Kinh doanh - đầu tư

Forex 100% – Học Cách Kiếm Tiền Từ Thị Trường Ngoại Hối

Forex 100% - Angel Darazhanov1. THÔNG TIN SÁCH/EBOOK

Tác giả : Angel Darazhanov

Download sách Forex 100% ebook PDF/PRC/MOBI/EPUB. Tải miễn phí, đọc online trên điện thoại, máy tính, máy tính bảng.

Danh mục :  SÁCH KINH DOANH – ĐẦU TƯ


2. DOWNLOAD

File ebook hiện chưa có hoặc gặp vấn đề bản quyền, Downloadsach sẽ cập nhật link tải ngay khi tìm kiếm được trên Internet.

Bạn có thể Đọc thử hoặc Xem giá bán.

Bạn không tải được sách ?  Xem hướng dẫn nhé : Hướng dẫn tải sách


3. GIỚI THIỆU / REVIEW SÁCH

LỜI TỰA

Độc giả thân mến! Cuốn sách mà các bạn đang cầm trên tay là một cẩm nang toàn diện cho những người mới tham gia thị trường Ngoại hối tìm hiểu cách trở thành một nhà kinh doanh Ngoại hối chuyên nghiệp. Mục đích của cuốn sách này là chia sẻ những hiểu biết và kỹ năng cơ bản cho phép bạn đưa ra những quyết định giao dịch và đầu tư có khả năng sinh lời cao trên thị trường Ngoại hối, chứng khoán, kim loại quý và các giao dịch hợp đồng tương lai trong thực tế.

Thành tựu của ngành công nghệ thông tin ngày nay đã cho phép những ai quan tâm đều có thể tham gia giao dịch các công cụ tài chính. Bạn có thể thực hiện các giao dịch Ngoại hối trực tiếp từ máy tính cá nhân của mình. Chỉ cần nhấp chuột vài lần, bạn đã có thể đưa ra một lệnh bán trên thị trường. Hàng triệu nhà kinh doanh trên toàn thế giới, không phân biệt tuổi tác, trình độ, vốn khởi điểm hay thời gian rảnh rỗi, đều đang tham gia giao dịch Ngoại hối hàng ngày bằng cách sử dụng chiếc máy tính cá nhân và kiến thức của mình.

Các tác giả của cuốn sách này trên thực tế là những nhà kinh doanh đầy kinh nghiệm và là những chuyên gia hàng đầu của công ty Admiral Markets, Ltd. Họ đã trực tiếp đào tạo hàng trăm khóa học Ngoại hối, cơ bản cũng như chuyên sâu và hiện vẫn đang vận dụng những hiểu biết tích lũy được của mình để giao dịch trên thị trường. Đây có thể là bằng chứng có thuyết phục nhất cho cách tiếp cận hiệu quả và toàn diện của cuốn sách này, nơi các tác giả cố gắng chia sẻ kinh nghiệm giao dịch của bản thân với độc giả.

Cuốn sách này cũng đưa ra các phương pháp cơ bản trong việc phân tích và dự báo diễn biến của thị trường. Tỷ giá hối đoái, các yếu tố tác động đến giá cổ phiếu và các công cụ tài chính khác đều nằm trong phạm vi ứng dụng của Phân tích Kỹ thuật và Phân tích Cơ bản. Ở đây, các tác giả đưa ra những đánh giá của mình đối với từng nghiên cứu về lý thuyết thị trường cũng như những nghiên cứu, phát hiện mới nhất và thú vị nhất trong lĩnh vực này. Quan trọng hơn, các tác giả tập trung vào ứng dụng thực tế của các kỹ thuật và chỉ báo kỹ thuật khác nhau, đó cũng chính là lý do vì sao cuốn sách này đầy ắp các ví dụ, ảnh và biểu đồ minh họa. Những nội dung cơ bản nhất của phân tích toán học và quản lý tiền sẽ được đưa ra trong phần kết luận để hoàn thiện bức tranh về cách thức giao dịch trên thị trường Ngoại hối.

Cuốn sách này được diễn đạt bằng một ngôn ngữ rất đơn giản và nhờ nó, bạn sẽ không cần đến bất cứ khóa đào tạo chuyên sâu nào để học cách giao dịch. Các vấn đề sẽ lần lượt được đề cập với mức độ phức tạp tăng dần đều, nên khi đọc xong cuốn sách, các bạn có thể dễ dàng tham gia giao dịch trên các thị trường tài chính quốc tế.

Cuốn sách cũng có một chương mô tả cách thức thao tác với phần mềm giao dịch MetaTrader4, cho phép bạn đưa ra các lệnh để tham gia vào thị trường, ứng dụng các phân tích biểu đồ (toán học), nhận được những tin tức thị trường cập nhật nhất cũng như phát triển các chiến lược giao dịch tự động. Hãy cài đặt phần mềm giao dịch này trên máy tính của bạn và mở một tài khoản giao dịch thử nghiệm hoặc thực tế để làm quen dần với các chỉ báo và chiến lược được mô tả trong cuốn sách này. Những chỉ dẫn cho việc mở tài khoản được đưa ra ở phần cuối sách.

Cuốn sách này dành cho cả những nhà kinh doanh chuyên nghiệp mong muốn rèn luyện và làm chủ những kỹ năng giao dịch của mình cũng như cho đông đảo bạn đọc khác, những người muốn tiến những bước đầu tiên trên con đường nghiên cứu và tham gia vào loại hình kinh doanh đầy cuốn hút này.

GIỚI THIỆU Vài nét về lịch sử

Lịch sử của thị trường Ngoại hối gắn liền với sự xuất hiện và phát triển của tiền tệ. Đồng tiền được sử dụng như là vật trao đổi ngang giá cho rất nhiều loại hàng hóa và dịch vụ khác nhau. Những bằng chứng sớm nhất về việc sử dụng tiền xuất hiện cách đây khoảng 4.500 năm tại vùng Lưỡng Hà (Iraq ngày nay). Những dấu tích khảo cổ cho thấy cư dân thời đó trả một lượng bạc nhất định để đổi lấy hàng hóa và đã bắt đầu sử dụng tiền xu đúc từ những hợp kim khác nhau như một phương tiện thanh toán. Những dấu tích sớm nhất về tiền xu xuất hiện cách đây khoảng 3.000 năm tại Lydia (Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay). Ban đầu, những đồng xu có hình dạng khác nhau. Những đồng xu dẹt bằng đồng được sử dụng ở Nga và Italia; ở Trung Quốc là dao và những dụng cụ khác bằng đồng thau; ở Thái Lan là những mẩu bạc được tạo hình giống con thuyền; ở Nhật Bản là những đồng xu chữ nhật bằng vàng và bạc. Những thứ có giá trị cao được coi là các phương tiện ngang giá chung cho thanh toán của cư dân cổ đại.

Hệ thống ngang giá chung nhanh chóng phổ biến trên toàn thế giới. Ở các quốc gia khác nhau, các hợp kim khác nhau được sử dụng để đúc tiền xu, tuy nhiên, vàng, bạc, đồng thau và đồng đỏ là những chất liệu phổ biến nhất.

Tiền giấy xuất hiện muộn hơn rất nhiều và lần đầu tiên xuất hiện tại Trung Quốc. Khoảng thế kỷ thứ X, hoàng đế Trung Hoa lúc đó cho phát hành những loại tiền xu rất nặng nhưng có giá trị thấp trong thanh toán. Người dân cảm thấy không thoải mái khi sử dụng những đồng tiền này và đổi chúng để lấy các giấy biên nhận thể hiện giá trị chính xác của các loại hàng hóa từ các thương nhân. Một thế kỷ sau đó, triều đình phong kiến Trung Hoa rút các loại giấy biên nhận này ra khỏi lưu thông và ra lệnh in các loại giấy bạc nhằm sử dụng chúng như là đồng tiền hợp pháp. Đây chính là điểm khởi đầu của tiền giấy.

Ban đầu, tất cả các loại tiền giấy đều là vàng. Vàng được cất trong các ngân hàng và các ngân hàng này chỉ trả tiền để đổi lấy vàng. Vào thời đó, mọi người đều có thể đổi giấy bạc thành vàng và ngược lại. Các loại tiền giấy theo mệnh giá được đưa vào lưu thông nhằm tránh việc giảm giá trị của tiền tệ. Qua thời gian, người ta dần thấy rằng không cần thiết phải đảm bảo tiền giấy bằng vàng ở mức 100%.

Có một thực tế thú vị là rất lâu sau khi tiền giấy được đưa vào lưu hành, vẫn có nhiều quốc gia không sử dụng đồng tiền mà giá trị được chia dựa trên hệ thập phân. Hệ đơn vị truyền thống xuất hiện cách đây hàng nghìn năm vẫn còn phổ biến tại Anh cho đến tận năm 1971. Trước khi hệ thập phân được áp dụng, đồng bảng được chia nhỏ thành 20 shillings hay 240 xu cho một bảng. Phải đến tận năm 1971 thì đồng bảng mới được chia lại thành 100 xu.

Nhà kinh doanh nổi tiếng người Mỹ Frank McNamara thực hiện thanh toán đầu tiên bằng séc vào đầu những năm 1950. Khi đang ăn tối tại một nhà hàng sang trọng ở New York, ông bối rối khi phát hiện ra mình đã bỏ quên ví ở nhà. Sau đó, ông bảo đảm việc thanh toán với chủ nhà hàng bằng chữ ký của mình. Sự việc này là điểm khởi đầu cho phương thức thanh toán không dùng tiền mặt. Cũng kể từ thời điểm đó, khái niệm tiền đã trở nên thực tế và rộng rãi hơn rất nhiều và là điều kiện tiên quyết cho sự xuất hiện của thị trường Ngoại hối ngày nay. Rất nhiều chuyên gia cho rằng việc rút toàn bộ tiền giấy và tiền xu ra khỏi lưu thông và tiến hành các phương thức thanh toán điện tử là xu hướng không thể tránh khỏi đối với tất cả các hệ thống tiền tệ trên toàn thế giới.

Sự xuất hiện của thị trường Ngoại hối xuất phát từ yêu cầu của rất nhiều quốc gia và doanh nghiệp mong muốn thực hiện hoạt động giao dịch quốc tế mà không bị hạn chế. Các công ty nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài – theo đúng quy luật – sẽ phải mua ngoại tệ của các quốc gia đó để thanh toán cho những hàng hóa mà họ nhập khẩu.

Thị trường Ngoại hối xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ XVIII. Vào thời điểm đó, đồng bảng Anh đóng vai trò là đồng tiền dự trữ chủ yếu. Trên thực tế, tỷ giá hối đoái ban đầu được cố định dựa trên chế độ bản vị vàng; và do vậy, kỷ nguyên của “bản vị vàng” cũng bắt đầu. Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, thị trường Ngoại hối chứng kiến những thay đổi lớn lao. Hiệp định Bretton Woods năm 1944 đã đặt nền móng cho một hệ thống tiền tệ quốc tế dựa trên khả năng chuyển đổi nhiều đồng tiền quốc gia khác nhau sang đồng đô-la Mỹ rồi sau đó, đến lượt mình, đồng tiền này được chuyển đổi thành vàng. Không lâu sau đó, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) chính thức ra đời.

Thị trường Ngoại hối ngày nay

Thị trường Ngoại hối như ngày nay tồn tại từ những năm 1970, khi tỷ giá hối đoái cố định được thay thế bằng tỷ giá thả nổi, điều này cho phép hàng nghìn nhà đầu tư cá nhân và tổ chức có thể thu lợi nhuận từ những thay đổi của chúng. Thị trường Ngoại hối thường được gọi bằng cái tên khác là thị trường Forex, hay chỉ đơn giản là Forex.

Thị trường Ngoại hối có lẽ là thị trường tài chính có tính thanh khoản cao nhất thế giới. Doanh số trung bình hàng ngày của nó là khoảng 2.000 tỷ đô-la Mỹ. Tính thanh khoản cao có nghĩa là tại thời điểm bất kỳ, nếu có một cá nhân muốn bán một lượng ngoại tệ nào đó thì sẽ có một cá nhân khác muốn mua ngoại tệ đó với số lượng tương đương. Đôi khi, có một khoảng chênh lệch giữa hai mức giá mua và bán này (xem Hình 2A trang 24) tuy rất hiếm gặp. Khoảng chênh lệch này cho thấy một khoảng giá mà trong đó, không có bất cứ giao dịch thực tế nào được tiến hành và nó sẽ làm cho mức giá diễn biến theo chiều hướng phù hợp. Mức chênh lệch giá hiếm khi xảy ra và đươc coi là một ngoại lệ. Thường thì trên thị trường, mỗi giây trôi qua lại có hàng nghìn nhà kinh doanh muốn mua hoặc bán ngoại tệ.

Thị trường Ngoại hối hoạt động 24 giờ một ngày trừ những ngày cuối tuần. Tùy thuộc vào múi giờ, việc giao dịch ngoại tệ diễn ra trên những trung tâm tài chính lớn nhất thế giới: London, New York, Tokyo, Zürich, Frankfurt, Hong Kong, Singapore, Paris và Sidney. Điều này có nghĩa là khi các định chế tài chính ở London đóng cửa thì giao dịch ngoại tệ vẫn tiếp tục diễn ra ở New York; và khi các định chế tài chính ở New York đóng cửa thì giao dịch ngoại tệ vẫn tiếp tục diễn ra ở Tokyo, và cứ như vậy. Thông thường, nếu không có một sự kiện bất khả kháng nào xảy ra, thị trường Ngoại hối mở cửa vào sáng sớm ngày thứ Hai và đóng cửa vào đêm muộn ngày thứ Sáu. Thị trường thường có những diễn biến bất ngờ trong khoảng từ 2 đến 3 giờ sáng Giờ miền Đông (Eastern Standard Time – EST) (tức là từ 7 đến 8 giờ sáng giờ GMT) trong phiên giao dịch châu Âu. Phiên giao dịch Bắc Mỹ bắt đầu từ lúc 8 giờ 30 phút sáng Giờ miền Đông (tức 1 giờ 30 phút chiều giờ GMT). Thị trường thường ít biến động hơn trong phiên giao dịch châu Á, phiên này thường sôi động nhất vào khoảng 8 giờ tối Giờ miền Đông (tức 1 giờ sáng giờ GMT).

Thị trường Ngoại hối là một thị trường tài chính toàn cầu, phi tập trung và giao dịch tự do. Có thể hình dung một cách đơn giản, nó là hệ thống giúp các trung tâm tài chính thế giới liên kết với nhau. Các giao dịch được thực hiện giữa những nhà môi giới, giao dịch viên của các tổ chức và nhà kinh doanh cá nhân với sự trợ giúp của hệ thống máy tính và các sàn giao dịch điện tử. Nhờ đó, thị trường Ngoại hối trở nên phổ biến và rất dễ dàng tham gia đối với những người muốn thực hiện việc đầu tư một cách chủ động và tự quản lý phần vốn của mình.

Đây chính là lý do khiến cho số người quan tâm đến thị trường Ngoại hối ngày càng tăng. Nhưng bất cứ nhà kinh doanh Ngoại hối mới vào nghề nào cũng cần nhận thức được và hiểu rõ tất cả những rủi ro tiềm ẩn trong giao dịch Ngoại hối.

Ngày nay, những thành phần tham gia thị trường chủ yếu là các ngân hàng trung ương, ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư cũng như những nhà đầu tư và nhà kinh doanh chuyên nghiệp. Có thể kể tên những tổ chức nổi bật nhất như City Group, Inc., JP Morgan Chase & Co., Goldman Sachs Group, Inc., Morgan Stanley, Merrill Lynch, UBS AG, Bank of America, HSBC, Bank of Tokyo-Mitsubishi và rất nhiều thành phần khác. Trên thực tế, các tổ chức này tiến hành phần lớn giao dịch và được coi là những tổ chức tạo lập thị trường (Market maker) vì họ có khả năng tác động tới mức giá của các đồng tiền.

ĐỌC THỬ

CHƯƠNG 1 Các thuật ngữ và khái niệm

 Tiền tệ, các cặp tiền tệ

Đồng tiền quốc gia là đơn vị tiền tệ quốc gia của một đất nước hoặc một nhóm nước; ví dụ như đồng Euro ở Tây Âu, đồng đô-la ở Mỹ, đồng Yên ở Nhật Bản và tương tự.

Tỷ giá hối đoái giữa hai đồng tiền cho thấy một đồng tiền này được định giá bao nhiêu theo một đồng tiền khác. Thuật ngữ cặp tiền tệ được sử dụng phổ biến trên thị trường Ngoại hối. Có hai loại tỷ giá hối đoái là tỷ giá giao ngay và tỷ giá kỳ hạn.

Tỷ giá giao ngay (SPOT) là tỷ giá hiện hành được đưa ra tại thời điểm giao dịch, việc thanh toán sẽ được thực hiện trong thời hạn từ một đến hai ngày kể từ ngày giao dịch. Ngày thanh toán thường được coi là ngày giá trị.

Ngày giá trị có thể là:

  • Trong cùng ngày giao dịch, nghĩa là Ngày hôm nay (Tod);
  • Vào ngày tiếp theo ngày giao dịch, nghĩa là Ngày mai (Tom);
  • Vào ngày thứ hai kể từ ngày giao dịch, nghĩa là Spot.

Thông thường các giao dịch trên thị trường Ngoại hối được tiến hành ở mức giá giao ngay. Tất cả các giao dịch với ngày giá trị trong vòng hai ngày làm việc đều được coi là các hoạt động chuyển đổi tiền mặt.

Tỷ giá kỳ hạn (FORWARD) cho thấy giá trị của một đồng tiền trong một khoảng thời gian tương lai. Kỳ hạn tiêu chuẩn là 1, 3, 6 và 12 tháng.

Tỷ giá hối đoái kỳ hạn được tính bằng:

Khối lượng giao dịch có vai trò rất quan trọng trên thị trường Ngoại hối. Khối lượng giao dịch của một đồng tiền càng lớn thì càng khó để một hoặc một nhóm nhà kinh doanh thao túng tỷ giá của đồng tiền đó. Ngay cả đối với những đồng tiền được giao dịch nhiều nhất (đồng Euro và đô-la Mỹ) thì việc thao túng tỷ giá cũng là điều gần như không thể, ngoại trừ trường hợp có sự can thiệp của các ngân hàng trung ương. Đây là một trong những lý do khiến hầu hết các nhà kinh doanh lựa chọn giao dịch bằng nhiều đồng tiền khác nhau. Lý do thứ hai là khối lượng giao dịch của một đồng tiền càng lớn thì các kiểu phân tích khác nhau sẽ càng hiệu quả khi được áp dụng. Đồng Euro và đô-la Mỹ chiếm tới 70% tổng khối lượng giao dịch trên thị trường Ngoại hối, tiếp theo là đồng Yên Nhật (11%), đồng bảng Anh (8%), đồng phrăng Thụy Sỹ (5%) và 6% còn lại là của các đồng tiền khác.

Giao dịch ký quỹ

Giao dịch Ngoại hối của cá nhân đã trở nên rất phổ biến trong vòng 10 năm trở lại đây. Sự phát triển của các dịch vụ tài chính và giao dịch ký quỹ đã đóng góp không nhỏ vào việc làm cho các giao dịch Ngoại hối trở nên phổ biến như vậy. Các yếu tố này giúp cho bất cứ ai muốn tham gia giao dịch trên thị trường Ngoại hối đều có thể thực hiện điều mình muốn chỉ với một số tiền nhất định được bảo đảm trong tài khoản. Trên thực tế, nếu một cá nhân muốn giao dịch trên thị trường Ngoại hối, người đó phải có 100.000 đơn vị của một loại tiền tệ nhất định trong tài khoản. Đối với phần đông các nhà kinh doanh cá nhân thì đây là một số tiền quá lớn. Tuy nhiên, nhờ có việc sử dụng đòn bẩy mà các nhà môi giới cung cấp, các nhà kinh doanh có thể tiến hành các giao dịch bằng nhiều loại tiền tệ khác nhau khi số tiền trong tài khoản của họ thấp hơn con số nói trên rất nhiều. Vậy đòn bẩy là gì và nó được cung cấp ra sao? Thông thường, một nhà môi giới cung cấp đòn bẩy cho khách hàng của mình để họ – những nhà kinh doanh cá nhân có thể gia nhập thị trường Ngoại hối. Nếu một nhà môi giới cung cấp đòn bẩy tỉ lệ 1:100 (hay 1%) thì nó có nghĩa là nhà kinh doanh có thể thực hiện các hợp đồng với số tiền nhỏ hơn đến 100 lần so với số tiền cần để giao dịch trên thực tế. Ví dụ, nếu một nhà kinh doanh mở một trạng thái sử dụng 1.000 đô-la trong tài khoản của mình thì giao dịch của người đó có thể có giá trị tới 100.000 đô-la.

PIP

PIP là một khái niệm cơ bản khác trong giao dịch Ngoại hối. Nó là viết tắt của cụm từ Điểm phần trăm (Percentage In Point PIP) và là đơn vị dao động nhỏ nhất của tỷ giá. Ví dụ, nếu tỷ giá của đồng đô-la Mỹ so với đồng phrăng Thụy Sỹ USD/CHF đang là 1,2212 và sau đó tăng lên 1,2213, điều đó có nghĩa là tỷ giá hối đoái đã tăng một Điểm phần trăm, hay 0,0001. Kết quả của một giao dịch, nghĩa là lợi nhuận hoặc thua lỗ, được xác định bằng số Điểm phần trăm dao động từ khi bạn mở trạng thái giao dịch của mình. Bên cạnh đó, một yếu tố khác cũng quyết định kết quả giao dịch của bạn, đó là số tiền mà bạn dùng để thực hiện giao dịch đó.

Xu hướng

Xu hướng là hướng đi tiếp theo của thị trường. Có ba loại xu hướng: đi lên, đi xuống và đi ngang. Xu hướng cuối cùng xuất hiện khi dao động giá là không đáng kể và có chiều hướng cân bằng trong một khoảng hẹp.

Giá cả sẽ tăng khi thị trường có xu hướng đi lên và giảm khi thị trường có xu hướng đi xuống. Đôi khi, thay vì sử dụng các thuật ngữ này, người ta sẽ dùng từ “thị trường giá lên” (Bullish) với xu hướng đi lên hoặc “thị trường giá xuống” (Bearish) với xu hướng đi xuống. Trên thực tế, các nhà kinh doanh chuyên nghiệp thường sử dụng các thuật ngữ này hơn. Chúng cũng có nguồn gốc lịch sử. Vào khoảng đầu thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên, người ta tổ chức các trận đấu bò với gấu như một hình thức giải trí. Họ nhận ra thói quen và những dấu hiệu đặc trưng của hai loài vật này khi bắt đầu tấn công đối thủ. Bò thường tấn công khi cúi thấp đầu và chĩa sừng về phía trước nhằm hất tung đối thủ, nghĩa là chuyển động theo chiều từ dưới lên trên (thị trường giá lên có thuật ngữ gốc tiếng Anh là “bullish” – nghĩa là theo kiểu của bò). Còn gấu thì lại tấn công từ trên cao xuống để hạ gục đối thủ, nghĩa là chuyển động theo chiều từ trên cao xuống dưới (thị trường giá xuống có thuật ngữ gốc tiếng Anh là “bearish” – nghĩa là theo kiểu của gấu).

Xu hướng giá lên được dùng để mô tả thị trường với mức giá diễn biến theo chiều hướng đi lên còn xu hướng giá xuống được dùng để mô tả thị trường với mức giá diễn biến theo chiều hướng đi xuống. Ngày nay, những thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi. Về cơ bản, những thành phần tham gia thị trường được chia thành hai nhóm dựa trên kỳ vọng và xu hướng của những giao dịch mà họ tiến hành:

  • Nhóm đầu cơ giá lên (Bulls) – là những người kỳ vọng mức giá sẽ đi lên và đây là lý do để họ mua vào.
  • Nhóm đầu cơ giá xuống (Bears) – là những người kỳ vọng mức giá sẽ đi xuống và đây là lý do để họ bán ra.

Khoảng chênh lệch

Khoảng chênh lệch là mức chênh giữa mức giá mà nhà tạo lập thị trường sẵn sàng trả để mua một loại tiền tệ và mức giá mà anh ta sẵn sàng chấp nhận bán loại tiền tệ đó trong một khoảng thời gian nhất định. Đây cũng chính là mức chênh giữa giá mua và giá bán của một đồng tiền. Ví dụ, nếu giá mua vào của cặp USD/CHF là 1,2212 và giá bán ra tương ứng là 1,2215 vào lúc 10 giờ 30 phút sáng thì khoảng chênh lệch ở đây là ba Điểm phần trăm. Cần xem xét kỹ khoảng chênh lệch khi bạn phát triển một chiến lược giao dịch bởi những đồng tiền khác nhau có những khoảng chênh lệch khác nhau.

Trạng thái bán và trạng thái mua

Bây giờ chúng ta sẽ nói đến các thuật ngữ về trạng thái bán và trạng thái mua. Trạng thái bán được dùng để mô tả việc bán một công cụ tài chính, có thể không phải là tài sản của bất cứ ai. Trạng thái mua được dùng để mô tả việc mua một công cụ tài chính. Một câu hỏi đặt ra là: Làm thế nào chúng ta có thể bán một thứ không phải là tài sản của bất cứ ai? Trên thực tế, cơ chế của việc này như sau: một nhà kinh doanh vay mượn một lượng nhất định một loại công cụ tài chính nào đó từ nhà môi giới, sau đó bán nó đi, sử dụng công cụ đòn bẩy mà chính nhà môi giới đó cung cấp. Sau khi mức giá đi xuống, nhà kinh doanh sẽ mua lại công cụ tài chính đó, rồi trả lại cho nhà môi giới số tiền đã vay mượn và lấy phần lợi nhuận của mình. Để làm cho mọi việc dễ hình dung hơn, chúng tôi sẽ cho các bạn thấy một ví dụ khi nhà kinh doanh tiến hành giao dịch mà không sử dụng đòn bẩy và không có khoảng chênh lệch. Ví dụ, một nhà kinh doanh quyết định mở một trạng thái bán Vàng. Giá vàng hiện tại là 680 đô-la Mỹ/ounce. Nhà kinh doanh muốn bán một ounce vàng và yêu cầu nhà môi giới của mình cho vay một ounce vàng sau khi đã đảm bảo bằng một số tiền nhất định. Sau đó nhà kinh doanh bán đi ounce vàng đó với giá 680 đô-la Mỹ. Nhà kinh doanh đang nợ nhà môi giới một ounce vàng. Chúng ta hãy giả định là giá vàng giảm 20 đô-la trong một khoảng thời gian nhất định, và mức giá hiện tại là 660 đô-la Mỹ. Nếu nhà kinh doanh muốn hiện thực hóa lợi nhuận của mình, anh ta sẽ mua một ounce vàng với giá 660 đô-la và trả lại cho nhà môi giới, đồng thời giữ lại 20 đô-la lợi nhuận cho mình. Nhà môi giới sẽ chuyển trả số tiền bảo đảm vào tài khoản của nhà kinh doanh. Và tất nhiên, một nhà kinh doanh có thể mở nhiều trạng thái với nhiều công cụ tài chính khác nhau, như các cặp tiền tệ trên thị trường Ngoại hối, các hợp đồng chênh lệch (Contracts for Difference – CFDs), các hợp đồng Tương lai, v.v…

Tỷ giá

Thuật ngữ tỷ giá trực tiếp, tỷ giá gián tiếp, tỷ giá chéo thường xuyên được sử dụng trong giao dịch Ngoại hối.

Yết giá trực tiếp là việc một đơn vị của đồng tiền nước ngoài được niêm yết theo một lượng nhất định đồng tiền nội địa. Ví dụ, cặp EUR/BGN là một dạng yết giá trực tiếp. Trên thị trường Ngoại hối, yết giá trực tiếp có nghĩa là một đồng tiền nước ngoài được niêm yết theo đồng đô-la Mỹ. Ví dụ, EUR/USD, CHF/USD, JPY/USD là các tỷ giá trực tiếp.Yết giá gián tiếp là việc đồng đô-la Mỹ được niêm yết theo một lượng nhất định một ngoại tệ khác, ví dụ như USD/EUR, USD/CHF.

Tỷ giá chéo là việc một đơn vị của đồng tiền nước ngoài được niêm yết theo một lượng nhất định đồng ngoại tệ khác. Ví dụ như EUR/CHF, GBP/JPY, EUR/JPY.

Hoán đổi ngoại tệ

Hoán đổi ngoại tệ là một thuật ngữ cơ bản khác trên thị trường Ngoại hối. Nó thể hiện sự chênh lệch lãi suất ở các quốc gia khác nhau. Ví dụ, lãi suất của Ngân hàng Trung ương Nhật Bản là 0,5%, trong khi lãi suất tại Australia là 6,25%. Điều này có nghĩa là gửi tiền tại một ngân hàng Australia sẽ có lợi hơn nhiều so với gửi tiền tại một ngân hàng Nhật Bản. Sự chênh lệch mức lãi suất có vai trò quan trọng trên thị trường Ngoại hối và được thể hiện bằng thuật ngữ HOÁN ĐỔI. Khi mở một trạng thái giao dịch mới, bạn bán một loại ngoại tệ và mua một loại khác. Chúng ta sẽ cùng quay lại với đồng tiền quốc gia của Australia và Nhật Bản và tìm hiểu ví dụ với đồng đô-la Australia và đồng yên Nhật (AUD/JPY). Khi chúng ta mở một trạng thái mua với cặp AUD/JPY, mức Hoán đổi là dương và chúng ta thu được lợi nhuận, khi chúng ta mở một trạng thái bán với cặp AUD/JPY, mức Hoán đổi là âm và chúng ta chịu một khoản thua lỗ nhỏ. Lý do là khi bạn mở trạng thái mua cặp AUD/JPY, bạn mua đồng đô-la Australia và khi bạn mở trạng thái bán cặp AUD/JPY, bạn mua đồng yên Nhật.

Trên thực tế, có hai loại Hoán đổi tùy thuộc vào bản chất của trạng thái mà bạn mở. Nếu bạn mở một trạng thái mua thì mức Hoán đổi cũng sẽ là mua; nếu bạn mở một trạng thái bán thì mức Hoán đổi cũng sẽ là bán.

Hoán đổi, hoặc Quay vòng hoặc Qua đêm nghĩa là bạn đối ứng hai giao dịch trái chiều với ngày giá trị khác nhau, khi một trạng thái được đóng lại và một trạng thái khác được mở ra cùng một thời điểm. Giá trị Hoán đổi và xu hướng của nó được xác định tại thời điểm giao dịch. Mục đích của hoạt động này là nhằm kéo dài các trạng thái đã được mở.

Khi một nhà đầu tư cá nhân giao dịch bằng ký quỹ trên thị trường Ngoại hối mở một trạng thái qua đêm trên tài khoản của mình thì anh ta sẽ bị tính mức chênh lệch Hoán đổi từ thời điểm 0 giờ GMT. Mức chênh lệch hoán đổi tùy thuộc vào mức lãi suất của các quốc gia có đồng tiền mà nhà đầu tư mua hoặc bán. Mức lãi suất này do các ngân hàng trung ương đưa ra. Thông thường, khi bạn mở một trạng thái mua với một đồng tiền có mức lãi suất cao hơn thì mức Hoán đổi sẽ là dương và khi bạn mở một trạng thái bán với cùng đồng tiền đó, mức Hoán đổi sẽ là âm.

Các biểu đồ

Các biểu đồ thể hiện những thay đổi về giá của các công cụ tài chính. Trên thực tế, đây là cách thông dụng nhất để mô phỏng và phân tích các biến động của tỷ giá hối đoái. Tất cả những yếu tố của phân tích kỹ thuật mà chúng ta xem xét phía dưới sẽ đều dựa trên những biểu đồ này.

Có ba loại biểu đồ tùy thuộc vào cách mà giá cả được phản ánh: biểu đồ đường thẳng, biểu đồ thanh và biểu đồ nến Nhật Bản. Bản thân các biểu đồ này hoàn toàn không phải là lý do để mở một trạng thái trên thị trường; chúng cần được phân tích và sử dụng kết hợp cùng với các tín hiệu xác nhận của các chỉ báo kỹ thuật.

Biểu đồ đường thẳng

Biểu đồ đường thẳng là loại biểu đồ đầu tiên mà chúng ta xem xét (Hình 1). Đây là loại biểu đồ được tạo ra bằng cách nối các giá trị giá đóng cửa của phiên giao dịch trong một khoảng thời gian xác định bằng một đường thẳng. Khoảng thời gian có thể là 1 phút, 15 phút, 1 giờ, 4 giờ, hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng và cứ như vậy. Biểu đồ đường thẳng cũng có thể được tạo ra bằng cách sử dụng các giá trị giá mở cửa.

Biểu đồ dạng thanh

Biểu đồ dạng thanh được thể hiện bằng các thanh đứng biểu diễn sự thay đổi của mức giá trong một khoảng thời gian xác định. Ví dụ, nếu khoảng thời gian là 1 giờ thì một thanh đứng sẽ thể hiện sự thay đổi của mức giá trong 1 giờ đó. Nếu khoảng thời gian là 4 giờ thì một thanh đứng sẽ thể hiện sự thay đổi của mức giá trong 4 giờ. Sự chênh lệch giữa mức giá đóng cửa của một thanh đứng và mức giá mở cửa của thanh đứng liền sau được gọi là khoảng chênh. Khoảng chênh thường được sử dụng nhiều trên thị trường chứng khoán, vì thị trường này không hoạt động 24 giờ một ngày. Ngoài ra một số hợp đồng cũng được thỏa thuận sau khi phiên giao dịch đã kết thúc, điều này làm cho thị trường có một mức chênh khi mở cửa vào ngày tiếp theo (Hình 2A).

Thanh thể hiện giá lên được tạo thành khi mức giá có xu hướng tăng, và do đó giá mở cửa thấp hơn giá đóng cửa. Nếu giá mở cửa cao hơn giá đóng cửa thì ta có thanh thể hiện giá xuống.

Biểu đồ nến Nhật Bản

Biểu đồ nến Nhật Bản là phương pháp xuất hiện sớm nhất và phổ biến nhất khi biểu diễn biến động giá của các thị trường tài chính. Nó được phát triển bởi một thương gia buôn bán lúa gạo người Nhật tên là Homma Munehisa vào thế kỷ XVI. Ông nhận ra có thể dự báo giá cả trong tương lai thông qua phân tích diễn biến của nó trong quá khứ. Homma thấy rằng các mô hình nến thường có xu hướng lặp lại nên ông bắt đầu phân tích chúng và trở thành một nhà buôn rất thành công. Đến tận ngày nay, nến Nhật Bản vẫn là phương pháp phân tích thị trường phổ biến nhất. Biểu đồ nến rất giống với biểu đồ dạng thanh vì chúng chỉ ra chiều của các xu hướng trên thị trường. Thông thường, thân chính của một nến thể hiện giá lên sẽ có màu trắng còn thân chính của một nến thể hiện giá xuống sẽ có màu đen (Hình 2C). Bóng trên, đối với nến giá lên là khoảng cách giữa giá đóng cửa và giá cao nhất trong giai đoạn mà nó thể hiện, đối với nến giá xuống là khoảng cách giữa giá mở cửa và giá cao trong giai đoạn mà nó thể hiện. Bóng dưới, đối với nên giá lên là khoảng cách giữa giá mở cửa và giá thấp trong giai đoạn mà nó thể hiện, đối với nến giá xuống là khoảng cách giữa giá đóng cửa và giá thấp trong giai đoạn mà nó thể hiện. Cần lưu ý là các nến cũng có thể tạo thành các khoảng chênh giá.

CHƯƠNG 2 Lý thuyết Nến Nhật Bản

Biểu đồ nến Nhật Bản là loại biểu đồ thông dụng nhất với các nhà kinh doanh Ngoại hối. Nguyên nhân của điều này là biểu đồ nến Nhật Bản cung cấp thông tin đầy đủ, rõ ràng và dễ hình dung về những động lực của giá. Chính vì có tính đa chức năng mà các biểu đồ nến được sử dụng rộng rãi trong phân tích tài chính. Trong chương này, chúng ta sẽ bàn đến các loại nến và mô hình nến cơ bản.

Mô hình lòng vực (engulfing pattern)

Mô hình này xuất hiện trong một xu hướng tăng giá hoặc giảm giá mạnh, khi mà một nến khác màu áp đảo hoàn toàn nến liền trước nó. Nến đảo chiều là nến trắng trong thị trường giá xuống và nến đen trong thị trường giá lên. Trong cả hai trường hợp, thân chính của nến đảo chiều áp đảo hoàn toàn bóng của nến liền trước nó. Nếu sau khi nến nghịch đảo được hình thành mà có thêm những nến nhỏ khác xuất hiện theo cùng xu hướng thì điều đó chứng tỏ xu hướng nghịch đảo là rất mạnh mẽ.

Nến dạng búa, Đảo chiều

Nến dạng búa là loại nến với thân chính nhỏ và bóng dưới dài (thường dài gấp đôi thân chính của nến). Nến dạng búa xuất hiện trong xu hướng giá xuống và báo hiệu thị trường đã xuống đến đáy. Thông thường thì màu sắc của nến không quan trọng, bóng trên của nến cũng vậy cho dù bóng này có thể nhỏ hoặc thậm chí không xuất hiện.

Nến hình người treo cổ, Đảo chiều giá xuống

Trong trường hợp này, một nến với thân chính nhỏ và bóng dưới dài xuất hiện trong xu hướng giá lên. Bóng dưới thường dài gấp đôi thân chính của nến. Màu sắc của nến hình người treo cổ không quan trọng và bóng trên có kích thước nhỏ hoặc thậm chí không xuất hiện.

Mô hình mây đen bao phủ (Dark Cloud Cover), Đảo chiều giá xuống

Mô hình mây đen bao phủ xuất hiện trong xu hướng đi lên của thị trường. Nó được tạo thành khi một nến đảo chiều có mức giá mở cửa cao hơn giá đóng cửa và giá đóng cửa thấp hơn điểm giữa thân của nến giá lên trước đó, cho thấy dấu hiệu đảo chiều của xu hướng.


 

Giang Vi

Tôi là một người yêu sách cuồng nhiệt và đã hơn 20 năm. Tôi dành cả ngày để đọc, viết blog về sách và viết bình luận. Tôi tin rằng sách là công cụ mạnh mẽ nhất trong cuộc sống để mở mang đầu óc cho những ý tưởng và quan điểm mới. Các thể loại yêu thích của tôi bao gồm tiểu thuyết lịch sử, giả tưởng, khoa học viễn tưởng và phi hư cấu. Tôi cũng thích tìm hiểu về các nền văn hóa khác nhau thông qua văn học.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts:

Back to top button