Hồi ký - danh nhân

Đời viết văn của tôi

doi viet van cua toi1. THÔNG TIN SÁCH/EBOOK ĐỜI VIẾT VĂN CỦA TÔI

Tác giả : Nguyễn Hiến Lê

Download sách Đời viết văn của tôi ebook PDF/PRC/MOBI/EPUB. Tải miễn phí, đọc online trên điện thoại, máy tính, máy tính bảng.

Danh mục : SÁCH HỒI KÝ – DANH NHÂN

Đọc thử Xem giá bán

2. DOWNLOAD

Định dạng PDF                  Download

Định dạng PRC                  Download

Định dạng EPUB                Download

Bạn không tải được sách ? Xem hướng dẫn nhé : Hướng dẫn tải sách


3. GIỚI THIỆU / REVIEW SÁCH

Đời viết văn của tôi (ĐVVCT), theo như cụ Nguyễn Hiến Lê cho biết trong Lời mở đầu, gồm những đoạn, những chương được tách ra từ bộ Hồi kí (HK) và cụ cũng thêm “đó đây ít hàng hoặc một đoạn” để nối những đoạn, chương rải rác đó. Nhờ những đoạn nối đó mà ta biết thêm một số chi tiết mà cụ không nói trong HK. Chẳng những vậy, trong những đoạn chép lại cụ cũng ghi thêm một vài chi tiết khác nữa như lời cụ còn bảo: “Tôi đã bỏ nhiều đoạn nhưng cũng thêm nhiều chi tiết”. Ngoài ra, trong các đoạn chép lại đó ta còn thấy một số chi tiết chỉ in trong ĐVVCT, còn trong bản HK của nhà xuất bản Văn học (năm 1993) thì không có, như đoạn sau đây (trong tiết Không để phí thì giờ, chương Nhờ đâu tôi viết được nhiều): “Viết mấy hàng này tôi bùi ngùi điểm lại những bạn văn đó thì già nửa đã không còn ở trên đất Việt mà những bạn còn lại cũng không ai được vui. Thật là ‘vạn sự tan như mây khói’.” (trang 140-141). Tôi đoán rằng trong bản thảo bộ HK cũng có đoạn này, nhưng Ban biên tập của nhà Văn học cho rằng đoạn đó “rườm rà” hoặc “không thể nào để lại được” nên đã lược bỏ? (trang 381).

Chẳng những thêm bớt, có đôi chỗ cụ “bố cục” lại, như đoạn trích một bài viết của ký giả Lô Răng về Giải Tuyên dương sự nghiệp… đăng trên báo Tiền Tuyến, đoạn này vốn được đặt trong phần Phụ lục trong HK, nhưng trong ĐVVCT cụ lại cho vào chương Bạn văn. Có đôi chỗ cụ bỏ bớt “hư từ” như lời cụ bảo: “(…) khi sửa lại văn, thường xoá nhiều hơn là thêm. Nhất là những hư từ ở cuối câu, những tĩnh từ (adjectif) đặt sau một danh từ, nếu không thật cần thiết thì gạt bỏ không thương tiếc”. Rất tiếc là mấy chỗ cụ bỏ bớt hư từ đó, lúc đánh máy tôi không đánh dấu nên nay cần tìm lại để dẫn chứng, tìm hoài mà mà không thấy.

Trong lúc gõ bộ ĐVVCT này, tôi thường đối chiếu trong bộ HK để chỉnh sửa lại các chỗ in sai mà hầu hết những chỗ chỉnh sửa lại đó, để khỏi rườm, tôi đã không chú thích. Tuy nhiên, có một số chữ tôi không sửa lại như ráng (sức), dần dần, kỹ (sư),(nước) Mỹ, chính (tả)… mặc dù trong Hồi Kí (và nhiều tác phẩm khác của cụ NHL) in là rán (sức), lần lần, kĩ (sư), (nước) Mĩ, chánh (tả)… Tuy nhiên, các chữ Ký trong cặp từ Hồi Ký tôi đều sửa lại thành (Hồi) Kí.

Có một vài chỗ cả hai bộ đều in giống hệt nhau nhưng tôi ngờ rằng cụ NHL đã ghi không đúng. Ví dụ như khi nhắc đến cuốn Đế Thiên Đế Thích, cụ NHL viết: “Tôi mang theo cuốn Guide Groslier rồi lên xe đò đi Nam Vang”, nhưng trong cuốn Đế Thiên Đế Thích, cụ bảo rằng lúc đi thăm Siemreap cụ đã “…hỏi mua cuốn Guide Groslier mà không có, đành mượn của anh T.”. Vì cuốn Đế Thiên Đế Thích được viết ngay sau khi đi du lịch về, nên tôi tin những điều cụ ghi lại trong cuốn đó hơn. Mặc dù trong HK và cả trong ĐVVCT, cụ có trích lại một đoạn trong Đế Thiên Đế Thích, nhưng tôi đoán là cụ không đọc lại hết cuốn Đế Thiên Đế Thích nên cụ viết câu “Tôi mang theo cuốn Guide Groslier rồi lên xe đò đi Nam Vang” là dựa vào trí nhớ. Các tác phẩm của cụ (sách báo đã in và cả những bài cụ cho là không đáng in nữa) quá nhiều, thì làm sao cụ có đủ thì giờ mà đọc lại hết, chỉ riêng những tác phẩm được cụ nhắc lại trong HK thôi cũng không phải là ít; mà viết theo trí nhớ thì hẳn là có đôi chỗ, như câu dẫn trên, tôi ngờ rằng cụ đã nhớ sai, như lời cụ bảo trong Lời nói đầu trong bộ HK: “Có nhiều chỗ tôi vô tình sai sự thật (…), lỗi ở kí tính con người: nó bị tình cảm sai khiến, lại thêm tuổi 70 như tôi có suy giảm nhiều rồi”.

Trong khoảng thời gian gõ bộ ĐVVCT này, tôi mua được một số sách của cụ NHL, trong đó có cuốn Vài lời ngỏ với bạn trẻ. Cuốn này vốn là tập Mười tám câu chuyện thời sự, Nxb Văn học lược bỏ sáu “câu chuyện” rồi lấy nhan đề một “câu chuyện” tức bài báo đăng trên tờ Phù Đỗng Thiên Vương là Vài lời ngỏ với bạn trẻ làm nhan đề cho tuyển tập này.

Trích dẫn :

Học với cha, bác và thầy[2]

Cha tôi (huý Nguyễn Văn Bí – hiệu Đặc Như – sinh năm Đinh Hợi 1887, mất năm Canh Thân – 1920) giữ được truyền thống của tổ tiên mấy đời trước, săn sóc sự học của con rất chu đáo. Người dạy vỡ lòng chữ Hán cho tôi, tôi không nhớ vào hồi mấy tuổi, cũng không nhớ trong bao lâu, chỉ đoán vào khoảng một năm rưỡi.

Người mua cho tôi mấy cái thẻ bằng gỗ rộng chừng năm phân, dài chừng ba tấc, trên mặt khắc chìm những chữ Hán dễ, lớn như chữ: thiên, trung, lập, môn… Tôi dùng một cây bút lông chấm vào nước lã rồi tô những chữ đó. Như vậy ít lâu cho quen tay rồi mới tập viết phóng. Những thẻ bằng gỗ đó hình như không thông dụng, tôi không thấy ở các nhà khác. Ngày nào tôi cũng phải trả bài, hễ còn ngắc ngứ thì phải học lại cho thuộc kỹ rồi mới được đi chơi. (ch. III, tức chương III trong bộ Hồi Kí – sau cũng vậy).

Sau người dạy cho tôi chữ Quốc ngữ và bốn phép toán rồi nhờ một thầy ký có bằng cấp Tiểu học Pháp-Việt dạy cho tôi vần Tây. Đầu năm 1920, giữa niên học, người xin cho tôi vô lớp Dự bị (Préparatoire) trường Yên Phụ, Hà Nội. Tháng 8 âm lịch, ngày 26 năm đó người mất. Hồi đó tôi 10 tuổi ta nhưng tính theo Tây mới được 8 năm rưỡi.

Thế là luôn 9, 10 năm, mãi đến năm 1927, vào năm thứ nhất trường Bưởi, tôi mới được học chữ Hán mỗi tuần một giờ. Nhờ được được cha tôi dạy, cho nên tôi trội hơn các bạn về Hán tự, mỗi bài độ 20-25 chữ, thì chỉ có dăm ba chữ tôi không biết, tôi viết đã “ngang bằng, sổ ngay” và không lầm thứ tự các nét. Thầy dạy là cụ Thẩm Quỳnh, cử nhân Hán học.

Mùa hè năm 1928, nghĩa là cuối năm thứ nhất (1ère année), mẹ tôi (huý Nguyễn Thị Sâm, sinh năm Bính Tuất – 1886) có một quyết định khiến đời tôi sau này theo một hướng mà chính người và các bác tôi không ai ngờ được. Ngày nay càng nghĩ lại, tôi càng thấy công lớn của người và không hiểu đã có cái gì khiến người nảy ra quyết định đó (có lẽ chỉ tại người là con nhà Nho và cũng trọng Nho học như cha tôi). Thời đó Nho học đã tàn tạ mà người xin bác Hai tôi (huý Cổn, tự là Đạo Quýnh), cho tôi về Phương Khê (quê bên nội thuộc phủ Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây), ở trong dịp hè để nhờ bác tôi dạy chữ Nho cho, mà “sau này đọc được gia phả bên nội, bên ngoại, chứ không lẽ con cháu nhà Nho mà không biết gốc gác ông bà.” Muốn cho con cháu biết gốc gác ông bà thì bác tôi chỉ cần viết lại gia phả bằng Quốc ngữ, chứ cần gì phải dạy tôi chữ Hán. Thâm ý của mẹ tôi là muốn cho tôi biết đạo Nho, giữ được truyền thống của nhà Nho chăng? Vậy là từ đó trong hai mùa hè liên tiếp, tôi về Phương Khê hai tháng, trước kia chỉ về chơi một tuần hay nửa tháng (ch. VI).

(…) Bác tôi năm đó còn làm thầy đồ, sáng nào cũng dạy khoảng 20 học trò từ 25 tuổi trở xuống đến 9-10 tuổi[3] (Từ 6 sáng đến khoảng 10 giờ thì xong, nghỉ trưa, chiều mới dạy riêng cho tôi).

Năm đầu, người cho tôi học bộ Ấu học Hán tự tân thư, cuốn thứ tư, rồi năm sau cho tôi học bộ Việt sử, chắc cũng trong loại tân thư nữa. Tôi chép lại trong một tập giấy Tây bằng bút sắt và mực Tây[4] bài học trong sách rồi bác tôi giảng nghĩa cho (Cũng như cụ Thẩm Quỳnh, người không hề cho biết ngữ nguyên của mỗi chữ, ngữ pháp, cách dùng các hư tự chi, hồ, giả, dã…). Tôi chỉ cốt học để “đọc được gia phả”, không làm văn thơ, nên không cần học thuộc lòng, không cần biết cách đặt câu, chỉ cần nhớ mặt chữ và nghĩa là được rồi.

Bài đầu dài độ 70 chữ về đạo tu thân, rồi lần lần bài dài hơn, cuối vụ hè tôi đã học những bài từ 200 đếm 300 chữ. Mỗi bài bác tôi giảng chừng 20 câu, có những chữ tôi biết rồi nhưng cũng giảng thêm. Chẳng hạn bài đầu có chữ thanh là trong, bác tôi cho biết thêm nghĩa nữa là xong, như sự thanh là việc xong rồi, và chỉ cho tôi những từ thanh bạch, thanh bình, thanh tĩnh, thanh minh, thanh khiết, hoàng các thanh phong. Vậy là do một chữ mà tôi biết thêm được ít nhiều chữ khác, lợi hơn với cụ Thẩm Quỳnh.

Tôi còn giữ tập chữ Hán năm đó, tất cả được 61 bài. Bài cuối có câu: “Người đi học ngày nay nên mài bỏ hai chữ khoa cử đi, phóng mắt nhìn đại dương tìm bờ bến, đừng nhận lầm lưng cá là bờ”. Vậy bộ đó là do một số nhà Nho tiến bộ soạn sau phong trào Đông Kinh nghĩa thục. Năm 1960 đọc lại, tôi thấy đã quên một số chữ như thuỷ mẫu[5] là con sứa và tôi mới biết du thuyết, thuyết khách, đúng ra phải đọc là du thuế, thuế khách.

Những bài luân lý trong tập Ấu học đó không có gì hấp dẫn, nhưng thường trích những câu của Khổng, Mạnh như bài đầu có câu: “Khổng Tử viết: Thanh tư trạc anh, trọc tư trạc túc” (Khổng Tử nói: Nước trong thì nước dùng để giặt giãi mũ, nước đục thì dùng để rửa chân)[6]; lại thêm thỉnh thoảng bác tôi cũng cao hứng chép cho tôi một câu thơ như: “Nhất kỵ hồng trần Phi tử tiếu, vô nhân tri thị lệ chi lai”[7] tả nỗi mừng của Dương Quý Phi khi thấy trong đám bụi đỏ một người phi ngựa chở trái vải ở Quảng Đông về kinh cho nàng; hoặc câu “Lê hoa nhất chi xuân đái vũ”[8] (mà Nguyễn Du trong Kiều dịch thoát là: Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa) để tả một người đẹp giọt ngắn giọt dài. Nhờ vậy mà tôi biết được chút ít về cổ học.

Thời đó, tôi ham biết văn thơ Trung Quốc, nghe những tên như Văn Tâm điêu long, Chiêu Minh văn tuyển, Tiền Xích Bích phú, Qui khứ lai từ là trong lòng vang lên một điệu trầm trầm như nhớ nhung cái gì, nhưng khi gợi ý với bác tôi thì người gạt đi: “Cháu học tiếng Tây mà muốn biết những cái đó làm gì? Phải tốn công mười năm đèn sách mới hiểu được mà cái học Nho bây giờ đã thành vô dụng rồi. Thím Tư (tức mẹ tôi) muốn cho cháu về đây học bác để sau này đọc được gia phả bên nội bên ngoại, bác nghĩ như vậy là phải, còn văn thơ cổ nhân thì thôi, thôi đi. Để sức mà tìm hiểu khoa học, cháu”. Đó là tâm trạng chung các nhà Nho thời đó. Các cụ thấy cái hại của thứ văn chương “tám vế”, thấy tụi “bạch quỷ” chiếm được nước mình chỉ nhờ tàu chiến của họ mạnh, súng ống của họ tốt, nên chỉ muốn cho con cháu chuyên học kỹ thuật phương Tây để sau vượt họ mà đập lại họ như Nhật Bản năm 1905.

Các cụ mài bỏ hai chữ khoa cử rồi, muốn tẩy xoá luôn cả văn thơ Trung Quốc.

Học chữ Hán như vậy thì mỗi ngày tôi chỉ mất độ hai giờ, kể cả công chép bài. Nhớ được chữ nào thì nhớ, bác tôi không ép. (ch. VI).


Giang Vi

Tôi là một người yêu sách cuồng nhiệt và đã hơn 20 năm. Tôi dành cả ngày để đọc, viết blog về sách và viết bình luận. Tôi tin rằng sách là công cụ mạnh mẽ nhất trong cuộc sống để mở mang đầu óc cho những ý tưởng và quan điểm mới. Các thể loại yêu thích của tôi bao gồm tiểu thuyết lịch sử, giả tưởng, khoa học viễn tưởng và phi hư cấu. Tôi cũng thích tìm hiểu về các nền văn hóa khác nhau thông qua văn học.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts:

Back to top button