kết hợp giữa lời giải thoát nghèo của hai cụ Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, học tập lời giải thoát nghèo của Hàn Quốc, tôi cho rằng lời giải để Việt Nam thoát nghèo là “Nâng cao dân trí trong thời đại toàn cầu hóa và Internet”.

Cụ Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu đã đưa ra lời giải nâng cao dân trí và đã thất bại, nhưng thời điểm này chúng ta đưa ra lời giải nâng cao dân trí sẽ thành công dựa trên các cơ sở sau đây:

– Đất nước đã độc lập.

– Việt Nam đã theo mô hình kinh tế thị trường.

– Thời đại toàn cầu hóa: giao lưu quốc tế nhiều hơn.

Thời đại Internet giúp mọi người ngồi ở nhà vẫn có thể giao lưu và tiếp xúc với tri thức và tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ, mô hình kinh tế, quản trị tiên tiến.

Xu thế công nghệ thay đổi nhanh chóng giúp Việt Nam có thể tiếp cận và làm chủ thẳng những công nghệ mới nhất. (Ví dụ điển hình là trong lĩnh vực viễn thông thì điện thoại di động Việt Nam tương đương với Mỹ, châu Âu cả về chất lượng sóng lẫn dịch vụ).

Lời giải Nâng cao dân trí − Khắc phục điểm yếu cố hữu

Lời giải Nâng cao dân trí − Khắc phục điểm yếu cố hữu bao gồm sáu nội dung sau:

1. Nhận thức rõ những điểm yếu cố hữu làm cản trở sự phát triển kinh tế đất nước của người Việt. Xây dựng hệ thống triết lý về phát triển đưa hoạt động sản xuất, thương mại, doanh nghiệp, doanh nhân về đúng vai trò là trọng tâm của xã hội; xác định đúng giá trị của tiền bạc; xác định đúng thế nào là người tài và sử dụng người tài.

2. Tăng cường giao lưu quốc tế kể cả tham quan học tập ở nước ngoài, du học nước ngoài:

Quan điểm của tôi hơi khác một chút là lãnh đạo nên tăng cường đi nước ngoài, đặc biệt các nước tiên tiến để biết, hiểu, trải nghiệm rồi về áp dụng trong việc xây dựng chính sách, chiến lược, kế hoạch và tổ chức triển khai. Nhưng đi là đi có nghiên cứu, trải nghiệm, về có thu hoạch, đi đầu nhiệm kỳ, lãnh đạo mới nhận chức đi chứ đừng để cán bộ sắp về hưu mới đi.

Kinh nghiệm của tôi là muốn hiểu đúng và sâu sắc về xã hội, nền kinh tế của họ thì cần thực hiện phương châm sau: Đi thì phải thâm nhập, trải nhiệm thực tế, đừng để đối tác bố trí, đưa đón từ đầu đến cuối, đừng ngồi nhiều trên ô tô, cần đến nhà máy, xí nghiệp, cơ sở nghiên cứu xem họ tổ chức nghiên cứu, sản xuất thế nào. Cần trực tiếp mua vé, đi tàu điện ngầm, tàu cao tốc, đường sắt đô thị, xe bus… Cần đi bộ, cần tự tìm nhà hàng, đi siêu thị, đi ăn, đi uống. Có như vậy mới hiểu sâu và đúng nhất về sản xuất, kinh doanh, giao thông… và cách vận hành kinh tế – xã hội của họ. Sau khi đi về nên có tổng kết và viết thu hoạch xem xã hội, đất nước họ có điểm gì hay, đáng học tập.

3. Đẩy mạnh toàn cầu hóa, toàn cầu hóa là biện pháp quan trọng nhất để nâng cao dân trí và phát triển kinh tế đất nước:

Cách đây 111 năm, cụ Phan Bội Châu đã coi đưa học sinh đi du học là để mở mang dân trí, nhưng cụ chỉ đưa được có 200 người, bởi lẽ cụ không đủ tiền, dân Việt Nam ta còn nghèo, không có nhiều người đủ tiền ra nước ngoài.

Toàn cầu hóa là lời giải quan trọng nhất, vì nó lấy luôn việc kinh doanh, thương mại làm cơ sở, lấy chính chi phí kinh doanh, chi phí triển khai hợp đồng, hạch toán vào dự án, hợp đồng. Vì vậy chỉ cần toàn cầu hóa thành công, chỉ cần ký được nhiều hợp đồng ở nước ngoài thì hiển nhiên sẽ đưa được nhiều người Việt Nam ra nước ngoài làm việc.

Chúng ta coi toàn cầu hóa là chiến lược phát triển kinh tế quan trọng nhất. Toàn cầu hóa vừa để kiếm ngoại tệ, làm giàu cho đất nước, vừa là biện pháp tốt nhất để nâng cao dân trí, bởi trong quá trình ra nước ngoài, làm việc ở nước ngoài, hoạt động thương mại ở nước ngoài, người Việt không chỉ làm giàu mà còn được tiếp cận cách tư duy, cách suy nghĩ, cách làm, nhìn nhận thế giới, nhận thức điểm yếu, học hỏi cái hay của các dân tộc khác.

4. Phổ cập CNTT và Internet cho toàn dân, nhất là nông thôn và vùng núi.

5. Loại bỏ các điểm yếu cố hữu của người Việt:

Truyền thông rộng rãi, đưa vào chương trình giáo dục bậc cuối phổ thông và đại học các điểm yếu cố hữu của người Việt làm sao để người Việt hiện đại chăm chỉ hơn; dám nghĩ lớn hơn, hoạt động thương mại rộng hơn, kể cả thị trường toàn cầu. Đặc biệt là tránh suy nghĩ chủ quan, cho mình là ‘‘đúng nhất.’’ Cần hiểu đúng về nhân tài và sử dụng nhân tài, hiểu đúng về giá trị đồng tiền, hiểu đúng về doanh nhân, đặt doanh nhân, doanh nghiệp và hoạt động thương mại tương xứng với vị trí và tầm quan trọng của nó.

6. Học tập các điểm hay của dân tộc khác:

Cần xây dựng lòng tự tôn dân tộc, “người Việt dùng hàng Việt”, xây dựng tính kỷ luật và chuyên nghiệp trong lao động, tôn trọng và tuân thủ các quy định của luật pháp, xây dựng tác phong làm việc chuyên nghiệp, coi trọng tính hệ thống, không khuyến khích tính lanh trí, khôn lỏi trong xử lý các vấn đề chính yếu.

Lời kết

Những lời giải này chỉ mới dừng ở mức ý tưởng, nhưng nếu nhiều người Việt Nam nhận thức ra, nhiều người đồng tình, nhiều người chia sẻ, đặc biệt là quyết tâm thay đổi chính mình thì tôi tin tưởng tình hình sẽ thay đổi nhanh chóng, tốc độ phát triển kinh tế của đất nước sẽ tăng trưởng nhanh hơn. Chúng ta vẫn còn nhiều khiếm khuyết, thế mà 15 năm qua, tốc độ tăng trưởng của Việt Nam đã cao nhất khu vực ASEAN, khoảng cách giữa Việt Nam và các nước đã thu hẹp đáng kể, nếu chúng ta cùng đồng lòng, tự nhận thức, tự hành động thay đổi chính mình để nâng cao dân trí của chính mình, của gia đình mình, của người thân mình, của bạn bè, đồng nghiệp mình thì tôi tin tưởng sâu sắc rằng nhất định Việt Nam sẽ thịnh vượng.

Bình luận

Nhà ngoại giao: Phân tích sâu sắc và thẳng thắn

Nam Facebooker: Tuyệt vời quá anh ạ, chỉ một bài viết mà bao gồm toàn bộ những gì trải qua sau bao nhiêu năm chiêm nghiệm của bao nhiêu đời.

Sỹ quan cao cấp quân đội: Bài viết thể hiện một tư duy sâu sắc, mới mẻ và trách nhiệm về đất nước và con người Việt của một doanh nhân lớn. Rất đáng trân trọng.

Du học sinh châu Âu: Cháu đã đọc hết lời chú nói, tuy cay mũi và thấy nhục nhưng đó là sự thật, muốn đất nước sánh ngang với bạn bè quốc tế, chúng ta phải bỏ bệnh sĩ và biết nhục để vươn lên.

Nam Facebooker: Bài anh viết rất sâu sắc với tầm hiểu biết rộng và khái quát vấn đề, cảm ơn anh.

Nam Facebooker: Bài viết của anh rất hay và ý nghĩa, cũng là tâm tư nguyện vọng của rất nhiều người, trong đó có tôi. Mong bài viết này được truyền tải đến nhiều người cùng suy ngẫm. Đặc biệt là thế hệ trẻ! Xin cảm ơn anh!

Giảng viên ngành Quản trị Doanh nghiệp: … Nói như bác Nguyễn Trần Bạt thì chúng ta không thiếu người làm thuê chuyên nghiệp, mà chúng ta thiếu những nhà quản lý chuyên nghiệp. Chính vì sự thiếu thốn đó, chúng ta đã dễ dãi đổ lỗi cho người đi làm.

Giảng viên đại học, CEO doanh nghiệp IT: Còn thiếu một nguyên nhân rất quan trọng nữa: cứ người sau lên thì đập tan những gì người trước đã gây dựng được.

CEO doanh nghiệp ICT: Sáng nay vừa mở Facebook, đọc được bài phân tích về nguyên do Việt Nam còn nghèo của anh Đỗ Cao Bảo thấy thấm thía quá… Những kết luận của anh Bảo có thể là tiền đề để các nhà khởi nghiệp phải suy nghĩ.

Nữ Facebooker: Rất mong được đọc các phần sau của anh, mỗi người Việt chúng ta nhận ra và thay đổi mới hy vọng có gì đó to to để lại cho con cháu tự hào!

Nam Facebooker: Đọc bài của anh rất hay nhưng hy vọng không sa vào chỉ trích. Em rất hy vọng anh nêu được giải pháp, không tầm vĩ mô cho đất nước thì chí ít cũng là những gợi ý cho gia đình thì nên ra sao.

Nam Facebooker: Bài của anh thật hay. Đọc từng câu em thấy thấm. Cảm ơn anh.

Nữ Facebooker: Anh ơi, nếu anh có kiến giải cho các vấn đề trên thì anh ghi luôn anh nhé. Em xin chia sẻ các ý kiến của anh ạ. Cũng phải tự soi lại chính mình. Em cảm ơn anh.

Nam Faceboorker: Một bài viết chia sẻ tuyệt vời!

CEO khởi nghiệp: Cháu cảm ơn chú Bảo vì bài viết này giúp cháu hiểu hơn một điều rất thực tế về đất nước của mình.

Nữ Tiến sĩ Xã hội học: Những vấn đề về văn hoá truyền thống của người Việt Nam, nhân cách, văn hóa con người Việt Nam… khi làm luận án nghiên cứu sinh, mình cũng đã viết cả một chương phân tích rất kỹ. Cảm ơn bạn rất nhiều vì bài viết. Cho mình xin chia sẻ nhé!

Nam doanh nhân: Phải nói anh Đỗ Cao Bảo viết thế là quá tốt, vì có nhiều trải nghiệm thực tế. Cần nhiều hơn những bài viết thế này mới mở mang trí tuệ người Việt Nam.

Nữ Facebooker: Cảm ơn bài viết của anh. Góc nhìn sâu sắc và toàn diện quá. Muốn thay đổi hoa trái, cần thay đổi gốc rễ. Vậy, làm thế nào để mỗi con người thay đổi từ trong gốc rễ?

TRƯỚC NĂM 1975, KINH TẾ NAM VIỆT NAM CÓ THỰC SỰ ĐỨNG ĐẦU ASEAN

Chúng ta thường được nghe nhiều về thời kỳ huy hoàng của kinh tế Nam Việt Nam trước năm 1975, thời mà Nam Việt Nam phát triển vượt xa Thái Lan, Malaysia, Philippines, Indonesia, Singapore.

Trên nhiều diễn đàn, có nhiều người đưa ra những thông tin sau:

Những năm 1960, kinh tế Nam Việt Nam đứng thứ nhì châu Á, chỉ sau Nhật Bản. Nếu Nam Việt Nam thắng trận thì bây giờ kinh tế Việt Nam đứng top đầu châu Á, chỉ kém Nhật Bản; Singapore, Hàn Quốc, Malaysia, Thái Lan, Indonesia không thể sánh bằng.

Trước năm 1975, người Hàn Quốc còn sang Nam Việt Nam làm thuê.

Trong những ngày đầu lập nước vào thập niên 60 của thế kỷ trước, Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu từng nói “Hy vọng một lúc nào đó Singapore sẽ phát triển giống như Sài Gòn”.

Sài Gòn là hòn ngọc Viễn Đông, các công tử con nhà giàu Malaysia, Singapore, Thái Lan toàn sang Sài Gòn du học và nghỉ cuối tuần.

Nếu quả thật Nam Việt Nam đã có một thời kinh tế phát triển rực rỡ, vượt trội Hàn Quốc, Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Philippines… chỉ kém duy nhất Nhật Bản thì thật đáng mừng cho dân tộc Việt, bởi dân tộc Việt không chỉ có những tố chất thông minh vượt trội như nhiều người đánh giá mà thực tế từng đưa kinh tế đất nước, dù chỉ là một nửa nước phát triển hơn các dân tộc khác ở Đông Nam Á và châu Á.

Với nhận thức “Muốn thành công thì phải thấu hiểu bản thân, phải thấu hiểu điểm mạnh, điểm yếu, sở trường, sở đoản của mình”, tôi đi tìm câu trả lời bằng những số liệu cụ thể chứ không thể dựa vào những “truyền thuyết” không có bằng chứng khách quan.

Rất tiếc những con số thống kê của Ngân hàng Thế giới (WB) lại phủ định hoàn toàn những thông tin trên. Các bạn xem bảng thống kê GDP trên đầu người của WB kèm theo thì thấy rõ (số đen đậm là GDP kém Nam Việt Nam, số đen nhạt là GDP hơn Nam Việt Nam):

GDP ĐẦU NGƯỜI: NAM VIỆT NAM − CÁC NỀN KINH TẾ CHÂU Á

8

Nguồn: Thống kê của WB

(GDP: Có tác động bởi các khoản viện trợ kinh tế, quân sự của Mỹ)

– Năm 1960, GDP đầu người của Nam Việt Nam quả có hơn Thái Lan, Hàn Quốc và Indonesia (Indonesia không có số liệu nhưng chắc chắn kém), nhưng lại kém xa Malaysia, chỉ bằng nửa Singapore, Hồng Kông, Nhật Bản, Brunei.

– Đến năm 1965, GDP đầu người của Nam Việt Nam chỉ hơn Indonesia, kém Thái Lan, Hàn Quốc, Philippines; bị Malaysia, Hồng Kông, Singapore, Nhật Bản, Brunei bỏ cách nhiều lần.

– Đến năm 1969, GDP đầu người của Nam Việt Nam đứng thấp nhất 10 nước, kém xa Indonesia, Thái Lan, Hàn Quốc, Philippines, Malaysia; chỉ bằng 1/7 Hồng Kông, Singapore; chỉ bằng 1/10 Nhật Bản, Brunei.

– Đến năm 1973, GDP đầu người của Nam Việt Nam chỉ bằng 1/3 Indonesia, Thái Lan, Philippines; bằng 1/4 Hàn Quốc; 1/8 Malaysia; 1/21 Hồng Kông, Singapore; 1/33 Brunei; 1/43 Nhật Bản.

– Đến năm 1975, GDP đầu người của Nam Việt Nam chỉ bằng 1/8 Indonesia, Thái Lan, Philippines; bằng 1/14 Hàn Quốc; 1/18 Malaysia; 1/50 Hồng Kông, Singapore; 1/170 Brunei; 1/100 Nhật Bản.

Chưa hết, GDP của Nam Việt Nam trước năm 1975 không phải hoàn toàn do Nam Việt Nam tạo ra mà còn được kích thích tăng trưởng nhờ ba khoản: 10 tỷ đô la viện trợ kinh tế của Mỹ, 16 tỷ đô la viện trợ quân sự của Mỹ và khoảng 10 tỷ đô la do hơn 600.000 lính Mỹ, Úc, Hàn Quốc, Thái Lan tiêu ở Nam Việt Nam.

Riêng việc Sài Gòn là hòn ngọc Viễn Đông và công tử nhà giàu Singapore, Malaysia, Indonesia, Thái Lan sang Sài Gòn ăn chơi thì có vẻ đúng vì chỉ riêng việc lính Mỹ, Úc, Hàn Quốc, Thái Lan tiêu 10 tỷ đô la thì chắc chắn Sài Gòn phải là hòn ngọc Viễn Đông, là chốn ăn chơi nhất châu Á.

Lời kết

Như vậy sự phồn vinh, phát triển kinh tế đứng đầu châu Á, chỉ thua duy nhất Nhật Bản, vượt xa Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Philippines chỉ là sự phóng đại, không thực tế.

Chúng ta đừng tiếp tục ngồi tiếc rẻ: “Năm 1960, chúng ta hơn Hàn Quốc, giá mà…” mà nên nhớ rằng năm 1960, Philippines, Malaysia còn hơn Hàn Quốc, hơn nhiều lần Việt Nam.

Chỉ có dám nhìn vào sự thật, thấu hiểu mình, thấu hiểu điểm mạnh, điểm yếu, sở trường, sở đoản, điểm yếu cố hữu của mình thì chúng ta mới có quyết sách đúng, hành động đúng.

Tôi vẫn tin Việt Nam chúng ta có cơ hội bứt phá khỏi mọi rào cản, đưa kinh tế Việt Nam đuổi kịp và vượt Philippines, Indonesia, rút ngắn khoảng cách với Thái Lan.

Chú thích

Tôi không thống kê GDP của Bắc Việt Nam, vì hiển nhiên lúc đó cả nước đang trong tình trạng chiến tranh; mọi thứ, ‘‘sức người sức của,’’ đều được huy động để phục vụ kháng chiến, đưa công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc đến toàn thắng.

Thực tâm tôi không chủ tâm lật lại quá khứ. Cũng không quan tâm và có ý định so sánh miền Bắc hay miền Nam miền nào hơn. Điều tôi quan tâm duy nhất là thật sự người Việt chúng ta có những tố chất gì, đã làm được gì và có thể làm được gì. Đánh giá chính xác sẽ có những định hướng đúng, hành động đúng cho tương lai. Cái đó mới quan trọng và cần sự tỉnh táo cũng như công tâm nhất.

Nguồn GDP trích từ:

1. Link của Wikipedia dẫn nguồn WB về GDP của Nam Việt Nam và các nước:

https://en.m.wikipedia.org/…/List_of_countries_by_past_and_…

2. Link Classora về các quốc gia giàu có nhất thế giới:

http://en.classora.com/reports/t24369/general/ranking-of-the-worlds-richest-countries-by-gdp?edition=1960&fields

Trong link này, top 50 nền kinh tế giàu có nhất thế giới năm 1960, 1965… có Philippines, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia, Hồng Kông, Singapore, Indonesia, không có Nam Việt Nam.

3. Link về GDP Việt Nam 1980-1970:

http://gpih.ucdavis.edu/files/Vietnam_GDP_1800-1970_24apr14.xlsx

Trong link này GDP của Nam Việt Nam năm 1960-1975 còn thấp hơn số liệu của WB.


 

Giang Vi

Tôi là một người yêu sách cuồng nhiệt và đã hơn 20 năm. Tôi dành cả ngày để đọc, viết blog về sách và viết bình luận. Tôi tin rằng sách là công cụ mạnh mẽ nhất trong cuộc sống để mở mang đầu óc cho những ý tưởng và quan điểm mới. Các thể loại yêu thích của tôi bao gồm tiểu thuyết lịch sử, giả tưởng, khoa học viễn tưởng và phi hư cấu. Tôi cũng thích tìm hiểu về các nền văn hóa khác nhau thông qua văn học.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts:

Back to top button