Văn học nước ngoài

Chim Ó Biển


1. THÔNG TIN SÁCH/EBOOK

Tác giả : Rafael Sabatini

Download sách Chim Ó Biển ebook PDF/PRC/EPUB/MOBI. Tải miễn phí, đọc online trên điện thoại, máy tính, máy tính bảng.

Danh mục : VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI

Đọc thử Xem giá bán

2. DOWNLOAD

Download ebook                                         

File ebook hiện chưa có hoặc gặp vấn đề bản quyền, Downloadsach sẽ cập nhật link tải ngay khi tìm kiếm được trên Internet.

Bạn có thể Đọc thử hoặc Xem giá bán.

Bạn không tải được sách ? Xem hướng dẫn nhé : Hướng dẫn tải sách


3. GIỚI THIỆU / REVIEW SÁCH

Lời giới thiệu


Nói đến R.Sabatini, người ta thường coi ông là chàng hiệp sĩ cuối cùng của thể loại tiểu thuyết “áo choàng và thanh kiếm”. Lựa chọn cho mình đề tài sáng tác duy nhất – một thể loại văn học đã đến buổi hoàng hôn, Sabatini hầu như bị che khuất bởi ánh hào quang của các bậc tiền bối như Dumas, Scott. Ngày nay, có lẽ ít ai ngờ nổi ông là một trong những tác giả nổi tiếng và được hâm mộ nhất khi còn sinh thời, và những cuộc phiêu lưu do ngòi bút của ông viết ra không chỉ làm say mê bạn đọc mà còn gây cảm hứng rất lớn cho sự ra đời của hàng loạt phim điện ảnh về đề tài phiêu lưu cướp biển. Tên của Sabatini là một đảm bảo thành công về thương mại đến mức bất chấp nội dung khác hẳn, hai cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của ông The Sea Hawk và The Black Swan đã được đặt cho hai bộ phim khá nổi danh của Hollywood những năm 40. Ảnh hưởng của ông thậm chí còn kéo dài đến sau này, đến tận những năm 60. Tới mức khi bộ phim kiếm hiệp Pháp “Le capitan” được trình chiếu ở nước Anh, nhà phát hành đã công nhiên sửa tên phim thành “Captain Blood” để lôi kéo khán giả đến rạp.

Tuy thế, con đường đến với thành công của nhà văn mang trong mình hai dòng máu Italia và Anh này không hề dễ dàng. Sinh năm 1875 tại Italy, ông là con trai của hai ca sĩ opera, thậm chí còn là con ngoài giá thú. Đây có lẽ cũng là một lý do khiến sân khấu, các nghệ sĩ cũng như thân phận của những đứa con ngoài giá thú thường xuyên xuất hiện trong các câu chuyện của Sabatini. Thời gian dài học trường nội trú ở Thụy Sĩ, những năm theo cha mẹ đến Bồ Đào Nha, nơi hai người mở trường dạy thanh nhạc cuối cùng đã giúp Sabatini sử dụng thành thạo năm thứ tiếng và được tiếp xúc trực tiếp với con người, tập quán của nhiều nền văn hóa khác nhau. Nhưng ảnh hưởng sâu đậm nhất đến văn nghiệp của ông sau này có lẽ là thời gian sống cùng ông bà ngoại tại nước Anh. Có lẽ tình yêu từ tấm bé dành cho quê ngoại là một lý do khiến Sabatini tuyên bố “tất cả các câu chuyện hay nhất từ trước tới giờ đều viết bằng tiếng Anh” và chọn tiếng Anh làm ngôn ngữ sáng tác của mình. Năm 17 tuổi, cha của Rafael gửi chàng thanh niên tới nước Anh, nơi theo ông có nhiều cơ hội nhất để chàng trai lập nghiệp trong ngành thương mại. Thế nhưng Sabatini lại chọn nghiệp cầm bút. Bắt đầu từ những năm 90 của thế kỷ XIX, Rafael bắt đầu thử sức mình, đầu tiên với nghề viết kịch – một thất bại hoàn toàn, sau đó ông chuyển sang viết truyện ngắn nhưng cũng chỉ thu được những thành công hạn chế. Bắt đầu từ năm 1902, năm Sabatini cho ra đời tiểu thuyết phiêu lưu đầu tiên của mình “Người tình của Yvonne”, một cuốn sách chịu ảnh hưởng rất rõ của Dumas và tiểu thuyết Pháp, nhà văn dường như cuối cùng cũng đã tìm ra sở trường của mình. Ông tiếp tục trung thành với thể loại này tới cuối đời với tốc độ sáng tác đáng nể: gần như một đầu sách mỗi năm trong thời kỳ sung sức. Thế nhưng những tiểu thuyết đầu tiên của Sabatini ra đời trong giai đoạn trước Chiến tranh thế giới thứ nhất cũng chỉ thu hút được sự chú ý khá hạn chế của độc giả. Có lẽ vào thời kỳ tốt đẹp (Belle époque – 1894 – 1913) ấy, tại các nước châu Âu, và trước hết là nước Anh, những tiểu thuyết thuộc địa pha lẫn màu sắc chinh phục “khai hóa văn minh” với những bí ẩn nửa thực nửa hư như của H.R.Haggard phù hợp với khẩu vị người đọc hơn. Cuộc tàn phá khủng khiếp của Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918) làm người phương Tây nhận ra một cách kinh hoàng mặt trái của khoa học kỹ thuật, và người ta tìm cách quên đi vết thương chiến tranh còn rỉ máu bằng cách quay lại với những thời quá khứ xa xưa mà lúc đó trở nên thơ mộng, lãng mạn hơn bao giờ hết. Trong hoàn cảnh đó, cuốn tiểu thuyết lấy bối cảnh cách mạng Tư sản Pháp, Scaramouche (1921) trở thành một thành công quốc tế. Tên tuổi của Sabatini bắt đầu được biết đến rộng rãi, gần hai mươi năm sau khi ông bắt đầu cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình! Một năm sau, Captain Blood xuất hiện, được đón chào thậm chí còn nhiệt liệt hơn nữa. Chàng cướp biển kiêm thầy thuốc này đã được số phận lựa chọn để trở thành nhân vật được yêu thích nhất của Sabatini. Nói đến Sabatini bất cứ ai cũng nhớ ngay đến Blood, cũng như Doyle luôn đi liền với Sherlock Holmes vậy. Trong cơn nhiệt thành, một loạt tác phẩm trước đó của Sabatini cũng được tái bản lại, nhưng có lẽ chỉ có The Sea Hawk, cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông về đề tài cướp biển được xuất bản lần đầu năm 1915 và chẳng được mấy ai để ý đến, là có được thành công ngang ngửa với Captain Blood và Scaramouche. Thậm chí với nhiều độc giả trung thành của ông, đây mới là tác phẩm “hay nhất” của Sabatini. Sau những trang giấy đến lượt màn bạc. Ngay từ thời kỳ phim câm, The Sea Hawk (1924) đã được đưa lên màn ảnh lớn.

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Sabatini tiếp tục trung thành với thể loại yêu thích của ông, nhưng tuổi tác đã không cho phép ông giữ được nhịp viết của những năm sung sức. Sau cuốn tiểu thuyết cuối cùng The Gamers (1949) bệnh tật đã không cho phép ông tiếp tục cầm bút cho đến khi qua đời năm 1950.

Khác với những tiểu thuyết đăng dài kỳ trên báo có số lượng trang khổng lồ của Alexander Dumas hay nhiều nhà văn khác cuối thế kỷ XIX, các tiểu thuyết của Sabatini được viết với văn phong cô đọng hơn, hiện đại hơn. Thay vì nhiều đối thoại và tự sự, Sabatini dành cho nhân vật của mình nhiều thời gian hơn để hành động, có lẽ vì thế mà các câu chuyện của ông luôn rất “sống”, hành động luôn nối tiếp nhau không dừng từ đầu cho tới cuối câu chuyện.

Một chi tiết cũng rất thú vị mà một độc giả trung thành của ông đã nhận xét: các tiểu thuyết của Sabatini đều kết thúc giống nhau. Có lẽ phải gọi ông là người cung cấp những câu chuyện cổ tích cho phần trẻ thơ không bao giờ mất đi trong mỗi chúng ta. Cầm một cuốn sách của ông trên tay, bạn hãy yên tâm rằng cuối cùng bao giờ người anh hùng của chúng ta cũng chiến thắng và chinh phục được trái tim người đẹp. Cách kết truyện hầu như không thay đổi bằng cách cho giai nhân lao vào nép mình trong vòng tay anh hùng của Sabatini cũng khiến ông bị các nhà phê bình nghiêm túc đánh giá không cao. Nhưng biết làm thế nào được, bản thân thể loại mà ông theo đuổi sáng tác mục đích cũng chỉ là đem lại cho độc giả những phút giây thư giãn nhẹ nhàng.

Hay như chúng ta có thể mượn lời của Stevenson, khi ông nói đại ý rằng ông không mong gì hơn từ những tác phẩm của mình ngoài việc chúng có thể sưởi ấm trái tim của những người lữ hành bên đống lửa trại giữa rừng đêm. Nếu xuất phát với một cái nhìn cởi mở như vậy, người ta cũng có thể nói Sabatini đã thành công với những câu chuyện phiêu lưu đầy kịch tính và lãng mạn của ông. Lãng mạn nhưng không sướt mướt, đầy những chuyện đao kiếm, hận thù, nhưng cuối cùng người anh hùng của ông bao giờ cũng dừng bước khi kẻ thù ngã quỵ mà chọn cách báo thù cao thượng nhất: tha thứ – như người phương Tây thường nói “Báo thù thuộc về Chúa”.

ĐỌC THỬ

Chương 1KẺ SINH SỰ THUÊ

Ngài Oliver Tresilian ngồi trên chiếc ghế bành của mình trong gian phòng ăn có trần cao của tòa dinh thự kiểu cách, tài sản thừa hưởng từ người cha luôn đem tới cho chàng những hồi ức vừa đáng thương hại vừa đáng phàn nàn, cũng như từ tài năng và sự sáng tạo của một kiến trúc sư người Italia có tên Bagnolo, người đã đặt chân tới nước Anh khoảng nửa thế kỷ trước với tư cách là một trong các trợ lý của ngài Torrigiani lừng danh.

Bản thân tòa dinh thự, với vẻ đẹp độc đáo theo kiểu Italia duyên dáng, quá lạ lẫm trong một góc xó xỉnh hẻo lánh của vùng Cornwall, cũng đáng để chúng ta điểm qua một chút.

Anh chàng người Italia, Bagnolo, bên cạnh tài năng của một nghệ sĩ còn sở hữu tính cách nóng nảy, hay gây gổ, đã chẳng may giết chết một người trong lúc xô xát tại quán rượu ở Southwark. Kết quả là anh ta phải trốn khỏi thành phố, không dám dừng chân trong cuộc đào tẩu khỏi kết cục của vụ án mạng kia, cho đến khi đã chạy gần như tới nơi trời cùng đất kiệt của nước Anh.

Tôi không rõ anh ta đã làm quen với Tressilian cha trong hoàn cảnh nào, nhưng có thể thấy rõ đây là cuộc gặp gỡ định mệnh của cả hai người. Với kẻ đào tẩu, Ralph Tressilian – một người có vẻ luôn ưa thích đánh bạn với những gã du đãng đủ loại – đã cung cấp cho anh ta một nơi ẩn náu. Và Bagnolo đã trả ơn bằng cách xây dựng lại tòa dinh thự bằng gỗ đã đổ nát của Penarrow.

Bắt tay vào việc, anh ta đã dồn cả vào đó niềm say mê của người nghệ sĩ chân chính, để rồi tạo dựng cho ân nhân của mình một cơ ngơi xứng đáng được coi là kỳ quan nhỏ vào thời kỳ lạc hậu đó ở tỉnh trấn hẻo lánh này.

Trên nền đất cũ, dưới sự giám sát của người kiến trúc sư tài năng, một cộng sự xứng đáng với Quý ngài Torrigiani, mọc lên một dinh thự hai tầng quý phái bằng gạch đỏ, tràn ngập ánh sáng nhờ những khung cửa sổ rộng, cao từ sàn đến gần chấm trần nhà ở mỗi đầu hồi. Cửa chính được xây với cầu thang cuốn, bên trên là ban công lớn, trên cùng là một tầng mái được đỡ bằng những cây cột chạm trổ cực kỳ hài hòa, mà lúc này, một phần mái đã chìm dưới tấm thảm xanh của dàn cây leo. Phía trên mái ngói đỏ của tòa dinh thự là dàn ống khói thiết kế kiểu cách.

Nhưng niềm tự hào của Penarrow – tôi muốn nói đến tòa dinh thự mới đã được tạo ra từ bộ óc phong phú của Bagnolo – là khu vườn được thiết kế lại từ những rặng cây hoang đã từng bao quanh ngôi nhà cũ trước kia ở đỉnh ngọn đồi nằm trên mũi đất Penarrow. Bên cạnh công sức của Bagnolo, Thời gian và Thiên nhiên đã thêm vào phần đóng góp của mình.

Bagnolo đã tạo ra những khoảng sân xinh xắn, đã xây những hàng cột duyên dáng viền quanh ba khoảnh vườn cũng như những bậc thang nối chúng với nhau. Đích thân anh ta còn thiết kế các đài phun nước, cũng như tự tay tạc chiếc bồn bằng đá hoa cương, cùng với đó là khoảng một tá tượng thần đồng nội và tiên nữ bằng cẩm thạch màu trắng nổi bật trên nền xanh của cây cỏ. Nhưng Thời gian và Thiên nhiên đã giúp biến các bãi cỏ thành những tấm thảm mịn màng, xanh mượt, đã làm tán lá của những hàng cây cảnh tỉa khối tuyệt đẹp rậm rạp hơn và khiến những cây tùng đen phát triển, cao vút như những cây thương, hoàn tất vẻ Italia đặc trưng của khu dinh thự miền Cornwall này.

Ngồi trên chiếc ghế bành trong phòng ăn, Ngài Oliver ngắm nhìn phong cảnh xung quanh đang trải ra trước mắt. Dưới ánh nắng tháng Chín ấm áp, chàng thấy tất cả đều dễ chịu. Cuộc đời thật là đáng sống. Cho tới tận hôm nay, chẳng ai thấy được những nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng đến sự lạc quan của ngài, ngoài cảnh vật xung quanh. Nhưng Ngài Oliver có đến vài nguyên nhân như thế.

Nguyên nhân thứ nhất – cho dù bản thân Ngài Oliver còn xa mới ngờ đến – là những ưu điểm của chính con người chàng: trẻ tuổi, giàu có và tiêu hóa tốt. Nguyên nhân thứ hai là chàng đã tìm thấy cả danh tiếng lẫn vinh quang ở bờ biển miền Tân Thế giới1 thuộc Tây Ban Nha, cũng như trong cuộc công kích vào hạm đội Armada bất khả chiến bại – hay, nói một cách chính xác hơn, trong cuộc công kích vào hạm đội Armada tưởng chừng bất khả chiến bại – và kết quả là chàng đã vinh dự được Nữ hoàng phong tước Hiệp sĩ ở tuổi hai mươi lăm. Nguyên nhân thứ ba và cuối cùng góp phần tạo nên tâm trạng vui vẻ của chàng – tôi để nguyên nhân này lại sau cùng vì tôi cho rằng đây là vị trí vô cùng thích hợp cho yếu tố quan trọng nhất – là việc thần Tình Ái, trong một lần hiếm hoi, đã tỏ ra hoàn toàn vô hại và khéo thu xếp mọi chuyện để cuộc tỏ tình của Ngài Oliver với tiểu thư Rosamund Godolphin hoàn toàn thuận buồm xuôi gió.

1 Tân Thế giới là một tên gọi để chỉ châu Mỹ (bao gồm Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Trung Mỹ và Caribe cũng như các quần đảo xung quanh) được sử dụng từ thế kỷ XIV.

Ngài Oliver ngồi trên chiếc ghế dựa cao chạm trổ của mình với chiếc áo chẽn không cài cúc, chân duỗi dài thoải mái và nở một nụ cười tư lự trên cặp môi cương nghị lưa thưa một hàng ria mỏng. Lúc đó đã khoảng giữa trưa, chàng quý tộc của chúng ta mới vừa dùng bữa xong, thật dễ đoán khi thấy bát đĩa, thức ăn còn thừa và bình rượu đã vơi một nửa trên chiếc bàn trước mặt chàng. Chàng trầm ngâm rít từng hơi từ chiếc tẩu dài – vì chàng đang thực hành thói quen hút thuốc lá mới được du nhập – mơ màng nghĩ tới người yêu của mình, cảm thấy biết ơn số phận đã khéo phù trợ để chàng có được một tước hiệu và chút vinh quang bày dưới chân Rosamund của chàng.

Về bản chất, Ngài Oliver là một kẻ khôn ngoan (“ma mãnh bằng hai mươi con quỷ” theo như lời của Lãnh chúa Henry) và chàng cũng là người có vốn học vấn đáng kể. Nhưng xem ra vốn trí khôn sẵn có lẫn kinh nghiệm tích lũy được đều chưa dạy cho chàng biết rằng: Trong tất cả các vị thần quyết định số mệnh của loài người, không có vị nào lại láu lỉnh và ưa bỡn cợt như vị thần Tình ái mà chàng đang thầm cảm tạ trong lúc rít thuốc.

Người xưa biết cậu bé con luôn làm ra vẻ ngây thơ đó là một kẻ tàn bạo, ma mãnh và họ luôn nghi ngờ gã. Ngài Oliver xem chừng chẳng biết và cũng chẳng để ý đến lời dạy thông thái của người xưa. Chàng sẽ giác ngộ được bài học ấy bằng những kinh nghiệm chua chát. Và ngay trong lúc đôi mắt sáng tư lự của chàng mỉm cười khi ánh mặt trời đang tưới ngập khu vườn dưới khung cửa sổ rộng, thì một chiếc bóng xuất hiện, điều mà chàng không thể ngờ đó lại là điềm báo trước cho một bóng đen khác đang chuẩn bị che khuất ánh mặt trời của cuộc đời chàng.

Chủ nhân của chiếc bóng dần lộ diện – một thân hình cao ráo, ăn mặc vui mắt với một chiếc mũ rộng vành Tây Ban Nha màu đen có cài lông trang trí màu huyết dụ. Vung vẩy một chiếc gậy dài có buộc ruy băng ở phần đầu, bóng dáng của hắn lướt qua các khung cửa sổ, điệu bộ ngạo mạn như chính Số phận.

Nụ cười tắt ngấm trên môi Ngài Oliver. Khuôn mặt rắn rỏi rám nắng của chàng trở nên đăm chiêu, đôi lông mày đen nhíu lại cho đến khi chúng gần chạm vào nhau. Rồi nụ cười từ từ quay trở lại, nhưng không còn là một nụ cười nhẹ nhàng, tư lự nữa. Lần này nó đã chuyển thành một nụ cười quả quyết, kiên định, khiến đôi môi chàng mím chặt trong khi hai hàng lông mày từ từ giãn ra và làm xuất hiện trong đôi mắt đăm chiêu của chàng một tia nhìn giễu cợt, lanh lợi, gần như ma mãnh.

Nicolas, người hầu của chàng, vừa thông báo có Ngài Peter Godolphin tới và theo sát gót người đầy tớ chính là Godolphin, tựa người lên chiếc gậy chống, chiếc mũ rộng vành Tây Ban Nha cầm trên tay. Vị khách là một người tầm thước, mảnh dẻ, khuôn mặt điển trai nhẵn nhụi, hiện rõ vẻ kiêu kỳ. Giống như Ngài Oliver, vị khách cũng có sống mũi cao, và về tuổi tác thì trẻ hơn chủ nhà chừng hai hay ba tuổi. Chàng thanh niên có mái tóc nâu để dài hơn một chút so với thị hiếu thời trang lúc đó, nhưng về tổng thể thì cũng không đến nỗi quá lố so với mức độ có thể chấp nhận được ở một quý ông trẻ tuổi.

Ngài Oliver đứng dậy, cúi đầu chào từ chiều cao áp đảo của mình. Nhưng một làn khói thuốc lá đã xộc thẳng vào họng của vị khách lịch thiệp, làm anh ta húng hắng ho và nhăn mặt lại.

“Tôi thấy,” anh ta lên tiếng, “ngài cũng đã đua đòi theo thói quen bẩn thỉu này.”

“Tôi đã biết những thói quen còn bẩn thỉu hơn nhiều,” Ngài Oliver bình thản đáp.

“Tôi chẳng nghi ngờ gì chuyện đó,” Godolphin đáp, từ đó có thể dễ dàng nhận ra tâm trạng và mục đích chuyến đến thăm của anh ta.

Ngài Oliver cố kìm lại một câu trả lời nếu nói ra hẳn sẽ làm ông khách phải mất bình tĩnh, mà chàng hiệp sĩ của chúng ta chẳng hề có ý định đó vào lúc này.

“Vì thế,” chàng đáp giễu cợt, “tôi hy vọng ngài sẽ kiên nhẫn với những khiếm khuyết của tôi. Nick, lấy ghế cho Ngài Godolphin và mang ra đây một chiếc cốc nữa. Xin chào mừng ngài tới Penarow.”

Một cái bĩu môi dè bỉu xuất hiện trên khuôn mặt vị khách trẻ tuổi. “Ngài đã hân hạnh cho tôi một vinh dự mà, thưa ngài, tôi e khó có thể đáp lại tương xứng.”

“Vẫn còn đủ thời gian cho điều đó khi tôi đến tìm nó,” Ngài Oliver nói với vẻ dễ dãi, nếu giả tạo thì ít nhất cũng đầy thiện ý. “Khi ngài đến tìm nó?”

“Lòng hiếu khách dưới mái nhà ngài,” Ngài Oliver giải thích.

“Cũng chính vì lòng hiếu khách đó mà tôi tới đây để nói chuyện với ngài.”

“Xin mời ngài ngồi,” Ngài Oliver mời khách, đưa một tay hướng về phía chiếc ghế Nicholas vừa mang đến. Với cùng cử chỉ, chàng cho người đầy tớ rút lui.

Godolphin tảng lờ lời mời.

“Tôi nghe nói, mới chỉ ngày hôm qua ngài đã tới Godolphin Court.” Anh ta ngừng lời và vì Ngài Oliver chẳng có vẻ gì là chối cãi cả, ông khách liền gằn giọng nói tiếp: “Thưa ngài, tôi đến đây để thông báo với ngài rằng được ngài đến thăm là một hân hạnh chúng tôi không dám nhận.”

Trong cố gắng để giữ tự chủ trước một lời khiêu khích công khai như vậy, khuôn mặt Ngài Oliver hơi tái đi một chút.

“Ngài sẽ phải hiểu rằng,” chàng chậm rãi trả lời, “ngài đã nói quá nhiều trừ khi ngài thêm vài lời nữa.” Chàng dừng lại, nhìn ông khách trong giây lát. “Tôi không biết liệu Rosamund đã cho ngài biết ngày hôm qua cô ấy đã đồng ý trở thành vợ tôi…”

“Em gái tôi là một đứa trẻ chưa đủ chín chắn để làm chủ suy nghĩ của mình,” ông khách đáp lại.

“Liệu ngài có một lý do xác đáng nào lý giải tại sao cô ấy phải thay đổi quyết định của mình không?” Ngài Oliver hỏi, giọng đã hơi thách thức.

Godolphin ngồi xuống, bắt chéo chân và đặt mũ lên đầu gối. “Tôi biết đến hàng tá lý do như thế,” anh ta lên tiếng. “Nhưng tôi chẳng cần phải nói ra đây. Chỉ cần nhắc lại cho ngài nhớ rằng Rosamund mới mười bảy tuổi và vẫn còn dưới sự bảo trợ của tôi và Ngài John Killigrew. Cả Ngài John lẫn tôi đều không thể chấp nhận được cuộc hôn nhân này.”

“Chúa ơi!” Ngài Oliver kêu lên. “Ai cần đến sự chấp thuận của ngài hay Ngài John? Tạ ơn Chúa, em gái ngài sẽ sớm tới tuổi trưởng thành và làm chủ số phận của mình. Tôi cũng chẳng vội vã lắm trong chuyện cưới vợ, và về bản chất – như ngài hẳn đã quan sát thấy – tôi là một người cực kỳ kiên nhẫn. Tôi sẵn sàng đợi,” và chàng lại tiếp tục rít tẩu.

“Chờ đợi chẳng đem lại lợi lộc gì cho ngài trong chuyện này đâu, Ngài Oliver. Tốt nhất là ngài nên hiểu ra. Chúng tôi đã quyết định rồi, Ngài John và tôi.”

“Thật vậy sao? Thề có Chúa. Nhắn Ngài John tới đây nói với tôi về những kết luận của ông ta, và tôi sẽ cho ông ta nghe dăm điều tương tự từ phía mình. Hãy nói lại với ông ta, Ngài Godolphin, rằng nếu ông ta chịu khó quá bộ đến tận Penarrow, tôi sẽ làm với ông ta điều mà đáng lẽ tay đao phủ đã phải làm từ lâu rồi. Tôi sẽ rứt đứt đôi tai khỉ của ông ta ra bằng chính hai bàn tay này.”

“Trong lúc chờ đợi,” Godolphin đáp đầy kích động, “phải chăng ngài sẽ thử cơ bắp hải tặc của ngài với tôi?”

“Ngài?” Ngài Oliver lặp lại và nhìn ông khách từ đầu đến chân với vẻ thương hại. “Tôi không phải là kẻ giết hại trẻ con, chàng trai. Hơn nữa, ngài là anh trai của em gái ngài, và tôi chẳng hề có ý định dựng thêm chướng ngại vật trên con đường của tôi.” Đến đây giọng nói của chàng thay đổi. Chàng cúi người qua chiếc bàn. “Thôi nào Peter. Gốc rễ của tất cả chuyện này từ đâu mà ra đây? Biết đâu chúng ta lại không quá khác biệt như cậu đã nghĩ? Hãy bỏ qua chúng đi. Với Ngài John thì chẳng quan trọng gì. Ông ta là một kẻ bẩn tính chẳng đáng một cái búng tay. Nhưng cậu lại là chuyện khác. Cậu là anh trai nàng. Hãy nói thẳng ra những gì cậu không bằng lòng. Chúng ta hãy thẳng thắn với nhau và hãy là những người bạn.”

“Bạn?” người đối thoại của chàng bĩu môi một lần nữa. “Cha chúng ta đã cho chúng ta một ví dụ về chuyện đó.”

“Những gì cha chúng ta đã làm thì có ý nghĩa gì? Thật xấu hổ cho họ, nếu như là láng giềng mà họ đã không thể là bạn. Chẳng lẽ chúng ta lại theo một tấm gương đáng buồn như thế?”

“Ngài không thể nói rằng lỗi thuộc về cha tôi,” vị khách kêu lên, đầy vẻ tức giận.

“Tôi không đổ tội cho ai hết, chàng trai. Tôi trách cứ cả hai người.”

“Đồ khốn!” Godolphin văng ra một câu rủa. “Mi dám xúc phạm một người đã chết?”

“Nếu tôi có ý đó, thì tôi trách móc cả hai người. Nhưng không. Tôi chỉ muốn trách móc một sai lầm mà ngay cả hai người cũng sẽ thừa nhận nếu họ quay lại cuộc đời.”

“Vậy thì, thưa ngài, hãy dành sự trách cứ của ngài cho một mình cha ngài, một kẻ mà không một người có danh dự nào có thể sống yên ổn…”

“Nhẹ nhàng chứ, nhẹ nhàng chứ, Quý ngài đáng mến…”

“Chẳng cần gì phải nhẹ nhàng. Ralph Tresilian là nỗi hổ thẹn, là tai họa cho cả vùng. Chẳng có làng nào từ đây tới Truno hay từ đây tới Helston lại không lúc nhúc những chiếc mũi Tressilian quá khổ giống y hệt chiếc mũi của ngài, để tưởng nhớ tới người cha quá cố của ngài.”

Đôi mắt Ngài Oliver nheo lại, chàng mỉm cười. ”Tôi tự hỏi không biết chiếc mũi của ngài từ đâu mà ra?” Chàng ra bộ băn khoăn.

Godolphin đứng phắt dậy trong cơn tức giận, chiếc ghế anh ta vừa ngồi lăn kềnh ra sàn. “Thưa ngài,” anh ta hét lớn, “ngài sỉ nhục danh dự mẹ tôi!”

Ngài Oliver cười. “Tôi có hơi tự do quá thật, để trả đũa những lời đùa bỡn của ngài về cha tôi.”

Godolphin nhìn chằm chằm vào chàng, căm tức đến không nói nên lời, rồi run lên vì kích động, anh ta cúi người về phía trước qua chiếc bàn, vung cây can lên vụt mạnh vào vai Ngài Oliver.

Xong xuôi, ông khách kiêu kỳ quay lui đi ra cửa. Đi đến nửa đường, anh ta dừng lại.

“Tôi sẵn sàng đợi người làm chứng và thanh kiếm của ngài,” anh ta lên tiếng.

Ngài Oliver lại phá lên cười. “Tôi không nghĩ tôi sẽ mất công gửi ai tới gặp ngài,” chàng nói.

Godolphin quay lại, nhìn thẳng vào mặt chàng. “Cái gì cơ? Ngài chấp nhận để người ta đánh?”

Ngài Oliver nhún vai. “Có ai thấy đâu,” chàng nói.

“Nhưng tôi sẽ thông báo cho mọi người hay tôi đã dùng can nện ngài.”

“Ngài sẽ chứng tỏ rằng ngài là một tay dối trá nếu làm như thế, vì sẽ chẳng có ai tin ngài.” Rồi chàng lại đổi giọng lần nữa. “Thôi nào, Peter, chúng ta cư xử chẳng ra làm sao cả. Còn về cú đánh, tôi thừa nhận là tôi đáng bị như vậy. Một người mẹ luôn thiêng liêng hơn một người cha. Vậy là chúng ta hòa về chuyện này. Chúng ta cũng có thể nói hòa trong những chuyện khác không? Có ích lợi gì nếu cứ nuôi mãi cuộc cãi vã ngu ngốc mà cha chúng ta đã sa vào?”

“Còn có nhiều hơn thế giữa chúng ta,” Godolphin đáp. “Tôi sẽ không để em gái tôi cưới một tên cướp biển.”

“Một tên cướp biển? Chúa ơi! Tôi thật mừng là không có ai nghe thấy ngài thốt ra câu vừa rồi vì từ khi Đức Nữ hoàng phong tước hiệp sĩ cho tôi để tưởng thưởng những gì tôi đã thực hiện trên biển, lời lẽ của ngài rất gần với sự phản nghịch. Hiển nhiên là những gì Nữ hoàng trân trọng, Ngài Godolphin cũng có thể trân trọng được, và cả ông thầy dùi Ngài John Killigrew cũng vậy, đúng không chàng trai? Cậu đã nghe lời ông ta. Chính ông ta đã xui cậu tới đây.”

“Tôi không phải là đầy tớ của kẻ nào cả,” ông khách nóng nảy đáp lời, tức tối trước sự ám chỉ – càng tức tối hơn vì sự ám chỉ đó lại đúng.

“Gọi tôi là cướp biển là một chuyện ngu ngốc. Hawkin, người cùng đi biển với tôi, cũng đã được phong tước, và những kẻ gọi chúng tôi là cướp biển đang báng bổ chính Nữ hoàng. Ngoài chuyện đó, một lời buộc tội hoàn toàn trống rỗng, Ngài còn gì khác để chống lại tôi đây? Tôi hy vọng là tôi cũng chẳng kém cạnh gì bất cứ ai ở Cornwall. Rosamund đã hân hạnh trao cho tôi tình cảm của cô ấy, tôi giàu có và sẽ còn giàu hơn trước khi tiếng chuông mừng đám cưới vang lên.”

“Giàu có với chiến quả từ những vụ cướp bóc trên biển, với kho tàng của những chiếc tàu bị tấn công, bằng tiền săn lùng nô lệ ở châu Phi và bán lại cho các đồn điền, giàu có bằng cùng cách mà ma cà rồng trở nên bất tử – bằng máu người.”

“Có phải Ngài John nói thế không?” Ngài Oliver hỏi lại bằng một giọng nhẹ nhàng chết người.

“Tôi nói thế.”

“Tôi nghe từ ngài, nhưng tôi đang hỏi từ đâu ngài đã học được bài học đẹp đẽ đó. Có phải Ngài John là gia sư của ngài không? Đúng là ông ta, chính ông ta. Chẳng cần phải nói điều đó với tôi. Tôi sẽ tính sổ với ông ta. Nhưng trong lúc chờ đợi cho phép tôi cho ngài biết nguồn gốc chân thực và không vụ lợi cho sự thù hận của Ngài John. Ngài sẽ thấy Ngài John là một nhà quý tộc chính trực và lương thiện ra sao, người bạn của cha ngài và cũng đã từng là người bảo trợ của ngài.”

“Tôi sẽ không đếm xỉa gì đến những lời ngài nói về ông ấy.” “Không đâu, ngài sẽ nghe, để đổi lại việc đã bắt tôi nghe những gì ông ta nói về tôi. Ngài John thèm muốn có được một giấy phép để xây cảng tại mũi Fal. Ông ta mơ ước nhìn thấy một thị trấn mọc lên trên bến cảng nằm ngay dưới chân dinh cơ Arwenack của ông ta. Ông ta đã tự giới thiệu mình như một người cao cả không vụ lợi và chỉ toàn tâm toàn ý nghĩ đến phúc lợi của khu vực. Ông ta đã lờ đi không đả động đến chuyện khu vực đó là lãnh địa của mình và ông ta đang chăm lo đến sự phát tài của chính bản thân cũng như gia đình. Chúng tôi gặp nhau ở London một cách tình cờ, đúng lúc Ngài John đang xoay xở vụ làm ăn này với triều đình. Và tình cờ, tôi cũng có lợi ích làm ăn ở Truno và Penryn. Nhưng không như Ngài John, tôi đã trung thực và tuyên bố thẳng ý định của mình. Nếu bến cảng được xây ở Smithick thì hậu quả là do vị trí thuận lợi hơn nó sẽ làm ảnh hưởng xấu đến Truno và Penryn, và chuyện này ít hợp với tôi chẳng kém gì điều ngược lại với Ngài John. Tôi đã nói với ông ta như thế, vì tôi là người thẳng thắn, và tôi trình diện trước triều đình với tư cách là người cạnh tranh với Ngài John.” Chàng nhún vai. ”Thời điểm đã thuận lợi cho tôi. Tôi là một trong các thủy thủ đã giúp đánh bại hạm đội Armada hùng mạnh của vua Philip. Thế nên tôi không thể bị từ chối, và Ngài John đành trở về, cũng trắng tay như khi ông ta tới triều đình. Vậy thì ngài có còn ngạc nhiên không khi ông ta chẳng ưa gì tôi? Biết rõ con người ông ta, liệu ngài có còn ngạc nhiên khi ông ta gọi tôi là cướp biển và tệ hơn thế? Thật tự nhiên khi xuyên tạc những gì tôi làm trên biển như vậy, vì thành quả của những việc đó đã cho tôi quyền lực để gây tổn hại đến lợi ích của ông ta. Ông ta đã chọn sự vu khống làm vũ khí trong cuộc đấu với tôi, nhưng tôi sẽ không sử dụng những thứ vũ khí tương tự, và ngay ngày hôm nay tôi sẽ cho ông ta thấy điều đó. Nếu ngài không tin những gì tôi nói, hãy đi cùng tôi và có mặt tại buổi nói chuyện thân mật mà tôi hy vọng sẽ có được với kẻ thua cuộc xấu tính này.”

“Ngài quên rằng,” Godolphin lên tiếng, “chính tôi nữa, cũng có lợi ích ở gần Smithick, và ngài đã làm phương hại đến những lợi ích đó.”

“A ha!” Ngài Oliver gầm lên. “Cuối cùng thì mặt trời của sự thật cũng xuyên thủng màn mây mù của sự phẫn nộ chính đáng trước dòng máu Tressilian xấu xa cũng như nghề cướp biển của tôi! Cả ngài nữa, cũng chỉ là một kẻ vu khống bỉ ổi. Thử nghĩ xem, tôi thật ngu làm sao khi coi ngài là người thật thà, và đứng đây mất thời giờ nói chuyện với ngài như với một người chính trực.” Giọng nói của chàng sắc lạnh, môi chàng bĩu lên trong thái độ khinh bỉ chẳng khác gì một cú roi quất. “Tôi thề là tôi chẳng bao giờ phí hơi với ngài nếu tôi biết ngài là một kẻ nhỏ mọn đáng thương hại như thế.”

“Những lời lẽ này…” Godolphin bắt đầu cứng người lại.

“Còn nhẹ hơn nhiều những gì ngài xứng đáng,” ông chủ nhà cắt ngang, rồi cao giọng gọi. “Nick.”

“Ngài sẽ phải trả lời về chuyện này,” ông khách hầm hè.

“Tôi đang trả lời chúng đây,” ông chủ nhà sẵng giọng trả lời. “Tới đây nhục mạ tôi về những khiếm khuyết của người cha đã khuất của tôi cũng như về một cuộc cãi vã xa xưa giữa ông với cha ngài, vờ vịt coi những việc làm của tôi mà ngài quy là cướp biển cũng như cách cư xử của tôi là một lý do chính đáng để cấm tôi không được cưới em gái ngài, trong khi lý do thật cho sự thù địch của ngài chẳng qua chỉ vì vài đồng bảng khốn khổ tôi đã khiến ngài không thể cho vào túi. Nhân danh Chúa, mời ngài cuốn xéo ngay cho.”

Ngay lúc đó, Nick bước vào.

“Ngài sẽ còn nghe nói tới tôi, Ngài Oliver,” ông khách lên tiếng, trắng bệch ra vì tức. “Ngài sẽ phải tính sổ với tôi về những lời lẽ đó.”

“Tôi không quyết đấu với… với những kẻ sinh sự thuê,” Ngài Oliver đáp.

“Ngài dám gọi tôi như vậy?”

“Quả thực, gọi thế cũng có hơi khiếm nhã với một tầng lớp đáng tôn trọng như vậy, tôi thừa nhận. Nick, đưa quý Ngài Godolphin ra cửa.”

Chương 2ROSAMUND

Lúc này, khi ông khách đã ra về, Ngài Oliver dần bình tĩnh trở lại. Sau đó, trong tâm trạng tỉnh táo hơn, chàng bắt đầu cân nhắc tình thế hiện tại của mình và dần dần lại trở nên bực bội khi nghĩ tới cơn tức giận vừa rồi. Cơn tức giận đã hoàn toàn làm chủ bản thân chàng, khiến chàng lại tự dựng lên cho mình những chướng ngại vật nữa để thêm vào những trở ngại vốn đã đáng kể đang ngăn cách giữa Rosamund và chàng. Được đà bùng phát, cơn bực dọc của chàng thỏa sức bốc lên ngùn ngụt. Và lần này Ngài John Killigrew trở thành mục tiêu của nó. Chàng cần phải làm cho ra lẽ ngay lập tức với quý ông này. Thề có các vị thánh thần, chàng sẽ làm như vậy!

Chàng xuống nhà gọi Nick lấy đôi ủng.

“Cậu Lionel đâu?” chàng hỏi khi người gia nhân đã mang ủng tới.

“Cậu vừa mới về, thưa Ngài Oliver.”

“Bảo cậu đến đây.”

Một lát sau, theo lời gọi của người anh, người em trai cùng cha khác mẹ của Ngài Oliver bước vào phòng – một thanh niên mảnh dẻ, con người vợ thứ hai của ngài Ralph Tressilian phóng túng. Người em trai này khác hẳn Ngài Oliver cả về dáng vẻ lẫn tính cách. Đó là một thanh niên đẹp trai một cách mềm yếu, đến mức gần như nữ tính với làn da trắng mịn, mái tóc vàng óng và đôi mắt xanh sẫm. Chàng trai toát lên vẻ trẻ trung cuốn hút – vì cậu mới hai mươi mốt tuổi và ăn vận với tất cả sự chăm chút của một quý tộc trong triều đình.

“Cái gã ba hoa Godolphin đó lại đến quấy rầy anh đúng không?” Cậu thanh niên lên tiếng hỏi khi bước vào.

“Ừ,” Ngài Oliver lầm bầm. “Anh ta tới để nói với anh vài chuyện và đổi lại cũng được nghe vài chuyện khác.”

“Ha. Em gặp hắn ta đi ra ngay gần cổng và khi em lên tiếng chào thì hắn ta làm lơ như người điếc ấy. Thật là một kẻ đáng nguyền rủa không thể chịu đựng nổi.”

“Cậu có vẻ biết xét người đấy, Lionel.” Ngài Oliver đứng dậy, đã xỏ ủng chỉnh tề. “Anh đi bây giờ tới Arwenack để nói vài lời khen ngợi với Ngài John.”

Đôi môi mím chặt và vẻ quả quyết đi kèm câu nói đã hé lộ ý định của chàng rõ đến mức Lionel vội nắm lấy tay chàng.

“Anh không định… Anh không định..?”

“Có đấy.” Và bằng một cử chỉ đầy trìu mến, như muốn trấn an vẻ lo lắng của cậu thanh niên, chàng khẽ vỗ vai cậu. “Ngài John,” chàng giải thích, “nói quá nhiều. Đó là một thói xấu cần được uốn nắn. Anh sẽ đi dạy cho ông ta biết giá trị của sự im lặng.” “Nhưng sẽ rắc rối đấy, Oliver.”

“Đương nhiên – cho ông ta. Nếu một người dám gọi anh là hải tặc, là kẻ buôn nô lệ, là kẻ sát nhân, và có trời biết còn gì khác nữa, thì ông ta cần phải sẵn sàng nhận lấy hậu quả. Nhưng cậu về muộn đấy, Lionel. Em đã đi đâu vậy?”

“Em cưỡi ngựa đi dạo đến Malpas.”

“Tới tận Malpas?” Đôi mắt Ngài Oliver nheo lại, “Anh đã nghe người ta bàn tán về thứ bùa mê đã kéo cậu đến đó,” chàng nói. “Cẩn thận, cậu bé. Em đi tới Malpas hơi nhiều đấy.”

“Thế là thế nào?” Lionel hỏi lại với vẻ lạnh lùng.

“Anh muốn nhắc nhở em rằng em là con trai của cha em. Hãy nhớ lấy điều đó, và tránh đừng lặp lại con đường của ông, nếu không nó sẽ đưa em đến kết cục như ông ấy. Anh cũng vừa được nhắc nhở về những khiếm khuyết của cha chúng ta qua lời quý ngài Peter tốt bụng. Anh khuyên em đừng nên đi quá nhiều đến Malpas. Đừng lui tới đó nữa.” Nhưng thật khó tỏ ra nghiêm khắc khi một cánh tay chàng đang khoác lên vai Lionel để ôm chầm lấy đứa em trai mà chàng luôn yêu quý.

Khi người anh đã đi khỏi, Lionel ngồi vào bàn dùng bữa trưa. Cậu thanh niên chỉ ăn qua loa vài miếng, và chẳng nói câu nào với người đầy tớ già trong suốt bữa. Cả tâm trí chàng đều đang chăm chú nghĩ đến chuyện khác. Lionel nghĩ tới chuyến đi tới Arwenack để trả nợ danh dự của anh trai. Killigrew chẳng phải là hạng vắt mũi chưa sạch, mà là một tay gươm lành nghề, một người lính, một thủy thủ thực sự. Nếu có chuyện không hay xảy ra với Oliver… Cậu thanh niên thầm run rẩy trước ý nghĩ đó. Thế rồi, cho dù đã cố gắng tránh không nghĩ đến, đầu óc cậu bắt đầu tính toán đến hậu quả với bản thân mình nếu có chuyện rủi ro xảy ra. Lionel chợt ý thức ra được rằng trong trường hợp đó, số phận của mình sẽ thay đổi hoàn toàn. Gần như kinh hãi, cậu thanh niên cố tìm cách xua đuổi ý nghĩ đó ra khỏi đầu, nhưng nó vẫn ương bướng quay trở lại. Không thể nào chối bỏ sự thật hiển nhiên đó. Nó đã buộc Lionel phải tự nhìn lại vị thế hiện tại của mình.

Tất cả những gì chàng trai có đều là nhờ vào sự bao bọc chu cấp của người anh. Người cha phóng túng của họ đã qua đời không khác gì cách mà những người như vậy thường chấm dứt cuộc đời, nghĩa là để lại sau lưng một gia tài đã tan nát cùng một núi nợ ngập đầu, ngay cả ngôi nhà ở Penarrow cũng bị cầm cố, tiền vay được từ việc cầm nhà thì đã tan biến từ lâu trong quán rượu, trong những cuộc đỏ đen, hay dùng để cung phụng cho vô số mối tình vụng trộm của Ralph Tressilian. Khi đó, Oliver đã đem bán bất động sản nhỏ ở gần Helston chàng được thừa kế từ mẹ mình. Số tiền thu được, chàng đã dùng để chuẩn bị cho một chuyến đi đầy phiêu lưu tới bờ biển Tân Thế Giới thuộc Tây Ban Nha. Chàng đã bỏ tiền trang bị và mộ thủy thủ đoàn cho một chiếc tàu, rồi cùng ra khơi với Hawkin thực hiện một trong những chuyến “làm ăn” mạo hiểm mà Ngài John Killigrew đã hoàn toàn có lý khi gọi là những vụ ăn cướp của bọn hải tặc. Chàng quay trở về với chiến lợi phẩm gồm đá quý và gia vị, đủ để chuộc lại gia sản của dòng họ Tressilian. Rồi chàng lại tiếp tục ra khơi và ngày càng phát tài hơn mỗi lần trở về. Trong lúc đó, Lionel chỉ ngồi mát ăn bát vàng nhàn nhã ở nhà. Cậu ta ưa thích sự nhàn rỗi. Nói trắng ra thì ông em tốt số này là một kẻ lười nhác với đầy đủ những sở thích hoang phí cầu kỳ thường làm bạn đồng hành cùng sự rỗi rãi thái quá. Cậu ta không được sinh ra để bươn chải và vật lộn vươn lên, hơn nữa, cũng chẳng có ai tìm cách sửa chữa những tật xấu bẩm sinh này trong tính cách của chàng thanh niên. Thỉnh thoảng, chàng trai cũng tự hỏi tương lai của mình sẽ ra sao nếu Oliver lập gia đình. Anh chàng e ngại thầm nghĩ rằng cuộc sống rồi sẽ chẳng thoải mái mãi được như hiện tại. Thế nhưng Lionel chưa bao giờ lo lắng thực sự. Những người như anh chàng trẻ tuổi của chúng ta chẳng bao giờ cân nhắc nghiêm túc với tương lai của chính mình – mà điều này cũng chưa bao giờ thuộc về bản chất của những người thuộc loại này. Mỗi khi thoáng nghĩ đến, chàng thanh niên liền lập tức vội vã gạt phắt những băn khoăn của mình đi, tự trấn an rằng nói cho cùng Oliver luôn yêu quý anh ta, và Oliver sẽ luôn lo chu cấp đầy đủ cho mọi nhu cầu của anh ta.

Về việc này thì anh chàng hoàn toàn có thể yên tâm. Với em trai mình, Oliver giống một người cha hơn một người anh. Khi cha họ được đưa về nhà trong cơn hấp hối vì vết thương do một người chồng bị cắm sừng gây ra, ông đã phó thác Lionel cho người con trai lớn chăm sóc. Lúc đó Oliver mới mười bảy tuổi, còn Lionel mười hai. Nhưng Oliver đã trưởng thành hơn rất nhiều so với tuổi của mình. Và người đàn ông hai lần góa vợ Ralph cũng đã phải nhờ rất nhiều đến cậu con trai cứng rắn, quyết đoán và đầy uy quyền mà ông có được từ cuộc hôn nhân thứ nhất. Vị quý tộc hấp hối thì thầm vào tai con trai cả những lời trăng trối đầy ân hận về cuộc đời tội lỗi vô nghĩa ông đã sống, về tình cảnh thê thảm công việc làm ăn mà ông đang lâm vào, cũng như nguồn sống eo hẹp ông để lại cho hai đứa con trai. Với Oliver, người cha không sợ nói ra sự thật. Như thể được trang bị thứ linh cảm đặc biệt của những người sắp từ giã cõi đời, ông đã nhận ra Oliver thuộc về loại người luôn biết cách chiến thắng, một người sinh ra để bắt thế giới phải khuất phục mình. Tất cả nỗi lo lắng của ông đều dồn về Lionel, đứa con út mà ông cũng nhìn thấu tính cách bên trong với cùng cái nhìn sáng suốt của một kẻ đang sống những khoảnh khắc cuối cùng của đời mình. Do đó ông đã khẩn khoản phó thác Lionel cho Oliver, và Oliver đã hứa sẽ vừa là anh trai, vừa là người thay thế cha mẹ cho cậu thiếu niên.

Tất cả lướt nhanh trong đầu Lionel khi chàng ngồi tư lự bên bàn ăn, và một lần nữa cậu lại phải vật lộn chiến đấu với ý nghĩ tệ hại luôn ám ảnh rằng nếu có chuyện không hay xảy tới với anh trai cậu ở Arwenack, cậu ta sẽ được lợi lớn, rằng khi đó tất cả những thứ mà hiện nay chàng thanh niên chỉ có được nhờ lòng thương hại của người khác sẽ đương nhiên trở thành sở hữu của chàng. Dường như đang có một con quỷ bỡn cợt chàng trai bằng những lời thì thầm mỉa mai rằng cho dù Oliver có chết thì anh chàng cũng sẽ chẳng mất công buồn rầu lâu. Rồi sau đó, phẫn nộ trước giọng nói của sự ích kỷ đáng khinh bỉ mà chính bản thân chàng trai cũng thấy rùng mình ghê sợ mỗi khi nghĩ đến trong những giây phút sống có lương tâm hơn, cậu thanh niên nhắc mình nhớ đến sự quan tâm trước sau như một, không chút toan tính vụ lợi của Oliver, cậu nhớ lại tất cả tình thương yêu và lòng tốt mà trong bao năm qua Oliver đã luôn thể hiện với cậu. Và chàng trai thầm nguyền rủa sự tha hóa của một tâm địa có thể nảy sinh ra được những ý nghĩ mà cậu đã nuôi dưỡng trong đầu. Những tình cảm mâu thuẫn cũng như cuộc vật lộn căng thẳng giữa lương tâm và lòng vị kỷ đang diễn ra trong đầu đã làm chàng thanh niên bị xúc động đến mức cậu vụt đứng bật dậy, kêu lên.

“Cút đi, đồ quỷ dữ!”

Ông lão Nicholas giật mình ngẩng đầu lên, trông thấy khuôn mặt cậu thanh niên tái nhợt đi như làm bằng sáp, vầng trán ướt đẫm mồ hôi.

“Cậu Lionel! Cậu Lionel!” ông lão kêu lên, đôi mắt nhỏ bé tinh anh lo lắng quan sát khuôn mặt cậu chủ trẻ. ”Có chuyện gì thế?”

Lionel đưa tay lên bóp trán. “Ngài Oliver đã đi tới Arwenack để giải quyết một khúc mắc danh dự,” chàng trai đáp.

“Thế thì sao hả cậu?” Nicholas hỏi lại.

“Anh ấy đã đi trừng trị Ngài John vì đã vu khống anh ấy.” Một nụ cười nở rộng trên khuôn mặt dãi dầu sương gió của Nicholas.

“Thật thế sao? Hay quá, đã đến lúc rồi. Ngài John luôn có cái lưỡi quá dài.”

Lionel đứng ngẩn ra ngạc nhiên trước vẻ tự tin thoải mái của ông già cũng như sự tin tưởng chắc chắn của người gia nhân rằng ông chủ sẽ đạt được mục đích.

“Lão… lão không sợ rằng, Nicholas…” chàng thanh niên không dám nói nốt nguyên cớ để sợ hãi. Nhưng người gia nhân đã hiểu, và càng cười thoải mái hơn.

“Sợ ấy à? Không đời nào! Tôi chẳng lo sợ cho Ngài Oliver đâu, và cậu chủ cũng đừng lo. Ngài Oliver sẽ quay về ăn tối với cái bụng đói ngấu – đó là sự khác biệt duy nhất mà các cuộc quyết đấu gây ra cho ông chủ từ trước đến giờ.”

Ông lão hoàn toàn có ý khi tin chắc vào diễn biến của các sự kiện, trừ một sai lệch nhỏ: Ngài Oliver đã không thực sự hoàn tất những gì chàng tự hứa với mình và dự định thực hiện. Trong lúc nóng đầu, và những khi chàng tự cho rằng bản thân bị gây hấn, nhà quý tộc của chúng ta – như tác giả đã tường thuật lại chuyện đời chàng đã không mệt mỏi nhắc đi nhắc lại, và bản thân bạn đọc cũng sẽ có dịp tự mình phán xét trước khi chúng ta đi đến đoạn kết của câu chuyện này – là một con hổ khát máu. Chàng thúc ngựa phi nước đại tới Arwenack với quyết định sẽ giết chết kẻ đặt điều nói xấu chàng. Chỉ có như thế chàng mới cảm thấy thỏa mãn. Cuối cùng, khi đã tới trước tòa lâu đài tuyệt đẹp của dòng họ Killigrew nằm ở một vị trí hoàn hảo khống chế lối vào mũi Fal, từ trên lâu đài có thể bao quát cả một vùng đồng quê rộng lớn chạy dài tới tận Lizard, chàng nhìn thấy Peter Godolphin đang ở trước mặt, và sự có mặt của Peter khiến Ngài Oliver trở nên thận trọng và chừng mực hơn trong việc buộc tội Ngài John so với ý định ban đầu của chàng. Chàng mong muốn trừng phạt Ngài John, đồng thời cũng cải thiện hình ảnh của chàng trong mắt người anh của Rosamund, để khiến anh ta nhận ra những chuyện thị phi Ngài John đã tự cho phép mình tung ra bỉ ổi đến thế nào, và có dụng ý hèn hạ ra sao.

Đúng lúc đó, Ngài John đi tới để đón chào kẻ thách đấu. Mối hận của ông ta với tay cướp biển ở Penarrow – như ông đã quen gọi Ngài Oliver – khiến ông chủ nhà cũng sẵn sàng cho cuộc quyết đấu chẳng kém gì người khách.

Họ chọn một góc khuất nẻo trong khu tư viên của lâu đài để giải quyết mâu thuẫn, và tại đó, Ngài John – một nhà quý tộc mảnh dẻ, dẻo dai chừng ba mươi tuổi – bắt đầu dùng kiếm và dao găm để mở một cuộc công kích mới nhằm vào Ngài Oliver, và lần này cũng không kém phần dữ dội nếu so sánh với cuộc công kích trước đó bằng miệng của ông. Nhưng sự bốc đồng của ông đã chẳng đem lại kết quả khả quan nào. Ngài Oliver đã tới với một mục đích chính xác, và chàng không bao giờ thất bại trong việc đạt được điều mà chàng muốn thực hiện.

Chỉ sau ba phút ngắn ngủi, mọi sự đã xong xuôi và Ngài Oliver lúc này đang cẩn thận lau chùi lưỡi kiếm của mình, trong khi Ngài John nằm dài dưới đất ho sặc sụa, đang được chăm sóc bởi quý ông Peter Godolphin với khuôn mặt đang trắng bệch ra và một gã giám mã run như cầy sấy, gã này đã bị lôi đến đó làm nhân chứng cho đủ lễ bộ.

Ngài Oliver tra kiếm vào bao, nhặt chiếc áo khoác của mình lên rồi đi tới bên đối thủ đã bị đánh ngã, nghiêm nghị nhìn đối phương.

“Tôi nghĩ tôi đã chỉ làm ông ta im lặng được một thời gian ngắn,” chàng nói. “Và phải thừa nhận tôi đã định làm khá hơn thế nhiều. Dù sao tôi cũng hy vọng rằng bài học này là đủ và ông ta sẽ không tiếp tục nói láo nữa – ít nhất là về tôi.”

“Ngài giễu cợt một người đã sa cơ sao?” Godolphin giận dữ phản đối.

“Có Chúa chứng giám!” Ngài Oliver nghiêm trang đáp. “Tôi chẳng hề có ý giễu cợt. Hãy tin tôi đi, lúc này tôi chỉ cảm thấy nuối tiếc – tiếc là đã không hoàn thành dự định của mình chu đáo hơn. Tôi sẽ ghé qua lâu đài nhắn người tới giúp trước khi rời khỏi đây. Chúc ngài một ngày tốt lành, Ngài Peter.”

Từ Arwenack, chàng cưỡi ngựa vòng qua Penryn trên đường trở về nhà. Nhưng chàng không đi thẳng về nhà. Chàng dừng lại trước cửa Godolphin Court, khu dinh thự nằm phía trên mũi Trefusis nhìn xuống con đường đi Carrick. Chàng đi qua dưới chiếc cổng cổ kính vào sân. Xuống ngựa, đặt chân lên khoảng sân rải sỏi, chàng lên tiếng thông báo mình là một người khách muốn đến thăm tiểu thư Rosamund.

Chàng tìm thấy nàng trong phòng riêng của nàng – một căn phòng tràn ngập ánh sáng nằm ở tòa tháp phía đông ngôi biệt thự, với khung cửa sổ nhìn xuống dòng sông hiền hòa và sườn đồi dốc phủ đầy cây xanh. Cô thiếu nữ đang ngồi bên cửa sổ đọc sách khi chàng bước vào, đi phía trước để thông báo chuyến đến thăm của chàng là Sally Pentreath, trước kia là nhũ mẫu của nàng và giờ đây là người hầu của cô gái trẻ.

Nàng đứng dậy, khẽ kêu lên vui mừng khi chàng xuất hiện trên khung cửa – chỉ vừa đủ cao để chàng đi qua mà không phải cúi đầu – rồi đứng nhìn chàng đi tới với đôi mắt long lanh và hai gò má ửng hồng.

Có cần thiết phải tả lại nàng không? Trong câu chuyện nổi tiếng mà chẳng bao lâu nữa Ngài Oliver Tressilian sẽ kéo nàng vào, hiếm có thi sĩ nào ở nước Anh lại không ca ngợi sắc đẹp và sự duyên dáng của Rosamund Godolphin, và không ít bài thơ như vậy vẫn còn lưu lại tới ngày nay. Giống như người anh trai, nàng có một thân hình cao ráo, cân đối đến hoàn hảo, cho dù những đường nét còn non trẻ của cô thiếu nữ có vẻ quá mảnh mai so với chiều cao của nàng.

“Em không trông đợi anh tới sớm như vậy…” Nàng bắt đầu nói khi nàng nhận ra khuôn mặt chàng nghiêm trọng một cách khác thường.

“Tại sao… Có chuyện gì xảy ra vậy?” Nàng kêu lên, linh tính mách bảo nàng đã có chuyện không hay nào đó xảy ra.

“Không có gì khiến em phải lo sợ, em yêu, nhưng có vài chuyện có thể khiến em bị tổn thương.” Chàng đưa một tay ra ôm lấy vòng eo nhỏ nhắn của nàng, dịu dàng đưa nàng ngồi xuống ghế, rồi ngồi xuống bậu cửa sổ bên cạnh nàng. “Em rất quý Ngài John Killigrew đúng không?” chàng nói, nửa khẳng định nửa dò hỏi.

“Vâng. Ông ấy là người bảo trợ cho chúng em cho đến khi anh trai em tới tuổi trưởng thành.”

Ngài Oliver cau mặt. “Ấy, rắc rối là ở chỗ đó đấy. Sự thực là chỉ thiếu chút nữa anh đã giết chết ông ta.”

Cô gái lùi lại trên chiếc ghế, thu mình ra xa chàng, và chàng nhận ra sự kinh hoàng hiện rõ mồn một trong đôi mắt nàng làm khuôn mặt nàng tái đi. Chàng vội vã giải thích nguyên nhân đã dẫn tới cuộc quyết đấu, kể lại cho nàng biết một cách ngắn gọn những lời đồn đại tệ hại về chàng mà Ngài John đã rêu rao khắp nơi như là một cách để trút giận sau khi bị chàng giành mất giấy phép xây dựng tại Smithick mà ông vẫn thèm muốn.

“Nếu chỉ vậy thì cũng chẳng đáng kể,” chàng kết luận. “Anh không lạ gì những lời đồn đại về mình trong thiên hạ, và anh coi khinh chúng cũng như anh đã luôn khinh thường những kẻ đơm đặt ra chúng. Nhưng Rose, ông ta còn đi xa hơn thế. Ông ta đã đầu độc suy nghĩ của anh trai em để chống lại anh, ông ta khuấy động lại trong anh trai em mối bất hòa giữa hai gia đình chúng ta từ thời cha anh và cha em. Mới hôm nay thôi, Peter đã đến nhà anh với ý định hiển nhiên là kiếm mọi cớ để sinh sự. Cậu ta đã thách thức anh bằng một thái độ mà chưa ai dám từ trước đến giờ.”

Nghe đến đây, cô gái kêu lên hốt hoảng, nỗi lo sợ như nhân lên gấp đôi. Chàng mỉm cười.

“Đừng nghĩ rằng anh có thể làm gì hại đến anh trai em. Cậu ấy là anh trai em, nên với anh, cậu ấy là thiêng liêng. Anh trai em đã tới để nói với anh rằng không thể có chuyện cưới xin gì giữa chúng mình, cấm anh không bao giờ được đặt chân đến Godolphin Court một lần nữa, gọi anh là đồ cướp biển, đồ hút máu người ngay trong nhà anh, rồi xúc phạm đến người cha đã khuất của anh. Anh đã nhận ra nguồn gốc của tất cả sự thù hận đó là từ Killigrew, và anh đã tới thẳng Arwenack để làm câm lặng vĩnh viễn nguồn gốc của sự dối trá đó. Anh đã không hoàn toàn thành công như anh đã dự định. Có lẽ là Ngài John sẽ bình phục trở lại, nếu thế anh hy vọng ông ta sẽ rút ra được bài học cho bản thân. Anh đã đi thẳng từ đó về gặp em,” chàng nói, “để em có thể được nghe đầu đuôi câu chuyện do chính anh thuật lại trước khi có người khác tới bôi nhọ anh bằng cách xuyên tạc những gì đã xảy ra.”

“Anh… anh muốn nói đến Peter?” Nàng kêu lên. “Than ôi!” Chàng thở dài.

Nàng ngồi im lặng, nhợt nhạt, đôi mắt nhìn đăm đăm về phía trước không hề quay về phía Ngài Oliver. Cuối cùng nàng lên tiếng.

“Em không khéo léo trong việc xét đoán đàn ông,” nàng nói bằng giọng nhỏ nhẹ buồn bã. “Có thể nào khác được, khi em chỉ là một cô gái sống khép mình giữa bốn bức tường. Em đã được nghe kể rằng anh là một người nóng nảy và hung tợn, một người tính tình cay độc, dễ dàng mang lòng thù hận, tàn bạo và bất chấp thủ đoạn để báo thù.”

“Cả em nữa cũng đã nghe những lời dối trá của Ngài John,” chàng thì thầm, rồi bật cười cay đắng.

“Tất cả những điều đó em đã được nghe kể,” nàng tiếp tục như không để ý đến câu nhận xét của chàng, “và em đã từ chối tin vào chúng vì trái tim em đã thuộc về anh. Thế nhưng… thế nhưng hôm nay anh đã cho em bằng chứng về điều gì đây?”

“Về sự chịu đựng nhún nhường,” chàng đáp ngắn gọn.

“Chịu đựng nhún nhường?” Nàng lặp lại, một nụ cười chán nản pha lẫn giễu cợt trên môi. “Hiển nhiên anh đang đùa bỡn với em!”

Chàng bắt đầu giải thích. “Anh đã cho em biết những gì Ngài John đã làm. Anh đã cho em biết rằng phần lớn những việc đó – đều là những việc đụng chạm đến danh dự của anh – anh biết Ngài John đã làm từ lâu. Nhưng anh chỉ chịu đựng trong im lặng và khinh thường. Chẳng lẽ điều đó cho em thấy anh dễ dàng bị cuốn vào những hành vi bạo lực? Điều đó là gì nếu không phải là sự nhẫn nhục? Tuy thế, khi ông ta đẩy sự thù hằn nhỏ nhen của mình đi xa đến mức tìm cách tước đoạt nguồn hạnh phúc của đời anh, đẩy anh trai em đối đầu với anh, anh vẫn cố nhẫn nhịn và luôn tâm niệm rằng anh trai em chỉ là một công cụ, một người bị lợi dụng, và anh đã đi thẳng tới trừng phạt bàn tay đã giật dây anh trai em. Vì anh biết tình cảm của em đối với Ngài John nên anh đã cư xử với ông ta một cách kiềm chế trong hoàn cảnh mà bất kỳ người đàn ông có danh dự nào ở nước Anh cũng không thể để cho ông ta được yên.”

Nhận thấy cô gái vẫn tiếp tục lẩn tránh cái nhìn của mình, vẫn ngồi im lặng kinh hoàng như hóa đá khi biết rằng người đàn ông cô yêu đã để tay mình nhuộm máu của một người khác mà cô cũng yêu mến, những lời thanh minh của chàng nhanh chóng trở nên khẩn thiết hơn. Chàng quỳ xuống bên chiếc ghế nàng đang ngồi, giữa hai bàn tay chai sạn của chàng là những ngón tay mảnh dẻ mà nàng yên lặng chấp thuận để chàng nắm lấy. “Rose,” chàng kêu lên, giọng nói trầm trầm của chàng như nghẹn lại vì xúc động, “hãy quên đi tất cả những gì em đã được nghe. Hãy chỉ xem xét những gì đã xảy ra. Hãy thử tưởng tượng rằng Lionel em trai anh đến gặp em, có trong tay chút quyền lực và ảnh hưởng, cậu ta thề với em là không bao giờ em có thể trở thành vợ anh, thề rằng cậu ta sẽ ngăn trở đám cưới của chúng mình vì cậu ta cho rằng em là một người phụ nữ không thể mang họ của gia đình anh một cách xứng đáng, và hãy thử cho rằng thêm vào đó cậu ta còn xúc phạm người cha đã khuất của em, em sẽ trả lời cậu ta ra sao? Nói đi, Rose! Hãy thành thật với anh và với chính bản thân mình. Thử đặt mình vào vị trí của anh, và hãy nói một cách trung thực xem liệu em còn có thể trách móc anh về những gì anh đã làm. Thử nói xem liệu phản ứng của anh có khác nhiều so với những gì em sẽ làm trong tình huống tương tự.”

Đôi mắt cô gái lúc này nhìn đăm đăm vào khuôn mặt đang ngẩng lên của chàng, từng nét mặt đều thầm cầu khẩn nàng hãy phán xét một cách công bằng. Nàng đặt hai bàn tay lên vai chàng, nhìn thẳng vào mắt chàng.

“Anh hãy thề với em, Oliver, rằng tất cả đều như anh đã kể với em – anh đã không thêm gì, không bớt gì để thay đổi sự việc có lợi cho anh?”

“Chẳng lẽ em cần anh phải thề sao?” Chàng hỏi, và nàng nhìn thấy nỗi buồn hiện rõ trên khuôn mặt chàng.

“Nếu thế em đã không yêu anh, Oliver. Nhưng vào một giờ phút như hiện nay em cần sự bảo đảm của anh. Chẳng lẽ anh không thể rộng lượng với em, giúp em có thêm sức lực để chịu đựng tất cả những gì sẽ được nói với em sau này?”

“Có Chúa làm chứng, anh đã kể cho em tất cả sự thật,” chàng nghiêm trang trả lời.

Nàng gục đầu vào vai chàng. Nàng khóc lặng lẽ, kiệt quệ trước câu chuyện không hay đã khiến gánh nặng mà nàng đã âm thầm chịu đựng kể từ khi chàng bắt đầu theo đuổi nàng trở nên quá sức.

“Nếu thế,” nàng nói, “em tin anh đã hành động đúng. Em tin rằng không một người đàn ông có danh dự nào có thể hành động khác những gì anh đã làm. Em cần phải tin anh, nếu không em chẳng còn có thể tin vào bất cứ điều gì và cũng chẳng còn gì để hy vọng nữa. Anh giống như một ngọn lửa xâm chiếm lấy những gì tốt đẹp nhất trong em để đặt chúng vào trong tim anh. Em rất vui vì anh đã cư xử một cách chân thực.”

“Và anh sẽ luôn như vậy, em yêu,” chàng thì thầm say đắm. “Anh làm sao có thể khác được từ khi em đến để biến anh thành như vậy?”

Nàng cúi xuống nhìn chàng, mỉm cười buồn qua làn nước mắt. “Và anh sẽ kiềm chế với Peter chứ?” Nàng van nài.

“Cậu ấy chẳng thể nào khiến anh nổi giận được,” chàng trả lời. “Anh xin thề. Em có biết là sáng nay cậu ấy đã đánh anh không?”

“Đánh anh? Anh đã không nói với em chuyện đó!”

“Anh không bực cậu ấy mà chỉ khó chịu với tay hèn hạ đã xúi giục cậu ấy. Anh đã cười để đáp lại sự xúc phạm. Anh đã chẳng nói cậu ấy thiêng liêng đối với anh sao?”

“Thực ra anh ấy là người có trái tim nhân hậu,” cô gái nói tiếp.

“Theo thời gian, anh ấy sẽ hiểu và quý mến anh như anh xứng đáng, và rồi anh cũng sẽ thấy anh ấy xứng đáng được anh quý trọng.”

“Cậu ấy đã xứng đáng rồi, vì tình cảm chân thành của cậu ấy dành cho em.”

“Và anh sẽ luôn nghĩ như vậy trong suốt quãng thời gian ngắn ngủi còn lại mà chúng mình buộc phải chờ đợi chứ?”

“Sẽ luôn như thế, em yêu. Từ giờ đến lúc đó anh sẽ cố tránh gặp cậu ấy, và để không chuyện gì không hay có thể xảy ra, nếu cậu ấy cấm anh không được tới Godolphin Court, anh sẵn sàng tránh không đến đây nữa. Chỉ chưa đến một năm nữa em sẽ đến tuổi trưởng thành, và không ai có thể ngăn trở cấm đoán em được nữa. Một năm thì có nghĩa lý gì, khi người ta có một hy vọng như của anh?”

Cô thiếu nữ âu yếm vuốt ve khuôn mặt chàng. “Anh luôn dịu dàng với em, Oliver,” nàng thì thầm trìu mến. “Em không thể tin anh đã từng thô bạo với ai đó như người ta kể.”

“Đừng để ý đến họ,” chàng trả lời. “Có thể trước kia anh đã có một chút của tất cả những gì họ nói, nhưng em đã làm cho anh trong sạch hơn, Rose. Người đàn ông nào yêu em mà không trở nên dịu dàng.” Chàng hôn nàng, rồi đứng dậy. “Có lẽ tốt hơn anh nên đi ngay,” chàng nói. “Anh sẽ đi dạo dọc bờ biển tới mũi Trefusis sáng mai. Nếu em tình cờ cũng có cùng dự định…”

Cô thiếu nữ bật cười, và đến lượt mình cũng đứng dậy. “Em sẽ tới, Oliver yêu quý.”

“Từ giờ tốt nhất chúng mình sẽ gặp nhau ở đó.” Chàng trấn an nàng, mỉm cười và ra về.

Nàng tiễn chân chàng đến đầu cầu thang, rồi đứng ở đó nhìn chàng đi xuống với đôi mắt đầy tự hào dõi theo những bước đi kiêu hãnh, vững chãi của của người đàn ông rắn rỏi, mạnh mẽ mà nàng yêu.

Chương 3: LÒ RÈN

Sự sáng suốt của Ngài Oliver khi làm người đầu tiên cho Rosamund biết tất cả những gì xảy ra ngày hôm đó chẳng bao lâu sau đã được chứng minh khi quý ông Godolphin quay về nhà. Anh ta lao thẳng đi tìm em gái với tâm trạng khá xáo động vì sợ hãi và lo buồn cho Ngài John, vì cảm giác mất mặt dưới tay Ngài Oliver, và cơn giận do tất cả những tâm trạng này gây ra đã khiến quý ông khá cục cằn trong lời nói.

“Thưa cô,” anh ta tuyên bố đột ngột, “rất có thể Ngài John sẽ chết.”

Câu trả lời ngang ngược cô em gái đáp lại anh ta – nghĩa là ngang ngược theo quan điểm của quý ông – chẳng hề có ý giúp làm dịu lại cơn nóng đầu của ông anh trai.

“Em biết,” nàng trả lời. “Và em tin là ông ta đáng bị như thế. Những người thích lăng mạ người khác cần phải chuẩn bị trả giá.”

Quý ông lặng người đi, tức giận trợn mắt nhìn em gái chằm chằm, rồi sau đó bùng nổ trong những tràng nguyền rủa, và cuối cùng nặng lời trách cứ thái độ bất bình thường của nàng, tuyên bố rằng nàng đã bị con chó bẩn thỉu Tressilian đó bỏ bùa bắt mất hồn.

“Thật may mắn cho em,” nàng bình tĩnh trả lời anh trai, “anh ấy đã tới đây trước khi anh về và cho em biết hết sự thật.“ Rồi thái độ bình thản bướng bỉnh mà nàng cố gắng gượng tạo ra cho mình đột ngột rời bỏ nàng. “Ôi, Peter, Peter,” nàng khổ sở kêu lên. “Em hy vọng Ngài John sẽ bình phục. Em thật đau khổ trước chuyện vừa xảy ra. Nhưng em xin anh hãy công bằng. Ngài Oliver đã kể cho em biết anh ấy đã bị bức bách như thế nào.”

“Hắn ta sẽ còn bị bức bách dữ hơn, thề có Chúa! Nếu cô nghĩ rằng tội ác này sẽ không bị trừng phạt…”

Cô thiếu nữ lao tới ôm chầm lấy anh trai, tựa đầu vào anh cô van xin quý ngài đừng tiếp tục theo đuổi sự bất hòa nữa. Nàng nói với anh trai về tình yêu của nàng dành cho Ngài Oliver và cương quyết khẳng định sẽ cưới chàng bất chấp mọi sự phản đối, và đó chẳng phải là những lời thích hợp để làm dịu lại người anh đang tức giận. Thế nhưng vì tình yêu khăng khít đã luôn gắn bó hai anh em, quý ông cuối cùng cũng nguôi đi phần nào và nói rằng nếu Ngài John bình phục anh ta sẽ không truy cứu thêm chuyện này nữa. Nhưng nếu Ngài John qua đời – điều có vẻ rất có khả năng xảy ra – thì danh dự sẽ buộc anh ta phải tìm cách trả thù một tội ác mà bản thân mình cũng có phần trách nhiệm.

“Anh đã nhìn thấu tim đen của hắn,” chàng thanh niên tuyên bố với sự hùng hổ hiếu thắng của tuổi trẻ. “Hắn có sự ma mãnh của Satan, nhưng hắn không qua nổi mắt anh. Qua Killigrew, hắn muốn làm nhục anh. Vì hắn khao khát chiếm đoạt em, Rosamund, hắn không thể – như hắn đã trâng tráo thừa nhận với anh – ra tay với anh cho dù anh có khiêu khích hắn thế nào đi nữa, kể cả khi anh nện hắn. Hắn muốn giết anh lắm, nhưng hắn biết làm thế hắn sẽ không thể có được em. Ôi, đó là một kẻ đầy toan tính như một con quỷ dưới địa ngục vậy. Và thế là, để trả thù sự mất mặt hắn phải chịu từ anh, hắn chuyển sự thù địch sang Killigrew, lao đi giết ông ấy, vì hắn nghĩ làm thế có thể cảnh cáo được anh. Nhưng nếu Killigrew không qua khỏi…” Và cứ thế quý ông tiếp tục hậm hực gầm gào, làm trái tim tội nghiệp của cô thiếu nữ thắt lại vì đau khổ khi thấy thù hận ngày càng sâu thêm giữa hai người đàn ông nàng yêu quý nhất trên đời. Nếu cuối cùng có một người phải chết dưới tay người kia, nàng biết nàng sẽ không thể nào nhìn mặt kẻ còn lại trong suốt cuộc đời.

Trái tim nàng cuối cùng cũng dịu lại khi nhớ tới lời thề của Ngài Oliver, chàng hứa rằng tính mạng của anh nàng là bất khả xâm phạm với chàng, cho dù có bất cứ chuyện gì xảy ra. Nàng tin chàng, nàng đặt hy vọng vào lời hứa của chàng, vào sức mạnh hiếm có khiến chàng có thể làm những điều không người đàn ông nào khác dám làm. Ý nghĩ này khiến sự tự hào của nàng dành cho chàng càng tăng lên, và nàng tạ ơn Chúa đã cho nàng một người yêu mà trong mọi phương diện đều là một người khổng lồ so với những người đàn ông khác.

Thế nhưng Ngài John Killigrew không chết. Ông nằm lơ lửng giữa thế giới này và một thế giới tốt đẹp hơn trong khoảng một tuần, sau đó bắt đầu hồi phục. Đến tháng Mười ông đã bắt đầu có thể đi ra ngoài, gầy rộc đi và xanh xao, chỉ còn lại một nửa của người đàn ông vạm vỡ trước đó, một cái bóng nhiều hơn là một con người.

Một trong những chuyến đi ra ngoài đầu tiên khi bình phục của ông là tới Godolphin Court. Ông đến để thuyết phục Rosamund về dự tính hôn nhân của nàng, và làm vậy theo lời yêu cầu của người anh cô gái. Nhưng sự phản đối của ông thiếu hẳn sự dữ dội mà nàng đã chờ đợi.

Có một sự thật lạ lùng là trong lúc ở bên cái chết, những lợi ích toan tính đời thường không còn nhiều ý nghĩa nữa, Ngài John đã nhìn lại mọi chuyện một cách thẳng thắn, và đi đến kết luận rằng những gì ông phải nhận chẳng tệ hơn những gì ông xứng đáng – một kết luận ông hoàn toàn không thể có được ở trạng thái sức khỏe bình thường. Ông nhận ra mình đã hành động một cách thấp hèn, cho dù có thể lúc đó ông đã không nhận ra được sự thấp hèn của những hành động mình làm, rằng vũ khí ông đã dùng để tấn công Ngài Oliver không phải là thứ vũ khí xứng đáng với một nhà quý tộc chân chính và cho dù có thắng cuộc thì cũng chẳng vẻ vang gì. Ông nhận ra rằng định kiến cũ với gia đình Tressilian, được thổi phồng lên thêm bởi cảm giác bị xúc phạm trong vụ lôi thôi liên quan đến giấy phép xây dựng tại Smithick, đã gây ảnh hưởng tới đánh giá của ông và thuyết phục ông rằng Ngài Oliver có đủ tất cả tính xấu mà ông đã vu cho chàng. Ông cũng nhận ra rằng cả sự ghen tỵ cũng góp một tay làm tất cả thêm tồi tệ. Những thành công trên biển của Ngài Oliver đã khiến chàng trở nên giàu có, và với sự khá giả của mình chàng làm cho vị thế của gia đình Tressilian, đã bị Ralph Tressilian làm cho tán gia bại sản, một lần nữa lại lên cao, đe dọa địa vị quan trọng của gia đình Killigrew ở Arwenack.

Dù sao đi nữa, trong lúc xem lại mình, ông cũng không đi xa đến mức coi Ngài Oliver Tressilian là một người chồng thích hợp cho Rosamund Godolphin. Cô thiếu nữ và anh trai nàng đã được phó thác cho ông bởi người cha quá cố của họ, và ông đã tận tuỵ làm tròn bổn phận một người bảo trợ cho đến khi Peter đến tuổi trưởng thành. Tình cảm của ông dành cho Rosamund cũng đằm thắm như của một người tình, nhưng được làm dịu lại bằng sự quan tâm của một người cha. Ông đã gần như đi đến chỗ tôn thờ nàng, và nói cho cùng, sau khi đã giũ bỏ tất cả những định kiến cá nhân thiếu trung thực, ông vẫn thấy còn quá nhiều điểm khó ưa ở Oliver, và ý nghĩ chàng sẽ trở thành chồng Rosamund đối với ông thật không thể chấp nhận được.

Trước hết vẫn còn đó dòng máu Tressilian tai tiếng – đến mức đã thành giai thoại, và chưa bao giờ lại thể hiện rõ hơn như ở Ralph Tressilian quá cố. Không thể nào Oliver lại thoát khỏi ảnh hưởng nhược điểm của gia đình, và Ngài John cũng không nhận ra dấu hiệu nào cho thấy chàng cố làm như vậy. Anh chàng đã cho thiên hạ thấy nhiều lần tính cách bất trị của một Tressilian. Anh ta có tiếng nóng tính và hung bạo, và nghề cướp biển mà anh ta đang theo đuổi đúng là ngành nghề thích hợp nhất trong mọi thứ nghề nếu tính đến những gì thiên nhiên đã trang bị cho anh ta. Một kẻ cục cằn, ngang tàng, sẵn sàng trả thù và quen thói chà đạp lên quan điểm của người khác. Liệu một kẻ như vậy, ông tự hỏi mình một cách chân thành, có thể thích hợp với Rosamund? Liệu ông có thể phó thác hạnh phúc của nàng vào tay một người như vậy? Hiển nhiên là không.

Và thế là, vừa bình phục, ông đã tới để thuyết phục nàng vì ông tự coi đó là nghĩa vụ của mình và vì Peter đã nhờ ông. Thế nhưng biết rõ sai lầm của mình trước đây ông đã thận trọng giảm nhẹ hơn là nhấn mạnh lý lẽ của mình.

“Nhưng, Ngài John,” nàng phản đối, “nếu người đàn ông nào cũng bị kết tội vì những sai lầm của cha mẹ họ, thì hiếm ai có thể thoát khỏi bị kết án, và ngài biết tìm đâu cho cháu một người chồng xứng đáng được ngài tán đồng?”

“Cha ông ta…” Ngài John bắt đầu.

“Đừng nói với cháu về cha anh ấy, mà về chính anh ấy,” cô gái ngắt lời ông.

Nhà quý tộc sốt ruột cau mày – lúc này họ đang ngồi trong căn phòng nhìn xuống dòng sông của cô thiếu nữ.

“Ta đang định nói đến điều đó,” ông đáp, không mấy hài lòng vì những lời chen ngang của cô gái buộc ông phải cắt ngắn đoạn vào đề đã làm Ngài John mất đi những lý lẽ tâm đắc nhất của ông. “Tuy nhiên, chỉ cần thấy ông ta đã thừa hưởng không ít những tính cách không hay của người cha đã là quá đủ, như chúng ta đều đã tận mắt chứng kiến qua lối sống và cung cách xử thế của ông ta, liệu ông ta có thừa hưởng nốt những tính xấu còn lại từ cha mình hay không thì chỉ có tương lai mới cho chúng ta câu trả lời chắc chắn.”

“Nói cách khác,” cô thiếu nữ trêu ông, tuy vậy vẫn rất nghiêm chỉnh, “cháu sẽ phải đợi đến lúc anh ấy chết già để chắc chắn rằng anh ấy không có những thói xấu khiến anh ấy trở thành một ông chồng không thích hợp?”

“Không, không,” ông kêu lên, “Có Chúa chứng giám! Cháu thật là không công bằng!”

“Sự không công bằng là từ ngài đấy chứ, Ngài John. Cháu chỉ là tấm gương phản chiếu lại nó thôi.”

Quý ông bứt rứt cựa mình trên ghế hầm hừ. “Thế cũng được,” ông thở hắt ra. “Chúng ta sẽ bàn đến những thói xấu mà ông ta đã thể hiện rành rành ra rồi.” Và Ngài John bắt đầu liệt kê.

“Nhưng đó chỉ là phán xét của ngài về anh ấy – chỉ là những gì ngài nghĩ về anh ấy.”

“Đó là những gì cả thiên hạ nghĩ về ông ta.”

“Nhưng cháu sẽ không cưới một người đàn ông vì những gì người khác nghĩ về anh ta, mà vì những gì bản thân cháu nghĩ về người ấy. Và theo như cháu thấy ngài đã đánh giá sai anh ấy một cách tệ hại. Cháu chẳng tìm thấy tính cách nào như vậy ở Ngài Oliver cả.”

“Để tránh cho cháu nỗi bất hạnh do một phát hiện như thế gây ra mà ta khuyên cháu không nên cưới ông ta.”

“Thế nhưng trừ khi trở thành vợ anh ấy, cháu sẽ chẳng bao giờ có cơ hội cho một phát hiện như thế, và cho đến khi tự phát hiện ra những gì ngài đã nói về anh ấy, cháu sẽ luôn yêu anh ấy và muốn trở thành vợ anh ấy. Chẳng lẽ cả cuộc đời của cháu sẽ phải trôi qua như vậy sao?” Nàng bật cười, rồi sà đến ngồi xuống cạnh quý ông. Nàng ôm lấy cổ ông nũng nịu như với một người cha, giống như nàng đã quen làm hàng ngày trong suốt mười năm qua – và làm ông tự cảm thấy mình như đã bắt đầu già đi. Cô gái đưa tay lên cọ vào lông mày ông.

“Ôi, lại là những nếp nhăn cáu kỉnh không hài lòng,” nàng kêu lên. “Ngài đã thua cuộc hoàn toàn, bị trí tuệ của một cô bé con khuất phục, và Ngài không thích thế chút nào.”

“Ta bị thua cuộc trước sự ngang ngạnh của phụ nữ, trước sự cứng đầu của một cô bé con nhất quyết không chịu mở mắt ra nhìn sự thật.”

“Nhưng ngài chẳng cho cháu thấy được điều gì cả, Ngài John.” “Không gì cả? Chẳng lẽ tất cả những gì ta nói không là gì hết?”

“Lời nói không phải là sự kiện, sự đánh giá không phải là thực tế. Ngài nói anh ấy thế này, thế kia. Nhưng khi cháu hỏi ngài đã dựa trên chứng cớ nào để phán xét anh ấy, thì câu trả lời duy nhất của ngài là ngài nghĩ rằng anh ấy đúng là những gì ngài nghĩ về anh ấy. Những ý nghĩ của ngài có thể là thành thật, Ngài John, nhưng cách suy luận của ngài chẳng thuyết phục chút nào.” Và nàng lại bật cười khi thấy quý ông khổ sở nhăn mặt. “Bây giờ, ngài hãy hành động như một thẩm phán công minh, và nói cho cháu biết một hành động của anh ấy – một việc anh ấy đã từng làm mà ngài hoàn toàn biết chắc – có thể chứng thực cho những gì ngài đã nói về anh ấy. Nào, Ngài John!”

Quý ông ngao ngán nhìn nàng. Rồi ông mỉm cười.

“Đồ quỷ con!” Ông kêu lên – và rất lâu sau này sẽ có một ngày ông phải nhớ lại những lời đã nói lúc đó. “Nếu có lúc nào đó ông ta bị lôi ra tòa ta không thể hy vọng kiếm được cho ông ta luật sư nào tốt hơn cháu.”

Tận dụng ngay lập tức lợi thế của mình, cô thiếu nữ ôm chầm lấy ông mà hôn. “Cũng như cháu không thể hy vọng anh ấy có được thẩm phán nào công bằng hơn ngài.”

Nhà quý tộc tội nghiệp còn biết làm gì? Làm điều ông đã làm. Chấp nhận quyết định của cô gái trẻ, và đi gặp Ngài Oliver để đặt dấu chấm hết cho hiềm khích giữa hai người.

Quý ông đã chân thành thừa nhận lỗi lầm của ngài, và Ngài Oliver đón nhận nó một cách trân trọng không kém. Nhưng khi Ngài John chuyển đề tài sang tiểu thư Rosamund, ông tỏ ra ít rộng lượng hơn, từ ý thức về trách nhiệm của ông đối với cô. Ông tuyên bố vì ông không thể thuyết phục được mình thừa nhận Ngài Oliver như một người chồng xứng đáng cho cô gái, Ngài Oliver không nên hiểu nhầm qua sự thay đổi thái độ của ông về những vấn đề khác rằng ông chấp nhận một cuộc hôn nhân giữa hai người.

“Thế nhưng,” ông nói thêm, “điều đó cũng không có nghĩa tôi sẽ chống lại nó. Tôi không tán thành, nhưng tôi đứng ngoài cuộc. Cho đến khi cô bé đến tuổi trưởng thành, anh trai nó sẽ từ chối chấp nhận lời cầu hôn. Còn sau đó, cả cậu ta lẫn tôi đều không còn quyền quyết định nữa.”

“Tôi nghĩ,” Ngài Oliver nói, “cậu ấy cũng sẽ có cái nhìn đúng đắn như ngài. Nhưng cậu ta nghĩ gì đi nữa cũng không quan trọng. Còn về tất cả những chuyện khác, Ngài John, tôi cảm ơn ngài vì sự thẳng thắn của ngài, và tôi thực sự vui mừng biết rằng nếu tôi chưa thể coi ngài là bạn, thì ít nhất tôi không còn phải coi ngài là kẻ thù.”

Thế nhưng nếu Ngài John đã quyết định rút lui về vị trí trung lập, thì sự thù địch của Peter vẫn chẳng hề giảm xuống, thậm chí nó còn tăng lên từng ngày, và gần đây lại có thêm một nguyên do nữa đổ thêm dầu vào lửa, một nguyên do Ngài Oliver chẳng thể nào ngờ tới.

Chàng biết Lionel, em trai chàng, gần như ngày nào cũng cưỡi ngựa đi tới Malpas, và cũng biết rõ mục đích của những chuyến đi này. Chàng biết có một quý bà tụ tập một triều đình nho nhỏ cho đám trai trẻ choai choai của Truno, Penryn, và Helston, và chàng còn biết cả tiếng tăm không lấy gì tốt đẹp dính liền với bà ta trong thành phố – một tiếng tăm ít đáng tự hào đến mức nó đã khiến người đàn bà này phải rời khỏi thành phố về vùng đồng quê. Chàng đã nói thẳng cho em trai biết một số sự thật tệ hại có liên quan đến quý bà nọ như là một cách cảnh báo cho cậu ta, và vì chuyện này, lần đầu tiên suýt nữa hai anh em đi đến chỗ cãi nhau.

Sau đó, chàng không đả động đến người đàn bà nọ thêm một lần nào nữa. Chàng biết Lionel cũng có thể trở nên cứng đầu theo cách biếng nhác của cậu ta, và chàng cũng đã hiểu về bản chất con người quá đủ để được thuyết phục rằng mọi sự can thiệp ở đây chỉ mở ra vực sâu ngăn cách giữa hai anh em mà không đạt được mục đích mong muốn. Vậy là Ngài Oliver nhún vai chịu thua để giữ hòa khí giữa hai anh em.

Và chàng cũng quên bẵng câu chuyện, chẳng bao giờ nhắc lại về Malpas và người đàn bà quyến rũ đang ngự trị như bà hoàng ở đó. Trong cùng thời gian mùa thu đã trôi qua, mùa đông tới, và cùng với việc thời tiết vào mùa dông bão, Ngài Oliver và Rosamund cũng có ít cơ hội gặp nhau hơn. Chàng không tới Godolphin Court vì nàng không muốn vậy, và bản thân chàng cũng thấy tốt nhất là giữ khoảng cách vì nếu không chàng rất dễ có nguy cơ chạm trán ông chủ nhà vốn đã chính thức cấm cửa chàng. Trong thời gian đó, chàng rất ít khi nhìn thấy Peter Godolphin, và trong vài dịp hiếm hoi khi chạm trán nhau trên đường, cả hai đều tiếp tục hành trình của mình sau khi đã cúi chào lạnh lùng.

Ngài Oliver cảm thấy hoàn toàn hạnh phúc, và mọi người cũng bắt đầu để ý thấy chàng nói năng từ tốn hơn, khuôn mặt trở nên cởi mở dễ gần hơn, khác xa một người mà họ vốn đều biết có tiếng là ngạo mạn và khó chịu. Chàng chờ đợi hạnh phúc sắp đến với cùng sự tự tin của một người bất tử chờ đợi tương lai. Kiên nhẫn là tất cả những gì Số Phận yêu cầu ở chàng lúc này, và chàng đã đáp ứng yêu cầu đó hoàn toàn tình nguyện, trông đợi vào phần thưởng mà chẳng bao lâu nữa sẽ là của chàng. Quả thực, năm cũ đã gần hết, và trước khi một năm nữa trôi qua, Penarrow sẽ có bà chủ của nó. Điều đó đối với chàng cũng đương nhiên như việc các mùa lần lượt tới khi đến phiên mình. Nhưng bất chấp sự tin tưởng hoàn toàn của chàng, bất chấp sự kiên nhẫn và cảm giác hạnh phúc mà niềm tin đem đến cho chàng, vẫn có những lúc chàng như bị ám ảnh bởi những linh cảm chẳng lành về một bóng đen đe dọa, từ trong tiềm thức chàng vẫn cảm thấy một tai họa đang chờ đón chàng trong tay Định Mệnh. Chàng đã cố dứt bỏ cảm giác ám ảnh đó, đã cố thử lý giải nguyên nhân của nó, nhưng trí tuệ cũng không giúp chàng có câu trả lời – và cuối cùng bao giờ chàng cũng đi đến kết luận rằng chính hạnh phúc quá lớn đã đè nặng lên chàng, thỉnh thoảng lại khiến chàng cảm thấy như có một lời cảnh báo chẹn lấy tim chàng, như thể để kìm hãm bớt cơn vui sướng bồng bột của nó.

Một ngày nọ, trước lễ Giáng sinh khoảng một tuần, chàng tình cờ phải cưỡi ngựa đi tới Helston để giải quyết vài công chuyện nhỏ. Suốt ba ngày trước đó, một cơn bão tuyết đã hoành hành khắp vùng bờ biển, và chàng đã bị buộc phải ngồi lỳ trong nhà khi mà hết đợt này đến đợt khác tuyết rơi dày khắp vùng đồng quê gần đó. Đến ngày thứ tư, cơn bão tan, mặt trời lại ló rạng, bầu trời trong vắt không một gợn mây còn mặt đất nằm ngập sâu dưới một tấm thảm tuyết trắng xóa long lanh chói mắt dưới ánh mặt trời. Ngài Oliver sai người nhà chuẩn bị ngựa và một mình cưỡi ngựa ra ngoài. Chàng quay trở về rất sớm vào đầu buổi chiều, nhưng khi đã đi khỏi Helston chừng hai dặm, chàng phát hiện ra con ngựa chàng cưỡi đã bị mất một móng. Chàng liền xuống ngựa, cầm cương và tiếp tục dắt ngựa đi bộ qua cả thung lũng ngập nắng nằm giữa hai quả đồi của Pendennis và Arwenack, vừa đi vừa hát. Cứ như thế, chàng tới được Smithick và dừng lại trước cửa một lò rèn. Bên ngoài lò rèn đang có một đám dân chài và nông phu đứng tụ tập, vì lò rèn đã trở thành nơi hội họp của mọi người do không có quán rượu nào ở gần đó. Bên cạnh đám người quê mùa nọ là một tay lái buôn, ngoài ra, ở đó còn có mặt Ngài Andrew Flack, mục sư từ Penryn tới, và ông Gregory Baine, một trong những thẩm phán của vùng lân cận Truno. Cả hai đều quen biết Ngài Oliver, và chàng vui vẻ đứng tán gẫu với họ trong khi chờ con ngựa được đóng móng.

Tất cả sự tình cờ này thật không may, từ việc hỏng móng ngựa cho đến việc gặp gỡ hai quý ông nọ. Vì trong lúc Ngài Oliver còn đang đứng nói chuyện, Peter Godolphin xuất hiện, thong thả dong ngựa tới theo con dốc thoai thoải từ Arwenack đổ xuống.

Sau này Ngài Andrew và thẩm phán Baine có thuật lại rằng lúc đó Peter có vẻ đã quá chén, vì khuôn mặt anh ta đỏ lựng, mắt long lanh rất không tự nhiên, còn giọng nói và lời lẽ thì ngớ ngẩn và điên khùng. Về việc này thì chẳng khó giải thích. Anh ta vốn nghiện rượu Canary, một sở thích hoàn toàn tương đắc với Ngài John Killigrew, và lúc đó chàng thanh niên lại vừa mới dùng bữa trưa với Ngài John. Anh ta thuộc về loại người hễ rượu vào là trở nên ưa sinh sự – chẳng qua chỉ là một cách khác để nói rằng một khi rượu vang đã hoàn toàn thế chỗ cho sự kiềm chế, bản tính tự nhiên của quý ông sẽ biểu hiện tự do hơn lúc nào hết. Cảnh Ngài Oliver đang đứng lù lù phía trước đã cho chàng thanh niên đúng thứ anh ta cần để đánh thức tính xấu vừa nói ở trên dậy, và sự có mặt của hai nhà quý tộc khác càng thúc đẩy anh chàng thêm quyết tâm thực hiện ngay lập tức ý định của mình. Trong trạng thái lơ mơ nửa say nửa tỉnh, anh ta mang máng nhớ ra đã từng đánh Ngài Oliver một lần và lúc đó, Ngài Oliver đã cười vào mũi anh ta mà nói rằng nếu anh ta rêu rao chuyện đó ra sẽ chẳng ai tin.

Chàng thanh niên đột ngột ghì cương khi vừa đến trước mặt ba người, bất ngờ đến mức làm con ngựa đang cưỡi suýt nữa ngồi sụp xuống như một con mèo, thế nhưng chàng trai vẫn ngồi vững trên yên. Rồi anh ta thúc ngựa đi qua đám tuyết bắt đầu tan phía trước lò rèn, và nheo mắt nhìn Ngài Oliver đầy khiêu khích.

“Tôi vừa từ Arwenack về,” chàng thanh niên lên tiếng thông báo điều hoàn toàn thừa. “Chúng tôi đã nói chuyện về ngài.”

“Các vị hẳn là không có chủ đề nào hay hơn để tán gẫu,” Ngài Oliver mỉm cười đáp, cho dù đôi mắt của chàng đanh lại lạnh lùng và có phần lo lắng – cho dù mối lo chàng cảm thấy không liên quan gì đến bản thân chàng.

“Ngài đoán đúng rồi đấy, các ngài đúng là một chủ đề tốt để giết thời gian – ngài và lão bố truỵ lạc của ngài.”

“Thưa ngài,” Ngài Oliver đáp trả, “trước đây đã có lần tôi phải ái ngại cho sự thiếu tế nhị của mẹ ngài.”

Những lời nói này đã bất giác bật ra từ miệng chàng một cách vô thức để phản kháng lại lời sỉ nhục thô bạo chàng vừa phải nhận, đã được nói ra trong khoảnh khắc giận dữ mù quáng gây ra bởi khuôn mặt hợm hĩnh đỏ gay đang ở trước mặt chàng. Chưa dứt lời chàng đã thầm nguyền rủa chúng, chàng càng ân hận cay đắng hơn khi câu giễu cợt đó của chàng lại nhận được một tràng cười giòn giã hưởng ứng từ đám dân quê. Trong lúc đó, hẳn chàng sẵn sàng đánh đổi một nửa gia tài của mình để có thể rút lại câu nói đó.

Vẻ mặt của Godolphin đột ngột thay đổi hoàn toàn, như thể chiếc mặt nạ che mặt anh ta vừa rơi xuống. Từ chỗ đỏ bừng, lúc này khuôn mặt chàng thanh niên tái nhợt đi, mắt long lên, mồm mím chặt. Cứ như thế anh ta nhìn chằm chằm vào kẻ thù trong khoảnh khắc. Rồi đứng nhổm lên trên bàn đạp, chàng thanh niên vung cao chiếc roi ngựa lên.

“Đồ chó!” Quý ông hét lên đến lạc giọng. “Đồ chó!” Và cây roi ngựa lao vút xuống để lại một lằn đỏ bầm dọc khuôn mặt rám nắng của Ngài Oliver.

Bật kêu lên giận dữ và lo âu, ông mục sư, ngài thẩm phán và cả đám dân quê cùng ùa tới can hai người ra, vì Ngài Oliver lúc đó trông thật dữ tợn, và mọi người đều biết chàng là một người đáng sợ.

“Ngài Godolphin, tôi thật xấu hổ thay cho ngài,” ông mục sư bất bình. “Nếu có chuyện không hay xảy ra tôi sẽ làm chứng về sự gây hấn thô bạo của ngài. Mời Ngài đi ngay cho!”

“Có ngài xéo đi gặp quỷ đi thì có,” Godolphin lè nhè đáp. “Liệu tên mẹ tôi có phải để cho thằng con hoang kia tự tiện nói lung tung không? Thề có Chúa, cam đoan với các ngài là mọi sự sẽ không dừng lại ở đây đâu. Hắn sẽ phải gửi người đến thương lượng quyết đấu với tôi, nếu không mỗi lần gặp tôi sẽ quật roi ngựa vào mặt hắn. Ngươi nghe rồi chứ, Ngài Oliver?”

Ngài Oliver không trả lời.

“Ngươi nghe rõ chứ?” anh chàng thanh niên gào lên. “Lần này sẽ không có Ngài Killigrew nào cho ngươi kiếm cớ trút giận nữa đâu. Hãy tới gặp ta và nhận lấy sự trừng phạt mà so với nó vết roi vừa rồi chỉ là một món quà thôi.” Chàng trai phá lên cười sằng sặc rồi thúc ngựa lao vụt đi, bất ngờ đến mức mục sư và những người khác phải vội nhảy dạt ra tránh.

“Hãy ở lại đây đợi ta một chút xem,” Ngài Oliver gầm lên. “Mi sẽ không cần phi ngựa đi đâu nữa, đồ khùng nát rượu kia.”

Trong cơn giận dữ, chàng quát lớn đòi mang con ngựa của chàng tới, rồi gạt sang bên ông mục sư và ngài Baine, hai người lúc đó đang cố can và tìm cách giữ chân chàng lại. Chàng nhảy phắt lên yên khi con ngựa vừa được đưa tới, rồi lao vụt đi trong cuộc truy đuổi điên cuồng.

Ông mục sư quay sang nhìn ngài thẩm phán, và ngài thẩm phán ngao ngán nhún vai, đôi môi mím chặt.

“Gã trống choai điên đó đã say khướt rồi,” Ngài Andrew nói, vừa nói vừa buồn bã lắc đầu. “Cậu ta đã chẳng biết chọn lúc để đi gặp Đấng Tạo Hóa.”

“Thế nhưng cậu ta có vẻ hăng lắm,” ngài thẩm phán Baine đáp. “Tôi e là tôi sẽ còn phải nghe nói nhiều đến chuyện lôi thôi này.” Ông quay lại nhìn về phía lò rèn, nơi những ống bễ đã ngừng tiếng, còn người thợ rèn vẫn mặc chiếc tạp dề da thì đang đứng ngoài cửa nghe dân tình kể lại vụ rắc rối. Ngài Baine tình cờ cũng là người hay so sánh triết lý. “Quả thật,” ông nói, “địa điểm đúng là hoàn hảo. Hôm nay họ đã rèn ở đây một thanh kiếm cần có máu để làm nguội.”


 

Giang Vi

Tôi là một người yêu sách cuồng nhiệt và đã hơn 20 năm. Tôi dành cả ngày để đọc, viết blog về sách và viết bình luận. Tôi tin rằng sách là công cụ mạnh mẽ nhất trong cuộc sống để mở mang đầu óc cho những ý tưởng và quan điểm mới. Các thể loại yêu thích của tôi bao gồm tiểu thuyết lịch sử, giả tưởng, khoa học viễn tưởng và phi hư cấu. Tôi cũng thích tìm hiểu về các nền văn hóa khác nhau thông qua văn học.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts:

Back to top button