Kinh doanh - đầu tư

Chiếc Lexus Và Cây Ô Liu


Chiec lexus va cay oliu1. THÔNG TIN SÁCH/EBOOK

Tác giả : Thomas L. Friedman

Download sách Chiếc Lexus Và Cây Ô Liu ebook PDF/PRC/EPUB/MOBI. Tải miễn phí, đọc online trên điện thoại, máy tính, máy tính bảng.

Danh mục : SÁCH KINH DOANH – ĐẦU TƯ

Đọc thử Xem giá bán

2. DOWNLOAD

File ebook hiện chưa có hoặc gặp vấn đề bản quyền, Downloadsach sẽ cập nhật link tải ngay khi tìm kiếm được trên Internet.

Bạn có thể Đọc thử hoặc Xem giá bán.

Bạn không tải được sách ? Xem hướng dẫn nhé : Hướng dẫn tải sách


3. GIỚI THIỆU / REVIEW SÁCH

LỜI MỞ ĐẦU: THẾ GIỚI 10 NĂM TUỔI

Thật bực mình – chúng ta không có việc gì để làm ở Nga hay châu Á. Chúng ta chỉ

có thể kinh doanh cỏn con trong phạm vi quốc gia để cố gắng tăng trưởng nhưng

chúng ta bị ngăn cản bởi cách mà các chính phủ điều hành quốc gia.

– Douglas Hanson, Giám đốc điều hành công ty Rocky Mountain Internet đã nói

như vậy trên Tạp chí phố Wall sau cuộc khủng hoảng tài chính dây chuyền năm

1998 buộc công ty của ông phải hoãn việc phát hành đợt trái phiếu vô danh trị giá

175 triệu USD.

Rạng sáng ngày 8/12/1997, chính phủ Thái Lan tuyên bố đóng cửa 56 trên tổng số

58 công ty tài chính hàng đầu. Chỉ qua một đêm, các ngân hàng tư nhân này đã rơi

vào tình trạng phá sản do sự mất giá của đồng nội tệ (đồng Bath). Các công ty tài

chính vay một lượng lớn tiền bằng đồng đô la Mỹ và sau đó cho các doanh nghiệp

Thái vay lại để xây dựng khách sạn, văn phòng, những toà địa ốc sang trọng và các

nhà máy. Tất cả họ đều nghĩ rằng mình được an toàn bởi chính phủ đã cam kết giữ

chặt tỷ giá cố định giữa đồng Baht và đồng đô la Mỹ. Tuy nhiên khi chính phủ

không làm được điều đó, tiếp sau đó là các hoạt động đầu cơ được thực hiện chống

lại đồng Bath thì các giới thương nhân hiểu rằng nền kinh tế của họ không hề khoẻ

mạnh như họ vốn nghĩ. Đồng nội tệ đã giảm tới 30%. Điều này có nghĩa là giới kinh

doanh vay bằng đồng đô la sẽ phải trả nhiều hơn 30% giá trị đồng Bath cho mỗi

một đồng vốn vay. Nhiều công ty không còn khả năng trả nợ cho các công ty tài

1

chính, các công ty tài chính không thể trả nợ cho các chủ nợ nước ngoài và kết quả

là toàn bộ hệ thống rơi vào khủng hoảng, khiến 20.000 nhân viên văn phòng mất

việc làm. Một ngày sau đó, tôi lái xe tới một cuộc hẹn ở Băng Cốc, phố Asoke –

được ví như là phố Wall của Thái Lan, nơi mà hầu hết các công ty tài chính phá sản

đóng trụ sở. Chúng tôi chầm chậm lái xe qua từng công ty chứng khoán và trái

phiếu Mêhicô, để tiền dưới mỗi tấm nệm hoặc két an toàn để họ có thể tìm thấy. Sự

sụp đổ của thị trường Braxin và bất kỳ thị trường mới nổi nào khác gây ra phản ứng

dây chuyền đối với cả trái phiếu kho bạc Mỹ. Ngược lại, sự gia tăng giá trị của trái

phiếu kho bạc Mỹ khiến cho lãi suất mà chính phủ Mỹ đưa ra để thu hút các nhà

đầu cơ giảm xuống đồng thời làm tăng giá trái phiếu của Mỹ và trái phiếu khác

cũng như sự tăng giá trên những thị trường trái phiếu mới nổi.

 

Sự sụt giá quá mạnh của trái phiếu Kho bạc Mỹ cũng tạo ra phản ứng dây chuyền

làm tê liệt hoạt động của các quỹ phòng ngừa rủi ro và các ngân hàng đầu tư. Ví dụ

như trường hợp Công ty quản lý vốn dài hạn LTCM đóng tại Greenwich,

Connecticut. LTCM là công ty mẹ của tất cả các quỹ phòng ngừa rủi ro. Do nhiều

quỹ phòng ngừa bắt đầu tham gia vào thương trường cuối những năm 80 nên cạnh

tranh trong khu vực này khá gay gắt. Mọi người đều chộp lấy cơ hội. Để kiếm được

tiền trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt như vậy, các quỹ phòng ngừa đã phải đánh

cuộc may rủi. LTCM đã nhờ tới 2 nhà kinh tế học đoạt giải thưởng Nobel, những

người đã chỉ ra rằng sự lên xuống của chứng khoán và trái phiếu có thể dự đoán

được từ trong quá khứ. Với việc sử dụng mô hình máy tính và vay từ nhiều ngân

hàng khác nhau, LTCM đã đặt cược 120 tỷ USD vào trò chơi may rủi với hy vọng

rằng giá của các loại trái phiếu lớn sẽ tăng giá vào mùa hè 1998. LTCM đánh cược

rằng giá trái phiếu Kho bạc Mỹ sẽ giảm và giá của các loại trái phiếu vô danh và

trái phiếu của các thị trường mới nổi khác sẽ tăng. Tuy nhiên mô hình máy tính của

LTCM chưa bao giờ dự đoán sự kiện nào có ảnh hưởng toàn cầu tương tự nên

không lường được sự sụp đổ của Nga hồi tháng 8. Kết quả là LTCM thua cuộc. Khi

toàn bộ thế giới đầu tư rơi vào khủng hoảng và đổ dồn tìm mua trái phiếu Mỹ, giá

loại trái phiếu này đã tăng mạnh thay vì sụt giảm trong khi giá của các loại trái

phiếu khác lại giảm thay vì tăng. LTCM giống như một cái xương đòn chịu tác

động từ nhiều phía trừ phần gốc. Và đã phải nhờ tới sự giúp đỡ của các ngân hàng

để tránh tình trạng bán tống bán tháo toàn bộ số trái phiếu và chứng khoán đang

nắm giữ trong bối cảnh toàn thị trường tài chính thị trường lâm vào khủng hoảng

dây chuyền.

ĐỌC THỬ

Bây giờ chúng ta sẽ trở lại với câu chuyện của khu phố tôi. Đầu tháng 8/1998, tôi đã

đầu tư một khoản tiền vào ngân hàng Internet mới mở của một người bạn. Mệnh giá

cổ phiếu mới đầu là 14,5 USD/cổ phiếu sau đó đã tăng lên 27 USD. Tôi cảm thấy

như một giấc mơ. Nhưng sau sự kiện sụp đổ ở Nga và gây ra phản ứng dây chuyền,

giá cổ phiếu của công ty bạn tôi chỉ còn 8 USD. Tại sao lại như vậy ? Đó là vì ngân

hàng của anh ta giữ rất nhiều tài sản thế chấp. Với sự sụt giảm của lãi suất ở Mỹ,

mọi người đổ xô mô trái phiếu kho bạc Mỹ. Nhiều người đã lo ngại rằng mọi người

sẽ thanh lý tài sản thế chấp. Nếu quả thực mọi sự diễn ra như vậy, ngân hàng của

bạn tôi sẽ không đủ sức trang trải cho các khách hàng huy động vốn. Song trên thực

tế dự báo thị trường đã sai và giá cổ phiếu của công ty lại tăng dần. Đầu năm 1999,

một lần nữa tôi lại có cảm giác như đang sống trong mơ khi tập đoàn Amazon.com

Internet bắt đầu phát triển và chú ý tới cổ phiếu của ngân hàng bạn tôi, giá cổ phiếu

đã tăng rất mạnh. Giá của các loại cổ phiếu công nghệ khác mà chúng tôi có cũng

tăng mạnh. Nhưng một lần nữa điều này đã không kéo dài trước khi cả thế giới

muốn dự tiệc. Thời gian đó, thay vì sự sụp đổ của thị trường chứng khoán Nga là sự

sụp đổ của thị trường chứng khoán Braxin và các thị trường Mỹ, kìm hãm tốc độ

phát triển của cổ phiếu Internet.

 

Tôi theo dõi toàn bộ sự kiện này và tất cả điều mà tôi có thể nghĩ tới là phải mất

chín tháng sự kiện diễn ra ở phố Asoke mới ảnh hưởng tới phố tôi còn ảnh hưởng

của Amzon Braxin (Amazon.country) tới Amazon.com chỉ diễn ra trong vòng 1

tuần. Tờ báo Nước Mỹ ngày nay (USA Today) đã tổng kết về thương trường thế

giới thời điểm cuối năm 1998 bằng một câu rất chính xác : “Khủng hoảng lan sang

lục địa này sau khi diễn ra ở lục địa kia giống như sự lay lan của virus. Các thị

trường Mỹ phản ứng ngay lập tức…. Trong tiệm cắt tóc người ta cũng bàn luận về

đồng Baht của Thái Lan”.

 

Nếu không đề cập tới vấn đề nào khác thì chỉ riêng câu chuyện từ phố Asoke tới

phố tôi và từ Amazon.country tới Amazon.com cũng đủ để tôi và nhiều người khác

nghĩ về thế giới ngày nay. Hệ thống Chiến tranh lạnh chậm chạp, kiên cố, chia cắt

thống trị thương mại quốc tế từ năm 1945 dần dần được thay thế bằng một hệ thống

mới thông suốt, kết nối toàn cầu mà chúng ta gọi là toàn cầu hoá. Tất cả chúng ta

đang ở trên cùng một dòng sông. Nếu không hiểu rõ bối cảnh của năm 1989 khi bức

tường Berlin sụp đổ thì đảm bảo rằng một thập kỷ sau đó chúng ta đã am hiểu tường

tận. Quả thực, ngày 11/10/1998, khi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu lên đến

 

3

đỉnh điểm, Merrill Lynch đã đăng một bài quảng cáo đầy trang trên các tờ báo lớn

trên toàn nước Mỹ với tiêu đề : “Thế giới mười năm tuổi”.

 

Đó là thế giới được khai sinh sau khi bức tường Berlin sụp đổ năm 1989. Không ai

ngạc nhiên về một nền kinh tế còn quá non trẻ mới phôi thai-nền kinh tế toàn cầu.

Những thăng trầm, kiểm nghiệm đã chứng tỏ rằng sự ổn định của các nền kinh tế

tuỳ thuộc vào thời gian. Nhiều thị trường trên thế giới mới chỉ mở cửa tự do gần

đây, trước đây bị thống trị bởi ý muốn chủ quan của con người chứ không phải của

nhà nước. Từ nơi chúng ta ngồi, một thập niên trước đây, không ai thôi dự đoán về

sự sụp đổ của một thế giới không tường chắn. Song, sự phát triển của các thị

trường tự do và dân chủ trên toàn thế giới cho phép mọi người ở bất cứ nơi nào

cũng có thể kỳ vọng vào những thành công trong tương lai. Và công nghệ phát triển

trở thành sức mạnh, không chỉ xoá bỏ ranh giới về mặt địa lý mà còn xoá bỏ những

ngăn cách giữa mọi người. Dường như sau 10 năm, thế giới tiếp tục hứa hẹn nhiều

điều mới. Và không ai có thể nói rằng tăng trưởng là dễ dàng.

 

Quả thực, bài báo của Merill Lynch đã đúng phần nào khi cho rằng toàn cầu hoá đã

tròn 10 tuổi. Vì từ giữa thập kỷ 1800 đến 1920, thế giới cũng đã từng trải qua thời

kỳ toàn cầu hoá. Nếu so sánh khối lượng thương mại và dòng vốn chảy giữa các

quốc gia với GNP và dòng lao động di cư với dân số, quá trình toàn cầu hoá trước

Thế chiến lần thứ 1 gần giống với những gì mà chúng ta đang sống hôm nay.

Vương quốc Anh, sau đó thống trị toàn cầu, là nhà đầu tư lớn nhất vào những thị

trường mới nổi. Những tư bản kếch xù ở Anh, châu Âu và Mỹ thường bị đánh bại

bởi các cuộc khủng hoảng tài chính, châm ngòi bằng sự kiện trái phiếu đường sắt

Argentina hay trái phiếu chính phủ Latvia, trái phiếu chính phủ Đức. Không có sự

kiểm soát tiền tệ và vì thế năm 1866 tuy không có cáp xuyên Đại Tây Dương song

những cuộc khủng hoảng tài chính và ngân hàng ở NewYork cũng nhanh chóng ảnh

hưởng tới Luân Đôn hay Paris. Tôi đã từng có lần nói chuyện với John Monks,

người đứng đầu Liên đoàn thương nghiệp Anh, AFLCIO của Anh, người đã cho

rằng chương trình nghị sự của Quốc hội lần thứ nhất TUC ở Manchester, Anh năm

1868 có nhiều vấn đề cần thảo luận:” Điều cần thiết là phải giải quyết vấn đề cạnh

tranh ở các nước thuộc địa châu Á” và “Cần phải học tập các tiêu chuẩn giáo dục và

đào tạo của Mỹ và Đức”. Vào thời điểm đó, đã xảy ra hiện tượng di dân nhiều hơn

chúng ta nghĩ và trong thời kỳ chiến tranh, trước 1914, các nước không yêu cầu

phải có hộ chiếu khi đi du lịch. Những người dân di cư sang Mỹ mà không cần phải

có visa. Khi bạn gắn kết các nhân tố lại với nhau cùng với những phát minh sáng

 

4

chế tầu thủy chạy bằng hơi nước, điện báo, đường sắt và cuối cùng là điện thoại bạn

có thể nói rằng kỷ nguyên đầu tiên của toàn cầu hoá trước chiến tranh thế giới lần

thứ nhất đã thu hẹp thế giới từ rộng lớn thành một thế giới quy mô vừa.

 

Kỷ nguyên đầu của toàn cầu hoá và chủ nghĩa tư bản tài chính thế giới đã bị phá vỡ

bằng cuộc cách mạng tháng 10 Nga và sự sụp đổ của chủ nghĩa đế quốc. Thế giới

được phân chia lại. Còn việc phân chia lại thế giới sau Thế chiến II không thực hiện

được vì chiến tranh lạnh. Chiến tranh lạnh cũng là một hệ thống quốc tế, kéo dài từ

1945 đến 1989 khi bức tường Berlin sụp đổ và thay hệ thống này bằng một hệ thống

mới : kỷ nguyên mới của toàn cầu hoá mà chúng ta đang sống “Toàn cầu hoá lần

II”. Như vậy kể từ lúc mới khai sinh, toàn cầu hoá bị gián đoạn 75 năm bắt đầu

bằng Chiến tranh thế giới thứ nhất và kết thúc bằng Cuộc chiến tranh lạnh.

Có rất nhiều điểm giống nhau giữa quá trình toàn cầu hoá trước đây và quá trình

toàn cầu hoá mà chúng ta đang sống hiện nay. Điểm mới có chăng chỉ là quy mô và

cường độ toàn cầu hoá. Và cái mới nữa là số lượng người và số nước tham gia vào

quá trình toàn cầu hoá cũng như chịu ảnh hưởng của quá trình này. Toàn cầu hoá

trước 1914 có vẻ như diễn ra với cường độ khá mạnh nhưng không có sự tham dự

của các nước đang phát triển. Quy mô của toàn cầu hoá trong thời gian đó cũng lớn

hơn song không mạnh như ngày nay. Năm 1900, giao dịch ngoại hối hàng ngày lên

tới hàng triệu đôla. Trong khi đó, theo Cục dự trữ liên bang NewYork, năm 1992

con số trên đạt 820 tỷ USD, tháng 4/1998 là 1,5 nghìn tỷ USD mỗi ngày và còn tăng

nữa. Thập kỷ vừa qua, chỉ tính riêng cho vay quốc tế của các ngân hàng trên toàn

thế giới đã tăng lên gấp đôi. Năm 1900, dòng vốn tư nhân chảy từ các nước phát

triển sang các nước đang phát triển tính bằng hàng trăm triệu đô la và chỉ một số ít

nước tham gia vào quá trình luân chuyển vốn này. Theo thống kê của IMF, chỉ tính

riêng năm 1997, dòng đầu tư từ các nước phát triển sang các thị trường mới nổi đạt

215 tỷ USD. So với kỷ nguyên toàn cầu hoá trước đây, kỷ nguyên toàn cầu hoá

ngày nay diễn ra mạnh mẽ hơn.

 

Toàn cầu hoá ngày nay không chỉ khác về mức độ mà còn khác về dạng thức. Theo

tạp chí Nhà kinh tế (The Economists), toàn cầu hoá trước đây được xây dựng bằng

việc cắt giảm chi phí vận chuyển. Nhờ những sáng kiến, phát minh đường xe lửa,

tàu thủy chạy bằng hơi nước và ô tô, mọi người có thể đi đến mọi nơi và các giao

dịch thương mại diễn ra cũng nhanh, rẻ hơn. Còn toàn cầu hoá ngày nay được xây

dựng với việc cắt giảm chi phí viễn thông nhờ vi mạch, vệ tinh, cáp quang và

internet. Những công nghệ mới này có thể kết nối thế giới chặt hơn. Công nghệ mới


Giang Vi

Tôi là một người yêu sách cuồng nhiệt và đã hơn 20 năm. Tôi dành cả ngày để đọc, viết blog về sách và viết bình luận. Tôi tin rằng sách là công cụ mạnh mẽ nhất trong cuộc sống để mở mang đầu óc cho những ý tưởng và quan điểm mới. Các thể loại yêu thích của tôi bao gồm tiểu thuyết lịch sử, giả tưởng, khoa học viễn tưởng và phi hư cấu. Tôi cũng thích tìm hiểu về các nền văn hóa khác nhau thông qua văn học.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts:

Back to top button