Kinh doanh - đầu tư

Cuộc Cách Mạng Di Động

Cuoc cach mang di dong1. THÔNG TIN SÁCH/EBOOK

Tác giả : Dan Steinbock

Download sách Cuộc Cách Mạng Di Động ebook PDF/PRC/EPUB/MOBI. Tải miễn phí, đọc online trên điện thoại, máy tính, máy tính bảng.

Danh mục : SÁCH KINH DOANH – ĐẦU TƯ

Đọc thử Xem giá bán

2. DOWNLOAD

Download ebook                       Xem giá bán

Bạn không tải được sách ? Xem hướng dẫn nhé : Hướng dẫn tải sách


3. GIỚI THIỆU / REVIEW SÁCH

LỜI GIỚI THIỆU

Kể từ ngày dịch vụ di động bắt đầu được cung cấp tại Việt Nam vào năm 1992 cùng những chiếc máy “cục gạch” phải đeo vai mà có giá trên 2.000 đô la, với chỉ vài chục thuê bao đăng ký sử dụng đầu tiên, đến nay, Việt Nam đã có khoảng trên 15 triệu thuê bao di động. Trong những năm gần đây, với mức độ tăng trưởng luôn duy trì trên 70% 1 năm, thị trường viễn thông di động Việt Nam được coi là thị trường đầy tiềm năng. So với các nước trên thế giới, mức độ tăng trưởng di động của Viêt Nam chỉ đứng sau Trung Quốc. Hiện nay, số máy di động của Việt Nam đã vượt quá máy cố định, chiếm khoảng 61% trong tổng số 18 triệu thuê bao trên toàn mạng. Dự báo tới năm 2010 ở Việt Nam sẽ có tới 52 triệu thuê bao, trong đó có tới 70% là điện thoại di động tương ứng với 36 triệu thuê bao, gấp hơn 2 lần hiện nay.

Cùng với sự phát triển thuê bao di động, chúng ta cũng chứng kiến sự phát triển như vũ bão của công nghệ di động, công nghệ máy đầu cuối, sự xuất hiện nhanh chóng của các loại hình dịch vụ, sự ra đời nhanh chóng của hàng trăm nhà cung cấp dịch vụ gia tăng giá trị trên mạng di động tại Việt Nam, sự chuyển mình nhanh chóng của mô hình quản lý nhà nước về viễn thông, sự xuất hiện và trưởng thành nhanh chóng của những nhà khai thác mới… Đặc biệt, chúng ta được chứng kiến sự bùng nổ thị trường dịch vụ di động tại Việt Nam, từ bao cấp, độc quyền sang cạnh tranh đã tạo nên một thị trường hết sức đa dạng, năng động và hướng tới khách hàng.

Thị trường di động phát triển nhanh chóng cũng làm nảy sinh hàng loạt vấn đề cần được đặt ra và được giải quyết như những vấn đề liên quan đến kết nối, quản lý nguồn tài nguyên, kho số, khả năng chuyển đổi mạng mà giữ nguyên số, vấn đề bản quyền nội dung, cơ chế phân chia giữa các đơn vị góp phần tạo ra dịch vụ, những vấn đề quản lý nhà nước trước sự phát triển của thị trường và sự xuất hiện của những khái niệm mới như truyền hình di động, giải trí di động, mobile banking, v.v… Những vấn đề liên quan đến định hướng công nghệ, định hướng thị trường mục tiêu, định hướng địa bàn hoạt động, chiến lược kinh doanh, vấn đề cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường, hợp tác giữa các nhà cung cấp trong nước với ngoài nước để nâng cao sức mạnh để cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường trong nước, hoặc hợp tác giữa các nhà cung cấp dịch vụ trong nước để bảo vệ quyền lợi quốc gia khi hội nhập WTO, hoặc chiến lược mở rộng thị trường kinh doanh sang nước ngoài, những vấn đề liên quan đến việc cổ phần hóa, tham gia thị trường chứng khoán trong và ngoài nước, v.v… cũng là những vấn đề quan trọng cấp bách cần được đặt ra.

Trong bối cảnh thị trường di động tại Việt Nam đang có những bước chuyển biến mạnh mẽ cùng với hàng loạt vấn đề đang được đặt ra, để góp phần cung cấp thông tin tham khảo về chuyển động của ngành công nghiệp di động trên thế giới mà Việt Nam có thể đã hoặc chưa trải qua, Công ty Sách Alpha đã mua bản quyền của NXB Kogan Page Ltd USA giới thiệu với các nhà hoạch định chính sách, các nhà khai thác cung cấp dịch vụ, các đơn vị cung cấp dịch vụ gia tăng giá trị, các đơn vị sản xuất và kinh doanh thiết bị đầu và độc giả cả nước cuốn Cuộc cách mạng Di động của tác giả Dan Steinbock.

Dan Steinbock là nhà nghiên cứu của học viện viễn thông Columbia, Giám đốc Văn phòng New York của Học viện Quốc gia Phần Lan, là giáo sư thỉnh giảng của Đại học Kinh tế Helsingky. Ông thường xuyên đi giảng dạy khắp nơi trên thế giới và là tác giả của nhiều cuốn sách về viễn thông khác như The Nokia Revolution (đã được Alpha Books xuất bản tháng 9/2006), The Wireless Horizon, v.v… Với những thông tin sống động, thông qua hàng trăm cuộc phỏng vấn cùng những chuyên gia hàng đầu thế giới trong lĩnh vực di động đồng thời giữ những trọng trách cao trong các công ty đa quốc gia, (bao gồm những nhà cung cấp thiết bị mạng, nhà khai thác cung cấp dịch vụ, nhà cung cấp nội dung, những nhà thiết kế, sản xuất máy di động, thiết bị đầu cuối, những nhà nghiên cứu thị trường di động), tác giả đã tập hợp trong cuốn sách một bộ sưu tập thành công của những công ty hàng đầu, có nhiều thành tựu trong đổi mới công nghệ và cải tổ thị trường di động trên thế giới. Có thể coi Cuộc cách mạng Di động là bộ lịch sử về sự hình thành của di động và dịch vụ trên toàn cầu, một bản đồ về sự hình thành và phát triển của dịch vụ di động trên cả 3 khía cạnh: phát triển thị trường di động, phát triển dịch vụ di động và các chiến lược kinh doanh di động.

Phần đầu của Cuộc cách mạng Di động tập trung vào quá trình thay đổi thị trường di động, quá trình phát triển của những nhà sản xuất và phân phối công nghệ di động lớn trên thế giới cũng như quá trình toàn cầu hóa di động và quá trình cải tiến công nghệ di động, sự chuyển đổi từ dịch vụ thoại sang dịch vụ dữ liệu, sự hình thành của những công nghệ băng rộng mới, trước khi chuyển sang công nghệ thế hệ thứ 3 (3G). Phần này cũng nói về quá trình phát triển, đổi mới của những nhà đi đầu trong dịch vụ di động như NTT DoCoMo, SK Telecom, những công ty gần đây đã gặt hái những thành công ngoài tưởng tượng trên toàn thế giới, về Vodafone ở châu Âu, tìm hiểu sự vươn lên của các đối thủ cạnh tranh và những gì mà nhà cung cấp hàng đầu của Mỹ, Verizon Wireless đã trải qua khi tiến hành cuộc cách mạng dịch vụ.

Phần tiếp theo của cuốn sách đi sâu vào quá trình phát triển nhanh chóng của những dịch vụ di động, từ những dịch vụ cơ bản như thoại, nhắn tin đến những dịch vụ nội dung, dịch vụ dữ liệu, dịch vụ giải trí trên di động đang bùng nổ hiện nay. Mô hình hợp tác, kinh nghiệm về gắn kết giữa nhà cung cấp dịch vụ và nhà cung cấp nội dung qua những câu chuyện thực tế về liên minh Nokia-EMI, hay cuộc cách mạng về bản quyền ở Mỹ (BMI), dòng nhạc di động trực tuyến của Real Networks, tích hợp nhạc di động trong Warner Music và BMG hay sự phát triển của thể thao với di động (Fox) cũng được trình bày ở đây. Ngoài ra, phần này cũng nói về sự hình thành và biến đổi của các thiết bị di động, áp lực của sự khác biệt và sự hình thành các phân đoạn thị trường công nghệ, thời trang, chức năng, v.v… trong việc thiết kế những máy điện thoại di động.

Phần cuối của cuốn sách tập trung vào khía cạnh kinh doanh dịch vụ di động, cung cấp một cái nhìn tổng thể về sự phát triển của ngành công nghiệp di động, các khu vực thị trường di động, và sự đón nhận những cải tiến công nghệ di động. Bạn đọc có thể tìm thấy ở đây những phương thức kinh doanh, các giải pháp và thị trường thông tin di động, những phân tích về sự phát triển của ngành kinh doanh dịch vụ di động, quá trình chuyển đổi từ Internet sang di động, và các loại dịch vụ trong lĩnh vực kinh doanh. Nội dung của phần này cũng trình bày quan điểm của những nhà cố vấn kinh tế trong giới thông tin di động, kinh nghiệm của các hãng đi đầu của ngành công nghiệp di động là: Microsoft, Nokia, Ericsson, Vodafone, Verizon Wireless, Intel, IBM và nhiều công ty khác. Ngoài ra, phần này còn phân tích sự thách thức của ngành công nghiệp di động trong chiến lược cạnh tranh. Đầu tiên là phân tích được những dấu hiệu thất bại trên thị trường, từ đó hình thành tính di động hóa trong mối quan hệ giữa cạnh tranh theo ưu điểm (dây chuyền cố định) và cạnh tranh theo chiến lược (sự thu hút của nền công nghiệp).

Với nội dung sinh động và phong phú, với những dẫn chứng thực tế thu thập từ hàng trăm cuộc phỏng vấn những chuyên gia hàng đầu thế giới trong lĩnh vực di động đồng thời giữ những trọng trách cao trong các công ty đa quốc gia, cuốn sách Cuộc cách mạng Di động của tác giả Dan Steinbock chắc chắn sẽ là một tài liệu tham khảo đầy đủ về lịch sử phát triển, xu hướng, viễn cảnh của ngành công nghiệp di động cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà khai thác cung cấp dịch vụ, các đơn vị cung cấp dịch vụ gia tăng giá trị, các đơn vị sản xuất và kinh doanh thiết bị đầu cuối cùng độc giả cả nước.

ĐỌC THỬ

Phần 1: Sự chuyển đổi thị trường

  1. Toàn cầu hóa

Trong năm 1998, có khoảng 200 triệu người sử dụng điện thoại di động trên toàn cầu. Đến cuối năm 2004, con số này đã đạt tới 1,6 tỷ. Dự đoán đến năm 2006 con số sẽ đạt gần 2,6 tỷ. Từ cuối thập kỷ 1990, nền công nghiệp này có đặc trưng toàn cầu hóa tăng, sự phát triển thị trường toàn cầu, sự khác biệt hóa theo vùng lãnh thổ và các thị trường mới tăng trưởng mạnh, đặc biệt là ở Trung Quốc và Ấn Độ. Sự phát triển của thông tin di động đang mở rộng toàn cầu.

TOÀN CẦU HÓA THỊ TRƯỜNG

Vào giữa thập niên 1980, Kenichi Ohmae đã chứng minh rằng những nhà dẫn đầu về công nghiệp trên thế giới phải duy trì được vị trí quan trọng tại các thị trường chính đã phát triển là Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản.

Bộ ba này là các thị trường quan trọng, ở đó xuất hiện các mối đe dọa cạnh tranh, các công nghệ mới cũng ra đời từ đây… Mục tiêu chính mà mỗi doanh nghiệp phải đạt được là trở thành những người trong cuộc thực sự ở cả ba thị trường này.

(Ohmae, 1985: 27, 121)

Từ kỹ thuật điện báo không dây của Marconi những năm 1890 đến thông tin di động tế bào những năm 1980, nước Mỹ chính là trung tâm sinh ra các ý tưởng mới về thông tin vô tuyến. Đến thập niên 1990, khu vực Bắc Âu vượt lên dẫn đầu trong ngành công nghiệp này. Cuối thập niên 1990, ưu thế dẫn đầu chuyển dịch ra Tây Âu, sáng tân về dịch vụ xuất phát từ Nhật Bản và Hàn Quốc, sự tăng trưởng thị trường diễn ra mạnh ở Trung Quốc và Ấn Độ (Hình 1.1). Ngày nay, sáng tân về công nghệ di động trải rộng ra một “Bộ ba Cộng “, các thị trường phát triển mạnh ở Tây Âu, Bắc Mỹ và khu vực châu Á – Thái Bình Dương.

Cạnh tranh công nghiệp

Đến thập kỷ 1980, chỉ có một nhà khai thác dịch vụ vô tuyến duy nhất ở thị trường các nước phát triển, thường là một công ty viễn thông độc quyền cấp quốc gia. Ở Mỹ, công ty Ma Bell điều khiển toàn bộ chu trình công nghiệp, từ sản xuất đến bán hàng và cuối cùng là cung cấp dịch vụ. Ngày nay, các công ty dẫn đầu cạnh tranh và hợp tác với nhau qua các chiến lược toàn cầu trên đấu trường quốc tế, cùng tham gia vào “ván cờ toàn cầu”.

Thập niên 1980, các nhà cung cấp và nhà khai thác đang sở hữu các cơ sở trong nước quy mô lớn sẽ có lợi thế cạnh tranh hiển nhiên. Một thập kỷ sau, các đấu thủ có thể nâng cao ưu thế cạnh tranh của họ thông qua quá trình toàn cầu hóa để mở rộng quy mô. Trong quá khứ, các đấu thủ chính thông qua quá trình toàn cầu hóa để đối phó lại sự cạnh tranh. Ngày nay, họ lại phải toàn cầu hóa để cạnh tranh. Trong quá khứ, họ lớn mạnh ra toàn cầu theo thời gian thì nay nhiều công ty sinh ra đã mang tính toàn cầu (Steinbock, 2002).

Chuyên môn hóa và toàn cầu hóa

Ngày nay, chuyên môn hóa và toàn cầu hóa là các phương thức hoạt động cố hữu của quá trình kinh doanh. Trong những năm 1980, thị trường vẫn còn mang tính nội địa nhưng đến những năm 1990 sẽ phát triển trên toàn khu vực. Ngày nay, kinh doanh được thúc đẩy bằng sự chuyên môn hóa trong dây chuyền công nghiệp, ở đó các hoạt động giá trị riêng lẻ đang được toàn cầu hóa nhanh chóng. Hệ thống giá trị này rất phức tạp bao gồm các nhà thầu, các nhà sản xuất thiết bị, điện tử dân dụng, nền (platform), các nhà tích hợp nội dung thông tin, người bán lẻ, nhà khai thác mạng và các nhà cung cấp dịch vụ. Mỗi lớp bị chi phối bởi những người khổng lồ công nghiệp có quy mô và phạm vi toàn cầu.

Cùng với quá trình hội tụ di động và Internet, sự đối đầu giữa những người đi đầu về di động ở châu Âu và những người đi đầu về công nghệ thông tin ở Mỹ càng tăng lên do những khác biệt mang tính cách mạng. Những người đi đầu trong di động đang chuyển dịch từ thoại sang dữ liệu còn những người đi đầu trong công nghệ thông tin lại chuyển từ dữ liệu sang thoại. Trong di động, người ta nhấn mạnh sự hợp tác theo chiều dọc còn trong Internet lại là chiều ngang. Trong khi tăng cường hội tụ, các đấu thủ đi đầu trong ngành công nghiệp vẫn phải đi nước đôi. Lấy ví dụ Nokia xúc tiến hợp tác theo chiều dọc (chiếm cổ phần chính trong công ty Symbian) trong khi vẫn chuẩn bị hợp tác theo chiều ngang (cho ra đời dòng sản phẩm 60), hợp tác với Intel và Symbian để phát triển các mẫu máy cầm tay mới (mặc dù vẫn dựa chủ yếu vào chip do Công ty Texas Instruments cung cấp). Trong khi đó, những người khổng lồ trong công nghiệp điện tử dân dụng ở châu Á có xu hướng hoạt động trong các thị trường lâu năm cũng đang nắm bắt công nghệ di động đa phương tiện. Các đối thủ truyền thống (Sony, Matsushita) vẫn dựa vào chiến lược sáng tân trong khi xuất hiện những đấu thủ mới (các nhà cung cấp thiết bị điện tử Trung Quốc) có ưu thế về chi phí sản xuất thấp; Hoặc những đấu thủ khác đang triển khai cả hai.

Khi chuyển dịch sang dữ liệu, các dịch vụ mới cần có các mô hình kinh doanh lấy nội dung thông tin làm động lực. Kết quả là, khu vực này đã hình thành một lối vào cho ngành kinh doanh giải trí và đa phương tiện tại các thị trường đã phát triển.

Các nhà khai thác và cung cấp thiết bị hàng đầu

Cuộc cách mạng trên toàn cầu của các nhà khai thác và các nhà cung cấp thiết bị – hiện nay vẫn là 2 nhóm chính trong thông tin di động – phản ánh thực tế cạnh tranh. Trong thời kỳ đầu của cuộc cách mạng thông tin di động, các quốc gia Bắc Âu là những người đi đầu. Trong suốt thập kỷ 1980, các nhà cung cấp và khai thác mạng ở Mỹ thống trị ngành công nghiệp này. Cuối những năm 1990, các đấu thủ triển khai hệ thống di động toàn cầu (GSM) ở châu Âu giành vị trí dẫn đầu. Đến cuối thập kỷ này, động lực phát triển chuyển sang châu Á thể hiện qua ý tưởng công nghệ mới (ở Nhật Bản, Hàn Quốc) và quy mô phát triển (ở Trung Quốc và Ấn Độ). Trong suốt hai thập kỷ vừa qua, các quốc gia nhỏ dẫn đầu lần lượt bị thay thế bởi các quốc gia lớn đi sau. Cùng lúc đó, quy mô và phạm vi hoạt động tăng lên một cách đáng kinh ngạc. Các công ty giành được thắng lợi trong tương lai không phải là các công ty quốc gia hay đa quốc gia đơn thuần. Đó sẽ là các công ty Mỹ, Tây Âu và châu Á có ưu thế chiến lược là tính chuyên môn hóa và toàn cầu hóa ngày càng tăng (Bảng 1.1).

Ngày nay, vị thế thương lượng của các đối thủ truyền thống (chủ yếu là các nhà sản xuất thiết bị và khai thác châu Âu) đối với các hệ thống giá trị đang bị xói mòn như một kết quả tất yếu khi quá trình toàn cầu hóa ngày càng gia tăng, sự tham gia của các đấu thủ hàng đầu về công nghệ thông tin Mỹ (Microsoft, Intel), sự vươn lên của các nhà sáng tạo ý tưởng dịch vụ (NTT DoCoMo, SK Telecom), sự xuất hiện của các đấu thủ có quy mô lớn (China Mobile) và việc ứng dụng linh kiện sẵn có trên thị trường để giảm chi phí của các nhà sản xuất châu Á – từ các công ty sản xuất thiết bị điện tử dân dụng Nhật Bản (Sony, Matsushita, Nintendo) đến các tập đoàn công nghệ Hàn Quốc (Samsung), những người khổng lồ điện tử Trung Quốc (Ningbo Bird, TCL) cũng như các nhà thầu chính và nhà thầu phụ linh hoạt. Khi mà mức độ cạnh tranh không ngừng gia tăng thì quy luật cạnh tranh cũng không ngừng thay đổi (Hộp 1.1).

Thị trường và chiến lược

Xét ở khía cạnh kinh doanh, có thể đánh giá quá trình toàn cầu hóa thông qua các thị trường hàng đầu, các thị trường khó tính ở các quốc gia cũng như các thị trường truyền thống và các thị trường mới nổi lên.

Các thị trường hàng đầu

Tất cả các thị trường không bình đẳng như nhau. Mục tiêu là thâm nhập và giành được những thị trường thực sự có giá trị đối với một chiến lược toàn cầu hiệu quả. Thị trường hàng đầu là một thị trường mang tính địa lý hoặc quốc gia, bằng cách này hay cách khác vượt trước phần còn lại của thế giới đứng về khía cạnh phát triển. Đây cũng là nơi mà sự phát triển mới có xu hướng áp đặt hướng đi cho các thị trường khác. Nó phù hợp với một chức năng mang tính định hướng. Trong thị trường di động, một thị trường được coi là đi tiên phong theo nghĩa phát triển công nghệ (ý tưởng sáng tạo), chất lượng mà khách hàng cảm nhận được (sự khác biệt), dung lượng và tính tích hợp (cấu trúc về chi phí), hoặc sự kết hợp của tất cả ba yếu tố trên.

Cùng với sự thâm nhập và bão hòa tăng nhanh chưa từng thấy, thị trường ngày nay cạnh tranh nhau ở quy mô. Chúng bị thống trị bởi các nền kinh tế phát triển, được đặc trưng qua mức thu nhập cao và tốc độ tăng trưởng chậm (các quốc gia lớn ở Tây Âu, Nhật Bản và Mỹ), các nền kinh tế đang phát triển, được đặc trưng bởi mức thu nhập thấp nhưng tốc độ tăng trưởng cao (Trung Quốc, Ấn Độ và các nước khác). Lúc này, lớn nghĩa là tốt đẹp (Big is Beautiful).

Thị trường quốc gia quan trọng

Các thị trường theo vùng địa lý đại diện cho thước đo tổng thể sự phát triển của thị trường xét trên quan điểm của một doanh nghiệp. Đối với mục đích kinh doanh, tất cả các thị trường phải được xem xét trên cơ sở từng quốc gia và trong một số trường hợp trên cơ sở vùng địa lý (lấy ví dụ sự đa dạng khác thường của thị trường di động Trung Quốc). Các nhà cung cấp thiết bị, các nhà khai thác, các nhà thầu công nghệ thông tin và nhà cung cấp nội dung thông tin hàng đầu hiếm khi đầu tư vào thị trường tất cả các quốc gia. Họ tập trung nguồn lực vào các thị trường quan trọng. Các thị trường này là nơi mà các công ty bắt buộc phải chiếm được thị phần nếu muốn dẫn đầu trên phạm vi toàn cầu. Thực tế, các thị trường như vậy là Bắc Mỹ (Mỹ, Ca-na-đa), bốn đến năm nền kinh tế hàng đầu châu Âu, và một số quốc gia lớn ở châu Á – Thái Bình Dương (đặc biệt là Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ) (xem hình 1.4).

Đối với từng công ty, một quốc gia mục tiêu có thể là thị trường dẫn đầu nhưng không phải là thị trường chiến lược – nó có thể cũng mang ý nghĩa chiến lược nhưng không phải là một thị trường có tính định hướng.

HỘP 1.1. “HIỆN NAY, ĐÓ LÀ MỘT THỊ TRƯỜNG KHÁC BIỆT”

Bert Nordberg, Phó Giám đốc phụ trách kinh doanh và tiếp thị cho rằng nhân viên bán hàng là một nghề tốt nhất hiện nay tại Ericsson. Nhưng điều làm ông ta lo lắng đó là nghề bán hàng không có được vị thế mà nó đáng có ở trong công ty. Ông nói “Tôi không thấy nhiều người ở Stockholm, nếu có, mà ghi chức danh của mình là nhân viên bán hàng trên danh thiếp của mình. Vì lý do nào đó mà không ai muốn có chức danh ấy. Mọi người thường tự giới thiệu họ là những người phụ trách kinh doanh hoặc làm việc trong lĩnh vực tiếp thị, mà không phải là nhân viên bán hàng. Nhưng đâu mới là điểm mấu chốt để có được một dây chuyền cung cấp hoàn thiện nếu như các quyển sổ đặt hàng không được ghi kín?”

Các nhà khai thác dịch vụ đang phải đối mặt

Ericsson là nhà sản xuất các thiết bị hạ tầng viễn thông không dây hàng đầu trên thế giới. Các nhà khai thác mạng và nhà cung cấp dịch vụ sử dụng các ăng-ten, các bộ phát và các thiết bị hạ tầng không dây khác để xây dựng và mở rộng mạng của mình. Vào đầu những năm 1990, thị trường chuyển sang sử dụng điện thoại di động kỹ thuật số; hiện nay là điện thoại di động đa phương tiện. Điều gì đã thay đổi?

Bert Nordberg cho rằng “Hiện nay nó là một thị trường hoàn toàn khác, các nhà khai thác đang phải đối mặt với sự cạnh tranh trong ngành công nghiệp này, nhưng mối đe dọa này cũng xuất phát từ các ngành công nghiệp khác mà chúng ta sẽ mất nhiều thời gian để giải quyết. Một số ngành đang đẩy mạnh cách làm máy chủ – khách. Một số ngành khác thì phát triển công nghệ và có khả năng giám sát vào máy khách, trong khi đó các nhà khai thác dịch vụ lại muốn kiểm soát toàn bộ mạng”.

Sự cạnh tranh khốc liệt

“Sự cạnh tranh trở nên khốc liệt là do sự hội tụ. Đó là một thời điểm đáng quan tâm. Hiện nay, mọi thứ thực sự đang xảy ra. Trong quá khứ, mọi thứ vẫn giữ nguyên. Hiện nay, sức mạnh công nghiệp đang thay đổi. Có quá nhiều góc độ để tấn công”.

Trong chuỗi giá trị di động, các nhà cung cấp hạ tầng đang phải đối phó với nền kinh tế đồ sộ về quy mô và phạm vi. Một số nhà khai thác đã báo hiệu sự háo hức để hội nhập sau. Bert Nordberg nghĩ rằng “Một số trong số họ có lẽ đã sẵn sàng thắt chặt chuỗi giá trị nhưng một số lại muốn rơi vào trạng thái bằng lòng”.

“Họ muốn cung cấp các giải pháp cho mọi người. Họ không muốn người khác gây trở ngại cho mối quan hệ kinh doanh của họ. Nếu bạn nhìn vào thương trường, doanh nghiệp là một khách hàng rất, rất tốt đối với nhà khai thác dịch vụ. Ngày nay, có rất nhiều các giải pháp cho khu vực doanh nghiệp mà ở đây các nhà khai thác dịch vụ không có được mối quan hệ với khách hàng. Họ không có khả năng hoà hợp. Tôi chính là một người có nhu cầu sử dụng lớn trong doanh nghiệp. Về phía người sử dụng cuối cùng, tôi thấy rất nhiều dụng cụ cải tiến khác nhau. Ngành công nghiệp này phải bám sát hơn nữa thị trường doanh nghiệp.

Làm thế nào mà công nghệ Wi-Fi phá vỡ được sự cân bằng?

“Wi-Fi là một tiêu chuẩn tuyệt vời đối với văn phòng và gia đình, nhưng nó không phải là thiết bị di động. Trong một thời gian dài, tôi cũng không thể nhận ra hình thức kinh doanh này. Tôi nghĩ mọi người muốn sử dụng công nghệ truyền thông di động và di chuyển không ngừng từ nơi này đến nơi khác. Tôi không nghĩ mọi người lại quan tâm đến công nghệ 3G hay Wi-Fi.

Họ chỉ muốn có được giải pháp kết nối tốt nhất. Rút cục, bạn không cần công nghệ Wi-Fi.”

Nguồn: Bài phỏng vấn của tác giả với Ngài Bert Nordberg, Phó Giám đốc, phụ trách Bộ phận kinh doanh và tiếp thị, Telefonaktiebolaget LM Ericsson, 7/4/2004.

Những thị trường mới xuất hiện và thị trường đang phát triển

Do quy mô nền kinh tế và các vấn đề về độ lớn, nhưng nó không biến đổi một cách tự động sang mức độ quan trọng chiến lược. Một số thị trường mới xuất hiện như Bra-xin và những nền kinh tế chuyển đổi như Nga, đang tạo ra quy mô kinh tế lớn và tiềm năng nhưng đến nay vẫn thiếu một hạ tầng công nghệ cân bằng hoặc tính ổn định về thể chế, hoặc cả hai. Vào đầu những năm 2000, thế giới di động không phải là một miếng bánh ngon duy nhất, nhưng chia thành hai thị trường khá khác nhau. Ở thị trường đã phát triển, các năm phát triển cao đã qua, quá trình thâm nhập thì đang bão hòa, các đối thủ thì đang củng cố và sự cạnh tranh chuyển sang về nhu cầu và giá trị thay thế. Ở các thị trường chưa phát triển, các năm phát triển mạnh vẫn chưa bắt đầu, quá trình thâm nhập thì thấp, các đối thủ thường bị phân đoạn và sự cạnh tranh chủ yếu về nhu cầu và số lượng căn nguyên.

Ở các nền kinh tế đã phát triển, thị trường thiết bị cầm tay đang phát triển vào phân đoạn thiết bị điện tử cho người tiêu dùng, với một số lượng người dùng khổng lồ mà theo định kỳ họ thường nâng cấp các thiết bị của họ để có được các ưu điểm của những cải tiến mới. Vì thế sự thay đổi đã tạo ra sự phát triển, những người dùng chuyển từ các thiết bị cầm tay cấp thấp sang cấp cao, vì thế tạo ra các nhu cầu mới về thiết bị cầm tay với các chức năng và tính năng được cải tiến. Sự chuyển dịch này được khẳng định dựa trên khả năng có sẵn của những chiếc điện thoại di động mới và tính hấp dẫn ở các màn hình màu, truy nhập nội dung đa phương tiện và có tích hợp máy quay. Ở các nền kinh tế đang phát triển, điện thoại di động kỹ thuật số và thị trường điện thoại trả trước thì đang phát triển nhanh, thu hút được các khách hàng mới và khách hàng lần đầu sử dụng.

Trải qua thời gian, sự khác biệt giữa các thị trường mới nổi lên và thị trường đang phát triển sẽ được giải quyết. Bằng khả năng truyền dữ liệu và thoại di động, các mục tiêu chiến lược của các nhà cung cấp, các nhà khai thác và các nhóm chiến lược khác sẽ mang lại các điều kiện tiên quyết này. Với dữ liệu di động, họ tìm cách thúc đẩy sự chấp nhận các dịch vụ di động đa phương tiện trong các thị trường sung mãn, trong khi đó chuyển trực tiếp sang Internet di động trong thị trường mới nổi.

CUỘC CÁCH MẠNG THỊ TRƯỜNG TRÊN TOÀN THẾ GIỚI

Từ đầu những năm 1990, sự phát triển của công nghệ di động đã diễn ra rất nhanh ở Bắc Mỹ, Tây Âu, và ở một số vùng trọng điểm ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương.

Những thị trường nội địa: Dẫn đầu là ở Mỹ (những năm 1980)

Ở kỷ nguyên tiền di động, thị trường di động còn nhỏ và chủ yếu là ở trong nước. Đối với toàn thế giới, sự phát triển chỉ thực sự cất cánh vào nửa cuối những năm 1980. Nhu cầu bị kìm nén bấy lâu đã xuất hiện và làm cho nhiều hãng bị bất ngờ, họ phải cố gắng để bắt kịp với xu hướng phát triển nhanh chóng đó. Kỷ nguyên tiền di động đạt đỉnh điểm vào năm 1983, năm đầu tiên của loại điện thoại di động công nghệ tương tự, nhưng thực sự động lực phát triển này chỉ diễn ra vào năm tiếp theo khi nó lần đầu tiên được giới thiệu tại Mỹ. Nhìn lại vấn đề này, các năm đó đã chứng tỏ sự chuyển đổi không thể tránh được từ các thị trường di động có công nghệ tiên tiến quy mô nhỏ sang các thị trường khu vực có quy mô lớn.

Năm 1983, có rất nhiều thị trường các nước dẫn đầu về kinh doanh di động:

  • Khu vực Bắc Mỹ: nước Mỹ
  • Khu vực Tây Âu: các nước thuộc Bắc Âu (gồm có Thụy Điển, Na Uy, Đan Mạch, Phần Lan)
  • Và Nhật Bản.

Thị trường khu vực: Dẫn đầu là châu Âu (những năm 1990)

Ban đầu, sáng tân tiếp thị được bắt đầu từ các nước tiên phong và các phân đoạn người tiêu dùng sử dụng các sản phẩm cao cấp sang thị trường doanh nghiệp và có quy mô quốc gia. Bắt đầu bằng kỷ nguyên công nghệ 2G vào năm 1992, quy mô này tăng lên toàn cầu hóa khi đà phát triển của thị trường đã chuyển đổi sang các thị trường có quy mô lớn. Trong điều kiện cạnh tranh này, những nước tiên phong ở thị trường nhỏ, đặc biệt là ở các nước thuộc Bắc Âu đã đấu tranh để giữ vững vị trí dẫn đầu về R&D (nghiên cứu và phát triển) phục vụ cho người sử dụng trên toàn cầu. Cùng lúc đó, họ đã mất đi vị trí là những người dẫn đầu thị trường.

Năm 1992, những thị trường dẫn đầu trên thế giới gồm các nước:

  • Ở Bắc Mỹ: Mỹ và Ca-na-đa;
  • Khu vực Tây Âu: Anh, Đức, I-ta-li-a và Pháp
  • Nhật Bản và khu vực Thái Bình Dương: Ô-xtrây-li-a.

Các thị trường toàn cầu: Ưu thế dẫn đầu (từ những năm 2000 đến nay)

Trong tất cả các cuộc đàm phán về toàn cầu hóa, vị thế đứng đầu thế giới thường có nghĩa là dẫn đầu về nhiều thị trường chiến lược. Năm 2003, dân số thế giới vào khoảng 6,3 tỷ người. Chỉ 1,2 tỷ người sống ở những nước phát triển, và khoảng 5,1 tỷ người còn lại sống ở những nước kém phát triển hơn (3,8 tỷ người trừ Trung Quốc). 10 thị trường di động phát triển nhất có khoảng 846 triệu thuê bao. Những nước có nền kinh tế đang phát triển trên toàn thế giới có một số lượng thuê bao khổng lồ vẫn chưa được khai thác.

Năm 2003, các thị trường quốc gia phổ biến nhất trên thế giới ở một số khu vực trọng điểm gồm các nước sau:

  • Khu vực Bắc Mỹ: Mỹ và Ca-na-đa
  • Khu vực Tâu Âu: Đức, I-ta-li-a, Anh, Pháp và Tây Ban Nha
  • Khu vực châu Á – Thái Bình Dương: Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan;
  • Khu vực Đông Âu: Nga và Ba Lan
  • Khu vực Mỹ La-tinh: Bra-xin và Mê-hi-cô;
  • Khu vực Trung Đông: gồm Ả-rập Xê-út, I-xra-en và I-ran
  • Khu vực châu Phi: gồm Nam Phi, Ma-rốc và Ai Cập

Hiện nay, nếu một công ty muốn có mặt trên toàn thế giới thì họ phải có một vị trí thực sự thuận lợi.

CUỘC CÁCH MẠNG VỀ THỊ TRƯỜNG KHU VỰC

Khu vực Bắc Mỹ

Cho đến đầu những năm 1990, khu vực Bắc Mỹ là trung tâm của nền công nghệ di động trên thế giới. Mỹ đã có hầu hết các thị trường cạnh tranh; các nhà cung cấp, các nhà khai thác và khách hàng cao cấp nhất, các sản phẩm, phương pháp sản xuất và dịch vụ hiện đại nhất. Công nghệ di động tương tự chỉ phát triển đỉnh điểm vào những năm 1990 khi Motorola và nhiều nhà công nghệ khác đạt được lợi nhuận ở mức kỷ lục.

Mỹ đã mất đi vị thế dẫn đầu về sáng tân công nghệ trong khu vực là do sự chậm trễ trong việc chuyển đổi sang công nghệ số. Cùng lúc đó các tiêu chuẩn khác nhau đã phá vỡ thị trường của Mỹ, quốc gia này vẫn giữ được vị thế là thị trường nhiều người sử dụng nhất cho đến giữa tháng 8/2001, khi Trung Quốc đã vượt qua Mỹ trở thành thị trường lớn nhất trên thế giới, tính theo số lượng thuê bao di động. Ngày nay, Mỹ vẫn giữ được vị thế là thị trường quốc gia có khả năng sinh lợi lớn nhất tính theo đầu người, trong khi đó Trung Quốc có được nền tảng là dân số đông nhất nhưng tiền lãi thu được thì thấp hơn.

Khu vực Tây Âu

Năm 1983, các quốc gia nhỏ thuộc Bắc Âu vẫn chiếm khoảng 99,5% toàn bộ thị trường Tây Âu. Nhưng các nước châu Âu lớn hơn sớm bắt kịp và thị phần của Vương quốc Anh đã đạt đỉnh điểm là 37% vào năm 1989. Bằng việc chuyển sang công nghệ số, động lực phát triển trong các thị trường di động đã trở về với Tây Âu, đặc biệt là các nước thuộc Bắc Âu. Thị trường gồm các nước lớn như Đức, Vương quốc Anh, Pháp và I-ta-li-a, thị trường đang phát triển là Tây Ban Nha và nhiều thị trường quốc gia nhỏ khác. Nửa sau những năm 1990, Anh đã đánh mất vị thế dẫn đầu thị trường di động vào tay người I-ta-li-a mà sau này I-ta-li-a cũng bị mất vị thế dẫn đầu vào tay nước Đức. Trước năm 2000, bốn thị trường thuộc Bắc Âu chiếm gần 7% thị phần trong khi đó bốn thị trường các nước thuộc Tây Âu chiếm hơn 61% toàn bộ thị phần (xem Hộp 1.2). Với hai thị trường di động trọng yếu đang nổi lên gồm Tây Ban Nha và Thổ Nhĩ Kỳ, sáu thị trường dẫn đầu đã chiếm 77% toàn bộ thị phần.

Khu vực Đông Âu

Cho đến cuối thời kỳ chiến tranh lạnh, ngành kinh doanh di động chỉ thực sự thịnh vượng ở khu vực phía tây Bức tường Béc lin. Trong một thời gian dài, các nước Tây Âu có nền công nghệ lớn nhất, ổn định nhất và tiến bộ nhất mong muốn phát triển trở thành một thị trường mạnh. Bước ngoặt xảy ra vào những năm 1990 khi Hung-ga-ri (chiếm hơn 80% thị phần), Nam Tư (chiếm 20% thị phần) và sau đó là Crô-a-ti-a đã thống trị vị trí này vào đầu những năm “di động hóa” ở các nước Xã hội chủ nghĩa cũ ở Châu Âu. Vào cuối thập kỷ này, quy mô đã vượt quá các nước tiên phong. Các nước chủ yếu gồm Ba Lan, Cộng hòa Séc, Nga, Hung-ga-ri và Ru-ma-ni đã chiếm 69% thị phần toàn bộ khu vực Tây Âu.

Khu vực châu Á – Thái Bình Dương

Vào những năm 1980, thị trường châu Á là Nhật Bản, giống như vị thế dẫn đầu thuộc về các nước Bắc Âu ở khu vực Tây Âu, vị thế dẫn đầu của nước này đã không giữ được lâu. Vào năm 1991, Nhật Bản vẫn chiếm hơn nửa thị phần của khu vực châu Á – Thái Bình Dương, so với các nước và vùng lãnh thổ Ốt-xtrây-li-a, Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc, Thái Lan và Ma-lay-xi-a. Sau khi Trung Quốc bắt đầu quá trình mở cửa và cải tổ quy mô lớn, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tăng lên. Vào năm 1991, sự thâm nhập của công nghệ di động vào Trung Quốc vẫn chỉ chiếm hơn 1%, nhưng thị phần của nước này ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương đã tăng lên 14%. Công nghệ GSM kỹ thuật số đã tạo ra động lực phát triển mạnh mẽ ở Trung Quốc.

Vào cuối năm 2000, Trung Quốc đã vượt qua Nhật Bản để trở thành quốc gia dẫn đầu tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương, đúng như dự đoán sau đó, quốc gia này đã vượt qua Mỹ để trở thành nước có thị trường di động dẫn đầu trên thế giới. Nước này cũng chiếm 1/3 thị phần trong khu vực, so với Nhận Bản (chiếm hơn 26%), Hàn Quốc (chiếm 12%) và Thái Lan. Bốn nước đứng đầu thị trường này đã chiếm 80% thị phần toàn bộ khu vực. Ở Nhật Bản, NTT DoCoMo đã đi tiên phong về các dịch vụ theo nội dung đầu tiên và thị trường công nghệ 3G. Ở Hàn Quốc, các nhà khai thác dịch vụ như SK Telecom (xem Hộp 1.3) và các nhà cung cấp dịch vụ như Samsung đã đóng vai trò giống nhau về các dịch vụ và thị trường dựa trên công nghệ CDMA. Ấn Độ đã có được các tiềm năng đáng kể trong tương lai nhưng sự thâm nhập của công nghệ không dây của nước này rất thấp cho đến tận cuối những năm 1990.

HỘP 1.2. SỰ THAY ĐỔI LỚN: RÀ SOÁT CÁC THỊ TRƯỜNG TOÀN CẦU

“Trước kia, việc quảng cáo chỉ nhằm mục đích bán cái mình có cho khách hàng. Chúng ta phải nghĩ lại cách thức kinh doanh này, liệu nó là chiếc điện thoại hay là một thứ bỏ đi. Mọi thứ đang thay đổi. Ngày nay, chúng ta nên nghĩ về cái mà khách hàng cầu – chứ không phải là bán cái mình có”. Các nhà khai thác dịch vụ đang phải đối mặt

Là một Giám đốc Điều hành của công ty Ogilvy Interactive, ngài Mike Windsor chịu trách nhiệm về các nguồn thông tin tương hỗ của Tập đoàn Ogilvy tại 42 thị trường trên toàn thế giới. Là Giám đốc Điều hành của Công ty Anderson & Lembke, ông đã thành lập hãng tương tác và quảng cáo tích hợp lớn nhất ở khu vực West Coast, chiếm 90% công việc quảng cáo tương tác của Microsoft và đa số công việc quảng cáo truyền thống của mình. Ở OgilvyInteractive, ông giám sát thông tin thu thập về Motorola. Windsor cho rằng “Công việc tiếp thị tương tác trên toàn cầu cần phải có các quyết định nhanh, khả năng thích nghi nhanh và sự sẵn sàng học hỏi những cái mà mình chưa biết… các kỹ năng mà tôi đã mài dũa đó là chấp nhận mạo hiểm, tưởng tượng rằng thậm chí nhảy ra khỏi những chiếc máy bay đang bay cùng với những cái dù có thể thường xuyên là không mở.”

Thách thức của công việc tiếp thị toàn cầu

Với tính năng di động, nhiều hoạt động sáng tân diễn ra ở ngoài nước Mỹ. Hầu hết thế giới đang phát triển có thể bỏ qua hệ thống điện thoại cố định. Tỷ lệ chấp nhận ở một số nơi ví dụ như Mê-hi-cô và Mỹ La tinh thì nhanh hơn so với ở Mỹ.

“Ở Mỹ chúng tôi thực sự không cần điện thoại di động. Có những chiếc điện thoại được đặt ở khắp nơi và chi phí gọi thì rất rẻ. Ở châu Âu và châu Á, nhắn tin thì rất phổ biến, đặc biệt là ở giới trẻ bởi vì đó là cách liên lạc ít tốn kém. Ở Mỹ, điện thoại di động thì rẻ. Mọi người sử dụng điện thoại để nhắn tin rất ít, hầu hết gọi trực tiếp.”

Trong khi đó các nhà cung cấp dịch vụ tiếp thị hàng đầu và các mạng lưới chi nhánh quảng cáo hoạt động ở trên khắp thế giới, họ thường quyết định đặt trụ sở chính ở Mỹ.

“Trước kia, khá dễ dàng để nắm bắt được xu thế, chúng ta hầu như có thể dự đoán được thời điểm. Với tính năng di động, sự phát triển có phần bị lệch lạc nhiều hơn. Vì vậy chúng ta cố gắng để mắt đến mỗi thị trường để phát hiện thấy điều gì đang diễn ra. Đặc biệt đối với lần đầu tiên, chúng ta muốn mang vào New York một thứ gì đó đang có ở Tây Ban Nha. Điều này không xảy ra trong quá khứ. Trong tính năng di động, người châu Âu đã tiến xa hơn so với Bắc Mỹ. Nên khai thác các nguồn lực đó hơn là tái phát minh chúng ở đây.

“Dù sao đi chăng nữa, rất nhiều sáng tân đến từ các thị trường nhỏ. Đầu tiên, ngân sách ít hơn cần nhiều hơn về tài năng và phương thức chấp nhận một công nghệ thực sự mới. Thứ hai, những thị trường nhỏ hầu hết là có khách hàng, vì vậy dễ kiếm tiền hơn. Chúng ta sẽ thấy rất nhiều những sáng tân được chọn lựa đầu tiên trong các thị trường nhỏ. Nhưng những thị trường nhỏ đồng nghĩa với nó là nhu cầu của khách hàng thấp.”

“Ở thị trường Nhật Bản, i-mode đã đến tay mọi người nhanh đến nỗi là họ cảm thấy không cần máy tính. Họ có thể vào mạng và làm nhiều thứ hơn trên nhiều trang Web của Nhật Bản. Hành vi của khách hàng ở Nhật Bản khác nhau cơ bản. Họ có thể buộc mọi người trả tiền cho những trò chơi. Bạn có thể kiếm tiền với chi phí thuê bao khá rẻ. Chúng ta có một chương trình thành công cho Nestlé khi mà mọi người có thể vào bảng chọn trên thiết bị cầm tay của mình và có được danh mục công thức và mua sắm. Tôi những tưởng nó sẽ là một thất bại lớn nhưng hóa ra lại là một thành công then chốt. Đây là một văn hóa khác biệt. Hành vi đó không tồn tại ở những nước còn lại”.

Sáng tân di động

“Có một số thứ gợi cảm xúc xuất hiện khi chiếc điện thoại của bạn có thể nhận ra một tấm biển mà bạn đi qua trong khi tải thông tin và phiếu mua hàng. Chiếc máy tính thì tốt hơn nhiều về thông tin nhanh, chi tiết và phong phú. Truy cập Internet từ điện thoại di động không phải là một trò giải trí đặc biệt. Nếu tôi muốn chính xác một thứ gì thì thật là tuyệt vời nhưng để tìm kiếm một thứ thì quả là khó khăn. Web thì rất đơn giản và với tính chất dễ sử dụng nó tạo ra một mối liên hệ tốt. Chiếc điện thoại thì cực kỳ thuận tiện bởi vì lúc nào tôi cũng có nó bên mình. Nó luôn sẵn sàng khi tôi cần tới.”

“Thật là tuyệt vời khi có thể sử dụng điện thoại di động để biết được chuyến bay của tôi bị trễ hoặc đang trên đường đến. Nếu tôi có thể chọn lựa, tôi sẽ không ngại nếu có một vài nhà tài trợ. Nhưng tôi không muốn khi bật điện thoại lên là phải xóa một tá tin nhắn quảng cáo liền một lúc.”

“Ở châu Âu, các nhà tiếp thị sử dụng SMS theo nhiều cách mang tính sáng tân hơn. Một trong số những nghiên cứu thú vị dựa trên hoàn cảnh cụ thể về chiếc điện thoại của tôi là chiến dịch Cadburry ở Vương quốc Anh. Họ đã sử dụng SMS để quảng cáo. Cadbury Schweppes hình thành ý tưởng và đã thuê Flytxt thực hiện chiến dịch này. Họ đã truy nhập nhanh vào dữ liệu và thành công hơn với số người tham gia và số lượng thanh kẹo đã bán. Chiến dịch này đã đem lại kết quả tốt vì nó diễn ra trong thời gian thực và có thể đo lường được“.

“Ở Hàn Quốc, điện thoại di động tích hợp truyền hình đã ngày càng bán chạy. Mọi người có thể sử dụng nó để xem các đoạn hình ảnh nhiều hơn là để xem truyền hình. Nó có một cơ chế truyền tải cực tốt, đặc biệt nếu cần sẽ được kết nối với khả năng xác định được vị trí. Nếu bạn có khả năng làm cho mọi người có thể lựa chọn một thứ nào đó mà họ muốn, nó sẽ có nhiều tiềm năng lớn“.

Các kênh truyền thông chia nhỏ

Winsor cho rằng “cuối cùng, lĩnh vực kinh doanh này sẽ không phải là về công nghệ mà là về nhãn hiệu. Màn hình sẽ không bao giờ là lớn và nó sẽ không phải là một phương tiện tốt. Xây dựng nhãn hiệu và tiếp thị chỉ là về những điểm tiếp xúc, có bao nhiêu nơi mà tôi phân cắt bởi nhãn hiệu và có bao nhiêu trong số đó là tích cực hoặc tiêu cực và điều gì là ý kiến tổng thể cho đến cuối ngày”.

“Số hóa là một vấn đề của việc chia nhỏ phương tiện trên một quy mô lớn hơn. Trước đây, bạn có 4 kênh truyền hình. Với công nghệ cáp, bạn có 50 kênh. Với công nghệ số, bạn có 100 kênh. Có rất nhiều phương tiện giải trí khó có thể đến được với mọi người trừ khi bạn có rất nhiều chương trình tiếp thị đa dạng. Công nghệ chỉ bổ sung vào những mảnh nhỏ ấy và điều khiển nó”.

Phương tiện truyền thông lớn thiếu khả năng cần thiết

“Khi thế giới trở nên phức tạp hơn và những máy móc thì có sẵn trong tay, chúng ta phải suy nghĩ về những cách để thu hút được sự chú ý.”

“Vấn đề của tôi là làm cho những người đang nghĩ tới 30 giây quảng cáo trên truyền hình và vẫn có các chương trình gửi thư điện tử (E-mail) trực tiếp biết rằng có những cách thức tốt hơn. Các công ty truyền thông lớn không thích cách làm này bởi vì các mô hình của họ được xây dựng trên khái niệm “hãy đưa chúng tôi tiền của bạn và chúng tôi sẽ đàm phán một mức giá thực sự thấp trong khuôn khổ 20 tài sản có giá trị nhất”. Khi bạn đạt tới 500 tài sản, nó là một khối lượng lớn công việc lớn và lượng đô la Mỹ ít hơn cho một phương tiện giải trí.

“Các công ty truyền thông không có mô hình nào cho phép họ kiếm ra tiền trong thế giới này. Vì thế, họ phải cạnh tranh nhau rất khốc liệt. Nếu các công ty truyền thông sẽ không chi phối ngành kinh doanh di động, các công ty độc lập sẽ cố gắng để tối ưu hóa doanh thu của bạn thông qua nền tảng tiếp thị truyền thông, hoặc chúng ta sẽ phải tự làm hoặc phải kiếm người lập kế hoạch các kênh mới. Ngay bây giờ nó là một cuộc đua lớn”.

Nguồn thông tin: Bài phỏng vấn của tác giả với Mike Windsor, Chủ tịch công ty Ogilvyinteractive Toàn cầu, ngày 19/5/2004.

HỘP 1.3. CÂU CHUYỆN VỀ THÀNH CÔNG CỦA SK TELECOM: SỰ CHUYỂN HƯỚNG TỪ DẪN ĐẦU VỀ CÔNG NGHỆ SANG VIỆC SÁNG TÂN TRONG DỊCH VỤ

“Chúng tôi đang có định hướng phát triển Internet không dây làm dịch vụ hàng đầu của hãng” – Sung Min Ha, người phụ trách về lập kế hoạch chiến lược của SK Telecom. “Nhờ vào June, chúng tôi hiện đã đang tiến hành triển khai dịch vụ nhắn tin đa phương tiện cho phép người sử dụng gửi và nhận tin nhắn truyền tải nội dung đa phương tiện như video, âm thanh cũng như văn bản thông qua điện thoại cầm tay”.

Vào tháng 11 năm 2002, nhà cung cấp này khai trương dịch vụ “June”, một dịch vụ đa phương tiện chất lượng cao nhằm đáp ứng nhu cầu về các dịch vụ cho công nghệ 3G cũng như các dịch vụ video theo nhu cầu, nghe nhạc theo yêu cầu, điện thoại video, Internet, và thông tấn quảng bá. Tính đến tháng 6 năm 2003, dịch vụ này đã cho thấy sự phát triển vượt trội của mình với khoảng 1,7 triệu thuê bao. Cùng thời điểm đó, hãng đã gia tăng doanh thu về dịch vụ dữ liệu từ 10% lên đến 16% tổng doanh thu.

“Chúng tôi đang hướng đến những mô hình kinh doanh mới” – ông Ha tiếp lời. “Chúng tôi hiện đang mở rộng chiến lược tìm kiếm đối tác từ các công ty bản địa. Chúng tôi cộng tác để cung cấp các dịch vụ một cách rộng rãi hơn dựa trên nền tảng công nghệ đã có của mình”.

Dẫn đầu chiến lược nhờ vào công nghệ tiên phong

Với tư cách là nhà cung cấp dịch vụ truyền thông vô tuyến hàng đầu ở Hàn Quốc, SK Telecom có tới 18 triệu thuê bao di động (chiếm 54% thị phần), trong số đó có tới gần 16 triệu máy điện thoại hỗ trợ dịch vụ dữ liệu. Sau khi khai trương dịch vụ di động CDMA (công nghệ đa truy nhập phân chia theo mã) đầu tiên trên thế giới, hãng tiếp tục là nhà cung cấp đầu tiên trên trên toàn cầu giới thiệu dịch vụ thương mại cho hệ thống di động 2,5G, CDMA (2000 1X) và 3G CDMA (2000 1xEV-DO).

Ngoài June, Morena và một số các dịch vụ khác, SK Telecom hiện đang hợp tác với một số ngân hàng để phát triển dịch vụ giao dịch ngân hàng thực hiện trên chip xử lý di động, “M-Bank”. Dịch vụ này đã được giới thiệu vào tháng 3 năm 2004. SK Telecom cũng đã triển khai một vệ tinh cho dịch vụ thông tấn đa phương tiện kỹ thuật số (DMB – Digital Multimedia Broadcasting) vào tháng 3 năm 2005 và hiện đang có kế hoạch thương mại hóa dịch vụ này vào tháng 5 năm 2005.

“SK Telecom cam kết trở thành nhà cung cấp dịch vụ thông tin và truyền thông hàng đầu thế giới” – ông Ha cho biết. Các dịch vụ CDMA của nhà cung cấp này hiện đang có mặt rộng khắp châu Á, bao gồm cả các thị trường lớn như Hàn Quốc, Trung Quốc và Nhật Bản, thị trường chiếm tới hơn một phần tư tổng số thuê bao di động toàn cầu. “Công nghệ mạng là nền tảng cho nền công nghiệp thông tin và truyền thông. Chúng tôi luôn dẫn đầu ở những thị trường mới và thể hiện trí tuệ của mình ở những nơi này. Đó cũng là tầm nhìn mang tính toàn cầu của chúng tôi”.

Dẫn đầu về dịch vụ nhờ vào công nghệ tiên phong

“Chúng tôi mong muốn tiếp tục việc cách mạng hóa lĩnh vực công nghiệp viễn thông và phát triển những mô hình kinh doanh mới kết hợp giữa viễn thông với tài chính, truyền thông phương tiện, thương mại và giải trí. Chiến lược này sẽ đưa chúng tôi lên đỉnh của làn sóng truyền thông đang dần xuất hiện hiện nay”.

Sản phẩm và dịch vụ của SK Telecom thể hiện những mục tiêu rất lớn của hãng này về mặt chiến lược và sáng tân. “Định hướng của chúng tôi là nâng cấp về mặt kỹ thuật cho các hệ thống mạng vô tuyến của mình, ngoài ra chúng tôi cũng tìm cách cải thiện tốc độ truyền dẫn số liệu và chất lượng dịch vụ để đáp ứng được một số lượng lớn nhiều loại dịch vụ khác nhau” – ông Ha khẳng định. “Chúng tôi cũng hướng đến việc cung cấp một cách đa dạng các dịch vụ mới về Internet và số liệu vô tuyến cũng như hướng đến sự gia tăng về doanh số bán hàng trên các dịch vụ này. Điểm thứ ba đó là chúng tôi chú trọng việc duy trì và củng cố số lượng lớn thuê bao trung thành hiện tại của mình. Và cuối cùng, chúng tôi luôn tự ý thức được vị trí dẫn đầu của mình về các công nghệ không dây mới”.

SK Telecom đang hướng đến sự dẫn đầu chiến lược nhờ vào việc đi tiên phong về mặt công nghệ. Họ thực sự đang tìm những cách để biến điểm mạnh về mặt công nghệ của mình thành ưu điểm thực sự về mặt chiến lược. Đó quả thật không phải là việc dễ dàng.

Nguồn thông tin: Bài phỏng vấn của tác giả với ông Sung Min Ha, trưởng nhóm kế hoạch chiến lược, SK Telecom, ngày 17 tháng 5 năm 2004.

Khu vực Mỹ La-tinh

Vào giữa thập niên 80, Mê-hi-cô thực sự chiếm lĩnh vị trí độc tôn ở khu vực này (60%), tuy nhiên những nước nhỏ như Puerto Rico và Anguilla lại đạt được mức độ thâm nhập thị trường cao hơn cả Chi-lê và Bra-xin. Đến năm 2000, Bra-xin đã dành được thị phần dẫn đầu khu vực (36%) sau khi tiến hành việc cổ phần hóa một cách triệt để. Các vị trí tiếp theo thuộc về Mê-hi-cô (23%), Ác-hen-ti-na, Vê-nê-zu-ê-la và Chi-lê. Với sự thiếu vắng của sự ổn định kinh tế mang tính vĩ mô và có tổ chức, mức độ thâm nhập của một số thị trường trọng yếu bao gồm Cô-lôm-bi-a, Pê-ru, Pa-ra-goay, U-ru-goay và Pa-na-ma chỉ là 1-3%. Nhóm bốn nước dẫn đầu (Bra-xin, Mê-hi-cô, Ác-hen-ti-na và

Vê-nê-zu-ê-la) đã chiếm tới 77% tổng thị trường khu vực. Thực tế, chỉ hai thị phần của Bra-xin và Mê-hi-cô cũng đã đạt đến 58% thị trường Mỹ La-tinh.

Khu vực Trung Đông

Ả-rập Xê-út đã tạo dựng được vị trí ấn tượng nhưng tương đối ngắn ngủi trong cuộc cách mạng về di động vào thập niên 1980 khi Ericsson chiếm giữ vị trí thống trị với hệ thống mạng của Vương quốc Ả-rập. Cùng với Ô-man, Cô-oét và các Tiểu vương quốc Ả-rập thống nhất (UAE) cũng đóng vai trò quan trọng trong khu vực này. Vào cuối những năm 1990, I-xra-en chiếm lĩnh vị trí số một thị trường Trung Đông (42%), tiếp sau là UAE (14%), Ả-rập Xê-út (12%) và I-ran (dưới 10%). Tuy nhiên với dân số hạn chế của mình, vị trí dẫn đầu của I-xra-en đã dần dần bị suy giảm kể từ giữa thập niên 1990 khi mà những nước Ả-rập lớn hơn cùng lao vào tiến hành công cuộc hiện đại hóa.

Khu vực châu Phi

Kinh doanh di động thâm nhập vào châu Phi thông qua hai đường chính: từ những quốc gia Maghreb (châu Phi) nằm gần với thị trường GSM Tây Âu, và từ Nam Phi, trung tâm kinh tế của khu vực. Vào năm 1985, Tuy-ni-di vẫn chiếm lĩnh thị trường châu Phi. Nhưng ngay sau đó, Nam Phi và một số nước ở phía Bắc Phi đã nhanh chóng dành lại thị trường. Vào cuối năm 2000, Nam Phi vẫn chiếm tới phân nửa thị phần, bỏ sau là Ma-rốc (18%) và Ai Cập (14%). Tất cả các nước còn lại đều chỉ đạt được mức dưới 5% thị trường. Ở khu vực này, ba nước nói trên đã chiếm tới khoảng 80% thị phần. Nói cách khác là thị trường có tính phân mảnh cao.

CÁC THỊ TRƯỜNG MỚI TĂNG TRƯỞNG NỔI BẬT

Cuộc cách mạng của thị trường Trung Quốc: sự đánh đổi công nghệ lấy cơ hội

Vào cuối tháng 7 năm 2001, Trung Quốc đã có được 120,6 triệu thuê bao di động so với 120,1 triệu thuê bao của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Giữa trào lưu hợp nhất trong công nghệ của Mỹ và sự thai nghén 3G ở châu Âu, sự phát triển của Trung Quốc đã giúp giữ cho kinh doanh di động tăng trưởng mạnh. Các nhà khai thác Trung Quốc đã đạt được mức hơn 5 triệu thuê bao một tháng. Và trong khoảng một phần tư thế kỷ gần đây, những nhà cung cấp giải pháp di động hàng đầu, các nhà khai thác mạng và những người cấp phép cho công nghệ thông tin đã đang tiến hành đánh đổi cơ hội để thu về hệ thống nghiên cứu và phát triển (R&D) và nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI). Nhằm mục đích thu hút những nhà đầu tư mới, hàng loạt vùng kinh tế trong điểm (SEZ – Special Ecomonic Zone) được đặt tại những tỉnh ven biển và các khu đô thị ở Trung Quốc đã đem đến điều kiện thuận lợi cho những dự án đầu tư nước ngoài. Đầu tư của các nhà cung cấp giải pháp di động phản ánh tính ưu việt trong môi trường đầu tư chung nhưng cũng thể hiện điển hình nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) cho nước phát triển.

Vào cuối những năm 1980, Bộ Bưu chính Viễn thông (MPT) vẫn đang hoạt động với tư cách phụ trách lĩnh vực Bưu chính, Điện thoại và Điện báo (PTT) quốc gia ở Trung Quốc và chịu trách nhiệm về mặt chính sách và quy định. Môi trường cạnh trạnh được phát triển mạnh vào năm 1994 khi Chính phủ Trung Quốc thành lập China Unicom với tư cách là đối thủ cạnh tranh số một với China Telecom. Cho đến công cuộc sáng tân vào cuối những năm 1990, thông tin di động vẫn được coi là một dịch vụ xa xỉ và phải chịu thuế cao. Với hoạt động sáng tân, chính phủ Trung Quốc đã thực hiện tách rời điều tiết công nghiệp với các hoạt động kinh doanh. Chính điều này đã tạo nên sự tăng tưởng doanh số, sự giảm chi phí và khởi đầu cho những cuộc chiến về giá đầu tiên.

Các nhà khai thác mạng

Trong khoảng từ năm 1995 đến năm 2000, doanh số dịch vụ của các nhà khai thác mạng Trung Quốc gần như tăng gấp 3 lần từ 15 tỷ lên tới 45 tỷ đô la Mỹ. Bốn nhà khai thác mạng hàng đầu chỉ đạt được khoảng 7% tổng thị trường. Tuy nhiên, trong khoảng từ năm 2003 cho đến 2008, số thuê bao di động của Trung Quốc được dự báo sẽ tăng từ 269 triệu đến 498 triệu thuê bao, đạt được tốc độ thâm nhập thị trường 38%. Các dự án 3G thương mại hóa sẽ được triển khai từ năm 2005 và số lượng thuê bao cho dịch vụ 3G này cũng sẽ đạt mốc 118 triệu vào năm 2008. Trong năm 2008, China Mobile sẽ vẫn chiếm vị trí dẫn đầu trong thị trường di động bởi cơ sở thuê bao lớn và kinh nghiệm khai thác (xem Hộp 1.4). China Unicom cũng sẽ vẫn giữ được vị trí thứ hai trong suốt thời kỳ này, năm 2003 và 2004 đánh dấu sự gia tăng thị phần kết hợp với sự mở rộng mạng CDMA của nhà khai thác này. Tuy nhiên cùng với sự xuất hiện của những đối thủ mới, cả hai đại gia này cũng sẽ phải gánh chịu sự suy giảm thị phần là kết qủa tất yếu của gia tăng cạnh tranh (In-Stat/MDR, 2004a)

Các nhà cung cấp

Trong khoảng từ năm 1979 đến năm 2001, các nhà cung cấp di động lớn trên thế giới đã nâng đỡ mạnh mẽ ngành truyền thông di động Trung Quốc thông qua xuất khẩu, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), có mặt tại thị trường, hướng dẫn và đào tạo. Tuy nhiên trong vài năm gần đây, các nhà cung cấp giải pháp Trung Quốc thực sự chưa đáp ứng được hệ thống cung cấp toàn cầu. Khác với việc chịu sự chi phối bởi các thương hiệu nước ngoài như Nokia, Motorola, Siemens, thị trường máy điện thoại di động đã chứng kiến các công ty Trung Quốc dành được 55% thị phần vào giữa năm 2003. Các nhà cung cấp điện thoại di động Trung Quốc đã đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh chóng đó theo ba cách cơ bản như sau: tập trung vào sản xuất hơn là đẩy mạnh về kỹ thuật, liên tục cho ra những mẫu mới, và tập trung cơ sở vật chất chính cho kênh kinh doanh và tiếp thị. Trong tất cả các nhà sản xuất Trung Quốc, chín công ty lớn nhất chiếm lĩnh 95% thị phần nội địa. Ba đại gia nội địa cung cấp thiết bị đầu cuối di động là Ningbo Bird, TCL và Konka.

HỘP 1.4. NGƯỜI TIÊN PHONG Ở THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC

“Khoảng 80% chiến dịch chúng tôi triển khai ở Trung Quốc là những điều chưa hề được thực hiện ở bất kỳ nơi nào khác trên thế giới” – David Turchetti, Tổng Giám đốc của 21 Communications cho biết, người đang tiến hành định hướng phát triển cho công ty của mình trong thị trường tăng trưởng nhanh tại châu Á. “Phần lớn các khách hàng mà chúng tôi đã và đang hợp tác – bao gồm KFC, Dell, Estée Lauder,… – chưa từng thực hiện tiếp thị công nghệ di động tại bất kỳ đâu trên thế giới này. Chúng tôi là những người tiên phong và cho đến nay chưa có một mô hình chuẩn thực sự nào”.

Những cơ hội cho di động ở Trung Quốc

“Vào năm 2002, chúng tôi đã xây dựng xong cơ sở hạ tầng của mình với China Mobile và China Unicom cũng như xác định được rõ cơ hội của công nghệ di động. Ngay khi các công ty nước ngoài không còn được phép hoạt động kinh doanh với hai nhà khai thác mạng này, chúng tôi đã phải tiến hành làm việc với một công ty bản địa và tìm cách để kiểm soát công ty này thông qua một thể chế luật pháp nhất định” – Turchetti nhớ lại. “Do vậy việc đầu tiên là thiết lập một công ty trong nước mà bạn có thể làm việc thông qua vai trò đối tác nước ngoài. Khi đã xong, công ty đó cần được trang bị các giấy phép và quyền hạn thiết yếu. Các giấy phép này là rất quan trọng ở Trung Quốc. Tất cả các quá trình nói trên sẽ kéo dài khoảng một hoặc hai năm. Khi tư cách pháp lý và các giấy phép đã xong, bạn có thể triển khai kế hoạch kinh doanh của mình với một chi nhánh điều hành mạng cấp tỉnh, không phải China Mobile hay China Unicom mà có thể là Shanghai Mobile (Shanghai – Thượng Hải), Shanghai Unicom hay Guangdong Mobile (Guangdong – Quảng Đông). Bạn phải bán được kế hoạch của mình cho các nhà khai thác. Họ chỉ thực sự lưu tâm đến những công ty thuyết phục được rằng sẽ đem lại cho họ doanh thu và quy mô. Đó là cách giúp chúng tôi khởi sự và hiện nay chúng tôi đang có những thỏa thuận chia sẻ doanh thu với các nhà khai thác mạng.

“China Mobile nhận 15% doanh thu và trả 85% cho nhà cung cấp dịch vụ. China Unicom có một tỷ lệ tương đương do vậy viễn cảnh đẹp nhất mà bạn có thể thấy là nhà cung cấp dịch vụ nhận được 88% tuy nhiên tỷ lệ này có thể xê dịch từ 60% đến 88% tùy thuộc vào doanh số của bạn. Trên bình diện khu vực hay toàn cầu mà nói, các nhà khai thác mạng Trung Quốc là những người khá hào phóng trên cơ sở một tỷ lệ chia sẻ doanh thu. Tuy nhiên, tỷ số nợ tồi hoặc khoản thanh toán không thu hồi được từ nhà khai thác mạng cũng có thể ở mức đáng kể hay thậm chí cao hơn mức bình quân trong khu vực. Bạn có thể đạt được một doanh số cao hơn nhưng cũng có thể sẽ nảy sinh ra điều đáng bàn giữa số liệu bạn thu được trên nền hệ thống của mình và khoản mà nhà khai thác thực sự thanh toán cho bạn.

Quy mô, quy mô và quy mô

Một điều khác biệt giữa các chiến dịch phát triển thị trường ở châu Âu và Trung Quốc là quy mô. “Quy mô thị trường ở Trung Quốc rất lớn, đây là thị trường di động lớn nhất thế giới, với khoảng gần 300 triệu thuê bao. Điểm nổi bật ở đây là ở chỗ hầu hết các thuê bao đều sử dụng dịch vụ dữ liệu. Họ gửi và nhận tin nhắn SMS, đây là điểm rất khác biệt với thị trường châu Âu và đặc biệt là Mỹ, nơi mà chỉ có khoảng 10% thuê bao sử dụng dịch vụ dữ liệu. Khách hàng dịch vụ di động ở Trung Quốc là những người có hiểu biết và khá quen thuộc với tiếp thị di động”.

“Chúng tôi đã đạt tới 1 triệu thuê bao” – Turchetti. “Điều này có liên quan trực tiếp đến khoản thu từ truyền thông phương tiện của một thương hiệu hay một công ty truyền thông phương tiện muốn có được để khuyến mãi cho một chiến dịch. Nếu một khách hàng chỉ thích triển khai một chiến dịch beta (thử nghiệm) tại nơi mà họ vừa chỉ tiếp cận với di động và họ thực sự không muốn đầu tư thực sự, kết quả sẽ rất khiêm tốn. Nếu chúng tôi đưa một thứ nào đó lên truyền hình quốc gia, đó sẽ là khởi nguồn khiến những con số tăng vọt. Với PNG trên kênh truyền hình vệ tinh Hunan, chúng tôi đã tạo ra một chiến dịch cho một cuộc thi bầu chọn người đẹp bởi hệ thống tin nhắn SMS. Và chỉ trong vài phút đã có 50.000 tin nhắn bầu chọn, một hiệu qủa tức thời”.

“Người Trung Quốc nói chung ưa thích sử dụng điện thoại di động như một công cụ truyền tải dữ liệu hơn với trường hợp của người Bắc Mỹ” – Turchetti nói. “Tôi ước tính có vào khoảng trên 80% nhu cầu sử dụng điện thoại cho dịch vụ SMS, dĩ nhiên thanh thiếu niên là những người chủ đạo”.

“Điện thoại di động thông thường là chiếc điện thoại đầu tiên mà một cá nhân hay một gia đình thường dùng ở những vùng nông thôn nơi mà họ buộc phải chuyển từ dịch vụ điện thoại cố định sang dịch vụ không dây, đặc biệt là với những dịch vụ vô tuyến với mức giá hợp lý của China Telecom. Khi khách hàng không phải là những người sử dụng máy vi tính cá nhân thì phương tiên đầu tiên giúp họ tiếp xúc với Internet chính là qua chiếc điện thoại.”

Thuê bao di động ở Trung Quốc

“Người Trung Quốc cũng giống như những người khác trên khắp thể giới” – Turchetti bình luận. “Họ cần thể thao, họ cần âm nhạc, giải trí, thông tin cổ phiếu, dự báo thời tiết và tất cả những thứ khác mà họ cần trong cuộc sống thực đang hiện diện tại khắp mọi nơi trên hành tinh này. Họ muốn trò chơi điện tử, hình ảnh, và nhạc chuông”.

“Đứng trên quan điểm tiếp thị, người Trung Quốc có xu hướng thích sự giảm giá, họ thường mong muốn một món đồ miễn phí hoặc những đợt giảm giá đặc biệt. Ở châu Âu khách có vẻ thường chú ý nhiều hơn đến những hình thức khuyến mại vui vẻ, mới lạ hoặc nổi tiếng. Ở Trung Quốc bạn có thể nghe thấy những điều như là, “Bao nhiêu phần giảm giá anh có thể mang đến cho tôi với một sản phẩm; anh có thể cho dùng thử miễn phí được không?” Cách làm như vậy thực sự hiệu qủa ở Trung Quốc, nhiều lúc thậm chí rất hiệu quả nữa. Bạn sẽ có thể thấy một đám đông khách hàng xuất hiện trước quầy!”

“Họ thực sự rất đam mê máy vi tính cá nhân và trò chơi điện tử trực tuyến. Chúng tôi cài đặt những trò chơi điện tử đặc sắc nhất của máy vi tính cá nhân lên những chiếc điện thoại di động ở Trung Quốc để hỗ trợ các game thủ như Counter Strike, Diablo and War Craft,… và đã có rất nhiều thiếu niên đăng ký để nhận những chỉ dẫn trên điện thoại di động về cách làm sao để chơi trò chơi thiện nghệ hơn”.

“Trên các kênh truyền hình và phát thanh Trung Quốc, rất dễ dàng để bắt gặp những chương trình tiếp thị, truyền thông phương tiện hay tương tác cho di động. Mọi người thích biểu đạt ý kiến của mình qua điện thoại và gửi tin nhắn đến các DJ hoặc VJ. Mọi ý kiến nói chung đều thống nhất ở điểm đó là mọi người đều yêu thích các cuộc thi tài và những dấu hiệu về chương trình giải trí rất hay được sử dụng để gây sự chú ý của những nhóm người với những tiêu chí kinh doanh riêng”.

Thị trường tiềm năng ở Trung Quốc

“Rất nhiều chiến dịch chúng tôi đang làm ở Trung Quốc chưa hề được thực hiện ở một nơi nào trên thế giới” – Turchetti khẳng định. “Đó là sự trải nghiệm đầu tiên về thương hiệu trên bình diện toàn cầu. Công nghiệp tiếp thị đang triển khai tiên phong ở Trung Quốc cho cả thế giới. Chúng tôi chỉ vừa mới tiến hành cộng tác với Dell ở Trung Quốc. Ở KFC lần đầu tiên mọi thứ được thực hiện trên chiếc điện thoại. Estée Lauder muốn thu hút đối tượng khách hàng là giới trẻ đối với sản phẩm của họ.”

“Ở Trung Quốc chúng tôi luôn dẫn đầu và cả thế giới dõi theo chúng tôi. Ngày trước, các đại lý tiếp thị chịu sự chi phối của các điều hành viên từ Mỹ và Hong Kong. Tuy nhiên, hiện nay, lần đầu tiên những người Trung Quốc đang quay lại và nói với cả nền công nghiệp, “Anh đang ở hai đến ba năm phía sau…”.

“Ở Mỹ, công nghiệp tiếp thị di động dường như vẫn đang ở thời kỳ sơ khai nếu so sánh với thực tại ở Trung Quốc”.

Nguồn: Bài phóng vấn của tác giả với ông David Turchetti, Giám đốc Điều hành (CEO), 21 Communications, ngày 30 tháng 4 năm 2004.

Các nhà cung cấp bản địa ở Trung Quốc học hỏi và thậm chí là mua lại rất nhanh chóng từ những đối tác Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan để cập nhật được tức thời các tính năng mới của điện thoại. Họ sử dụng những nhà thiết kế người châu Âu để có được những sản phẩm bắt mắt. Vào năm 2003, thị trường điện thoại di động Trung Quốc đã đạt tới hơn 250 triệu thuê bao. Trong số này, 94% sử dụng GSM và 6% cho điện thoại CDMA. Có khoảng 50 nhãn hiệu trên thị trường (21 nhãn hiệu quốc tế, 26 nhãn hiệu nội địa) với 803 mẫu khác nhau (701 mẫu cho GSM và 102 mẫu cho CDMA). Thị trường có tầm cỡ lục địa này được đặc trưng bởi tính đa văn hóa trong thành phần dân số, cấu trúc địa lý nhiều biến đổi, và sự đa dạng về hình thái ngôn ngữ. Ngoài những thành phố lớn đồng thời là trung tâm về di động (Bắc Kinh, Thượng Hải, Thẩm Quyến), còn có khoảng 170 thành phố với số dân trên 1 triệu người. Mỗi thành phố như vậy cũng góp gần tạo nên một thị trường riêng biệt. Những khách hàng mới người Trung Quốc đam mê tin tức, được thông tin đầy đủ và rất có ý thức về giá trị.

Trong số 10 thị trường đông dân nhất toàn cầu, Trung Quốc, với tư cách là một quốc gia, đã chiếm tới một phần ba tổng dân số. Với trên 330 triệu thuê bao di động và hơn 4 triệu thuê bao tăng thêm hàng tháng cùng với tỷ lệ thâm nhập thi trường vào khoảng 24% trong năm 2004, Trung Quốc là thị trường di động lớn nhất toàn cầu cũng như một thị trường đầy tiềm năng cho các dịch vụ 3G. Đây cũng là một thị trường có tính cạnh tranh rất cao độ.

“Những cuộc chiến về giá luôn là vấn đề khiến chúng tôi phải suy nghĩ rất nhiều. Với tư cách là người chiếm lĩnh vị trí số một trên thị trường thông tin di động – “Lao Da” như chúng ta vẫn thường gọi trong công nghiệp – chúng tôi vẫn nắm giữ 70% thị trường hiện tại”, Lu Xiangdong, Tân Giám đốc Điều hành kiêm Phó Chủ tịch China Mobile kể từ đầu năm 2003. “Tuy nhiên, những đối thủ mới xuất hiện trên thị trường đang luôn cố mở rộng thị phần một cách nhanh chóng và do vậy họ sử dụng chính sách về giá như một phương pháp đơn giản nhất để đạt được mục tiêu của mình. Khi sáu nhà khai thác mạng của Trung Quốc và Hong Kong cùng sử dụng chính sách về giá, cuộc đã quyết liệt đến mức không đối thủ nào có thể có được lợi nhuận”. Ngay nhà điều hành mạng lớn nhất thế giới cũng không thể tránh được cuộc chiến về giá. Ở Trung Quốc tình hình cũng giống như vậy. “Nếu chúng tôi không theo sát chính sách giá của các đối thủ, khách hàng của chúng tôi sẽ bắt đầu phàn nàn. Nhưng nếu chúng tôi hạ giá của mình, sản phẩm của chúng tôi sẽ trở nên vô giá trị. Do vậy, giải pháp ở đây là cải tiến chất lượng của dịch vụ cũng như sản phẩm một cách cao nhất có thể nhằm nâng giá trị thương hiệu của chính mình”. (Gilmore Dumont, 2003; 35-49)

Ấn Độ: Bài học từ nguồn lực bên ngoài (outsourcing)

Trong những năm 1995 đến năm 2000, tốc độ phát triển thuê bao di động hàng năm của Ấn Độ vượt quá 115%. Trong cùng giai đoạn thì ở Trung Quốc là 88%. Trung Quốc có 1,3 tỷ dân cư còn dân số của Ấn Độ là hơn 1,1 tỷ người. Điều này tương ứng với tốc độ phức hợp hàng năm là 53% – gấp đôi tốc độ 26% của Trung Quốc. Với hơn 34 triệu thuê bao di động tính đến giữa năm 2004, Ấn Độ được kỳ vọng vượt quá con số 150 triệu trong vòng 5 năm tới. Dẫn tố  cho sự bùng nổ này xuất phát từ sự mở rộng kinh tế, cải cách luật pháp, nhu cầu từng bị kìm nén cùng với độ triển khai công nghệ còn thấp (3%) (Theo Strother, 2004).

Bất chấp sự phát triển mạnh mẽ của thị trường thông tin di động Ấn Độ, với hơn 2 triệu thuê bao đăng ký mới hàng tháng, Trung Quốc vẫn phát triển các dịch vụ thông tin vô tuyến. Ngược lại, các nhà lãnh đạo Đảng Dân chủ Ấn Độ đã chậm chễ hơn Đảng Cộng sản Trung Quốc trong việc áp dụng các chính sách mới.

Ấn Độ là đất nước rộng thứ 7 thế giới đồng thời có nền kinh tế đứng thứ 5 trên thế giới xét trên phương diện nhập khẩu năng lượng. Quốc gia này có nền văn hóa đa dạng, địa lý và khí hậu phức tạp, cùng với tài nguyên thiên nhiên phong phú. Nhưng mãi cho đến đầu thập kỷ 1990, người ta mới biết đến nền kinh tế Ấn Độ với môi trường kinh doanh được điều tiết cao độ, hệ thống hành chính rộng khắp và hàng rào thuế quan cao. Cải cách đã thay đổi chiều hướng của nền kinh tế Ấn Độ. Cùng với sự mở cửa thương mại, các chính sách của chính phủ định hướng phát triển quốc nội và các công ty tư nhân có vốn đầu tư nước ngoài. Cũng giống như Trung Quốc trong những năm 1990, Ấn Độ bắt đầu giai đoạn bùng nổ thông tin di động. Quốc gia này đã rất phát triển công nghệ thông tin, và các nhà khai thác đã được khích lệ bởi các cơ hội mới và khác biệt hẳn so với mô hình viễn thông cổ điển ở Phương Tây.

Các nhà khai thác

Năm 2003, tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm của Ấn Độ đạt 8,1%. Trong khi thị trường thông tin di động đang đưa quốc gia này theo đà trở thành “Trung Quốc thứ hai”, thương trường vẫn có những điểm khác thường. Phần lớn các nhà khai thác đều có những chiến lược phát triển rất ấn tượng. Hai mươi tư nhà khai thác cung cấp dịch vụ thông tin di động tại 19 vùng và 4 đô thị lớn (Delhi, Mumbai, Chennai và Calcutta). Khoảng 80% thuê bao là trả trước. Bốn nhà khai khác hàng đầu là Reliance, Bharti, BSNL và Hutchison nắm giữ tới 70% số lượng thuê bao (hơn 24 triệu). Doanh thu tính bình quân mỗi thuê bao đạt 11 đô la Mỹ nhưng nó được dự đoán là sẽ giảm xuống bởi sự gia tăng số lượng các thuê bao trung lưu và bình dân. Thêm nữa, các dịch vụ dữ liệu mới được mong đợi dần dần làm tăng thêm ARPU. Trong số 4 thuê bao di động thì có 3 thuê bao GSM và 1 thuê bao CDMA. Khác với thị trường Mỹ, nhiều nhà khai thác thông tin di động Ấn Độ cung cấp cả hai loại dịch vụ CDMA và GSM. Mặc dù mới đưa ra dịch vụ CDMA, Reliance đã thử nghiệm các dịch vụ giải trí trên di động, bao gồm nền Brew của Qualcomm. Do nhà khai thác đã xây dựng vùng phủ sóng vô tuyến để phục vụ cho kỳ nghỉ Hindu, 8 giờ đầu tiên cung cấp dịch vụ đã thống kê được có 10 triệu bài hát được nghe thử và 2 triệu lượt tải về (theo Marek, 2003).

Các nhà cung cấp

Các nhà cung cấp thiết bị thông tin di động đã bắt đầu tìm kiếm các cơ hội đầu tư từ cuối những năm 1990. Tháng 01 năm 2001, Qualcomm đã đầu tư 200 triệu đô la Mỹ và chiếm khoảng 4% cổ phần của Reliance Communications. Ba năm sau đó, Nokia thông báo xây dựng một trung tâm nghiên cứu tại Mumbai để phục vụ cho công việc nghiên cứu phát triển mạng CDMA tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương.

Bất chấp các thế mạnh to lớn cả về mặt kinh tế lẫn công nghệ, cũng như sự phát triển của các tầng lớp bậc trung, nền công nghệ cao của Ấn Độ được phát triển cách đây không lâu và có quy mô nhỏ. Toàn bộ nền công nghệ thông tin của Ấn Độ có chưa tới 1 triệu nhân viên, so sánh với 40 triệu người thất nghiệp thống kê được tại đất nước này (Theo Waldman, 2004). Với tỷ lệ phát triển kinh tế đạt 6% trong 20 năm gần đây, Ấn Độ đang trở thành một thị trường tiềm năng, với lao động ngày càng trẻ và được đào tạo tốt hơn. Trong khi có khoảng 300 triệu nguời dân Ấn Độ có mức sống thấp hơn 1 đô la Mỹ/ngày thì ước tính có khoảng 659 ngàn hộ có máy vi tính. Mùa xuân năm 2004, Đảng Kinh tế Xã hội đã đánh bại Đảng Dân tộc trong một cuộc bầu cử Chính phủ bất thường, chính thức đưa đất nước này bước vào một kỷ nguyên thịnh vượng mới. Thời kỳ quá độ chính trị êm đềm vẫn tiếp tục sự phát triển của sự thịnh vượng, các tiết chế và thời kỳ yên ổn của các vùng lân cận đã chỉ ra rằng cho đến giờ, các cơ hội ở Ấn Độ vẫn có giá trị hơn là những nguy cơ đã được dự đoán trước.

Sự phát triển của thị trường trong tương lai

Sau nhiều năm phát triển nhảy vọt của thập kỷ 1990 và giai đoạn đình trệ 2001-2003, các thuê bao không dây toàn trên cầu phát triển mạnh mẽ. Trong năm 2007, thị trường GSM được mong đợi phát triển một cách đều đặn với các dấu hiệu của sự mở rộng trên toàn cầu và là kết quả của sự chuyển hướng từ các công nghệ cổ điển. Nhưng nghịch lý lại xuất hiện đằng sau sự phát triển. Bắt đầu từ những năm 2008-2009, các mạng GSM bắt đầu yếu thế khi các nhà khai thác định hướng chuyển các thuê bao sang sử dụng công nghệ W-CDMA. Thị trường không dây toàn cầu sẽ phát triển tới hơn 2 tỷ rưỡi thuê bao. Các thuê bao ở châu Âu vẫn tiếp tục phát triển chậm rãi và sẽ dừng lại ở vùng Scandinavia (thị trường thông tin vô tuyến hoàn thiện đầy đủ đầu tiên trên thế giới) và Tây Âu. Trong khi Trung Quốc tiếp tục dẫn đầu toàn cầu về tổng số lượng thuê bao, tỷ lệ phát triển thuê bao tiếp theo thuộc về các khu vực khác của châu Á, nói riêng là vùng Nam Á, bao gồm cả Ấn Độ. Trong khi Trung Quốc bắt đầu phát triển chậm lại thì Ấn Độ được mong đợi là quốc gia đột phá giai đoạn khủng hoảng và trở thành động lực đáng kể cho sự phát triển thuê bao toàn cầu (In-Stat/MDR, 2004b).

HƯỚNG TỚI THỊ TRƯỜNG LỚN TIẾP THEO

Vượt qua hàng rào thường thấy ở nhiều quốc gia là sự bùng nổ các dịch vụ trả trước, loại dịch vụ đã đưa thông tin di động đến với hàng triệu thuê bao có thu nhập thấp tại châu Âu, kích hoạt một lần, không phí thuê bao tháng và không phải kiểm tra thẻ tín dụng. Ví dụ tại châu Mỹ La-tinh, số lượng thuê bao đã tăng gấp 3 lần, từ chưa đầy 40 triệu thuê bao năm 1999 tới hơn 118 triệu thuê bao năm 2004, với tỷ lệ 1/5 dân số có máy di động và trở thành thị trường có giá trị 20,4 tỷ đô la Mỹ. Trong năm 1995, chưa đầy 2% dân số tại phần lớn các nước Mỹ La-tinh có máy di động, sau khi dịch vụ trả trước ra đời thì con số này đã nhảy vọt lên tới 29% ở Vê-nê-zu-ê-la và 48% ở Chi-lê. Bất chấp sự suy giảm kinh tế, Vê-nê-zu-ê-la có tốc độ phát triển thuê bao di động đứng thứ hai tại châu Mỹ La-tinh sau Chi-lê. Tuy nhiên các nước có tiềm lực kinh tế như Mê-hi-cô và Bra-xin thì có số lượng thuê bao nhiều nhất (Ellsworth, 2004).

Cùng với sự xuất hiện của thị trường và sự chuyển đổi kinh tế, trong những năm gần đây chỉ nói riêng nước Nga chúng ta đã thấy có sự tăng trưởng số lượng thuê bao một cách đáng ngạc nhiên. Thị trường điện thoại di động của Nga đã đạt tới hơn 187 triệu máy trong năm 2003, theo như IDC là tăng hơn 88% so với năm 2002. Các công ty kinh doanh máy điện thoại di động đạt doanh số kỷ lục 2,4 tỷ đô la Mỹ, trong đó Siemens chiếm 23% thị phần còn Motorola ở vị trí thứ hai với 22%.

Tại thời điểm tháng 7 năm 2004, Nga có tới hơn 53 triệu thuê bao di động. Và chỉ trong vòng 1 tháng, các nhà cung cấp dịch vụ đã thu hút thêm hơn 3 triệu thuê bao di động mới, nâng tỷ lệ máy điện thoại di động lên 36.6%. Bắt đầu từ Moscow, các nhà cung cấp dịch vụ đã tập trung cao độ. Ba nhà cung cấp dịch vụ hàng đầu là MTS, VimpelCom và MegaFon, mỗi công ty có khoảng hơn 47 triệu thuê bao chiếm khoảng 85-90% thị phần. Không ai trong số các nhà cung cấp còn lại chiếm giữ hơn 3% thị phần. Số lượng các thuê bao di động dự tính đạt tới 56 – 60 triệu vào năm 2004, tương đương với hơn 1 triệu thuê bao mỗi tháng, nhưng tỷ lệ gia tăng cũng suy giảm từ 100% trong vòng hai năm trước xuống còn 60%. Cũng bằng các thống kê như trên, doanh thu trên mỗi thuê bao (ARPU) được nhìn nhận là giảm xuống.

Lý tưởng mà nói, tiếp theo “thị trường lớn tiếp theo” sẽ là những quốc gia đông dân, có thu nhập bình quân đầu người cao và sự tăng trưởng tương đối thấp. Cả Trung Quốc và Ấn Độ đều có hơn 1 tỷ dân, thu nhập bình quân cao tại những vùng đô thị hiện đại. So sánh với Trung Quốc và Ấn Độ, thị trường triển vọng lớn tiếp theo không thật sự ấn tượng cho dù có sự tăng trưởng bùng nổ. Không một quốc gia nào có quy mô tương đương. Trong năm 2004, Bra-xin, Mê-hi-cô và Thái Lan có những dấu hiệu tăng trưởng tương đối mạnh mẽ, thậm chí mỗi quốc gia có độ triển khai công nghệ vào khoảng 30%. Trong giai đoạn 1998 đến 2003, Ni-giê-ri-a và Ai Cập có tốc độ tăng trưởng cao nhất (lần lượt là 175% và 130%) nhưng các chỉ tiêu khác thì không đạt yêu cầu (xem bảng 1.2).

Những thách thức mới

Người ta thường thừa nhận rằng các công ty nằm ở ngoại vi của thị trường toàn cầu không thể cạnh tranh với những người khổng lồ được thành lập tại châu Âu, Nhật Bản và Hoa Kỳ. Các công ty đến từ các nước đang phát triển đã tham gia cuộc chơi quá muộn; họ không có nguồn lực. Năm 2003, các nhà cung cấp thiết bị di động đã nhận ra rằng những thừa nhận kiểu truyền thống ấy không còn đúng nữa.


 

Giang Vi

Tôi là một người yêu sách cuồng nhiệt và đã hơn 20 năm. Tôi dành cả ngày để đọc, viết blog về sách và viết bình luận. Tôi tin rằng sách là công cụ mạnh mẽ nhất trong cuộc sống để mở mang đầu óc cho những ý tưởng và quan điểm mới. Các thể loại yêu thích của tôi bao gồm tiểu thuyết lịch sử, giả tưởng, khoa học viễn tưởng và phi hư cấu. Tôi cũng thích tìm hiểu về các nền văn hóa khác nhau thông qua văn học.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts:

Back to top button