Kinh doanh - đầu tư

Giấc mơ Trung Quốc

Giac mo Trung Quoc - Luu Minh Phuc1. THÔNG TIN SÁCH/EBOOK

Tác giả : Lưu Minh Phúc

Download sách Giấc mơ Trung Quốc ebook PDF/PRC/MOBI/EPUB. Tải miễn phí, đọc online trên điện thoại, máy tính, máy tính bảng.

Danh mục :  SÁCH KINH DOANH – ĐẦU TƯ


2. DOWNLOAD

File ebook hiện chưa có hoặc gặp vấn đề bản quyền, Downloadsach sẽ cập nhật link tải ngay khi tìm kiếm được trên Internet.

Bạn có thể Đọc thử hoặc Xem giá bán.

Bạn không tải được sách ?  Xem hướng dẫn nhé : Hướng dẫn tải sách


3. GIỚI THIỆU / REVIEW SÁCH

Chương I – “NHẤT THẾ GIỚI” là GIẤC MƠ TRĂM NĂM CỦA TRUNG QUỐC

Nhất thế giới – đó là giấc mơ trăm năm của Trung Quốc. Giấc mơ ấy thể hiện tập trung ở lý tưởng phấn đấu của ba vĩ nhân Tôn Trung Sơn, Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình. Tôn Trung Sơn là người đi đầu trong cuộc cách mạng dân chủ Trung Quốc, Mao Trạch Đông là người sáng lập Trung Quốc mới, Đặng Tiểu Bình là người thiết kế công cuộc cải cách mở cửa. Đặc trưng chiến lược chung của ba vĩ nhân này là: trên vấn đề mục tiêu lớn của quốc gia Trung Quốc họ đều theo chủ nghĩa “Nhất thế giới”.

Việc Trung Quốc đi lên “Nhất thế giới” có hàm nghĩa gì? Trước hết đó là tổng sản lượng nền kinh tế Trung Quốc phải nhất thế giới; trên cơ sở đó thực hiện nhất thế giới về quốc lực tổng hợp của Trung Quốc. Trong thế kỷ XXI Trung Quốc nói tới việc nước lớn trỗi dậy, trỗi dậy nhằm về phía nào? Đó là trỗi dậy nhằm vào phương hướng và mục tiêu nhất thế giới.

I. Tôn Trung Sơn: Trung Quốc phải “chiếm vị trí cường quốc nhất thế giới trên trái đất”

Trong thời đại “Trung Quốc là nước nghèo yếu nhất trên trái đất”, Tôn Trung Sơn yêu cầu “mọi người lập chí” xây dựng Trung Quốc thành “Đất nước giàu mạnh nhất thế giới” và kêu gọi 400 triệu dân đều có chí nguyện như vậy. Tinh thần ấy của người dẫn đường vĩ đại khiến cho người Trung Quốc ngày nay vẫn còn cảm thấy xúc động.

Xây dựng Trung Quốc thành “Quốc gia giàu mạnh nhất thế giới”

Trung Quốc không những cần sánh vai tiến bước cùng Anh, Mỹ mà còn phải vượt trên họ – đây là chí hướng vĩ đại của Tôn Trung Sơn. Trong “Thư trình Lý Hồng Chương” viết năm 1894, Tôn Trung Sơn đã đề ra cương lĩnh cải cách của ông: Tận dụng tài năng của mọi người, tận dụng mọi cái lợi của đất đai, tận dụng mọi vật, để cho hàng hóa lưu thông thông suốt. Ông cho rằng bốn điều đó là con đường lớn tiến lên giàu mạnh, là cái gốc lớn để trị quốc. Nếu đạt được cả bốn điều ấy thì Trung Quốc “tất sẽ vượt châu Âu”. Về sau Tôn Trung Sơn còn nhiều lần nói tới việc để thực hiện chủ nghĩa Tam Dân thì cần xây dựng một “quốc gia giàu mạnh nhất thế giới” vượt trên cả Âu, Mỹ.

Xây dựng Trung Quốc thành quốc gia có “Sáu cái tột bực” [Lục chí], “Bốn cái nhất” [Tứ tối] là mục tiêu phấn đấu suốt đời của Tôn Trung Sơn. Trong lòng ông, Trung Quốc nhất thế giới tức là một đất nước “Bốn cái nhất”, “Sáu cái tột bực”, tức là quốc gia mạnh nhất thế giới, quốc gia giàu nhất thiên hạ, quốc gia có nền chính trị tốt nhất, quốc gia dân chúng được hạnh phúc nhất. Cái gọi là quốc gia “Sáu cái tột bực” nghĩa là quốc gia lớn nhất, tốt nhất, tiến bộ nhất, trang nghiêm nhất, giàu mạnh nhất, yên vui nhất.

Làm sao để “Người Trung Quốc lập nên công trạng vĩ đại vẻ vang nhất của nhân loại trên trái đất” – đó là cảm giác sứ mênh mạnh mẽ của Tôn Trung Sơn. Ông còn đề xuất: Người Trung Quốc sẽ đảm bảo chủ trương hòa bình, chủ trương đại đồng, làm cho loài người trên trái đất sống hạnh phúc nhất; người Trung Quốc lập nên công trạng vĩ đại vẻ vang nhất, không những chỉ gìn giữ lợi ích của một dân tộc, một quốc gia mà còn giữ gìn lợi ích của nhân loại toàn thế giới.

Kể từ lần đầu phát động cuộc khởi nghĩa Quảng Châu năm 1895 bị thất bại phải lưu vong ngoài nước, Tôn Trung Sơn đi vòng quanh trái đất, chu du nhiều nước, một mặt khảo sát những cái được mất về chính trị và đạo lý thế nước mạnh yếu của các quốc gia, một mặt tiến hành cuộc vận động cách mạng. Cho tới trước cuộc khởi nghĩa Vũ Xương, ông đã bảy lần đi vòng quanh thế giới, cứ khoảng hai năm lại đi vòng trái đất một lần. Thời gian sống trên đời của Tôn Trung Sơn chỉ có 58 năm lẻ 8 tháng thì trong đó có khoảng 10 năm lẻ 1 tháng là sống tại vùng Âu Mỹ, tổng cộng đã tám lần đến vùng này. Mục tiêu lớn Trung Quốc “trở thành quốc gia giàu mạnh nhất thế giới” của Tôn Trung Sơn được xây dựng trên cơ sở ông có kinh nghiệm từng trải phong phú về thế giới.

Dân tộc Trung Hoa “là dân tộc ưu tú nhất thế giới”

Tôn Trung Sơn cho rằng dân tộc Trung Hoa là một dân tộc “bốn nhất”. Trong “Chủ nghĩa Tam Dân” ông viết: “Dân tộc Trung Hoa là dân tộc lâu đời nhất thế giới, dân tộc lớn nhất thế giới, dân tộc văn minh nhất thế giới, cũng là dân tộc có sức đồng hóa lớn nhất thế giới. Tìm hiểu và xem xét dân tộc ta từ th ban đầu cho tới nay ít nhất phải có 5 – 6 nghìn năm. So với các dân tộc khác trên thế giới, dân tộc ta vẫn là nhiều nhất, lớn nhất. Đời đời nối tiếp cho tới ngày nay vẫn là dân tộc ưu tú nhất thế giới”.

Dựa trên ưu thế trí lực của học sinh Trung Quốc học tại Mỹ có thành tích học tập tốt hơn học sinh Mỹ, Tôn Trung Sơn kêu gọi thế hệ trẻ Trung Quốc phải khiêm tốn học tập Mỹ và phải có quyết tâm, chí lớn và niềm tin đuổi, vượt Mỹ. Ngày 21 tháng 12 năm 1923, trong diễn thuyết trước cuộc mít tinh hoan nghênh của học sinh Lĩnh Nam Quảng Châu, Tôn Trung Sơn nói: “Tài trí thông minh vốn có của người Trung Quốc thể hiện ở chỗ dù ở bất cứ lớp học nào trong nhà trường trên đất Mỹ, số điểm bình quân thành tích học mỗi học kỳ của học sinh Trung Quốc đều giỏi hơn học sinh Mỹ. Đây là điều người Mỹ đều thừa nhận”. Tôn Trung Sơn dùng lịch sử chứng minh Trung Quốc từng có thời kỳ giàu mạnh lâu dài hơn thời kỳ nghèo yếu. Ông cũng dùng tính cách dân tộc chứng minh người Trung Quốc quả thực giỏi hơn người nước ngoài.

ĐỌC THỬ

I. Đổi ngôi Quán quân: 100 năm quay một vòng

Sự xuất hiện và thay thế quốc gia quán quân có đặc điểm và quy luật của nó. Quốc gia quán quân khác loại hình thì có những bộ mặt khác nhau. Địa vị và tác dụng của quốc gia quán quân thể hiện ở giá trị của nó đối với thế giới. Đại diện điển hình các quốc gia quán quân xuất hiện trên thế giới cận đại trong 500 năm qua là Bồ Đào Nha ở thế kỷ XVI, Hà Lan ở thế kỷ XVII, Anh Quốc ở thế kỷ XVIII và XIX, nước Mỹ thế kỷ XX. Trung Quốc sẽ trở thành quốc gia quán quân ở thế kỷ XXI.

Động lực của nước lớn trỗi dậy

Động lực chủ yếu làm cho thế giới phát triển tiến lên là sự cạnh tranh giữa các quốc gia. Nếu nói rằng động lực phát triển trong nội bộ một nước là sự cạnh tranh giữa các giai cấp, tập đoàn, tầng lớp, thì sau khi hình thành hệ thống quốc tế, sự cạnh tranh giữa các quốc gia chính là động lực phát triển thế giới, là động lực nước lớn trỗi dậy. Giáo sư Joseph Nye ở Học viện chính trị Kennedy thuộc Đại học Harvard từng nói: “Một số sử gia cho rằng giữa các quốc gia châu Âu có sự cạnh tranh, đúng là điều này đã làm cho các quốc gia đó luôn luôn tự phát triển. Tại châu Á, Trung Quốc có địa vị chủ đạo, không nước nào có thể cạnh tranh với Trung Quốc, vả lại trên vấn đề đối phó với sự xâm lược của các quốc gia phương Bắc, Trung Quốc chỉ giải quyết nội bộ, vì thế họ không có động lực bành trướng lãnh thổ”. “Không nghi ngờ gì nữa, cách đây 1.500 năm Trung Quốc là nước siêu lớn ở Đông Á. Hồi đó người châu Âu bắt đầu thám hiểm hàng hải, còn người Trung Quốc thì giảm hoạt động này. Bởi vậy bạn sẽ thấy đa số các nước lớn bành trướng sức mạnh tới mấy châu lục đều bắt nguồn từ châu Âu”.

Theo quan điểm của Nye, sở dĩ thế giới phương Tây phát triển nhanh đó là do giữa các quốc gia phương Tây có sự cạnh tranh kịch liệt. Sự cạnh tranh gay gắt ấy giữa các quốc gia đem lại động lực và sức sống cho thế giới phương Tây. Nhưng trong thời kỳ cận đại sở dĩ phương Đông phát triển chậm, thậm chí trì trệ không tiến lên, đó là do chưa hình thành sự cạnh tranh giữa các quốc gia.

Trên thế giới ngày nay, số lượng quốc gia tham gia cạnh tranh tăng lên rất nhiều so với ngày trước. Trong thế kỷ XX, số lượng quốc gia có chủ quyền hợp pháp và giành được sự độc lập chính trị tăng lên một cách ổn định: thập niên 30 thế kỷ XX chỉ có khoảng 60 nước, đến cuối thế kỷ XX có chừng 190 nước. Đến tháng 9 năm 2002 số nước thành viên Liên Hợp Quốc lên tới 191 nước. Theo các tài liệu liên quan, tính đến năm 2008 trên thế giới tổng cộng có 225 quốc gia và lãnh thổ, gồm 194 quốc gia và 31 lãnh thổ. Thế giới đang phát triển và tiến bộ trong sự cạnh tranh và ganh đua giữa các quốc gia. Sức sống, động lực, sức sáng tạo của cộng đồng quốc tế bắt nguồn từ động lực thúc đẩy của sự cạnh tranh giữa các quốc gia. Cạnh tranh giữa các quốc gia, nhất là cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, là động lực lớn nhất làm cho thế giới tiến lên.

Có thể chia mục tiêu sự cạnh tranh giữa các quốc gia làm mục tiêu thấp nhất và mục tiêu cao nhất. Nhà lý luận quan hệ quốc tế nổi tiếng người Mỹ Kenneth Neal Waltz cho rằng quốc gia là “thể hành vi tương đồng coi sự tự bảo tồn mình là mục tiêu thấp nhất, coi tranh giành quyền dẫn dắt thế giới là mục tiêu cao nhất”. Mục tiêu thấp nhất của cuộc cạnh tranh giữa các quốc gia là sự sinh tồn tự thân của quốc gia.Mục tiêu cao nhất của cuộc cạnh tranh này là trở thành quốc gia quán quân của thế giới, là giành lấy quyền dẫn dắt thế giới. Trở thành nhất thế giới, thành quốc gia quán quân là mục tiêu cao nhất và mức phấn đấu cao nhất của cuộc cạnh tranh giữa các quốc gia.

Cuộc vật lộn, phấn đấu, cạnh tranh của quốc gia trên vũ đài thế giới gồm bốn tầng nấc:

  1. An ninh: An ninh là mục tiêu chiến lược cơ bản nhất, cũng là quan trọng nhất. Lịch sử phát triển và thế giới tiến bộ đến như ngày nay, tuyệt đại đa số lợi ích an toàn của các quốc gia dân tộc có được sự bảo đảm. Hiện nay 194 quốc gia trên thế giới về cơ bản không tồn tại nguy hiểm bị chinh phục và tiêu vong, chủ quyền quốc gia của họ trên cơ bản là an toàn. Chỉ có mười mấy nước bị chiến tranh đe dọa và gây nhiễu.
  2. Phát triển: Tuy thế giới tiến sang thời đại hòa bình và phát triển đã được nhiều năm nay, song số quốc gia thực sự có thể thực hiện phát triển tương đối lớn và nhanh thì chưa chiếm đa số. Cộng tất cả các nước phát triển và nước mới công nghiệp hóa cũng chẳng qua được 40 – 50 nước, chiếm chứng 1/4 tổng số quốc gia trên thế giới.
  3. Trỗi dậy: Trong nhóm nước đang phát triển, các nước trỗi dậy là những nước có thể ảnh hưởng tới tình hình thế giới. Xưa nay không tồn tại và xuất hiện nhiều những nước như vậy. Trên thế giới 500 năm gần đây chỉ khoảng mười mấy nước có thể trỗi dậy. Hiện nay số nước có cơ hội, có điều kiện trỗi dậy trở thành cường quốc thế giới cũng chỉ là mấy nước đó.
  4. Quốc gia quán quân: Đây là những quốc gia ở tầng cao tột cùng. Thông thường khoảng 100 năm mới xuất hiện một quốc gia quán quân. Tuy thế, trên thế giới cận đại 500 năm nay trước sau từng có 7 – 8 quốc gia tranh giành ngôi báu quốc gia quán quân, nhưng cũng chỉ mấy quốc gia đó thực sự tiến lên địa vị quốc gia quán quân. Một quốc gia muốn trở thành quốc gia quán quân trên thế giới tất phải là quốc gia trỗi dậy, nhưng quốc gia trỗi dậy không nhất định đều trở thành quốc gia quán quân. Từ một quốc gia sinh tồn, quốc gia đang phát triển, quốc gia đang trỗi dậy cho tới quốc gia quán quân là cả một quá trình phấn đấu thần kỳ.

Thay đổi quốc gia quán quân: sự thể hiện tập trung sức sống của thế giới

Khi các quốc gia cạnh tranh với nhau thì sẽ có quốc gia đào thải hoặc chiến thắng. Sự sa sút của quốc gia quán quân cũ, sự trỗi dậy của quốc gia quán quân mới và sự đổi vị trí giữa các nước đó thể hiện sức sống tiến bộ và phát triển của thế giới này. Sự ra đời của mỗi quốc gia quán quân mới cũng đánh dấu một lần nhảy vọt và tiến bộ có tính lịch sử của thế giới.

Trong phần mở đầu sách “Ngoại giao lớn”, Kissinger viết: “Tựa như tồn tại một quy luật tự nhiên nào đó, mỗi thế kỷ đều có một nước lớn trỗi dậy, họ có sức mạnh, có ý chí, có sự khích lệ về trí thức và đạo đức, dựa vào giá trị của mình xây dựng lại toàn bộ hệ thống quốc tế”.

Thực ra từ hai nghìn năm trước, sử gia vĩ đại cổ Hy Lạp Herodotus căn cứ quá trình lịch sử thăng trầm của các thành bang Hy Lạp đã đưa ra một luận đoán nổi tiếng: sự suy vong của đô thị phồn hoa và sự trỗi dậy của đô thị nhược tiểu đã hùng hồn nói lên một kết luận: xưa nay tình hình tốt đẹp không bao giờ lâu dài. Điều này trên thực tế vạch ra quy luật phát triển không cân bằng trong cuộc cạnh tranh giữa các quốc gia, cũng là luật chu kỳ bá quyền: không thể nào bao giờ “phong cảnh bên này duy nhất tốt đẹp”. Quốc gia quán quân sẽ phải bị thay thế, không thể bị một quốc gia độc quyền lâu dài.

Hồi thập niên 80 thế kỷ XX, nhà chính trị học quốc tế nổi tiếng người Mỹ George Modelski từng đưa ra lý thuyết “chu kỳ trăm năm” thay thế quốc gia bá quyền, cũng có thể gọi đó là lý thuyết chu kỳ trăm năm về “quyền lãnh đạo thế giới”. Ông chia nền chính trị quốc tế 500 năm qua làm năm chu kỳ có tính thế kỷ (1495 – 2030), cứ cách khoảng 100 năm lại có một nước lớn trỗi dậy, lại xuất hiện một quốc gia bá quyền dẫn đầu hệ thống thế giới. Trong thời gian 500 năm ấy đã lần lượt xuất hiện các quốc gia bá quyền: Bồ Đào Nha thế kỷ XVI, Hà Lan thế kỷ XVII, Anh Quốc thế kỷ XVIII-XIX, Mỹ thế kỷ XX.

Dù là chu kỳ trăm năm “quốc gia bá quyền” hay là chu kỳ trăm năm “quyền lãnh đạo thế giới”, điều đó nói lên trong quá trình rượt đuổi nhau cạnh tranh giữa các quốc gia, chưa có quốc gia quán quân vĩnh viễn. Nhiệm kỳ của quốc gia quán quân, tức là “nhiệm kỳ thế kỷ”, “nhiệm kỳ trăm năm”. Người ta thường nói “thế kỷ Hà Lan”, “thế kỷ Anh Quốc”, “thế kỷ Mỹ”, nhiệm kỳ quán quân của các quốc gia quán quân này là một thế kỷ. Chế độ nhiệm kỳ hình thành tự nhiên của quốc gia quán quân là điều tốt đối với thế giới. Dù là muốn giữ vị trí quán quân hay là muốn tiến lên quán quân, họ đều mang lại cho thế giới sức sống và động lực phát triển. Sự thay thế quốc gia quán quân thể hiện trình độ vận động tổng thể của thế giới được nâng cao. Thí dụ sự xuất hiện nước Anh đem lại cho thế giới tin mừng công nghiệp hóa; nước Mỹ tiến lên vị trí quốc gia quán quân mang lại sự thay đổi mới cho thế giới; quốc gia quán quân mới xuất hiện sau Mỹ nhất định sẽ đem lại cho thế giới một cục diện mới.

Ba bộ mặt của “quốc gia quán quân”

Đại để có thể chia quốc gia quán quân thế giới ra làm ba kiểu loại.

Kiểu thực dân

Quốc gia quán quân “kiểu thực dân” là quốc gia thực hành “chủ nghĩa đế quốc thực dân”; các nước này thông qua sự chiếm đóng quân sự mà tiến hành trực tiếp thống trị, biến các nước yếu thành thuộc địa của mình, xây dựng đại đế quốc thực dân. Mấy nước lớn trỗi dậy thời kỳ đầu đều thuộc loại quốc gia quán quân “kiểu thực dân”, gồm có Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh. Dựa vào logic kẻ cướp “phát hiện thì chiếm lĩnh”, họ thực hành sự xâm chiếm bằng vũ lực, xây dựng nên những đế quốc thực dân khổng lồ.

Năm 1549, các thuộc địa ở châu Mỹ của Tây Ban Nha chiều Bắc Nam dài tổng cộng tới hơn 10 nghìn kilômet, trải rộng trên 67 độ kinh, tổng diện tích lên tới 25 triệu kilômet vuông.

Hà Lan thế kỷ XVII không những là một nước lớn về thương mại mà còn là một cường quốc thực dân. Hoạt động thực dân của Hà Lan chủ yếu tiến hành thông qua hai công ty Đông và Tây Ấn Độ(9). Phạm vi thực dân của công ty Đông Ấn chủ yếu ở châu Á. Phạm vi thực dân của công ty Tây Ấn là ở châu Phi và châu Mỹ. Diện tích các thuộc địa do hai công ty này xây dựng ở hải ngoại lớn gấp 60 lần chính quốc Hà Lan.

Anh Quốc là “đế quốc thực dân” với mục tiêu là chiếm lĩnh thế giới trong thời kỳ bành trướng tư bản. Các thuộc địa bị Đại Anh đế quốc xâm chiếm rộng tới hơn 30 triệu kilômet vuông, lớn gấp hơn 100 lần diện tích chính quốc, chiếm chừng 1/4 diện tích toàn bộ lục địa trên trái đất, số dân gần 400 triệu, gấp 9 lần số dân chính quốc. Trong 50 năm từ 1815 -1865, nước Anh đã tiến hành mở rộng và khai triển các thuộc địa của họ trên phạm vi thế giới với tốc độ bình quân mỗi năm 100 nghìn kilômet vuông, xây dựng nên một “đế quốc Mặt Trời không lặn”, cũng xây dựng một hệ thống thương mại quốc tế phục vụ lợi ích của “đế quốc Mặt Trời không lặn” này. Các thuộc địa đó một mặt cung cấp nhiều nguyên liệu quý cho nước Anh, mặt khác cũng cung cấp kênh tiêu thụ ở nước ngoài cho các sản phẩm do nước Anh chế tạo. Tại nước Anh dần dần hình thành một “tam giác lành tính” gồm thuộc địa hải ngoại, thương mại quốc tế, và lực lượng hải quân hùng mạnh. Nước Anh trở thành một thế giới thuộc địa, thế giới buôn bán. Anh Quốc dùng hạm đội để hộ tống tàu buôn và kiểm soát thế giới. Năm 1865 nhà kinh tế Anh W. Stanley Jevons mô tả: “Những đồng bằng ở Bắc Mỹ và nước Nga là nơi trồng ngô của chúng ta, Canada và biển Baltic là khu rừng của chúng ta, châu Úc có những bãi chăn gia súc của chúng ta; Peru cho chúng ta bạc trắng, vàng của Nam Phi và Australia chảy về London; người Ấn Độ và người Trung Quốc trồng trà cho chúng ta; cà phê, mía và hương liệu của chúng ta trồng khắp quần đảo Đông Ấn Độ. Bông của chúng ta lâu nay trồng tại miền Nam nước Mỹ, hiện nay đang mở rộng đến tất cả mọi vùng ấm áp trên trái đất”.

Kiểu bá quyền

Quốc gia quán quân “kiểu bá quyền” là quốc gia không coi chiếm đất và thôn tính đất đai nước khác là mục tiêu, mà thông qua sự dẫn dắt và kiểm soát thế giới để thực hiện lợi ích bá quyền của mình. Nếu nói quốc gia quán quân “kiểu thực dân” thuộc loại “kẻ cướp dã man” thế thì quốc gia quán quân “kiểu bá quyền” thuộc loại “kẻ cướp văn minh”. Hai kẻ cướp ấy tuy có khác nhau nhưng đều thuộc hàng kẻ cướp. Nước Mỹ là một tiêu bản của quốc gia quán quân “kiểu bá quyền”. Chuyên gia lịch sử ngoại giao Mỹ Khổng Hoa Nhuận2 viết trong “Lịch sử mối quan hệ đối ngoại Mỹ Cambridge” như sau: “Từ năm 1776 trở đi người Mỹ luôn luôn xây dựng một bộ chế độ của mình nhằm thích ứng với nhu cầu tự thân không ngừng biến đổi của họ. Đúng thế, họ tranh giành quyền lực thế giới với người châu Âu. Chẳng khác gì người châu Âu, họ không thắng nổi tham vọng giành quyền lực thế giới, thậm chí cả sự thối nát của quyền lực đó. Đó cũng là sự thực. Người Philippines, người Cuba, người Trung Quốc và người Trung Mỹ có đầy đủ lý do để cho rằng Mỹ chẳng khác gì các nước đế quốc khác, đây cũng là sự thực.

Thế nhưng khác với các nước lớn khác, nước Mỹ có một đại lục lớn để sinh sôi nẩy nở và khai thác, nó không vì thừa dân mà khát khao chiếm thuộc địa, cũng không vì thiếu nguyên vật liệu mà thèm khát có những lãnh địa bảo hộ rộng lớn, đồng thời cũng không cần (như nước Nga) khát khao chiếm lĩnh những vùng đất rộng để làm đường đi tới các cảng biển mới xây dựng nhằm tạo dựng một hệ thống vận chuyển quan trọng”. “Nước Mỹ không muốn tham gia hàng ngũ của người châu Âu và người Nhật Bản tìm kiếm lãnh thổ và trở thành đế quốc thực dân. Các quan chức Mỹ chỉ muốn giành được những mảnh đất phân tán, diện tích tương đối nhỏ để dùng làm cơ sở bành trướng thương mại cần thiết. Khi sáng tạo và đánh giá thành tích công nghiệp, người Mỹ cũng không muốn bắt chước người châu Âu, không muốn dùng tiêu chuẩn của người châu Âu hoặc người Nhật… Xét về mặt sáng tạo cái mới và xây dựng quy chế, những người lãnh đạo tổ hợp công ty kiểu Mỹ vượt xa các đối thủ nước ngoài. Mối quan hệ giữa các tổ hợp đó với chính quyền và các yêu cầu chính sách ngoại giao họ nêu ra với các quan chức nhà nước cũng khác hẳn các đối thủ của họ”. “Nghe nói nước Mỹ là quốc gia dân tộc đầu tiên của thế kỷ XX. Đổi mới khoa học, dây chuyền công nghiệp hợp lý hóa và toàn cầu hóa, công ty đa quốc gia, quyền lực chính trị tập quyền hóa với cơ sở là hệ thống thông tin hiện đại, chủ nghĩa can thiệp quân sự, chủ nghĩa dân tộc cuồng nhiệt, chủ nghĩa chủng tộc cực đoan và cuộc cách mạng có ý nghĩa sâu xa – tất cả những cái đó đã cùng tạo dựng nên tiến trình phát triển của thế kỷ XX”. Đoạn viết nói trên đã trình bày các đặc điểm nước Mỹ không dùng thủ đoạn thực dân để tạo dựng bá quyền.

Cho dù trong thời đại chiến tranh và cách mạng hay là trong thời đại hòa bình và phát triển, nước Mỹ bao giờ cũng là một “đế quốc bá quyền” lấy việc kiểm soát thế giới làm mục tiêu. Bá quyền Mỹ thể hiện trên các mặt chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa. Sau Đại chiến thế giới lần II, nước Mỹ xuất hiện với tư cách lãnh tụ chống chiến tranh phát xít của thế giới, có cái vốn chính trị to lớn, chủ đạo việc cấu trúc và xây dựng cơ chế quốc tế: xây dựng cơ chế an ninh tập thể của Liên Hợp Quốc, xác lập địa vị chủ đạo trong nền chính trị quốc tế, xây dựng Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, xác lập hệ thống tài chính thế giới lấy đồng USD làm hạt nhân; xây dựng hệ thống thương mại tự do quốc tế lấy cơ sở là hiệp định thuế quan thương mại; thực hành chiến lược ngăn chặn, đề xuất chủ nghĩa Truman, kế hoạch Marshall, xây dựng Tổ chức Công ước Đại Tây Dương NATO.

Mỹ là nước đề xướng, kiến tạo Liên Hợp Quốc và là nhà tài trợ lớn nhất cho Liên Hợp Quốc, cũng là nước hưởng lợi lớn nhất từ Liên Hợp Quốc. Mỹ luôn luôn thông qua việc thực hành bá quyền chế độ và bá quyền quyền lực để thực hiện lợi ích quốc gia của họ. Mỹ từng gọi Liên Hợp Quốc là “chính trị bạo tàn của đa số” và dựa theo nguyên tắc nước lớn nhất trí để thiết kế, xây dựng, lãnh đạo và kiểm soát tổ chức quốc tế quan trọng nhất thế giới này – Liên Hợp Quốc. Trong các hoạt động thời kỳ đầu của Liên Hợp Quốc, Mỹ kiểm soát và chi phối đa số ổn định trong Liên Hợp Quốc, thông qua cỗ máy biểu quyết này biến ý chí và nguyện vọng của họ thành hành động. Trong thời gian 1946 – 1953, đại hội Liên Hợp Quốc thông qua hơn 800 nghị quyết, tỷ lệ thành công của Mỹ là 97%, bất kỳ vấn đề an ninh quan trọng nào có liên quan tới Mỹ đều chưa bị thất bại. Mỹ còn là nước ủng hộ và lập nên nhiều tổ chức có tính khu vực. Cái gọi là nguyên tắc nước lớn nhất trí, thực chất là nguyên tắc nhất trí với Mỹ.

Tổng giá trị sản lượng công nghiệp của Mỹ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai chiếm hơn một nửa tổng sản lượng của toàn thế giới; Mỹ cho quân đội đến đóng tại 50 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới. Nước Mỹ dùng phương thức của họ để chủ đạo trật tự quốc tế. Mỹ và Liên Xô tiến hành cuộc chiến tranh lạnh kéo dài gần nửa thế kỷ với nội dung là tranh giành bá quyền thế giới.

Sau khi chiến tranh lạnh chấm dứt, cuối cùng Mỹ xác lập được địa vị bá quyền của mình, hơn nữa còn thực hành chủ nghĩa đơn phương, liên tục nhiều lần phát động chiến tranh, khoe khoang vũ lực trước toàn thế giới. Một biểu hiện quan trọng của bá quyền Mỹ là muốn dùng mô hình Mỹ để cải tạo thế giới, muốn mở rộng dân chủ kiểu Mỹ trên toàn thế giới, muốn tiến hành Mỹ hóa toàn thế giới. Đây là sự mất dân chủ lớn nhất của bá quyền Mỹ trong mối quan hệ quốc tế, là sự chuyên chế và độc tài của bá quyền Mỹ.

Kiểu dẫn dắt

Quốc gia quán quân “kiểu dẫn dắt” là loại quốc gia quán quân không dùng thủ đoạn chinh phục để xây dựng nền văn minh, không thông qua bá quyền thế giới và phương pháp chinh phục để thực hiện lợi ích quốc gia của mình. Hiện nay Trung Quốc còn chưa phải là quốc gia quán quân, song Trung Quốc – quốc gia quán quân tương lai này khẳng định sẽ là một quốc gia quán quân “kiểu dẫn dắt”.

Sử gia nổi tiếng người Mỹ Brooks Adams cho rằng các nền văn minh vĩ đại đều được xây dựng bằng phương pháp chinh phục, trung tâm cổ xúy văn minh thế giới chính là Mỹ chứ không phải ai khác, Mỹ nên nắm cơ hội để bành trướng ra bên ngoài, nhất là bành trướng về phía châu Á và vùng Thái Bình Dương, thực hiện ưu thế kinh tế của Mỹ trong phạm vi thế giới. Trên thực tế đây là một “Thuyết bành trướng có lý”, “Thuyết chinh phục có lý”, “Thuyết bá quyền có lý”. Trước hết, nền văn minh chủ nghĩa tư bản phương Tây được tạo dựng bằng phương pháp chinh phục, nhưng điều này không thể chứng minh tất cả mọi nền văn minh vĩ đại xưa nay đều được xây dựng bằng phương pháp chinh phục. Nền văn minh Trung Hoa được xây dựng không phải bằng phương pháp chinh phục.Thứ hai, nếu nói các nền văn minh vĩ đại đều được xây dựng bằng phương pháp chinh phục, thế thì phương pháp chinh phục cũng trở thành thứ cùng tồn vong với nền văn minh, không có chinh phục thì không có văn minh, không cần chinh phục là không cần văn minh, chinh phục cũng trở thành một phần của văn minh. Điều này rất rõ ràng là thứ logic của kẻ cướp. Thứ ba, một số nền văn minh vĩ đại trong quá khứ được xây dựng bằng phương pháp chinh phục, điều đó không có nghĩa là các nền văn minh sau này cũng đều phải được xây dựng bằng phương pháp chinh phục.


Giang Vi

Tôi là một người yêu sách cuồng nhiệt và đã hơn 20 năm. Tôi dành cả ngày để đọc, viết blog về sách và viết bình luận. Tôi tin rằng sách là công cụ mạnh mẽ nhất trong cuộc sống để mở mang đầu óc cho những ý tưởng và quan điểm mới. Các thể loại yêu thích của tôi bao gồm tiểu thuyết lịch sử, giả tưởng, khoa học viễn tưởng và phi hư cấu. Tôi cũng thích tìm hiểu về các nền văn hóa khác nhau thông qua văn học.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts:

Back to top button